Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn họ trung đại Việt Nam, được mệnh danh là "bà chúa thơ Nôm". Bà là một "thiên tài kì nữ" nhưng cuộc đời đầy éo le, bất hạnh. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà vẫn rất trữ tình. Bà chúa thơ Nôm "có chùm thơ" Tự tình "bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ" Tự tình II "đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: Vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Một trong những bài thơ tiêu biểu viết về tâm trạng nỗi niềm của người phụ nữ trước duyên phận, cuộc đời mình là" Tự tình II ". " Tự tình II "là một trong ba bài thơ đặc sắc trong chùm thơ" Tự tình "của Hồ Xuân Hương. Đây là chùm thơ nữ sĩ viết để tự kể nỗi lòng, tâm tình của mình. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục 4 phần: Đề, thực, luận, kết. Bài thơ đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: Vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ: " Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non " Đêm đã về khuya, là khi tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Tính từ" văng vẳng "được tác giả sử dụng rất tự nhiên, tinh tế, khiến ta nhận ra không gian vừa mênh mông vừa thanh vắng lúc nửa đêm. Ở đây, Hồ Xuân HƯơng đã khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thuật quen thuộc là lấy động tả tĩnh." Trống canh dồn ", tiếng trống canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian. Tiếng trống của tâm trạng – tâm trạng rối bời vì thời gian trôi qua nhanh có nghĩa là tuổi xuân của nhà thơ cũng qua mau. Bối cảnh đã gợi ra tâm trạng buồn tủi của người nữ sĩ. Từ" trơ "được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhằm nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ" hồng nhan "lại đi với cái từ" cái "gợi lên ý thức về sự rẻ rung, mỉa mai của thân phận. Cái hồng nhan trơ với nước non không chỉ gợi sự dãi dầu mà hơn thế là sự cay đắng cho số phận. Câu thơ đã gợi lên sự hồng nhan bạc phận. Vì vậy, nỗi xót xa càng thấm thía, đau xót. Ở đây ta không chỉ thấy được nỗi xót xa, đau đớn, tủi hổ của người phụ nữ một mình giữa đêm khuya mà đây còn là bản lĩnh cá tính mạnh mẽ của Xuân Hương. " Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. " Giữa đêm khuya, cô đơn và buồn tủi, Hồ xuân hương tìm đến rượu để giải sầu. Nàng" Say "để quên đi thực tại đau buồn nhưng khi tỉnh ra thực tại không thay đổi lại càng ý thức hơn nỗi cô đơn, xót xa, cay đắng, lại càng buồn hơn. Từ" lại "hiện lên như một vòng luẩn quẩn mà thi nhân mãi không thoát ra được. Nàng cô đơn nên tìm đến vầng trăng bên ngoài kia mong sự đồng cảm." Vầng trăng bóng xế "(trăng sắp tàn) mà vẫn" khuyết chưa tròn "trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: Tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn. Hai câu thực khép lại đã thể hiện tâm trạng bế tắc và bày tỏ nỗi đau đớn, xót xa trước duyên phận hẩm hiu, lỡ làng. Bốn câu thơ cuối nói lên ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất: " Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn " Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá hiên ngang tồn tại đầy mạnh mẽ:" Xiên ngang mặt đất "," đâm toạc chân mây ". Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với việc đưa những động từ mạnh lên đầu câu làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây. Hình ảnh" rêu "," đá mấy hòn "nhằm ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả. Với tài năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ đã gợi lên cảnh vật sinh động, đầy sức sống. Đó cũng chính là tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khao khát hạnh púc lứa đôi mãnh liệt của người nữ sĩ xinh đẹp, tài năng mà cuộc đời không ưu ái. Bài thơ kết thúc bằng cách thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi: " Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con " " Ngán "mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo le bạc bẽo bởi xuân cứ đi rồi xuân lại lại như một vòng luẩn quẩn. Từ" xuân "được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: Vừa chỉ mùa xuân lại vừa chỉ tuổi xuân. Hai từ" lại "trong cụm từ" xuân đi xuân lại lại "cũng được sử dụng với hai nghĩa khác nhau: Từ" lại "thứ nhất là them một lần nữa, từ" lại "thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại. Mùa xuân thì trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, qua đi mãi không ngưng. Xuân hương thở dài ngao ngán trước sự trôi chảy tàn nhẫn của thời gian khiến tuổi xuân phai nhạt. Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến được Hồ Xuân Hương sử dụng khéo léo làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn: Mảnh tình – san sẻ - tí – con con." Mảnh tình "vốn đã nhỏ bé, ít ỏi nay lại càng nhỏ hơn và gần như không còn lại gì (tí con con). Nghệ thuật tang tiến theo chiều giảm dần khiến người đọc thấy rõ bi kịch xót xa của người nữ sĩ và cảm thương cho con người tài hoa mà mệnh bạc. Nhịp thơ 2/2/1/2 làm cho câu thơ như bị cắt nát. Cái vụn nát đó chính là cái tình cảm mà người phụ nữ nhận được. Bài thơ" Tự tình "không những thành công trên phương diện nội dung mà ở phương diện nghệ thuật cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Cách sử dụng từ ngữ cảu Hồ Xuân Hương hết sức giản dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo nhưng cũng không kém phần tinh tế. Ngoài ra, Tác giả còn sử dụng các biện pháp đảo, tiếu đối.. kết hợp với những động từ mạnh. Bài thơ đã nói lên bi kịch tình yêu, gia đình của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân hương nói riêng, cũng như của tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Bài thơ" Tự tình II "đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc của tâm hồn con người phụ nữ vừa dịu dàng đằm thắm, vừa mạnh mẽ. Đọc bài thơ, ta vừa thương xót cho số phận bất hạnh, vừa khâm phục bản lĩnh cứng cỏi của nữ sĩ. Bài thơ" Bánh trôi nước "của bà cũng từng thể hiện được nội dung tương tự. Tự tình II của Hồ Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến muôn đời. Bìa thơ là minh chứng tiêu biểu cho tài năng sử dụng ngôn ngữ và xây dựng hình tượng của" bà chúa thơ Nôm".[/ORG][/PROTECT][/ORG]