Chương 10 Bấm để xem Bây giờ, dưới mắt chúng ta là một cảnh đẹp mắt, vui lòng. Căn bếp rộng thênh thang, tưởng được sơn phủ nhiều màu sắc, nền gạch vàng rực được lau sạch và đánh bòng, không dính một hạt bụi con. Dụng cụ nấu bếp sáng loáng làm người ta liên tưởng đến những món ăn ngon lành. Lò nấu, bàn ghé tất cả đều cùng tình trạng ưa nhìn như thế. Trong lòng chiếc ghế bành, Elisa ngồi đong đưa nhẹ, mắt chăm chăm vào công việc trên tay. Vâng, chính là Elisa: Thiếu phụ lai da đen đã bồng con đi trốn ngày nào. Nàng hiện gầy hơn trước, xanh xao trông thấy, khác xa khi còn ở Kentucky. Dưới hàng mi cong dài và đôi mẩt đen láy tỏa cái nhìn sâu thẳm, buồn rầu. Đau khổ đánh dấu bằng những nếp nhăn nơi khóe miệng nàng. Elisa đã chín chắn hơn trong đau khổ và thử thách. Người thiếu phụ trẻ này là hiện thân của tự tin, can đảm sau bao nhiêu bất hạnh liên tiếp xảy ra. Bất hạnh đã tôi luyện nàng, giúp nàng vững vàng. Chốc chốc nàng ngẩng mặt nhìn con, Henri đang nô đùa tung tăng, vô tư như cánh bướm ở vùng nhiệt đới. Cạnh Elisa là một bà cụ trên dưới sáu mươi, khuôn mặt điềm đạm, phúc hậu, chứa chan ánh sáng của lòng từ ái. Đó là những người mà năm tháng chất chồng càng làm họ đẹp thêm ra, những người mà thời gian không làm suy giảm ý chí phấn đấu cho điều thiện. Một cái dĩa thiết đặt trên gối, bà cụ đang cẩn thận xếp lên đó những quả táo khô. Áo choàng bằng lụa trắng như tuyết đọng, may theo kiểu của những người thuộc giáo phái Quakers. Một cái khăn tay bằng phin trắng mịn vắt chéo trước ngực làm thành những nếp gấp, cái khăn trùm đầu; tất cả biểu lộ giáo phái bà trực thuộc. - Elisa! Mày vẫn còn giữ ý định sang Canada chứ? Bà cụ hỏi nàng với giọng dịu dàng, mắt vẫn không rời những quả táo đang sắp xếp. (Tín đồ giáo phái Quakers xưng hô mày tao với nhau). - Vâng, thưa bà, con phải ra đi, bất cứ giá nào. Con không thể ở đây. - Giọng nàng quả quyết hơn bao giờ. - Sang bên đó mày sẽ làm gì? Phải suy nghĩ kỹ, con gái của mẹ ơi! Con gái của mẹ! Bà lão đó thốt lên bốn tiếng trên bằng giọng âu yếm như thể nói với con ruột mình. Thật vậy, dáng dấp khoan hòa và khuôn mặt hiền lành của bà là hình ảnh một người mẹ hiền. Elisa run rẩy, vài giòng nước mắt không cầm giữ được lăn dài xuống, song nàng tự trấn tĩnh, trả lời giọng tự tin: - Con sẽ làm tất cả những gì có thể làm được. Con không sợ khó nhọc và hy vọng là không chết đói. - Mày nên nhớ là mày có thể ở đây bao lâu cũng được, con ạ! Bà Rachel Halliday ân cần bảo nàng. - Cháu cám ơn bà. Bà rất tốt với cháu. Nhưng thưa bà (nàng đưa mắt nhìn con trai) chưa đêm nào cháu ngủ thẳng giấc trọn đêm. Mới hôm qua đây, cháu mơ thấy gã đàn ông đó bước vào sân.. - Tội nghiệp cho con tôi! Bà Rachel lau nước mắt, nói tiếp: - Con không nên lo lắng thái quá. Chúa không muốn kẻ đào tẩu nào bị bắt ra khỏi làng này, con phải tin như thế. Con không thể là người đầu tiên bị họ bắt.. Chưa ai đến đây mà bị bắt bao giờ. Cánh cửa vụt mở. Một người đàn bà nhỏ bé, lùn và béo bước vào, khuôn mặt rạng rỡ. Cô ta phục sức giống bà cụ Rachel. - Ô! Ruth, mày mạnh chứ? Bà Rachel hỏi và hai bên nắm chặt tay nhau. - Còn phải hỏi, tôi mạnh như thường. Cô này trả lời và giở cái mũ bé nhỏ đặc biệt trên đầu ra, dùng khăn tay phủi bụi, để lộ mái tóc quăn rủ xuống. Đó là một thiếu phụ khoảng hai mươi bốn hay hai mươi lăm tuối chi đó, có vẻ cởi mở, thành thật khiến cho người đối diện có thể thân mật dễ dàng. Chải bụi cái mũ xong, cô đội lên đầu lại, vén những sợi tóc lòa xòa lên gọn gàng. Bà Rachel nói: - Lại đây Ruth, ta giới thiệu Elisa Harris; cô bạn gái của chúng ta và đứa bé nữa, như tao đã nói với mày đó. - Elisa ơi - Giọng Ruth cao lên - tao rất sung sướng được biết mày! Vừa nói, Ruth vừa siết chặt tay Elisa như với một bạn cũ lâu ngày vừa gặp lại, đoạn tiếp: - Tao có đem cái bánh cho con mày đấy! Cô nói và đưa cái bánh hình quả tim cho đứa bé. Henri rụt rè đón lấy, cừng một lúc nó đưa mắt quan sát cô ta rất kỹ. Bà cụ hỏi Ruth: - Con mày đâu? - Tao có dắt đến, vừa rồi con mày đã bế nó đi chơi bên trại láng giềng rồi. Cửa lại bật mở và Mary - con gái bà Rachel - bước vào, gương mặt hồng hào, đôi mắt to màu nâu y hệt gương mặt bà Rachel, thằng bé trắng trẻo, bụ bẫm trên tay. Bà mẹ cô đón lấy đứa bé và khen là nó kháu khỉnh quá, Ruth hãnh diện mỉm cười: - Phải! Nó ngoan lắm kia. Và Ruth ra hiệu cho con, đứa bé ngoan ngoãn đứng yên chờ mẹ cởi áo choàng, khăn quàng cổ để con được thoải mái rồi đặt con xuống đất cho nó tự do chơi đùa một mình. Còn Ruth thì ngồi lại lấy chiếc vớ đan dở, tiếp tục công việc một cách chăm chỉ. Nhìn đôi bàn tay thoăn thoắt trên chiếc vớ hai màu xanh trắng, người ta không khỏi liên tưởng đến những cái vuốt ve, những cử chỉ săn sóc dịu dàng của người mẹ trẻ. - Mary! Nếu mày ngoan thì đi đổ đầy nồi nước, bắc lên bếp cho tao đi! Mary vâng lời mẹ xách nồi ra giếng múc nước và không bao lâu cô trở lại nhóm bếp nấu, miệng hát nho nhỏ một bài hát quen thuộc vui. Bà Rachel lại dùng một câu từa tựa như thế và Mary bắt thêm cái chảo lớn lên lò. Bà cụ thong thả bày biện khuôn, bột v. V.. và mang tạp dề vào bắt đầu công việc: Bà làm bánh. Lần này, bà bảo con: - Mary! Nếu mầy ngoan thì gọi John, nhờ bắt cho tao một con gà tơ thật béo, nào! (Bà cụ có thói quen ưa dùng ba tiếng "nếu mày ngoan" khi muốn sai con làm việc gì và luôn luôn, các con bà tỏ ra ngoan như bà muốn). - Ruth này, hôm nay Peters có khá không? Bà cụ Rachel vừa chăm chỉ nhồi bột vừa hỏi. - À, nó đỡ lắm rồi. Sáng nay, trước khi đến đây, tao có tạt qua thăm, dọn giường và thu xếp nhà cửa ngăn nắp. Xế nay sẽ có xe đến cung cấp bánh và pa-tê đủ dùng. Tao cũng hứa chiều trở về, ghé lại đón xe ấy. - Còn tao, mai tao sẽ đến giặt giũ và sắp xếp quần áo hộ. - Tốt đấy! Tao còn nghe nói là Anna Stanwood cũng ấm đấy nhá. John thức suốt đêm qua. Mai tao sẽ sang.. - John có thể qua đây dùng bữa nếu mày bận bên đó suốt ngày. - Cảm ơn Rachel! Ta sẽ gặp nhau ngày mai và tính sau.. Kìa, Siméon! Siméon Halliđay, chồng bà Rachel là một ông già to lớn, vạm vỡ, mặc một cái quần dài và cái áo khoác ngoài bằng vải thô, đầu đội mũ rộng vành vui vẻ bước vào thân mật chào mọi người. Ông già nắm bàn tay bé nhỏ mũm mĩm trong bàn tay thô tháp của mình hỏi thăm sức khỏe mẹ con Ruth và chồng nàng. - Cả nhà đều mạnh, cả John cũng vậy. - Có tin gì không? Siméon? - Peters bảo là đêm nay họ sẽ đến đây với vài người bạn. Ông trả lời trong lúc rửa tay, rửa mặt. - Tốt lắm! Bà Rachel nói và liếc nhìn Elisa đang ngồi may vá trong phòng, dáng tư lự. Siméon hỏi vợ: - Anh nhớ có lần Elisa nói chồng nó tên là Harris, phải không? Rachel đăm dăm nhìn chồng, xác nhận. Ông già thì thầm vào tai vợ: - Rachel, chồng cô gái này có mặt trong đoàn người đi trốn, anh ta sẽ đến đây ngay đêm nay. Bà Rachel phủi phủi hai bàn tay dính đầy bột, sửng sốt: - Thật vậy ư? Vậy sao không cho cô ấy biết? Người chồng chậm rãi: - Đúng vậy, hôm qua Peters có đánh xe ngựa về phía đó, gặp hai người đàn ông và một bà lão. Một trong hai người có tên là Harris - Georges Harris. Cứ theo lời cô gái ấy kể thì anh ta đúng là chồng cô. Đó là một thanh niên có vẻ thông minh và dễ thương. Bây giờ ta đi báo tin cho cô ấy biết đây. Ông già bảo vợ như thế nhưng trước khi cho Elisa hay tin này, ông kể cho Ruth hay trước. Nghe chưa dứt câu, Ruth mừng cuống lên, làm ồn cho đến nỗi gián đoạn cả tiếng nói người đối thoại. Bà Rachel điềm đạm hơn: - Này Ruth, ta có nên báo tin cho cô ấy ngay bây giờ không? Ruth hăng hái: - Tại sao lại không? Nên chứ, nên cho cô ấy hay tức khắc. Chúa ơi! Phải báo tin ngay chú! Tao cứ nghĩ đến John, nếu John mà gặp cảnh đó thì.. - Lúc nào mày cũng nhắc đến chồng mày thôi. Bà Rachel vui vẻ trêu Ruth. - Ủa, nghĩ coi, còn gì quý hơn tình vợ chồng? Ruth nắm tay bà Rachel kéo đi: - Phải báo tin ngay! Đi đi! Đưa cô ấy vào phòng đi, để tao làm gà cho. Bà Rachel thư thả trở lại gian bếp, nơi Elisa đang ngồi may. Bà mở cửa phòng ngủ nhỏ, dịu giọng bảo nàng: - Vào đây, con gái của mẹ! Ta có tin này cho con hay. Tất cả máu trong huyết quản như dồn hết lên mặt Elisa, một nàng đỏ bừng lên một giây rồi lại xám ngoét. Elisa cố gắng đứng lên, đưa mắt nhìn con trai, hồi hộp làm theo lời bà cụ một cách khó khăn, chậm chạp. Ruth phải trấn an Elisa: - Đừng sợ, không phải tin buồn đâu. Hãy vào phòng đi! Ruth nói và đẩy Elisa vào phòng, khép cửa lại đoạn trở ra bế con trai Elisa lên tay, vuốt ve âu yếm. Thiếu phụ tốt bụng bảo nó bằng giọng dịu dàng: - Con sắp được gặp cha con! Con hiểu không? Và Ruth lặp đi lặp lại câu ấy nhưng Henri ngạc nhiên mở to mắt nhìn cô, không hiểu gì cả. Trong khi đó, trong phòng, bà Rachel thong thả báo tin cho Elisa biết. - Chúa đã thương xót con mà đưa chồng con lại đây đó, con gái ơi! Một lần nữa, đôi má Elisa ửng hồng lên rồi mặt nàng trắng bệch như sáp. Nàng ngồi bất động như pho tượng. Bà Rachel đặt tay lên đầu nàng: - Hãy bình tĩnh con ạ! Đó là sự thật: Đêm nay chồng con sẽ đến đây với vài người bạn. - Đêm nay? Anh ấy sẽ về đây? Elisa thẫn thờ lặp đi lặp lại như cái máy. Những lời nói dịu dàng và tia nhìn bao dung, nồng ấm của bà Rachel chợt mông lung, mơ hồ thoắt hiện, thoắt biến, đầu óc nàng đảo lộn, nàng cảm thấy như người hụt hẩng, đặt bước vào khoảng không. Nàng sẽ gặp chồng nàng trong đêm nay? Điều đó là sự thực ư? Mọi vật trong phòng và cả bà Rachel đều quay cuồng trước mắt nàng, một bức màn đen phủ chụp xuống và sau cùng, Elisa không gượng nổi, nàng ngất lịm đi.. ° ° ° Khi tỉnh lại Elisa thấy mình nằm trên giường, được đắp một tấm chăn đơn, bên cạnh là Ruth đang thoa dầu nóng cho nàng. Thấy nàng đã tỉnh, Ruth vui mừng đứng dậy đi dọn bàn ăn. Elisa uể oải một cách thích thú, như đứa trẻ dậy trưa được nuông chìu, nhẹ nhõm như một kẻ vừa trút được gánh nặng đeo mang nhiều ngày tháng. Thật vậy, tinh thần nàng luôn luôn giao động kể từ giờ phút đầu tiên rời nhà chủ nhân trong đêm khuya, giờ đã dịu lại, hoàn toàn yên ổn, thoải mái. Nàng ôn lại giấc mơ vừa trải qua và rồi, nàng mở to mắt lặng lẽ nhìn, ngắm xung quanh. Cánh cửa phòng ăn thông ra phòng khách lớn đang được mở rộng, bàn ăn được phủ khăn trắng muốt, có tiếng thì thầm trò chuyện và tiếng ấm nước sôi reo vui như một điệu nhạc quen tai. Ruth lăng xăng bưng bánh và thức ăn đặt lên bàn, chốc chốc lại dừng chân, đưa cho con trai nàng cái bánh hay đặt tay lên đầu nó, lùa các ngón trắng trẻo và mớ tóc nó vuốt ve âu yếm. Nàng thấy bà Rachel dáng bộ hòa nhã dịu dàng đến gần giường nàng kéo chăn đắp lại cho ngay ngắn, cặp mắt màu nâu trong sáng, tia nhìn ấm áp như ngọn lửa buổi chiều đông. Nàng thấy chồng Ruth bước vào và Ruth lao mình về phía đó, thì thầm vào tai chồng và chỉ tay về phía nàng rồi ngồi vào bàn, bế con lên tay. Họ quây quần quanh bàn và con nàng nữa: Thằng bé Henri chễm chệ trong lòng một cái ghế khá lớn đặt cạnh bà chủ nhà và nó có vẻ bình yên sung sướng dưới sự chở che của bà Rachel. Và rồi tiếng trò chuyện vui vẻ, tiếng muỗng nĩa chạm nhau lách cách. Chao! Giấc mơ của Hạnh Phúc! Nàng đã ngủ say sưa như chưa từng được ngủ kể từ khi đào tẩu tới hôm nay. Nàng đã mơ đến một vùng đất phì nhiêu đẹp đẽ, một mảnh đất của sự yên ổn, an toàn với bờ sông xanh ngắt bao la, với những cù lao xinh xắn và dòng nước lặng lờ hiền hòa lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tại nơi này, trong gian nhà ấm cúng và những người bạn mới đầy lòng từ ái, nàng và con được tự do.. Rồi thì nàng nghe rõ ràng bước chân quen thuộc vững chãi của chồng nàng, nàng cảm thấy anh tiến đến gần nàng, từ từ từng bước một. Và anh đưa tay ra ôm lấy nàng, những giòng nước mắt nóng của Georges rơi xuống má, xuống mặt nàng và lần này thì nàng tỉnh táo hoàn toàn. Đây là một giấc mơ có thật! Đêm đã xuống từ lâu. Bé Henri nằm ngủ say bên cạnh mẹ. Một ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng dịu nhẹ trong căn phòng vắng Georges, đang thổn thức khóc bên đầu giường vợ. Họ không ngờ được gặp lại nhau. ° ° ° Ngày hôm sạu là một ngày tưng bừng rộn rịp trong ngôi nhà của tín đồ phái Quakers. Bà Rachel thức dậy từ tinh mơ, bao quanh là lũ con ngoan và xinh xắn. Các cô cậu sung sướng được mẹ bắt đầu điệp khúc: "Nếu mày ngoan" để cắt đặt việc làm. Bà bận rộn lo bữa điểm tâm đãi đôi vợ chồng khách lạ. Bữa điểm tâm của họ, những người dân trong thung lũng phì nhiêu xứ Indiana là một bữa ăn cầu kỳ, cần đến bàn tay phụ giúp của nhiều người. John chạy ra, chạy vào ngoài giếng. Siméon le Jeune rây bột bắp để làm bánh. Mary được mẹ giao cho xay cafe, bà Rachel thì nhồi bột, nấu món ragu gà. Giữa khung cảnh bận rộn đó, bà cụ nom như một tia sáng của một ngày nắng ấm thật tươi vui. Khi vợ chồng Elisa và con nàng xuất hiện, họ được đón tiếp trọng thể và thân mật khiến thoạt đầu, họ tưởng như ở trong mơ. Sau đó, mọi người cùng ngồi vào bàn, trừ mình Mary đang chiên dở những lát bánh bơ. Cô đợi cho chừng nào món bánh này vàng ngậy, thơm lừng mới vứt ra khỏi chảo. Rachel ngồi ghế chủ tọa, chưa bao giờ bà cảm thấy hài lòng như lúc này. Bà luôn luôn tỏ ra tràn đầy lòng từ ái, và bàn tay của bà là bàn tay hiền mẫu, ngay trong cử chỉ nhỏ nhất là trao cho Georges mẩu bánh hay một tách trà. Ta có thể nói không ngoa là bà đặt cả tấm lòng mình trong thức ăn và thức uống mà bà ân cần mời anh ta. Đây là lần thứ nhất trong đời người nô lệ, anh được ngồi cùng bàn vởi người da trắng. Vì thế, thoạt đầu anh cảm thấy lúng túng, ngượng ngập song chỉ vài phút sau, Harris lấy được tự chủ. Đây đúng là một căn nhà! Anh được ngồi trong một căn nhà. Georges chưa bao giờ hiểu được ý nghĩa của tiếng này một cách rõ ràng như hôm nay. Lòng tin ở đấng tối cao, ở Chúa cũng đến với anh lần đầu tiên như tia sáng của một ngày đẹp trời sau bao nhiêu lâu anh ngụp lặn trong bóng tối. - Cha, nếu họ khám phá ra.. Siméon le Jeune ngập ngừng hỏi cha trong lúc phết bơ lên lát bánh. Cha cậu thản nhiên nói: - Tao sẽ nộp phạt, con ạ! - Nhưng nếu họ bắt cha ở tù? - Thì đã làm sao? Dễ chừng chúng mày cùng mẹ chúng mày không tự lực trông nom nhà cửa, trang trại được hay sao? Ông cụ vẫn giữ nguyên vẻ mặt tươi tình, nói. - Được chứ, thưa cha. Nhưng con hỏi cha: Những đạo luật như thế không phải là một điều nhục nhã ư? - Không nên và không có quyền chỉ trích các vị dân cử của ta - Người cha nghiêm giọng - Chúa đã ban cho ta của cải vật chất để thực thi công bằng và bác ái. Nếu các vị dân cử muốn buộc chúng ta trả giá các hành động tốt đẹp ấy, thì ta hãy trả, có vậy thôi. - Con ghét các ông chủ nô lệ. Giọng cậu con trai nồng nhiệt, không còn vẻ gì là một tín đồ ngoan đạo. Người cha có vẻ không bằng lòng song giọng ông vẫn hòa nhã: - Này con trai của cha! Con làm cha ngạc nhiên. Đó không phải là những lời mẹ dạy con. Phần cha, cha sẽ đối đãi với ông chủ nô lệ cũng y như đối xử tất với một người nô lệ khi ông ta vì hoạn nạn đến gõ cửa nhà ta. Cậu con trai đỏ bừng mặt lên và bà mẹ mỉm cười hài lòng: - Siméon là một đứa con trai tốt, lớn lên nó sẽ giống cha. - Thưa ông, vị ân nhân khả kính của tôi! Tôi e rằng sự có mặt của tôi sẽ gây ra nhiều phiền phức cho ông bà.. - Georges! Đừng lo ngại gì hết. Chúng ta sinh ra là để làm những việc như việc này. Nếu chúng ta thuộc hạng người không dám hy sinh vì chân lý, chúng ta đâu xứng đáng với sứ mạng được giao phó? - Nhưng thưa ông, tôi thật không thể yên lòng.. - Đừng thắc mắc vô ích! Không phải vì anh hay vì một ai, mà chính là vì Chúa và toàn thể nhân loại mà chúng ta làm vậy. Hiện giờ, hãy yên tâm mà ở lại đây. Cỡ vài hôm nữa vào một đêm tối, Platcher sẽ đến đưa anh đi nơi khác. Bọn săn người đang nóng ruột rượt theo anh, chúng ta không để họ bắt anh đâu. - Thưa ông, sao không đi ngay? - Anh sẽ được an toàn vài ngày khi ở đây. Ở đây, mọi người đều trung tín và cẩn thận. Hơn nữa, đi ban đêm an toàn hơn.
Chương 11 Bấm để xem Không biết cây đũa thần mầu nhiệm nào đã biến đổi con sông Mississipi khiến ngày nay nó khác hẳn thời mà Chateaubriand đã tả trong một bài thơ. Đọc bài thơ đó người ta hình dung nó như là một con sông của khu rừng già đơn độc, của những sa mạc mênh mông, chạy dài giữa những kỳ công của tạo hóa. Sông Mississipi ngày nay khác hẳn. Những tia nắng cuối của một ngày tàn đang run rẩy trên mặt nước êm ả giữa dòng sông rộng bao la như biển cả. Những cây sậy đong đưa, những cây trắc bá khổng lồ màu đen và những đám rong rêu bám trên thân cây thành từng chuỗi nom khá đặc biệt. Con tàu chạy bằng hơi nước, chất ngập hàng hóa đang tiếp tục cuộc hành trình. Nhiều kiện bông gòn đóng chặt to tướng chất thành từng đống hai bên mạn tàu, và cả bên trong, cùng khắp, trông xa giống như một khối màu xám khổng lồ. Người ta phải chú ý lắm mới nhận ra được bác Tom, người bạn khiêm nhượng của chúng ta, ngồi co ro ở đầu mũi tàu, lọt thỏm vào giữa những kiện bông gòn to lớn, nom nhỏ bé lạc loài đến tội nghiệp giữa cảnh sông nước bao la và hàng hóa vô tình. Haley bắt đầu đối xử với bác bớt khắc nghiệt hơn và công nhận là lời của ông bà Shelby cũng như người thợ rèn rất đúng: Con người hiền lành đó cam chịu số phận hẩm hiu dành cho mình, không tỏ vẻ phản đối như gã tưởng. Ban đầu gã canh chừng Tom rất chặt chẽ, mỗi tối gã xiềng kỹ Tom lại.. Dần dần, vẻ bình thản, nhẫn nhục của Tom đã thắng: Gã nới lỏng sự canh giữ, tin tưởng ở lời hứa danh dự của bác và vui lòng cho bác đi lại trên tàu tùy thích, tự do. Tom luôn luôn tỏ ra rất tốt và ân cần, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi có dịp. Không bao lâu bác chiếm được cảm tình của tất cả mọi người trong lúc giúp họ với sự hăng hái và tận tâm, vẫn là hai đức tính bác vốn sẵn có từ khi còn bé, hồi còn ở trang trại của cha mẹ ông Shelby tại Kentucky. Khi nào không còn gì để làm nữa, bác rút lui về giữa những kiện hàng, trong một góc ở mũi tàu, bắt đầu châm chỉ đọc Thánh kinh. Còn cách Nouvelle Orléans trên trăm dặm, mực nước sông cao hơn miền nó vượt qua, cả dòng nước vĩ đội chảy giữa hai bên bờ đê kiên cố, cao hai mươi bộ (khoảng chừng sáu thước). Đứng trên bong tàu, du khách có thể nhìn thấy cả vùng cho đến tận chân trời xa tít tắp. Tom dõi mắt nhìn cảnh cỏ cây trời nước bao la, nối tiếp mà tâm trí hoang mang vì nghĩ đến chuỗi ngày sắp tới, không rõ lành dữ thế nào. Bác mường tượng đến một vùng đất xa xôi mà kẻ nô lệ như bác đang làm việc nặng nhọc, mường tượng đến ngôi làng đầy những căn lều thô sơ, tồi tàn xếp thành hàng cách xa những ngôi nhà xinh đẹp sang trọng và các hoa viên của chủ nhân. Rồi trí tưởng tượng lại đưa bác trở về với trang trại cũ ở Kentucky, nấp dưới bóng của những hàng sao già quen thuộc. Bác hồi tưởng ngôi nhà tráng lệ của chủ cũ, những gian phòng đồ sộ, sáng sủa rồi nhớ luôn căn lều bé nhỏ của mình, đầy hoa leo rực rỡ. Bác như thấy những khuôn mặt quen thuộc của bạn bè, những kẻ cùng từng bác sống chung từ tấm bé, thấy cả vợ bác bận bịu trong bếp lo bữa ăn chiều, và cả giọng cười, tiếng hét của lũ con, tiếng ngọng nghịu của con bé út khi bác đặt nó ngồi trên đầu gối.. Trong khoảnh khắc tất cả vụt biến đi, bác chỉ còn trơ lại với thực tại: Những rừng trồng đầy mía và trắc bá chạy dài, trải dọc theo ven sông, rồi tiếng nổ ầm ì của con tậu đang rẽ sóng. Tất cả những điều này nhắc bác nhớ rõ, rất rõ rằng cuộc cuộc sống êm đềm cũ đã bị cắt đứt kể từ khi bác đặt chần lên cỗ xe ngựa của Haley. ° ° ° Trong số hành khách dưới tàu có một người đàn ông trung niên, dáng dấp quý phái và giàu có, hiện cư ngụ tại Nouvelle Orléans. Đó là ông Saint Clare, cùng đi với ông là con gái ông cỡ bảy tám tuổi. Cô bé có một bà cô chị họ ông theo săn sóc. Tom vẫn theo dõi và quan sát cô bé này - vì bác vốn yêu con trẻ - Con bé rất lanh lợi, hoạt bát. Hình như nó không thể ngồi yên một phút nào. Nó như một tia sáng mặt trời ấm áp hay một cơn gió lạ chợt đến, chợt đi. Đó là một vẻ đẹp ngây thơ lý tưởng: Hai má hồng hào nhưng không béo phì, bầu bĩnh giống như một số con nhà giàu da trắng khác. Dáng dấp uyển chuyển, dịu dàng, em đúng là hiện thân của một nhân vật thần thoại. Em di động như một cánh hoa. Nhìn gương mặt em, người ta liên tưởng đến một tâm hồn thoát tục. Tóm lại, em đẹp tuyệt vời với những đường nét cao quý ít thấy ở phàm nhân và ai có đầu óc thẩm mỹ đều phải công nhận em khác thường mà không sao giảng giải, chỉ cảm thấy thôi. Hình dáng của mái tóc, nét thanh nhã của cái gáy, toàn thân em phảng phất một vẻ quý phái lạ lùng, mái tóc vàng óng ả rủ xuống quanh cô bé như một áng mây nõn, đôi mắt xanh thăm thẳm, thông minh mà tư lự nấp dưới đôi hàng mi cong vút, tất cả những cái đó khiến em nổi bật lên trong đám trẻ con và thu hút những cái nhìn mỗi khi em len lỏi giữa đám du khách, linh động và thanh thoát. Tuy thế, em không hẳn là một đứa trẻ trang nghiêm và ủ rũ, vẻ ngây thơ, sung sướng hiện rõ trên mặt em như bóng mát của một tàng cây mùa hạ. Nụ cười rạng rỡ trên đôi môi như đóa hồng buổi tinh sương. Người cha và bà cô thật vất vả trong khi canh chừng theo dõi em. Em mới đó đã biến mất y như một đám mây xuân bảng lảng. Vừa tóm được em trong tay em đã chuồn mất liền sau đó, không kịp đề phòng. Trong bộ quần áo trắng, em thoăn thoắt từ góc này đến góc kia, những lời trách mắng của cha và cô chưa lọt vào tai thì em đã lướt sang nơi khác. Đôi khi, do một sự tình cờ, người thợ máy đang làm việc ngẩng đầu lên, bắt gặp đôi mắt mở to nhìn chăm chắm vào chiều sâu của lò lửa: Cô bé lo lắng, thương xót anh ta vì công việc có vẻ nặng nhọc và nguy hiểm. Khi thì người cầm lái tàu dừng tay và mỉm cười vì bắt gặp khuôn mặt dịu dàng, hiện ra trước mắt mình đẹp như một bức tranh và biến mất sau cửa sổ phòng lái. Có lúc, em lạc chân vào những chỗ hiểm nguy thì vô số bàn tay chai và thô tháp chờ sẵn để nâng em ra khỏi đó tức thì. Tom, với bản tính dễ xúc động, bị bóng dáng xinh đẹp nhỏ nhắn của em cuốn hút từ đầu. Bác theo dõi em một cách gần như sùng kính vì bác nhận thấy từ con người bé nhỏ ngây thơ đó có cái gì đặc biệt khiến bác liên tưởng đến hình ảnh một thiên thần mà trong Thánh kinh thường nhắc đến. Cô bé thường có vẻ: Xót xa, buồn bã, mất hết hồn nhiên vui vẻ khi đến cạnh đám nô lệ bị xiềng xích trên tàu. Em len lỏi giữa bọn người đáng thương nảy, lặng lẽ nhìn họ, đôi khi dùng đôi bàn tay bé nhỏ cố gắng để nâng những sợi xích sắt lên. Rồi em thở dài ảo não, bỏ đi. Mà không đi luôn, chỉ lát sau em trở lại với đôi tay đầy kẹo bánh, hạt dẻ, cam và vui vẻ phân phát cho họ, đoạn lại bỏ đi. Tom đã nhìn kỹ em trước khi đánh bạo làm quen. Bác có nhiều cách để chìu ý và làm thân với trẻ bởi vốn khéo tay, kiên nhẫn. Hồi ở Kentucky, bác rất được các con của chủ thương mến. Và giờ đây, bác cũng đang tìm cách làm hài lòng vị thiên thần bé nhỏ. Thật ra, trong túi bác luôn luôn có đầy nhóc những thứ bỏ đi với kẻ khác mà hấp dẫn đối với trẻ con, miếng vỏ dừa, hạt trái anh đào v. V.. Bác gọt thành những hình thủ ngộ nghĩnh, đan thành những cái giỏ tí tẹo xinh xinh. Giữa những kiện hàng to lớn, xù xì, xấu xí, em tiến đến, thoạt tiên em nghiêng mình, dáng điệu như một chú chim sâu cạnh bác Tom, hơi rụt rè đón nhận những món đồ chơi bằng thứ nguyên liệu vô giá trị nhưng đã được làm bằng cả tấm lòng, mắt em sáng ngời thích thú, hàm ý cảm ơn. Thấy đã đến lúc thuận tiện, Tom bắt đầu gợi chuyện: - Cô bé ơi, cô bé tên gì? - Cháu tên là Evangélinè Saint Clare. Tên cháu dài quá, phải không? Nhưng ba và mọi người gọi cháu là Eva. Còn bác, bác tên gì, hở bác? - Tôi tên là Tom, tôi ở Kentucky, trẻ em ở đó gọi tôi là bác Tom. - Vậy thì cháu gọi bác là bác Tom nghe? Cháu thích chơi với bác lắm, bác Tom ơi! - Tôi cũng vậy. - Bác đi đâu vậy, hở bác Tom? - Tôi cũng không rõ nữa, cô Eva ạ! - Kỳ không, sao vậy? Bác không biết bác đi đâu là sao? - Tại vì tôi bị bán đi. Tôi sẽ bị bán lần nữa, chưa biết chủ mới là ai. - Ba tôi sẽ mua bác, bác chịu không? Nếu ba tôi mua bác, bác sẽ được sung sướng. Để tôi xin ba mua bác. - Cảm ơn cô bé. Cô tốt lắm. ° ° ° Tàu dừng lại một trạm nhỏ để lấy thêm củi. Eva nghe tiếng cha gọi vọi vàng chạy lại với ông. Tom cũng đứng lên đi giúp công nhân dưới tàu trong công việc lấy củi. Eva đứng cạnh cha ở bao lơn tàu để xem tàu khởi hành, động cơ chuyển động mạnh để nâng cần trục lên làm mạn tàu tròng trành và trong một chớp mắt vì sự sơ suất bất ngờ, cô bé mất thăng bầng bị hất văng xuống dòng sông. Người cha hoảng hốt toan nhảy bừa xuống theo con nhưng vài người gần đó biết rõ khả năng bơi lội của ông nên đã kìm giữ ông thật chặt, không để ông thực hành ý muốn điên rồ, vô ích này. Mọi người bỗng nghe một tiếng ùm thật lớn: Tom đã nhảy xuống nước ngay sau đó, bác chỉ cần bơi vài sải, chờ cho em bé nổi lên là lao tới cứu được em. Bác vốn khỏe mạnh, dai sức cho nên việc này không mấy khó khăn đối với bác. Bác nâng cô bé lên, bơi dọc theo thân tàu và trong sự cảm động lẫn sung sướng, bác trao đứa trẻ cho hàng mấy chục cánh tay đưa ra đón nó, song kỳ thật nó chỉ thuộc về một người, ông Saint Clare, cha nó. Ngày hôm sau vào buổi chiều, một buổi chiều nóng bức, chiếc tàu tiến gần đến Nouvelle Orléans. Trên boong tàu diễn ra một quang cảnh nhộn nhịp khác thường. Mọi người lo thu xếp hành lý, sửa soạn rời tàu. Bồi phòng lo lau chùi đánh bóng sàn tàu, chà láng để chuẩn bị cập bến, một cái bến lớn và sang trọng. Bác Tom, vẫn rầu rĩ như thường lệ, khoanh tay trước ngực, vẻ lo lắng nhìn đám hành khách trước mặt mình. Em bé Eva đứng giữa đám hành khách nhốn nháo ấy, hơi xanh hơn mọi ngày, dáng chừng còn xúc động vì tai nạn hôm qua. Cạnh em là ông Saint Clare, cùi chỏ chống lên kiện bông gòn, dáng bộ hờ hững, một xấp giấy tờ mở ra, trải rộng trước mặt ông. Cha con họ rất giống nhau: Cũng đôi mắt to và xanh lơ, cũng mái tóc nâu óng ả, nhưng cái nhìn thì khác biệt: Ông không có vẻ mơ mộng trong cái nhìn, trái lại mắt ông sáng quắc, cái nhìn khinh mạn. Miệng ông thanh tú. Bên khóe biểu lộ vẻ kiêu hãnh và hơi châm biếm. Với vẻ lơ đễnh, khinh khỉnh ông lắng nghe tên buôn người Haley đang thao thao kể lể đặc tính của món hàng. Nụ cười mỉa mai nô trên môi, ông Cláre đợi cho lão ta dứt lời rồi mới ung dung lên tiếng hỏi: - À, ông bạn, theo lời ông thì bao nhiêu đức tốt, tài hay tên da đen kia đều hội đủ, phải không? Vậy là hắn ta quả đáng giá, tôi đồng ý. Vậy ông bạn muốn bán bao nhiêu đây? Bao nhiêu để ông bạn không phải thiệt thòi mà tôi cũng chịu nổi. Nào, cứ nói đi, miễn đừng nói quá. - Thưa ông, chỉ giá vốn thôi, tôi đã mua gã đến một nghìn ba trăm đô-la chẵn đó, ạ! - Thế đấy! - Ánh mắt ông sắc bén chế diễu - Và ông bạn định để vốn lại cho tôi chứ gì? - Thưa, kể cũng hơi đắt chút đỉnh, nhưng thưa ông, con gái ông có vẻ thích có một tên nô lệ như Tom, ông cũng nên chìu ý cô. - Ông bạn không vì thấy con tôi thích mà bắt chẹt chứ? - Thưa ông, không đâu. Ông thử nhìn coi: Bộ ngực hắn nở nang, tay chân cuồn cuộn bắp thịt, thân hình vạm vỡ. Tôi không nói ngoa đâu, hắn hoàn hảo hơn một con ngựa nòi đó nghe, và cái đầu thì.. ông xem: Trán hắn rất cao, chứng tỏ hắn thông minh. Một tên da đen đáng giá đặc biệt chứ không phải tầm thường như các tên da đen xoàng xoàng đâu đó. Thứ xoàng xoàng thì đâu mà không có, thưa ông? Ông sẽ không phí tiền đậu, hắn rất được việc, tôi cam đoan thế. Vả lại ông đã thấy: Chính hắn cứu con ông! Haley nuốt nước bọt, ngừng lại một giây rồi tiếp tục ca ngợi đức tính của Tom: - Một mình hắn, hắn coi sóc cả một trang trại lớn, rất được lòng chủ nhân, nếu không vì một lý do chính đáng, ông ấy không chịu rời tên nô lệ đắc lực này đâu, thưa ông, đó là sự thật, tôi thề không thêm bớt. - Thôi, đủ rồi ông bạn! Tôi không cần những đức tính đó đâu. Bọn da đen thông minh thì hay bỏ trốn và ăn cắp ngựa đem theo chứ được gì! Và vì nó quá thông mình, ông bạn phải bớt đi hai trăm đô la, theo ý tôi, ông bạn nghĩ sao? Eva đứng cạnh cha, sốt ruột chen vào: - Ba ơi, ba mua bác Tom đi ba. Con biết ba có tiền mà, ba! Con muốn ba mua bác ấy.. Eva nói và leo lên kiện hàng, vòng đôi cánh tay nhỏ bé quanh cổ cha. - Để làm gì chứ? Nhà ta đâu thiếu nô lệ, hở con! Con cần một món đồ chơi? Một con ngựa gỗ, ba dễ chìu hơn. Tại sao con nằng nặc đòi ba mua gã da đen đó? - Thưa ba, con chỉ muốn cho bác ấy được sung sướng mà thôi. - Đó mới thật là lý do chính đáng mà ba không thể từ chối đối với con. Người cha nói trong lúc Haley đưa cho ông tờ giấy tiứng nhận có chữ ký của ông Shelby. Ông đón lấy, không có vẻ chú ý mấy nhưng sau ông cũng để mắt vào, có lẽ vì tò mò thì đúng hơn, và ông chợt kêu lên thích thú: - À, chữ viết khá đẹp và không có một lỗi chính tả nào. Nhưng mà này, cái tôn giáo.. cái đạo giáo của Tom làm tôi hơi ngại. Không rõ tôn giáo đem ra chợ thì giá cỡ bao nhiêu, lâu quá không hề đọc báo nên tôi không biết.. Theo ông, giá tôn giáo của tên này là bao nhiêu? Tuy trêu chọc gã buôn người, ông Clare vẫn móc túi đưa ra một xấp bạc giấy. - Thôi, kiểm lại tiền đi, ông bạn! - Ông rất tốt, ông sẽ là người chủ đại lượng. Hắn nói, vẻ hài lòng, đoạn rút bút ra, làm giấy bán ký tên và đưa cho ông Clare. Vẫn thói châm biếm cố hữu, ông này cười nói: - Nếu tôi đây mà bị đem bán, tôi tự hỏi không hiểu tôi đáng giá bao nhiêu? Hình dáng của cái đầu này, vầng trán cao này, đôi bàn tay này, đôi chân này, rồi sự hiểu biết, nền giáo dục, tài đức này và tôn giáo nữa chứ? Quỷ thần ơi! Mấy môn sau cùng chắc không được bao nhiêu, phải không? Quay sang con gái, ông đổi giọng âu yếm: - Eva ơi! Lại đây với ba nào! Nắm tay con gái cưng, ông đi về phía mũi tàu, người đàn ông đặt tay dưới cằm Tom, cất giọng từ tốn: - Này, tôi hy vọng là anh sẽ hài lòng về cô chủ mới bé nhỏ của anh đây! Tom ngẩng đầu lên. Ai mà có thể không hài lòng khi nhìn thấy khuôn mặt ngây thơ, xinh xắn một cách thuần khiết như thế được! Và mặc dù trong thâm tâm, Tom hằng đồng hóa cô gái nhỏ với các vị thiên thần khả kính trong Thánh kinh, trên thực tế chưa bao giờ bác dám mơ ước được có một cô chủ như Eva. Bác rưng rưng lệ nhưng cố nén, kính cẩn trả lời: - Thưa ông, tôi cầu mong Chúa sẽ ban phúc lành cho ông. - Tôi cũng ao ước như vậy. Này, tên anh là gì? Tom hở? Anh cũng có thể hỏi để biết tên tôi. Này, Tom, anh biết cầm cương ngựa chứ? - Thưa, tôi quá thạo việc này. Ở trại ông Shelby có cả tá ngựa. - Vậy thì tốt lắm. Tồi sẽ giao anh đánh xe ngựa, với điều kiện này: Là mỗi tuần, anh chỉ được say sưa một lần thôi, trừ những khi có lễ lạt.. Tom có vẻ ngạc nhiên và bị chạm vào tự ái, liền cải chính: - Thưa ông, tôi chưa bao giờ uống rượu. - À, họ có cho tôi biết điều này. Nhưng còn để coi sao. Nếu quả thế thì tốt lắm.. Ông đổi giọng, thôi khinh khỉnh mà dịu dàng hơn: - Anh có vẻ phật ý phải không? Đừng phiền lòng làm chi. Hay là anh không ưa việc đánh xe? - Ồ, thưa ông không, tôi thích lắm chứ! Eva chen vào: - Bác Tom đừng lo, bác sẽ được sung sướng. Ba chỉ hay đùa thôi, chứ ba tốt lắm. Ba xử tốt với tất cả mọi người. - Cảm ơn con của ba, con nói tốt về ba hơi nhiều đó nhá! Người cha nói và để mặc con với người nô lệ, quay đi.
Chương 12 Bấm để xem Saint Clare là con trai một trại chủ giàu có nhất nhì tại Louisiana, nguồn gốc từ Canada. Ông cụ chỉ có hai anh em, khá giống nhau về tính tình cũng như sở thích. Một người làm chủ trang trại ở Vermont, một người trở thành nhà trồng tỉa ở Louisiana. Mẹ Clare là người Pháp, có đạo Tin Lành đã cùng gia đình sang Louisiana từ thời có đợt di cư đầu tiên. Ông cũng chỉ có một người anh thôi. Riêng ông, với bẩm chất ốm yếu giống mẹ nên theo lời khuyên của bác sĩ, được gửi đến Vermont ở nhà người cậu. Tại đây, cậu con trai trải qua một thời gian khá dài suốt tuổi thơ. Người ta tin là khí hậu mát mẻ tại nơi này giúp cậu khỏe mạnh. Từ thuở bé Saint Clare đã tỏ ra nhạy cảm, khiến cậu có vẻ dịu dàng của một cô gái hơn là cứng rắn như một cậu con trai. Thời gian qua, đến tuổi trưởng thành ông có một vẻ ngoài cứng rắn. Tuy vậy, tâm hồn thì vẫn không thay đổi, có lẽ nhờ tâm hồn đó, ông vẫn hiền lành và trẻ lâu. Ông có khiếu thẩm mỹ và không ưa kinh doanh. Vì vậy ông không chú ý đến việc tìm cách tăng gia sản nghiệp như phần đông thói quen của những người cùng địa vị. Cũng giống những người trong gia đình mình, ông ghét việc mua bán thủ lợi. Khi sắp ra trường ông yêu một cô gái rất đẹp và nổi tiếng. Họ dính hôn với nhau. Gia đình cô gái sống trong một tiểu bang miền Bắc. Clare phải trở về Nam để thu xếp việc gia đình trong ít lâu. Một hôm, chàng thanh niên nhận được một bưu kiện do chàng gửi cho người yêu bị hoàn trả lại với vài giòng ghi chú vắn tắt đại khái rằng "khi những thứ này chưa đến tay chàng thì vị hôn thê chàng đã là vợ người khác", vậy thôi, không nói rõ lý do. Clare tưởng có thể phát điên lên. Song cũng như bao nhiêu chàng trai thất tình khác, cậu tin là mình sẽ quên được con người phụ bạc, đáng khinh này. Cậu quá kiêu hãnh nên không cần tìm hiểu nguyên do. Lại sẵn có tiền, cậu đâm mình vào cơn lốc của tuổi trẻ, không bao lâu chàng nổi tiếng nhất vùng là một tay ăn chơi. Rồi mọi sự qua đi và chàng cưới một cô gái đẹp, có đôi mắt đen láy xinh hơn cả vị hôn thê cũ. Ai cũng nghĩ là chàng được hạnh phúc. Đôi vợ chồng hưởng tuần trăng mật trong một ngôi biệt thự lộng lẫy, giữa sự chúc tụng cua bạn bè, bên bờ hồ Ponchartrain. Bất ngờ làm sao: Một hôm người ta mang đến cho chàng một phong thư tuồng chữ rất quen thuộc. Cuộc đối thoại trong phòng khách đang hồi hăng say, thích thú, chợt nhận ra nét chữ của người cũ, người đàn ông bàng hoàng. Tuy nhiên chàng cố trấn tĩnh và kiếm một cớ chính đáng để rút lui khỏi đám đông. Vào đến phòng ngủ một mình, chàng xé lá thư ra. Than ôi! Chàng hiểu rõ mọi điều song quá muộn, không còn cúu vãn được gì: Vị hôn thê kể cho Clare hay mọi âm mưu của người giám hộ nàng; ông ta muốn nàng thành hôn với con trai ông ta, nên sắp đặt kế hoạch chia rẽ hai người. Thoạt tiên họ thủ tiêu tất cả thư từ của Clare gửi cho nàng, ngăn chận những thư nàng gửi đến chàng.. Nàng kể rõ nhớ nhung phiền muộn của nàng trong khi bặt tin chàng, nỗi chán nản cùng cực của nàng và cơn bệnh của nàng. Cuối cùng nàng khám phá được âm mưu của họ. Thư kết thúc bằng lời lẽ âu yếm, chân thành, đầy hứa hẹn. Clare rối loạn tâm thần, xót thương và ân hận không biết bao nhiêu. Nhưng chàng biết làm gì trước một việc đã rồi? Clare nhức đầu dữ dội. Sau cùng, chàng gượng ngồi lên, viết thư cho nàng. Chàng viết là đã nhận được thư nàng và hết sức cảm động, nhưng muộn quá rồi. Chàng viết là chàng nông nổi đã tin vào những lời xảo quyệt của họ, đã bị họ lừa và trong lúc quá tuyệt vọng, chàng đã thành hôn với một người con gái khác, dù chàng biết nàng không bằng vị hôn thê của mình. Mọi sự đã an bài. Cách tốt nhất là đôi bên hãy cố mà quên nhau, đó là giải pháp hoàn hảo nhất, là cách giải quyết của những con người có lương tâm và biết trọng danh dự của mình. Nhiều ngày qua, Clare nằm dài trên giường, gương mặt ủ dột như người đau nặng làm cho vợ chàng đâm lo lắng. Chàng xanh xao đến nỗi vợ chàng kinh ngạc mà thật ra, chàng nào có đau ốm chi đâu! Đồng thời, ngày một ngày hai, người chồng nhận chân được bản chất thật của vợ mình. Nàng rất thông minh, và chỉ có một đức đó mà thôi. Người chồng nhận thấy vợ mình là một con người ích kỷ, keo kiệt, nhác nhờn kinh khủng. Vốn là con một của một gia đình tỉ phú, quen sống trong sự nuông chìu từ tấm bé, muốn gì được ấy, nàng trở thành yếu đuối, hay cau có, ưa bắt người khác quy lụy mình. Bước chân vào đời, nàng là hiện thân của một mẫu người da trắng giàu có miền Nam Mỹ nói chung: Không có chút tư tưởng phóng khoáng và coi chế độ nô lệ là một điều tự nhiên, như thể trời sinh ra người da đen là để cho những kẻ như nàng sai khiến, hành hạ tùy thích. Nàng ngỡ là Clare rất hạnh phúc được làm chồng nàng. Thực ra, nếu nàng tế nhị một chút, nàng thừa sức để làm cho Clare quên người cũ một cách dễ dàng. Song than ơi! Bà Clare là một người không bao giờ biết cố gắng là gì, bà không quan tâm đến kẻ khác, dù cho kẻ khác là chính chồng mình. Quen hợm hĩnh từ thuở còn con gái, nàng cứ tưởng ai cũng phải chìu chuộng, để ý đến nàng hơn là nàng để ý đến họ, dù đó là kẻ thân yêu gắn bó mật thiết nhất trong đời nàng. Càng được cưng chìu, nàng càng đòi hỏi làm cho Clare đâm nản. Rồi thì những xung đột nho nhỏ bắt đầu, những cuộc cãi vả, những cơn hờn dỗi liên tục giữa hai bên. Tuy vậy, bản tính hiền hòa và rộng lượng, Saint Clare cố gắng chịu đựng vợ. Cho đến khi người vợ sinh đứa con gái đầu lòng, một đứa bé xinh xắn dễ yêu thì tuy không yêu vợ như ý muốn, Clare cảm thấy rất sung sướng và dồn hết tình thương cho đứa trẻ. Clare may mắn có một hiền mẫu có nhiều đức tốt nên chàng lấy tên mẹ đặt cho con gái, ông hài lòng mà nghĩ rằng sau này con bé sẽ giống như bà nội. Vợ Clare tỏ ra rất bất mãn về điều này. Tình thương yêu đậm đà của chồng dành cho con gái khiến cho người vợ bất bình, song chỉ ngấm ngầm thôi. Sau khi làm mẹ, người đàn bà càng thêm tồi tệ: Sức khỏe suy giảm, tinh thần kiệt quệ hơn do nếp sống nhàn dật, không hoạt động, ảnh hưởng đến sắc đẹp. Bà ta xanh xao, yếu đuối và càng gắt gỏng, khó chịu hơn bao giờ. Lúc nào bà ta cũng tự cho mình là người đàn bà khổ sở nhất trên đời, dù rằng bà có diễm phúc có một người chồng xứng đáng nhất và một đứa con xinh đẹp tựa thiên thần. Suốt ngày, bà ta chỉ biết than thở, kêu ca và luôn luôn có cảm tưởng mình là người đau ốm triền miên. Một tuần lễ, bà ta tự nhốt mình trong phòng hết ba ngày vì chứng đau đầu tưởng tượng. Có lẽ bà đúng là hiện thân của câu nhàn cự vi bất thiện. Mọi việc nội trợ bà phó mặc cho đám tôi tớ, không bao giờ để mắt, mó tay vào. Clare cảm thấy tình trạng thế này kéo dài rất bất lợi cho gia đinh, nhất là con gái ông lại có một tâm hồn nhạy cảm và vô cùng tế nhị. Ông e răng không ai chăm sóc nó về phần sức khỏe và hướng dẫn phần tình cảm cũng như sự giáo dục, nhất là sự thiếu thốn tình mẫu tử sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho con. Vì thế, ông quyết định đến Vermont, nơi ông đã sống suốt thời thơ ấu và nài nỉ chị họ ông, cô Ophélia Saint Clare về sống với gia đình ông. Cô này, đã quá tuổi lập gia đình từ lâu, là con đầu lòng và là chị cả một gia đình đông con, ngay từ nhỏ đã hấp thụ một nền giáo dục chặt chẽ. Đề nghị của Clare là cả một vấn đề quan trọng trong gia đình cô Ophélia. Ông cụ thân sinh cô, một cụ già tóc trắng như cước, trịnh trọng lôi trong tủ sách ra tấm bản đồ, xác định thật chính xác vị trí đường kinh tuyến cũng như đường vĩ tuyến và đọc kỹ cuốn "Cuộc phiêu lưu của Flint về miền Nam và miền Tây" để tìm hiểu nơi mà con gái mình sẽ đi đến trong một ngày gần đây. Bà cụ vốn sùng đạo, thì có vẻ lo ngại, không ngớt dò hỏi xem đó có phải là một xứ toàn người hung bạo chăng? Cụ còn so sánh vùng này với hòn đảo Sanwich hay một vùng tương tự, không chút ngần ngại. Vị mục sư, ông bác sĩ, cô Rabodi, chủ tiệm bán quần áo v. V.. đều được Ophélia tham khảo ý kiến về chuyến đi với người em họ. Không bao lâu chuyện này được coi như một đề tài chính trong các cuộc đối thoại trong làng. Vị mục sư, người chủ trương giải phóng nô lệ thì cho là chuyến đi này rất đáng khuyến khích. Trái lại, ông bác sĩ có óc thực dân thì cho là sự có mặt của cô Ophélia sẽ chứng tỏ cho dân chúng thành phố Nouvelle Orleans biết rằng những anh em ở miền Bắc lúc nào cũng hướng về họ. Chính ông ta luôn luôn cho rằng cần ủng hộ miền Nam. Ophélia vóc dáng cao lớn, góc cạnh, xương xẩu. Người gầy và sắc sảo, luôn luôn mím chặt môi như người phải có một quyết định dứt khoát trước một vấn đề nghiêm trọng chi đó. Mắt đen, sắc, lanh lợi, cô nhìn quanh khắp nơi như tuồng luôn luôn có một công việc gì chờ đợi sẵn để cô xếp đặt thứ tự, ngăn nắp. Cử chỉ cô rắn rỏi, cương quyết. Tóm lại cô là một người nhiều nam tính. Cô rất ít lời và chỉ nói khi cần nói mà thôi. Ngăn nắp, thứ tự, đúng giờ giấc, tư cách chững chạc, đạo đức mà khô khan, đó là tất cả thói quen của con người cô. Khó mà lay chuyển cô, cô như một cái đồng hồ có bộ máy hoàn hảo hay cái đầu tàu xe hỏa. Dưới mắt cô, tội lớn nhất, đầu mối của mọi tội lỗi là sự nhẹ dạ. Cô hay lạm dụng hai tiếng mâu thuẫn mà cô rất ghét trong những trường hợp ai phạm đến cái kỷ luật sắt thép cô đã vạch ra. Cô tỏ ý khinh bỉ hạng người ỷ lại, không làm nên một việc gì hay không ý thức được hành động của minh, không biết cố gắng để làm việc. Song cô không bao giờ biểu lộ sự khinh miệt thành lời nói mà bằng thái độ lạnh băng như đá, đối với hạng người này. Trong cái đầu óc trong suốt và khó tính đó còn có một tâm hồn thẳng thắn, một cá tính mạnh mẽ, ưa hoạt động. Cô thuộc làu các sách giáo khoa xưa và sách lịch sử của nước Anh. Dù chỉ hiểu biết giới hạn trong một phạm vi nhỏ, tư tưởng cô thật mãnh liệt dứt khoát, căn bản đạo đức của cô được đúc kết y như những công thức rõ rệt. Dù là đối với bạn bè, quyến thuộc hay láng giềng, cách xử sự của cô luôn luôn nghiêm chỉnh như nhau. Nhung trên hết cô tuân theo một thứ lề luật hướng dẫn: Lương tâm! Ophélia đúng là một mẫu người chỉ biết làm nô lệ cho bổn phận. Cô luôn luôn chứng tỏ rằng dù con đường đi đến bổn phận quanh co hay đầy lửa, nước đi nữa, cô không bao giờ chùn bước. Để làm tròn bổn phận, cô sẵn sàng chịu vứt xuống giếng hay đứng trước họng súng thần công! Bởi quá nghiêm khắc độc đoán, ngay cả với chính mình nên cô không bao giờ được thành công, và luôn luôn bị điêu đứng vì sự bất lực của mình. Bẩm sinh và tính nết như thế nên đời sống cô như bị phủ một lớp sơn đen. Thật buồn cười: Làm sao một con người khắc khổ như cô mà có thể hợp được với Saint Clare vốn vui vẻ, ưa hài hước, hoài nghi, không ưa giờ giấc, coi thường kỷ luật? Tóm lại, Saint Clare là con người hoàn toàn khác hẳn cô chị họ của mình. Nhưng cô lại chịu về ở nhà ông ấy, là vì cô rất thương yêu cậu em trai này không khác chi em ruột của cô. Thuở nhỏ, chính cô đã săn sóc, dạy dỗ ông, kể cả dạy ông giáo lý, cô đã chăm sóc ông từng ly từng tí, cho nên cô không khắc khe với ông như với mọi người khác. Phần ông, qua bao nhiêu năm tháng, ông vẫn giữ nguyên tình cảm thương yêu đặc biệt, kính trọng cô chị họ độc thân này. Ophélia tự coi mình có bổn phận phải về Orléans để coi sóc nhà cửa cho em trai, săn sóc cháu gái để tránh hậu quả xấu cho gia đình này vì sự quyết định bồng bột nhất thời của em: Cưới một cô vợ không ra gì. Mỗi lần nghĩ đến gia đình em tan vỡ vì cô em dâu, Ophélia đau nhói tận tim. Dù rằng cô coi ông như kẻ ngoại đạo - một điều mà người như cô khó tha thứ - cô vẫn thương ông, tươi cười mỗi khi ông pha trò và tha thứ cho em trai một cách rất rộng lượng, đến nỗi chính cô cũng lấy làm ngạc nhiên vì sự mâu thuẫn của chính mình. Thì ra trong tim cô, hình ảnh cậu bé Saint Clare vẫn còn ngự trị. Cô cũng rất yêu cháu, mà thử hỏi làm sao người ta có thể không yêu được một đứa trẻ ngoan, hiền, tốt như Eva! ° ° ° Con tàu tiến tới chậm chạp như một quái vật mệt mỏi rẽ sóng, đổi hướng để tìm chỗ nghỉ ngơi, len lỏi giữa đoàn tàu đông đảo. Trong khi đó, Eva vô tư, sung sướng khi nhận ra những mái nhà cao vút, những ngọn tháp, khung cảnh quen thuộc của thành phố nơi em sinh trưởng. Họ sửa soạn rời tàu. Cảnh tượng hỗn loạn như thường thấy mỗi khi tàu cập bến. Bọn con trai khuân vác ùa xuống, người qua kẻ lại, tiếng mẹ gọi con, chồng gọi vợ, tiếng hỏi han, lời từ biệt vang lên ơi ới. Mọi người cùng tranh nhau đổ xô về phía tấm ván nối liền từ boong tàu đến đất. Ông Clare chọn một thằng con trai lanh lẹn để thuê nó khuân hành lý lên xe sau khi chờ cho mọi người lên gần hết để tránh cảnh chen lấn. Ông cũng ra lệnh cho gã đánh xe khuân giúp hành lý với thằng con trai. - Bác Tom đâu ba? Eva nhìn quanh đang tìm kiếm. Người cha đáp: - Chú ấy ngồi trong xe ngựa rồi. Ba muốn thay chú vào chỗ tên đánh xe vẫn hay say sưa làm lật xe ta. - Con tin là bác ấy sẽ làm ba hài lòng, bác ấy không bao giờ uống rượu đó, ba! Con cam đoan à, ba! - Thong thả.. thong thả! Con gái cưng của ba đừng vội khen khi chưa thấy rõ. Ông Clare vui vẻ bảo con. Chiếc xe dừng lại trước một ngôi biệt thự cổ, kiến trúc nửa Pháp nửa Tây Ban Nha. Hiện nay ở Nouvelles Orléans vẫn còn vài kiểu nhà như thế. Mọi người băng qua cổng hình vòng cung và cái sân rộng bao quanh nhiều ngôi nhà nhỏ vuông vức, đó là kiểu sân của dân xứ Maure. Một dãy hành lang rộng bao xung quanh, cột trụ láng bóng, tất cả đều nhắc người ta nghĩ đến thời kỳ vàng son của nước Tây Ban Nha cai trị miền viễn tây. Chính giữa sân một cái vòi phun nước thành những tia bạc lóng lánh, bọt trắng xóa trong cái hồ lát bằng đá cẩm thạch, trên thành hồ là những luống hoa xinh xắn. Trong hồ nước trong vắt, hàng đàn cá vàng bạc lượn qua lượn lại tung tặng như những viên ngọc di động. Quanh hồ là một lối đi lát bằng đá hoa thành nhiều hình thù ngộ nghĩnh. Một thảm cô rộng trông dịu mắt như một thảm lụa xanh. Dưới hành lang ngay lối đi, hai cây cam to lớn luôn râm mát và tỏa hương thơm ngào ngạt. Vòng tròn quanh thảm cỏ là những chậu bằng đá cẩm thạch trồng các loài hoa quý, hiếm có nhất của miền nhiệt đới. Nhiều cây lựu khổng lồ hoa đỏ chói, đỏ như lửa, rồi những cây hoa nhài Ả Rập với tàng lá xum xuê, với những bông hoa như những ngôi sao bạc, những cây hoa hồng tươi tốt, cây phong lữ thảo, cây mỹ nữ anh.. Tất cả hợp nhau thành một vòm đầy hương sắc đặc biệt. Một cây dừa rừng già cỗi, lạ lùng mọc ngay giữa đám cây lá rậm rạp như một chứng nhân của thời gian, nổi bật lên, cao vút như thể nhìn những thực vật khác từ dưới thấp ngoi lên, xanh tốt, sống và chết dưới chân nó, những loại thực vật có một số phận ngắn ngủi, tạm bợ. Dọc theo dãy hành lang mênh mông đó, người ta may những tấm màn bằng loại vải xuất xứ tận Châu Phi để ngăn bớt ánh sáng mặt trời. Eva sung sướng, vui vẻ hơn bao giờ hết, nom em như một sơn ca sắp sổ lồng. Em liến thoắng: - Cô ơi! Cô trông nhà cháu có đẹp không? - Đẹp! Đẹp lắm, cháu ạ! Nhưng theo cô nó có vẻ.. hơi xưa xưa và.. ngoại đạo.. Ophélia vừa trả lời cháu vừa bước xuống khỏi xe. Tom thì nhìn quanh với vẻ bình thản, song trong lòng cảm thấy thích thú ít nhiều. Clare, chủ nhân ông là mẫu người bay bướm, lãng mạn. Ông ta mỉm cười khi nghe ý kiến bà chị họ và rồi bắt gặp ánh mắt khâm phục của tên nô lệ mới, ông quay sang Tom vui vẻ: - Thế nào, bạn? Hài lòng không? - Thưa ông, tôi rất sung sướng được về đây! Mớ hành lý cồng kềnh được khuân xuống ngay sau đó. Đám đông tôi tớ da đen thuộc đủ mọi lứa tuổi: Già có trẻ có, đàn ông, đàn bà và con nít từ nhà trên, nhà dưới, chuồng ngựa, nhà bếp túa ra để mừng òng chủ và cô bé trở về. Cầm đầu đám đông là Adolphe, một gã da đen trung niên với bộ quần áo hơi quá phận khiến gã ta nổi bật lên. Thật vậy: Nổi bật, vì gã đã mặc nhầm bộ quần áo của ông chủ (được ông chủ rộng lượng, gã hay lầm lẫn cái gì của chủ thành của mình luôn mà không bị trừng phạt gì cả). Nom dáng bộ gã thật khó mà giữ vẻ nghiêm chỉnh: Gã vây vẫy cái khăn tay tẩm đầy nước hoa, dáng bộ yểu điệu như một phụ nữ làm duyên (nhưng rất vô duyên). Rồi với vẻ nóng nảy, gã đẩy dồn hết đám tôi tớ vào tận hành lang: - Lùi vô! Tất cả lùi vô. - Giọng gã đầy uy quyền - Bộ mấy người tính làm rộn ông chủ ngay lúc ông vừa đặt chân về nhà còn đang nhọc mệt sao, sao ngu vậy? Phải ý tứ chớ? Ý thúc được câu nói có lý này, bọn nô lệ lùi ra, giữ một khoảng cách cần thiết, trừ hai tên lực lưỡng nhất có phận sự chuyển hành lý. Nhờ sự nhậm lẹ của Adolphe, sau khi trả tiền cho phu xe xong, quay lại, ông chủ chỉ còn thấy một mình Adolphe với cái áo xa tanh của ông, cái quần trắng muốt, cổ lủng lẳng sợi dây chuyền vàng chóe. Hắn chào chủ, trịnh trọng và cảm động. - A! Adolphe đấy ư? Sao? Ở nhà mọi việc trôi chảy cả chứ? Ông chủ hỏi vừa đưa tay cho hắn nắm (quả là ông chủ này rất bình dân). Àdolphe gãi đầu, gãi tai, trả lời: - Thưa ông chủ, mọi việc hoàn hảo, rất hoàn hảo! - Ồ! Vậy thì tốt lắm. Này, đợi chút nghe, tôi sẽ trở lại ngay. Ông nói và đưa cô Ophélia vào phòng khách. Eva thì băng qua hành lang và phòng khách, bước vào một phòng khác, nơi đó mẹ em cao lớn và xanh xao với đôi mắt đen láy đang nửa nằm, nửa ngồi trên giường ngủ. - Mẹ! Con về này! Eva sung sướng lao tới như một luồng gió ôm chặt mẹ, kêu lên và hôn bà tới tấp. Để đón con gái độc nhất và thân yêu, người mẹ ôm hôn lại con với dáng bộ uể oải, mệt nhọc - bà ta luôn luôn tỏ ra mệt nhọc - miệng nói: - Thôi, thôi! Đủ rồi, con gái của mẹ! Con sắp làm mẹ đau đầu đây. Clare cũng vừa vào, ông bước đến ôm hôn vợ theo đúng phép lịch sự về tình nghĩa vợ chồng rồi giới thiệu cô Ophélia với bà ta. Bà vợ mở to mắt nhìn kẻ lạ với vẻ soi mói và chào cô một cách miễn cưỡng. Đám tôi tớ túc trực đầy ở thềm cửa. Giữa đám người ấy và trên hết là Mammy, một phụ nữ da đen cỡ bốn mươi, có vẻ sung sướng và rất xúc động vì sự trở về của Eva. - Vú Mammy! Cô bé la lên mừng rỡ, chạy ra khỏi phòng và cũng lao vào bà ta như lao vào mẹ, nhưng Eva được bà đón tiếp một cách âu yếm, quý mến hơn nhiều: Bà ta ôm chặt cô bé, cười mà nước mắt lưng tròng. Nom cái cách bà ôm ghì Eva, người ta có thể nghĩ là bà đang ôm giữ một báu vật quý giá nhất. Rồi cũng đến lúc bà ta phải buông cô bé và cô đi đến từng người một, đưa tay cho người này, ôm hôn người khác khắp một lượt, hết cả đám tôi tớ bu quanh. Cô Ophélia đứng sững nhìn cháu, cô không thể tin được cử chỉ thân mật của cô bé dành cho đám nô lệ da đen, cô hết sức ngỡ ngàng và cô phàn nàn: - Chao! Trẻ con ở miền Nam dám có những hành động kỳ quặc mà ngay chính tôi, tôi chưa từng có. - Ý chị muốn nói gì, hở chị Ophélia? - À, à.. tôi muốn nói là tôi luôn luôn cố gắng xử tốt với tất cả mọi người, với cả nô lệ, tôi không bao giờ làm hại ai, tuy nhiên, ôm hôn.. hôn.. Cô ngập ngừng không thể nói hết, Saint Clare cười: - Ý chị muốn nói là không nên hôn nô lệ da đen chứ gì? - Phải, không hiểu sao con bé lại.. thế? Clare chỉ cười trước sự ngạc nhiên và có hơi khó chịu của Ophélia. Ông quay sang phía đám tôi tớ, gọi to: - Nào! Các bạn! Có mặt đủ cả chưa? Mammy? Jenny? Polly? Sukey? Các bạn vui mừng gặp lại ta chứ? Lại đây, lại đây.. Ông chủ vui vẻ đến gần từng người một, siết chặt tay họ, thỉnh thoảng lại kêu lên trong lúc mắt dòm chừng và chân hất nhẹ vào một đứa bé da đen bò lê bên cạnh ông: - Coi chừng chứ các bạn! Coi chừng kẻo tôi dẫm nhằm lũ trẻ. Khắp hành lang vang dội những lời chúc tụng và tiếng cười vui vẻ. Ông chủ phân phát cho đám tôi tớ những đồng tiền nhỏ, không sót người nào. - Thôi, giờ các bạn đi làm việc nhé? Đám đông tản mác dần, theo sau là Eva, tay xách cái giỏ nặng, to lớn, chất đầy hạt dẻ, trái táo, những vải băng, vải ren và vô số đồ chơi nhỏ, lỉnh kỉnh mà em mua suốt cuộc hành trình, chia cho họ. Khi ông chủ quay lưng lại, ông bắt gặp Tom đang đứng thẳng bong, có vẻ bực bội trong lúc Adolphe khinh khỉnh tựa vào cái cột nhìn ngắm Tom với vẻ diễu cợt, dáng bộ rất là.. kẻ cả. Công bình mà nói, Adolphe có vẻ của một công tử bột, diện kẻng, hợp thời trang! Và xui xẻo cho hắn vì cử chỉ kiêu ngạo của hắn đối với tên nô lệ mới làm ông chủ bất bình - dù ông vốn dễ dãi - cùng một lúc, ông nhận ra cái áo hắn đang mặc, ông quát lên: - Adolphe! Anh xử sự với bạn mới kiểu đó hả? Anh học ai vậy chứ? Tôi là chủ anh đây, tôi có xử sự như thế bao giờ chưa? Mà này, anh lại lấy áo tôi mà mặc nữa đấy ư? Ông sờ tay vào cái áo đo đỏ. Adolphe vội chống chế: - Thưa ông chủ, cái áo bị dính rượu nho giặt hoài không sạch. Một người sang trọng, quý phái như ông chủ không thể mặc một cái áo có vết bẩn, nó chỉ đáng dành cho hạng tôi tớ da đen. Vừa nói, hắn vừa đưa tay vuốt mái tóc có tẩm dầu thơm, điệu bộ rất.. tuồng. Thế là Clare nguôi giận: - Thôi được! Lần này ta bỏ qua cho. Đây, ta đưa Tom lên trình diện với bà rồi sau đó anh đưa Tom xuống nhà, nghe chưa? Nên nhớ là Tom đáng giá gấp đôi anh đó, nghe chưa! - Ông chủ giỡn hoài - Adolphe cười rộ lên, không chút e dè - Tôi rất mừng thấy ông chủ vui vẻ như vậy, thưa ông. ° ° ° Saint Clare dắt Tom vào phòng khách. Tom lặng lẽ chiêm ngưỡng những tấm thảm mịn như nhung mà Tom biết là rất đắt tiền, rồi những tấm kính soi mặt, những bức tranh lụa, những bức tượng, những tấm màn treo. Tom thận trọng bước, gần như chân không chạm đất. Clara bảo vợ: - Marie này! Anh đưa về cho em một người đánh xe đây, hắn rất đáng tin cậy, hắn sẽ dong xe cho em đi khắp nơi thật an toàn, vì hắn không bao giờ uống rượu, anh biết em ao ước có một người đánh xe như vậy phải không? Em hãy nhìn hắn xem nào! Anh không quên em trong thời gian đi xa, thấy không? Bà vợ nhìn Tom chăm chăm: - Em chắc hắn cũng.. cũng là bợm nhậu cho coi. - Không. Anh dám chắc, là không. Người ta bảo đảm với anh điều này, Tom là người điều độ và đạo đức. - Em cũng mong như thế, nhưng chưa dám cả tin. - Adolphe! Đưa Tom xuống và nhớ những gì tôi dặn, nghe chưa? Ông chủ gọi Adolphe, hắn bước lại tức thì, dáng bộ yểu điệu đưa Tom theo sau hắn. - Trông hắn có sức khỏe nhỉ? Marie nói với chồng. Saint Clare bảo vợ: - Marie! Em hãy tỏ ra vui vẻ xem nào! Em không vui khi thấy anh về sao? Ông chồng nói và ngồi xuống trường kỷ. - Anh mới đi có hai tuần mà em ngỡ như lâu lắm.. - Đúng vậy, và anh có viết thư cho em, kể rõ lý do tại sao anh về trễ, em biết mà. - À, lá thư.. Lá thư ngắn mấy hàng đó hở, lá thư lạnh ngắt ấy hở? - Người đưa thư vội vàng quá, anh chỉ kịp viết bấy nhiêu, em phải thông cảm. - Với anh thì luôn luôn như vậy - Marie mai mỉa - anh luôn luôn tìm cách rút ngắn thư từ và kéo dài chuyến đi.. - Em lầm rồi.. Ông chồng nói và rút từ túi ra một cái hộp bọc nhung xinh xắn, mở nắp: - Anh mang quà về cho em đây! Đó là một tấm ảnh sáng và rõ như được chạm khắc hình hai cha con Clare, tay trong tay có vẻ âu yếm. - Quà tận New York đó nghe! Clare nói nhưng vợ ông nhìn tấm ảnh với vẻ hờ hững và như bất bình nữa: - Ai mà chụp hình tệ đến thế này? - Trời ơi! Em không biết gì hết, em nhìn kỹ đi: Có phải giống cha con anh như đúc không? - Anh đã ngăn em phát biểu ý kiến thì còn hỏi em làm chi? Người vợ cau có nói và đóng sập nắp hộp lại. Clare hết sức bất bình, song cố nén, ông nghĩ thầm: "Thứ đàn bà ác độc, ích kỷ" và hỏi lại: - Nhưng em công nhận là hình cha con anh giống nhau chứ? Dù em có chê xấu đì nữa, em cũng.. - Cho em được yên thân chút coi nào! Cứ bắt em nhìn, em nói đến mệt. Anh biết em bị nhức đầu mà từ lúc anh về đến giờ, tiếng ồn làm em gần điên đầu luôn. - Mợ bị chứng nhức đầu kinh niên hay sao thế? Cô Ophélia nhổm lên khỏi lòng chiếc ghế bành - từ nãy giờ cô mãi ngắm nghía mọi vật bày biện trong nhà với vẻ thán phục - hỏi em dâu. - Ôi! Em khổ vì chứng này, em như kẻ tử vì đạo vậy, chị ơi! - Không đến nỗi đâu, uống nước trà pha với nước lá đổ tùng sẽ bớt, mợ ạ! Tôi quen một bà y tá, bà cho biết kinh nghiệm bản thân về thứ lá này đấy. - Tôi sẽ cho hái lá đổ tùng ở vườn, gần bờ hồ để sắc cho nhà tôi dùng. Người chồng nói và sốt sắng rung chuông, đoạn bảo Ophélia: - Chị nên về phòng riêng nghỉ cho khỏe. Ông bảo Adolphe đi gọi Mammy. Chị ta bước vào, mái tóc vừa được Eva trang điểm cho bằng một dải băng vàng rực. - Mammy ơi! Đưa cô về phòng và thu dọn mọi thứ cho vừa ý cô, nghe! Mammy lễ phép vâng lời, cùng đi ra với Ophélia.
Chương 13 Bấm để xem Trong phòng ăn, người chồng ôn tồn bảo vợ: - Này Marie! Anh tin là từ nay em sẽ được sung sướng: Chị Ophélia sẽ gánh cái gánh nặng nội trợ thay em, chị là một phụ nữ đảm đang, hoạt động và khỏe mạnh. Chị sẽ giúp em nhiều lắm đấy! Em sẽ khỏi những lo phiền vụn vặt làm cho em già và xấu đi. Em bằng lòng nhé! Marie gục đầu vào giữa lòng bản tay, uể oải đáp lời chồng: - Sự có mặt của chị lúc này thật quý hóa đối với em, nhưng em e không bao lâu chị ấy sẽ nản, sẽ cũng như em, vì nhận ra chủ nhân ở tại đây không phải là người da trắng mà là bọn tôi tớ da đen. - Em cứ để chị ấy tự nhận thức theo quan điểm chị ấy chứ, chị sẽ còn hiểu thêm nhiều điều khác, chị đâu kém thông minh? - Thiên hạ trách ta duy trì chế độ nô lệ, làm như điều này đem lại cho ta nhiều lợi lộc, nhưng nếu ta không độ lượng, ta đã bán sạch chúng từ lâu rồi. Eva nhìn chăm châm khuôn mặt mẹ mình với đôi mắt trang nghiêm mở lớn, cô bé hoàn toàn mù tịt về lời mẹ, em hỏi: - Mẹ ơi, sao ta lại phải giữ họ, để làm gì, hở mẹ! - Mẹ cũng không hiểu nổi.. vì nỗi bất hạnh của gia đình này. Vì chính họ là nỗi bất hạnh của mẹ. Chính bọn chúng là nguyên nhân gây nên sự suy giảm sức khỏe của mẹ đấy. Bọn nô lệ nhà này là bọn tồi tệ nhất, không ai chịu.. - Marie! Sáng nay em có vẻ bi quan thái quá rồi đó. Em nói hơi quá sự thật. Coi như Mammy đó thì biết, nó không là một người hầu tận tâm nhất với em sao! Em sẽ ra sao nếu thiếu nó bên cạnh? - Em đồng ý.. nhưng có những điều anh không biết rõ về nó: Lúc nào nó cũng nghĩ đến chồng con nó. Nó ích kỷ giống tụi da màu của nó. - Ồ, tưởng gì, nghĩ đến chồng con mà là ích kỷ sao? Em nói đến hay! - Em đã nói anh chưa biết rõ nó mà, nó ngủ mê lắm. Nó biết là em cần nó từng giờ, từng phút chứ gì? Mà nó chỉ biết ngủ, ngủ, ngủ như heo. Em thì bị đau nhức toàn thân, mà phải đánh thức nó.. Ôi chao! Chỉ vì vậy mà sáng nay em mệt lử như thế này này.. - Con biết là vú đã thức nhiều đêm hầu mẹ. - Ai nói với con điều này? Nó phàn nàn với con chứ gì! - Thưa mẹ, không. Vú không phàn nàn gì cả, vú chỉ kể cho con biết mẹ trải qua những cơn đau nhức như vậy nhiều đêm, chứ không có ý phàn nàn đâu, mẹ ạ! - Anh nghĩ là em nên sai một đứa khác thay phiên với nó, cho nó được ngủ, chứ bắt nó thức hoài.. Con Jane hay con Rosa chi đó, được không? Chúng thức hầu em vài đêm chúng sẽ rút lui ngay, anh biết không đứa nào được như Mammy đâu, em thì cứ chê.. - Làm sao mà anh có thể đề nghị cách này? Thật anh không thèm suy nghĩ gì cả. Em thì yếu đuối, gió thổi cũng xiêu, em làm sao chịu được một bàn tay lạ săn sóc em? Em chỉ quen với con Mammy thôi. Đáng lẽ nó phải tận tâm với em và nếu nó được như vậy, nó thức rất dễ dàng. Nhiều người có tôi tớ thật trung tín, em thì.. em bạc phước quả. Bà vợ khó tính thở dài đánh sượt một cái chấm dứt lời than phiền. Cô Ophélia lắng tai nghe cuộc đối thoại giữa đôi vợ chồng một cách chăm chú, môi mím chặt, dáng bộ tựa như một chiến sĩ đang thăm dò địa thế trước khi tấn cống. Marie phân bua với chị chồng: - Dĩ nhiên là con Mammy nó hiền lành, giỏi giắn, siêng năng, nhưng dù gì đi nữa, nó vẫn ích kỷ lắm lắm. Lúc nào nó cũng hướng đầu óc về phía con nó và chồng nó. Hồi em thành hôn, em bắt nó đi theo hầu em, còn chồng nó thì ba em giữ lại, vì thằng kia là tay thợ rèn giỏi lắm, ba em cần nó. Em đã giảng giải nhiều lần rằng nó đừng nuôi cái hy vọng hão huyền được gặp chồng con vô ích, hãy coi như bọn ấy chết rồi. Em sẽ kiếm cho nó một thằng chồng khác, vậy là yên. Nào có ngờ đâu, con quỷ cứng cổ không thèm nghe lời em. Con đó ghê lắm, chị ơi! - Trung thành là một đức tốt. Chị ta có mấy đứa con? - Hai đứa, chị ạ! - Cuộc sinh ly này chắc làm chị ta khổ lắm. Sao mợ không nghĩ đến việc cho con theo mẹ? - Sao được? Chúng sẽ chiếm hết thì giờ của mẹ chúng, vả lại chúng là hai đứa da đen dơ bẩn, chịu gì nổi? Con mọi này lúc nào cũng ngấm ngầm chống đối em về chuyện xa con, nó không chịu lấy ai cả. Em biết rằng ngay giờ đây, dù nó biết em rất cần nó, nhưng nếu có thể là nó bỏ về với con không do dự một giây. Quân bạc bẽo, phản trắc! Thời buổi này không có sự trung thành, chị ơi! - Điều này không nên quyết đoán. Anh không tin! Giọng người chồng có vẻ bất bình, phẫn nộ song cố nén, cô Ophélia nhìn em trai và thấy ông nở nụ cười có vẻ châm biếm. Marie kể lể: - Em thương nó nhất đó, chị ơi! May sắm cho nó toàn tơ, lụa, vải mịn thượng hạng. Có khi em ngồi may cho nó cái mũ nữa chứ. Em đối xử vậy còn gì nữa. Chưa bao giờ em đánh nó một roi. Nó được uống café, đưởng trắng, trà.. Ông chồng em muốn như thế đấy, ông bảo phải xử tốt với tôi tớ, mà tốt quá lố đi, chị ơi! Ông ấy để chúng tự tung tự tác, muốn gì làm nấy. Thật ra cũng tại anh ấy, chị ạ! Anh làm như chúng là những đứa con cưng ấy thôi. En thật quả nhức đầu vì nhắc đi nhắc lại hoài điều này với anh ấy mà anh không đổi tính. - Và tôi, tôi cũng nhức đầu lắm đó, thưa bà! Clare chen vào một câu và với lấy tờ báo đọc để khỏi tranh luận dài lời. Eva nhẹ nhàng đến gần mẹ, choàng tay qua cổ mẹ, với bản tính hay suy tư và tốt bụng, em ấu yếm nhìn mẹ vẻ khẩn khoản. Marie hơi ngạc nhiên: - Eva, con muốn gì đây? - Thưa mẹ, con muốn được thức hầu mẹ một đêm, một đêm thôi, được không mẹ? Con chắc là con không làm mẹ bực mình và con không ngủ gục đâu. Mẹ chưa biết: Có nhiều đêm con không ngủ được, con suy nghĩ.. - Eva! Bộ con điên hở? Con thật.. khác người.. - Mẹ cho phép con chứ? Con biết là vú Mammy không được mạnh. Vú nói với con là mấy lúc nay vú bị đau nhiều ở đầu.. Tội nghiệp vú! - Chà! Đau đầu! Thật đúng là thối xấu của giống da đen: Mới thức đôi chút đã kêu đau. Không được! Không thể khuyến khích chúng về điều này. Không bao giờ! Ở nhà tôi, đây là một nguyên tắc phải theo. Marie quay sang chị chồng: - Rồi chị sẽ thấy điều cấm đoán này cần thiết. Nếu để chúng tự do phàn nàn thì không bao lâu chúng sẽ đau đủ thứ, kêu van đủ thứ, nghe không xuể. Tôi đây, tôi có bao giờ phàn nàn đâu? Có ai biết tôi đau không? Theo tôi nghĩ, ta phải biết cắn răng chịu đau, không nên ta thán gì hết, đó là bổn phận, và tôi đã làm thế. Ophélia đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác, nhưng câu sau cùng của bà em dâu mới thực làm cô sửng sốt. Nó mâu thuẫn làm sao! Clare thì bật lên cười lớn. Marie uất lắm, bà ta cất cái giọng của tên tử tội sắp lên đoạn đầu đài: - Đó, chị coi: Anh ấy cứ cười kiểu đó, mỗi khi em nói đến chuyện đau ốm. Rồi đây, em hy vọng là ảnh sẽ phải hối hận vì thái độ ảnh. Nói xong, Marie đưa khăn lên lau mắt, vì bà.. khóc. Gian phòng trĩu nặng vì bầu không khí căng thẳng khó chịu. Clare đứng lên, nhìn đồng hồ để có cớ rút lui. Eva chạy theo cha. Còn lại hai phụ nữ, Marie vừa cất khăn tay vừa nói: - Chồng em như thế đó, anh không bao giờ chịu tìm hiểu về nỗi đau đớn mà em phải chịu đựng trong bao nhiêu năm trời nay. Kể ra ảnh vô tâm cũng có lý vì em không bao giờ kêu ca gì hết. Em cam chịu, em tha thứ hết.. Ophélia hết sức bối rối. Trong khi cô im lặng suy nghĩ thì Marie lại lau nước mắt đoạn bắt đẩu cà kê về vấn đề nội trợ, về những bộ đồ sứ đắt tiền, về thức ăn, nhà cửa, về tất cả như thể bà muốn giao hết cho Ophélia quyền điều khiển và trách nhiệm. Bà ta đưa ra nhiều ý kiến, những điều quan sát, những lời dặn dò. Cũng may, cô Ophélia vốn là một người có óc tổ chức và thứ tự, nếu gặp người lơ mơ chắc không sao lĩnh hội nổi hết mọi điều. - Bây giờ, em đã cho chị biết hết mọi sự, kể từ đây, chị có thể toàn quyền hành động, không cần đến ý kiến em. Em đau yếu thường xuyên, em không có sức khỏe, chị biết đấy! Em xin chị một điều này: Chị để ý dùm cháu Eva. Ta phải châm sóc nó chu đáo. - Cháu rất ngoan, tôi tin nó là đứa tốt nhất sau này. Tôi chưa từng gặp một đửa nào thông minh, có lòng như nó, vào tuổi ấy mà biết.. Lần đầu kể từ lúc ngồi trò chuyện với em dâu, Ophélia tỏ ra vui vẻ. - Nó thật lạ, lạ hết sức, Nó có vẻ bất thường, nó chẳng giống em lấy một ly. Lại thở dài não nuột, vì người mẹ đã nói ra sự thật làm tổn thương tự ái mình. Ophélia cũng cố gắng để khỏi nói lên một nhận xét vừa nghĩ: "Tôi, tôi cũng hy vọng là nó đừng giống mẹ nó". Bây giờ, người đàn bà ấy hết than phiền chồng, lại than phiền con: - Con bé kỳ lắm, chị chưa biết rõ đó: Nó quý bầy nô lệ da màu lắm kia. Dĩ nhiên, trẻ con nào mà không thích bè bạn, hồi em còn nhỏ em cũng đùa nghịch với tụi tôi tớ da đen đấy chứ. Nhưng mà không có nghĩa là thân mật quá mức. Eva thì khác, nó coi nô lệ ngang hàng với nó, em cố gắng mà không thể nào khuyên răn nó được. Em nghĩ chắc là tại cha nó một phần lớn, chính anh ấy đã khuyến khích nó coi trọng tụi da màu. Anh ấy làm hỏng hết, hỏng hết, chỉ trừ.. em thôi. Ophélia vẫn giữ im lặng, cách biệt. Marie cao giọng thêm: - Em biết có hai cách đối xử với bọn tôi tớ da đen: Phải tỏ cho chúng thấy sự thấp kém của chúng và phải áp dụng kỷ luật chặt chẽ, không thể buông lỏng như Clare nhà em. Từ nhỏ em đã biết cách điều khiển bọn nô lệ, nhưng nhà em thì.. em không hiểu rồi đây lớn lên, con bé sẽ làm sao xoay xở với một bầy nô lệ nhát nhờn, cứng cổ? Phải có ngôi thứ phân minh chứ. Em không nói quá đâu, chị nghe vừa rồi nó xin em thức thay Mammy chứ? Nó muốn cho Mammy được ngủ yên, chị thấy không? Đó là dấu hiệu báo trước những gì nó sẽ làm lúc trưởng thành. Không thể im lặng nữa, bà chị chồng lên tiếng: - Mợ Marie này, tôi nghĩ rằng nô lệ cũng là người như ta và họ cũng có quyền nghỉ ngơi khi mệt chứ? - Dĩ nhiên rồi. Em có nói cấm chúng nghỉ đâu? Nhưng em muốn sự hợp lý. Đằng này con Mammy thì ngủ lúc ngồi, lúc đứng, lúc đi, bất cứ lúc nào, đang làm việc cũng ngủ. Ngủ nhiều cũng nguy hiểm chứ? Ôi chao! Anh Clare coi nô lệ như thể là các bông hoa quý, như cây sứ Trung Hoa ấy, có kỳ không? Người đàn bà ngừng lại, thò tay xuống gối lấy ra một lọ thủy tinh nhỏ xinh xắn, rồi lè nhè tiếp giọng như ngọn gió rì rào thổi giữa hàng cây lài Ả Rập ngoài sân: - Chị ơi, em không bao giờ kể lể gì về em, vì em không thích. Thái độ anh Clare ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe em. Anh ấy không chìu em, em khổ sở bao nhiêu. Em đành phải tự an ủi là anh vô tình chứ cũng quý em. Nhưng chị ơi! Đàn ông họ ích kỷ lắm nhé. Em biết mà, em biết.. Ophélia với bản tính thận trọng cố hữu của người dân Nouvelle Angleterre, lại độc thân nên mù tịt về những nỗi khó khăn của gia đình; phần thì nghĩ đến trách nhiệm mình trong những ngày sắp đến, cô giữ vẻ thản nhiên lấy chiếc vớ (bao giờ cũng mang theo mình), tiếp tục đan để tránh những giờ nhàn rỗi cô cho là tai hại. Vừa chăm chú đan, cô vừa nghĩ thầm: "Mợ đừng hòng tôi mở miệng, vì tôi thấy không nên chen vô chuyện riêng của mợ. Mợ bảo là mợ chịu đựng, mợ không than phiền, nhưng mới tới mà tôi đã nghe tràn cả hai tai". Người tế nhị một chút đã nhận ra ngay cái vẻ tượng đá trên mặt cô, song Marie thì không, bà ta vớ được người để kể lể, buông tha sao được? Có người để nghe bà là đủ rồi. Vừa hít hít cái lọ sau khi mở nút, bà ta nói: - Chị ơi! Em đã giao cho nhà em tất cả của cải và dám nô lệ của em. Em có quyền sai khiến chúng như ý muốn chứ? Anh ấy có gia tài và nô lệ riêng, anh muốn làm gì tùy ý, còn của em.. Anh gieo vào đầu óc chúng những tư tưởng ngông cuồng. Có khi, em có cảm tưởng là anh ấy đặt chúng ngang hàng với chủ nhân, nếu em không nói là hơn cả chủ nhân. Đồng ý là anh ấy rất tốt.. Anh ấy quyết định cấm dùng roi vọt, dù công việc có ra sao đi nữa. Cấm cả em trừng phạt chúng bằng cách này. Anh ấy ra lệnh thế đấy, làm sao em cãi được. Anh ấy tuy hiền lành nhưng đã ra lệnh thì.. Trời! Em khổ, em điên, em đau ốm vì bọn nô lệ này, vì nhà em.. Em chịu đựng quá sức rồi.. - Nhờ ơn Chúa, tôi không hiểu chi cả về những điều mợ than phiền. - Có thể thế. Nhưng rồi đây chị sẽ hiểu và sẽ trả giá rất đắt nếu chị ở lại đây lâu lâu. Chị sẽ thấy sự vô ơn, kỳ quái, khiêu khích ở con người ấy. Thật y như có phép lạ, Marie nói không biết mệt, bà mở to mắt quên phắt rằng mình đang kêu đau ốm, nhọc mệt: - Chị sẽ thấy bọn nô lệ bắt chủ chịu đựng hàng ngày, hàng giờ. Mà động chị có than phiền, ảnh sẽ nói là tại mình, là lỗi ở minh, và trừng phạt họ là bất công, là chúng ta đã tỏ ra không xứng đáng, không nên trách chúng. Em đã nói là ảnh coi nô lệ ngang hàng mà! - Mợ có khi nào nghĩ rằng Chúa sinh ra họ cũng như chúng ta không? Họ cũng có thứ máu đỏ.. - Em chắc là Chúa không thể làm vậy đâu, chị ơi! Bọn da màu thấp hèn hơn ta, chắc chắn vậy. - Mợ có nghĩ là họ có linh hồn không? Và linh hồn họ cũng bất tử chứ? Người chị họ không nén giận nữa, gằn giọng hỏi. Marie trả lời sau khi ngáp dài: - Dĩ nhiên họ có linh hồn, nhưng đặt linh hồn chúng ngang hàng với linh hồn chúng ta thì là chuyện không thể có được. Chồng em cứ cho là tách rời vợ chồng Mammy cũng như chia rẽ em với ảnh. Em nhiều lần giải thích là có sự khác nhau không thể so sánh như thế được, mà ảnh không nghe, không tin em. Anh còn dám nói là tình thương của Mammy đối với con nó cũng như tình thương của em dành cho Eva! Con nó, những đứa trẻ da đen bẩn thỉu đó! Ảnh ngoan cố lắm, cứ nằng nặc bắt em trả Mammy về với chồng nó, kiếm đứa tớ gái khác hầu em. À, cái gì thì em còn nhân nhượng chứ điều này thì quá lắm, em đâu chịu được? Lố bịch quá đi! Em không hay biểu lộ tình cảm ra mặt, em gắng chịu đựng trong im lặng, nhưng lần đó, em phát khùng lên, và anh ấy phải chịu thua em. Nhưng tận giờ đây, em hiểu rằng anh ấy không bao giờ đồng ý với em, cứ nhìn ánh mắt, cử chỉ và những lời bóng gió của anh ấy là hiểu ngay. Anh cố chấp dễ sợ. Ophélia cố hết sức để khỏi nói ra lời, vì cô muốn giữ hòa khí với em dâu. Hai cây kim đan thoăn thoắt tới lui trong tay cô một cách hối hả, gấp rút như muốn biểu lộ tất cả bất bình dồn nén. Nhưng Marie vẫn tiểp tục lải nhải: - Trong ngôi nhà này, nô lệ muốn gì được nấy, trừ lúc nào em khỏe, có khi em khỏe như bò ấy, chị ơi! Trời ơi! Giá mà Clare chịu làm như vài người khác. - Mợ muốn cậu ấy làm gì nào? - À, gửi chúng đến Calebasse hay bất cứ chỗ nào mà người ta dùng roi vọt trị chúng. Nếu em mà không kém sức khỏe coi! Em còn hành động cứng rắn gấp đôi anh ấy. - Cậu ấy hành động cứng rắn như thế nào? Mợ vừa bảo cậu không bao giờ đánh đập nô lệ? - Vâng, không bao giờ, nhưng đàn ông có cách riêng chứ chị. Chị chưa biết rõ ảnh, khi ảnh nổi giận lên, mắt ảnh như rực lửa. Em, em còn phải sợ thay! Khi đó, bọn nô lệ biết là phải tuân lệnh ảnh răm rắp. Với anh ấy thì chỉ một tia mắt, còn với em thì là một trận đòn. Bọn nô lệ không dám ồn ào khi ảnh cáu lên. Nhưng với em, bọn nô lệ mà không đánh đập thì làm sao dạy được? Chúng dữ tợn, giả dối, làm bơ làm biếng, đủ, đủ tật xấu. Clare vừa bước vào, ông lên tiếng: - Đó, lại bài ca cũ rích của em, cứ theo em thì chúng hội đủ tật xấu? Đây rồi ra trước tòa phán xét, chắc sẽ khủng khiếp lắm. Chao! Cái tội lười biếng của bọn nô lệ! Này chị Ophélia ơi! Chị có thấy vợ chồng em làm gương xấu cho bọn tôi tớ không? Giọng trêu chọc, Clare nói và ngả người trên tràng kỷ, trước mặt vợ. - Anh thì chỉ được cái độc ác không ai bằng. - Thật ư? Anh tưởng là anh dựa trên nhận xét của em đấy chứ. - Lại chọc tức em phải không? - Thôi đi, Marie! Trời nóng quá rồi. Anh mệt vì thằng Adolphe. Em nên để cho anh được nghỉ ngơi bên nụ cười dịu dàng của em một chút, được không? - Chuyện gì xảy ra về thằng Adolphe? Cái thằng hỗn láo đó, em không chịu nổi, tại anh dung túng nó quá chứ gì? Anh cứ để nó cho em, em sẽ trị thẳng tay, không có lôi thôi gì hết. Sao? Chuyện gì, anh thử nói em nghe coi! - Ôi thôi, thật buồn cười. Suốt ngày nó học điệu bộ cử chỉ của tôi, càng lúc càng quá lố, thậm chí nó dám lấy áo quần của tôi mà mặc, ăn cắp cả nước hoa, tẩm vào người thơm ngát. Khăn tay của tôi, nó lấy cả tá, lại còn khoe khoang với bọn kia đủ thứ, y như một ông chủ.. con. - Hừ! Vậy mà anh chịu được, không biết chừng nào anh mới dùng đến quyền hạn của ông chủ đây? Phải dạy chúng chứ, không nên để chúng khinh nhờn mình đến độ như vậy được. - Nói thì nghe dễ, nhưng thực hành mới là khó. - Phải! Tôi nghĩ đến trách nhiệm của một người chủ nhân bọn nô lệ mà rùng mình, tôi không dám nhận trọng trách đó đâu. - Ophélia nói. - Tôi không muốn dùng bạo lực, da đen cũng là người có lý trí, có linh hồn. Phải chịu khó giảng giải cho chúng hiểu. Nói cho công bằng, thằng Adolphe là một ngoại lệ. Coi như Tom đó, nó thật quả là người tốt, tin cậy được. - Chưa chi đã khen rồi! ° ° ° Tom là một người siêng năng nên việc dưới chuồng ngựa mà chủ nhân giao cho quá rảnh rỗi làm bác không vui. Bác chẳng phải đụng tay vào việc gì hết (dưới quyền bác có nhiều tên nô lệ nữa), bác chỉ kiểm soát chúng thôi. Bà Marie than phiền rằng bà không chịu nổi mùi hôi của ngựa tiết ra từ người Tom mỗi khi bà cần đến Tom việc gì, mùi hôi ấy có hại cho thần kinh và sức khỏe bà. Cộng thêm lời yêu cầu của Eva, nên bác được thôi việc ở chuồng ngựa mà đặc biệt theo hầu Eva mỗi khi cô bé cần bác. Với Tom đó là một đặc ân. Tom ăn mặc chững chạc, sạch sẽ nhưng không quá phận như kiểu Adolphe. Trong bộ quần áo bằng vải ra ủi thẳng, đầu đội mũ làm bằng lông hải ly, chân mang giày bóng láng, cổ áo cồn cứng và gài nút đàng hoàng, nét mặt nghiêm trang, lễ phép và phúc hậu, Tom thật có vệ xúng đáng nhận chức giáo chủ của thành Carthage, thời mà dân da đen của bác chiếm cứ nơi này. Bác được ở một nơi thật sang trọng, khó lòng mà tỏ vẻ thờ ơ. Bác cảm thấy nhẹ nhõm, thanh thản trong lòng khi nhìn ngắm những đàn chim, những cây cảnh, hồ nước, bông hoa, hương thơm tản mạn trong không khí. Trong nhà thì màn treo, họa phẩm, những chùm đèn, những bức tượng và vô số đồ vật mạ vàng trưng bày làm rực rỡ phòng khách lớn y như lâu đài của Aladin. Cô chủ nhỏ thì ngoan ngoãn, tốt bụng và tôn kính Chúa giống y như bác. Ông chủ thì rộng lượng - hơi quá rộng lượng, cho nên trong bọn nô lệ, có người trở nên xấc láo như Adolphe chẳng hạn - nhưng bác thì bác vẫn giữ một mực ngay thẳng, trung thành, siêng năng. Bà chủ tuy khó tính, song trừ khi phải đánh xe đưa bà đi đâu, ngoài ra không có gì đáng phàn nàn. Kỷ luật kiểu nhà binh như cô Ophélia mà cũng chịu công nhận là bác Tom có tư cách và đạo đức. Mỗi sáng chúa nhật, Marie trang sức lộng lẫy để đến nhà thờ xem lễ. Bà ta tỏ ra là một tín đồ ngoan đạo nhất. Nhìn bà ta uyển chuyển bước từng bước kiểu cách trong hành lang, người ta phải công nhận là bà đẹp, một cái đẹp mong manh, quý phái. Và người ta sẽ cho là tư cách bà cũng giống đáng bộ bên ngoài! Cạnh bà ta là cô Ophélia, một sự tương phản sống động không phải vì cô ăn mặc đơn giản mà là vì cô cứng nhắc, gốc cạnh, quá xương xẩu quá! Thình lình bà Marie hỏi: - Ủa, chớ Eva đâu chị? - A, nó dừng lại trên cầu thang nói chuyện gì đó với Mammy. Trong lúc đó thì Eva đang dúi một cái lọ nhỏ xíu xinh đẹp vào tay Mammy. - Vú Mammy ơi! Con biết vú đang đau, vú tốt bụng. Con thương vú lắm.. - Em tốt lắm, Eva! Phải! Dạo này vú hay đau đầu, nhưng không sao đâu. - Ồ, chuyến đi dạo sẽ làm vú hết đau, vú cầm lấy cái lọ này đi! Eva nói và vòng tay quanh cổ vú. Mammy giật mình thối thoát: - Chết, em cho vú một vật quý thế này à? Vú không dám nhận đâu. - Tại sao không? Vú cần nó chứ con thì con cần gì? Con không đau đầu. Mẹ vẫn dùng nó mỗi khi nhức đầu, mẹ hít thứ dầu trong lọ đó. Cầm lấy cho con vui, vú à! - Thôi, vú chìu em. Mammy nói trong khi Eva nhét lọ vào túi vú, ôm hôn vú và nhảy ba bước một xuống cầu thang. Bà mẹ gạn hỏi: - Con dừng lại trên đó làm gì vậy? - Con cho Mammy cái lọ của con, để vú đem theo đến nhà thờ. - Eva, đừng có điên. Chừng nào con mới khôn ra, mới chịu biết phải trái? Thôi, trở lại lấy lại đi! Nhanh lên nào! Người mẹ vừa la con vừa dậm chân. Eva xịu mặt xuống, vẻ buồn bã. Người cha chen vào: - Marie, hãy để cho con được tự do làm gì nó thích, miễn không có hại thì thôi. - Thôi đi, anh nói vậy mà nghe được sao? Cứ để nó làm bậy bạ hoài sao? - Bậy bạ vậy mà nó lên Thiên đàng dễ dàng hơn em và anh cho coi! - Ba ơi! Ba đừng làm phiền lòng mẹ con. Eva bảo cha giọng dịu dàng, và nó thúc cùi chỏ vào cha. Clare hỏi con: - Này Eva, con thích nhà mình hay thích nhà bác Vermont hơn? - Ở nhà mình hơn chứ, ba! - Tại sao? - Người cha hỏi và sờ vào trán con. - Ở nhà mình có nhiều người để con thương. - Đúng là một câu trong những câu dở điên, dở khùng của mày đó, Eva. Giọng mẹ em nghiêm khắc. Cha em hỏi em: - Này, lúc nãy con ở đâu vậy? Sao con không có mặt trong phòng ăn? - Con ở trong phòng bác Tom, nghe bác hát, dì Dina có mang thức ăn cho con rồi. - Nghe Tom hát? - Dạ, bác hát hay lắm. Rồi con đọc những đoạn trong Thánh kinh của con, rồi bác giải thích cho con nghe. - Chúa ơi! Quả là trò hề hay nhất.. Người mẹ cười rộ lên, chế giễu. Clare nghiêm trang bảo vợ: - Anh cho em hay, đừng có khinh miệt Tom, hắn giải thích Thánh kinh không tệ đâu. Tên nô lệ này rất sùng kính Chúa và có căn bản giáo dục cũng như đạo đức tốt. Hồi sáng nay, cần ngựa sớm nên anh đi ngang phòng hắn, bất ngờ anh nghe những lời cầu nguyện của hắn, thật chưa bao giờ anh nghe được những lời cầu nguyện thành khẩn như thế. Hắn khấn nguyện dâng anh cho Chúa, giọng hắn đầy nhiệt tám.. - Thứ đồ bịp bợm. Chắc là hắn biết anh đi ngang, hắn giả vờ.. - Kìa, sao em lúc nào cũng nghi ngờ, không nên nói thế.. Clare trách vợ và tiếp: - Thật buồn cười: Hắn đã kêu lên với Chúa những ý nghĩ về tôi một cách tự nhiên và nói rằng hắn nhận thấy tôi cần phải cố gắng nhiều, cầu Chúa giúp tôi trở lại đạo. Cô Ophélia sốt sắng: - Đúng đấy, cậu nên nghĩ đến điều này. - Tôi biết ngay mà, tôi biết chị cũng muốn tôi trở lại đạo như Tom mà, đúng không? Để coi, phải không, Eva con? Clare vui vẻ nói, vẫn bằng giọng bông đùa cố hữu.
Chương 14 Bấm để xem Trong nhà Rachel Halliday chiều nay có vẻ rộn rịp khác thường. Bà cụ lăng xăng, bận rộn vì việc gói ghém lương thực cho những kẻ chuẩn bị đi xa. Bóng chiều đã ngả, từ chân trời, vầng dương đỏ rực chợt như dừng lại, rải những tia nắng cuối cùng, yếu ớt vào gian phòng nhỏ, nơi vợ chồng Elisa đang ngồi sát bên nhau. Georges đặt con trai ngồi lên gối mình và tay nắm chặt tay vợ. Họ cùng ngồi lặng trầm ngâm, buồn bã, những vệt nước mắt loang loáng chưa khô trên má. Rồi Georges cất tiếng phá tan im lặng nặng nề: - Phải, Elisa ạ! Anh biết rằng những điều em nói rất phải. Em rất xứng đáng, anh sẽ cố gắng để làm đúng như ý em muốn, xứng đáng là một người đàn ông tự do, một tín đồ ngoan đạo. Xin Chúa chứng giám cho anh, anh đã và sẽ cố gắng. Giờ đây, anh sẽ cố quên đi quá khứ u buồn, lìa bỏ những tư tưởng bi quan, hắc ám. Anh hứa với em, anh sẽ học hỏi Thánh kinh và trở nên người ngoan đạo, em sẽ thấy. - Sau khi đến Canada, em sẽ giúp anh trong việc mưu sinh, em biết khâu may, giặt ủi, chúng ta sẽ sống cạnh nhau. - Phải, chúng ta sẽ làm tất cả vì sự sống còn của nhau và của con ta. Chúng ta không sợ gì hết, chúng ta khỏe mạnh và có đôi cánh tay, như vậy há không đủ rồi sao? Anh nghĩ chúng ta không đòi hỏi gì hơn ở Thiên Chúa. Anh đã làm quần quật ngày đêm trong suốt 21 năm ròng mà không có một xu dính túi, không một tấc đất cắm dùi, không có gì cả. Nhưng bù lại, ngày nay, có lẽ họ sẽ để anh yên, không săn đuổi theo. Anh sẽ làm việc kiếm tiền gửi về trả cho ông bà chủ em để đổi lấy tự do cho em và con. Còn chủ cũ của anh thì khỏi, anh đã trả nhiều quá rồi. Anh không nợ nần chi nữa hết. - Em vẫn chưa yên tâm, em còn lo lắm. Mình chưa đặt chân lên xứ Canada mà. - Đúng vậy, nhưng anh cảm thấy phấn khởi lắm. Có tiếng ồn ào từ bên ngoài vọng vào và tiếng gõ cửa làm Elisa hồi hộp, đứng lên mở cửa. Siméon đang đứng với một tín đồ khác và ông giới thiệu anh ta tên là Phinéas Flascher. Đó là một chàng thanh niên cao lớn nhưng gầy như một cái sào, mái tóc đỏ hoe, khuôn mặt sắc sảo, lanh lợi, khác với vẻ bình thản, trầm lặng và hầu như thoát tục của ông Siméon. Họ giống nhau ở cách phục sức và vẻ niềm nở, chân thành đặc biệt của giáo phái Quakers. - Georges ơi! Phinéas vừa được biết một tin quan trọng, liên quan đến số phận vợ chồng anh, một điều đáng lo. - Tình trạng này, chúng ta chỉ nên ngủ với một mắt và một tai thôi. Đúng vậy, đêm vừa qua tôi đến một quán rượu nhỏ nằm riêng biệt bên kia đường. Lúc ấy, vì quá nhọc, nên tôi nằm dài trong một góc trên đống bao tải, đắp lên mình tấm da bò trong lúc chờ họ dọn chỗ ngủ cho tôi, và tôi đang thiu thiu ngủ.. - Với một mắt và một tai thôi chứ, Phénias? Giọng ông Siméon cất lên trang nghiêm, tuy lời nói có vẻ như khôi hài. - Không, tôi ngủ thật sự, ngủ mê mệt trong vòng vài tiếng đồng hồ chi đó. Vì quá mệt mà. Khi tôi giật mình, tôi thấy một nhóm đàn ông vây quanh bàn ăn uống, trò chuyện. Vì loáng thoáng nghe chúng bàn tán đến giáo phái Quakers tôi mới bắt đầu chú ý. Một tên có vẻ hậm hực bảo: "Tôi đoán không sai đâu, tụi nó trốn trong làng bọn Quakers". Thì ra bọn họ đang bàn về vợ chồng anh Georges. Tôi lắng nghe kỹ mọi chi tiết kế hoạch của chúng dự trù. Trước hết, chúng sẽ bắt anh trả về cho chủ cũ ở Kentucky, đặng ông ta trừng phạt anh thích đáng làm gương cho những nô lệ nào chấp chới định trốn. Hai tên khác trong bọn thì bắt chị Elisa đến Nouvelle Orléans bán, chúng hy vọng sẽ không dưới một ngàn sáu hay ngàn tám đô la. Thằng bé thì trả về cho lão buôn người. Anh Jim và mẹ anh ấy cũng trả lại cho chủ ở Kentucky. Chúng bàn sẽ đưa theo hai cảnh sát viên ở ngôi làng kế làng ta lúc ập vào bắt các bạn.. À! Chị Elisa sẽ được đưa ra tòa, có một tên nhỏ thó nhất trong bọn có giọng nói nhỏ nhẹ sẽ đứng ra nhận là chị thuộc quyền hắn. Chúng còn đoán rằng các bạn sẽ đi hướng nào. Phần chúng, chúng có khoảng bảy tám tên trong việc săn đuổi này, bây giờ chúng ta tính sao đây? Tiết lộ bất ngờ đó làm ai nấy sững sờ giây lâu. Người nào cũng đờ ra như tượng gỗ. Bà Rachel với hai bàn tay đầy bột trắng, vẻ mặt ái ngại lo lắng. Ông Siméon thì im lặng dáng bộ suy nghĩ; Elisa ôm chặt chồng, đầu gục vào ngực anh, chết lặng. Phần Georges, anh siết chặt hai nắm tay, mắt anh tóe lửa. Elisa như sực tỉnh, hỏi bằng giọng nghẹn ngào: - Harris, ta sẽ làm sao đây? - Tôi biết, tôi biết tôi phải làm gì. Miệng cương quyết, anh bỏ vào phòng ngủ, mắt nhìn những khẩu súng, Phinéas lắc đầu, nhìn theo Georges và nói với Siméon: - Anh ấy làm vậy có nên không? - Được lắm chứ! - Siméon vẫn giọng từ tốn - Nhưng tôi hy vọng là các bạn sẽ không phải buộc lòng dùng đến những thứ ấy, trừ khi.. - Tôi không muốn quý vị liên lụy trong vụ này. Chỉ cần các ông cho tôi mượn một cỗ xe và chỉ cho tôi đường đi. Tôi đích thân đánh xe, Jim có một sức mạnh phi thường. Anh ấy can đảm lắm, tôi cũng vậy. Sự tuyệt vọng và cái chết khiến chúng tôi đủ sức vượt qua tất cả mọi trở ngại. - Tốt lắm, anh bạn ạ! Nhưng với tất cả liều lĩnh can đảm cũng chưa đủ đâu. Anh cần một người hướng dẫn thạo đường. Phần anh thì lo chiến đấu.. - Nhưng tôi không muốn anh rước họa vào thân. - Rước họa vào thân? Tai họa nào dám đến với tôi, đừng giỡn chứ, bạn! Giọng Phinéas hài hước. Siméon nói: - Phinéas rất thuộc đường, lại khôn ngoan và lanh trí. Anh ấy giúp anh là phải lắm, tốt lắm, Georges ạ! Thật vậy: Phinéas là một tay lão luyện về nghề săn bắn, băng rừng tài tình, thú rừng mà gặp anh thì khó lòng thoát khỏi; ngang tàng, liều lĩnh nhưng vì phải lòng một cô gái thuộc giáo phái Quakers, anh ta chịu khép mình vào kỷ luật, gia nhập tập thể này. Hiện nay, anh ta là một tín đồ xứng đáng tuy nhiên lâu lâu vẫn bị khiển trách về một vài thói tật vong mạng của nếp sống cũ, song được cái anh ta biết phục thiện. Bà Rachel tươi cười bảo: - Phinéas có tật ưa xông xáo vào chỗ nguy hiểm, nhưng không sao, ta biết là con tim anh bị ràng buộc.. - Chúng ta đi ngay chứ? Georges hỏi. Phinéas nói: - Tôi thức giấc từ lúc bốn giờ chiều và đi liền một mạch về đây, gần như không ngừng để thở. Nếu bọn săn người theo đúng kế hoạch đã bàn thì ta có cỡ ba bốn tiếng đồng hồ để lên đường trước chúng. Chúng ta phải thận trọng không nên rời làng trước khi đêm xuống, vì ra đi lúc này sẽ có cuộc tiễn đưa kỳ quái, lỉnh kỉnh của dân làng, mất thì giờ và bất tiện, để lộ tông tích. Hai giờ nữa sẽ khởi hành. Tôi sẽ đi tìm bạn tôi, anh Michael Cross để nhờ anh ta cỡi ngựa đi trước dò đường và báo động cho ta nếu có gì bất trắc. Cũng cần tin cho Jim và mẹ anh ấy hay đặng chuẩn bị sẵn sàng và săn sóc ngựa. Tôi hy vọng ta sẽ đến trạm nghỉ đầu tiên trước khi chúng rượt kịp ta. Nói xong, anh bước ra khỏi phòng, khép cửa lại ngay. Siméon bảe Georges: - Phinéas là người gan góc, anh ta sẽ làm tất cả để giúp anh, anh hãy yên lòng, Georges ạ! - Tôi vẫn ái ngại làm sao: Vì chúng tôi mà các ông có thể.. bị nguy. - Thôi, đừng nói mãi câu ấy. Chúng tôi làm gì đều do lương tâm hướng dẫn, không thể khác hơn được. Chống lại bất công là bổn phận của chúng tôi. Ông quay sang vợ: - Bây giờ thì, Rachel ơi, sửa soạn nhanh nhanh lên, đừng để bạn ta đi với cái dạ dày lép kẹp dọc đường. Trong khi bà chủ nhà và đàn con làm bánh, hầm giò heo, quay gà thì vợ chồng Georges ngồi trong gian phòng nhỏ, tay nắm tay, mặt nhìn mặt vì họ nghĩ rằng có thể trong chốc lát đây, họ sẽ bị chia cách mãi mãi, không còn lòng dạ nào mà nghĩ đến gì khác hơn. Chồng bảo vợ: - Elisa em! Những kẻ có tình bạn, có nhà cửa, đất đai, của cải chắc họ không yêu nhau thắm thiết như chúng ta, vì chúng ta chỉ có nhau thôi. Trước khi chưa biết em, anh chỉ thương yêu có mẹ và chị anh, nhưng anh không được gần hai người thân yêu đó. Số phận dành cho người nô lệ là vậy: Mẹ bị bán một chỗ, con bị bán chỗ khác, luôn luôn bị hành hạ mà có khi không vì phạm một lỗi lầm gì gì cả. Giờ đây, anh thề sẽ chiến đấu cho đến hơi thở cuối chứ không bao giờ để chúng bắt anh và mẹ con em. Chúng chỉ bắt được mẹ con em khi anh tắt thở, nhất định như vậy đó. Có tiếng gõ cửa và Ruth bước vào: - Tao chạy vội vàng đến đây để đem cho con mày mấy đôi vớ len, ở Canada lạnh lắm đó nghe. Đưa cho Elisa ba đôi vớ xinh xắn tặng Henri xong, cô ta biến mất liền, không đợi nhận tiếng cảm ơn. ° ° ° Một cỗ xe to lớn, kín mít dừng lại trước cửa. Trời đêm mát rợi và lấp lánh đầy sao. Phinéas hăng hái nhảy phóc khỏi xe, sắp xếp chỗ cho những kẻ ra đi. Georges thong thả bước ra, tay bế con, tay nắm chặt tay vợ, bước chân vững chắc, nét mặt cương nghị và nhẫn nại. Rachel và Siméon đi cạnh họ. Siméon bảo những người đã ngồi sẵn trong xe hãy xuống xe để dọn lại chỗ cho đàn bà và con trẻ. Người bước xuống trước là một thanh niên da đen, khuôn mặt có nhiều nét giông giống Georges: Quả cảm và liều lĩnh, cũng đầy sức khỏe. Anh ta xuống và đỡ bà mẹ xuống theo, một bà lão gầy guộc, hiền lành, vẻ nhớn nhác như lúc nào cũng sợ bị bắt, bị hành hạ. Georges hỏi anh ta: - Jim, anh có súng không? Anh biết ta phải làm gì nếu bị tấn công chứ? - Sao lại không? Tôi thừa biết mà, đừng lo chi hết. Anh bảo vệ vợ con anh cách nào thì tôi, tôi bảo vệ mẹ tôi cùng cách ấy. Chúng chỉ bắt được bà cụ khi bước qua xác chết của tôi thôi. Jim nói, giọng tự tin, và ưỡn ngực hít một hơi dài bầu không khí thanh khiết vào lồng ngực vạm vỡ. Bà Rachel chen vào: - Này, hai tấm da trâu đây, hãy lót trên băng ngồi. Đêm hôm khó tránh được ổ gà, đường xóc tợn lắm. Elisa bịn rịn chia tay bà Rachel. Ông Siméon đỡ nàng lên xe và nàng ngồi vào một góc với bé Henri, bà lão mẹ Jim ngồi cạnh mẹ con nàng. Georges và Jim ngồi đối diện họ, trên cái băng thô sơ. Phinéas cầm cương ngựa. - Tạm biệt! Chúc các bạn bình yên! Siméon nói to. Cả bọn cùng đáp: - Cảm ơn ông và xin Chúa ban phúc cho gia đình ông. Thế rồi chiếc xe tiến tới trong bóng đêm, mặt đất đóng băng vỡ ra nghe rào rạo dưới bánh xe. ° ° ° Xe xuyên qua rừng bằng con đường mới đắp nửa chừng, băng ngang những cánh đồng rộng bao la, những ngọn đồi rồi xuống thung lũng. Thời khắc trôi qua. Đứa trẻ vô tư đã chìm trong giấc ngủ say sưa trên tay mẹ. Bà cụ da đen khốn khổ nguôi dần sợ hãi và Elisa cũng không chống nổi cơn buồn ngủ kéo đến. Người hứng khởi nhất là Phinéas, anh ta phải thức đánh xe nên luôn luôn tỏ ra hiếu động, hát, huýt sáo - nói cho công bình, những bài hát của anh quả thật không được thanh nhã mấy đối với tín đồ giáo phái Quakers - song người ta phải biết điều một chút, anh cần thức và quên dường dài chứ! Cỡ ba giờ đêm, Georges nhận ra tiếng vó ngựa dồn dập từ xa vọng lại. Anh liền thúc vào hông Phinéas để anh này chú ý ngừng xe nghe ngóng. - Đúng là Michael, tôi nhận ra vó ngựa anh ấy. Phinéas nói và ngẩng lên ngoái về phía sau, vẻ bồn chồn. Từ phía đó, họ trông thấy tận đỉnh đồi một người đàn ông phi ngựa với tốc độ kinh hồn. Phinéas lẩm bẩm: - Chính anh ta! Chắc có tin đây. Lập tức, Jim và Georges nhảy xuống xe, yên lặng hướng mắt về phía người đưa tin, ngóng đợi. Người này phi ngựa thật nhanh, một lùm cây che khuất người ngựa trong giây lát rồi lại hiện ra, lộ rõ dần và tiếng vó ngựa vang lên gấp rút. Sau cùng, anh ta dừng lại trên một gò đất cao, vừa tầm tiếng gọi. Phinéas kêu to và Michael trả lời: - Đúng, tao đây! Phinéas, tao chạy như bay để gặp tụi mày đây. - Có gì lạ không? - Sao lại không? Nghe đây: Bọn nó ở sau lưng đó nghe, cả bầy, hàng chục đứa chứ không phải ít đâu, chúng sặc nồng mùi rượu, hung hăng như những con sói đói. Michael chưa dứt lời thì một cơn gió thổi tốc đến và đưa lại tai họ nhiều tiếng vó ngựa dồn dập. Phinéas la to: - Lên xe mau! Nếu các anh muốn chiến đấu. Dịp đó tới rồi đây! Nhưng hãy chờ tôi tìm một địa thế thuận tiện. Hai người nhanh nhẹn lên xe, Phinéas thúc ngựa phi nhanh, bên cạnh là con ngựa nhỏ bé nhưng cũng nhanh không kém. Bọn đàn bà nín thở, khiếp sợ vì đã nhìn thấy từ xa một bóng người in bóng nâu đậm trên nền trời mờ sáng của ban mai. Vượt qua một ngọn đồi, bọn săn người đã thấy bóng cái xe phía trước, rất dễ nhận ra nhờ màu trắng của tấm bạt che nổi bật lên. Nhiều tiếng la đắc thắng của bọn săn đuổi vang dậy, làm như chúng đã tóm được họ trong tay rồi vậy. Elisa ôm chặt con trai vào lòng, bà cụ già thì không ngớt cầu nguyện. Họ chia chung một kinh hoàng không bút nào tả xiết. Jim và Georges nghiến răng, tay ghì chặt khẩu súng chỉ chực nhả đạn vào bọn săn người. Kẻ thù rút ngắn dần khoảng cách, chiếc xe đột ngột quẹo ngang và dừng lại sau một đống chất ngất những táng đá to lớn chồng lên nhau, ngổn ngang nổi bặt giữa một vùng đất bao la bằng phẳng. Cái kim tự tháp này lẻ loi, sừng sững giữa bầu trời trong sáng có vẻ như dành cho những kẻ cùng đường một chỗ nấp bất khả xâm phạm. Phinéas thông thạo địa thế vùng này như một phụ nữ thuộc đường ra chợ. Anh thường tạt ngang qua đây trong những bận đi săn bắn. Anh cho đó là chỗ nấp tốt và nóng nảy thúc ngựa phi thật gấp. - Chúng ta ngừng lại đây tìm chỗ nấp an toàn. Tất cả xuống xe và theo tôi leo lên những tảng đá này. Anh ta nhảy khỏi xe đoạn ra lệnh tiếp: - Michael! Hãy cột ngựa anh vào xe và đánh xe đến ngay nhà Amariah, cho ông ấy hay mọi chuyện rồi đưa ông và những người trong trại ông ta đến đây ngay! Tụi khốn sẽ biết tay ta! Trong nháy mắt, mọi người tuân theo lời Phinéas. Anh đón lấy bé Henri và bảo các bạn trèo lên các tảng đá theo chân anh. Anh ta nói khích vài câu để mọi người cố gắng, nhất là hai phụ nữ. Quả nhiên, chỉ vài phút, cả bọn đã trèo lên lưng chừng khối đá trong khi Machael lo cột ngựa mình vào chung với cỗ xe và dong cương chạy đi. Phinéas luôn miệng thúc giục và với sự hướng dẫn thành thạo của anh, dưới ánh sáng lẫn lộn của các vì sao và bình minh, họ nhận ra một cái khe hẹp nhưng vừa một người qua, dẫn vào trong một hốc đá. Phinéas nói: - Đây là một trong những cái hang chúng tôi vẫn nghỉ chân sau khi săn. Anh nhảy loi choi như một con dê, từ tảng đá này sang tảng đá kia, đứa bé được anh giữ chặt trong tay. Kế anh là Jim cõng mẹ trên lưng và sau rốt là vợ chồng Elisa. Đoàn người ngựa đã đến dưới chân đống đá và cũng lục tục xuống ngựa, vừa cãi cọ nhắng lên vừa chửi thề. Bên trên chúng là những kẻ mà chúng săn đuổi tiến vào các khe hẹp nhìn thấy vừa rồi. Bất chợt hiện ra trước mặt họ một cái hố rộng cỡ ba bộ và sáu khoảng ba chục bộ, ngăn đôi những tảng đá, hai bờ vực thẳng đứng như bức thành của một lâu đài. Phinéas bình tĩnh nhảy qua hố thật dễ dàng và đặt đứa bé lên một tấm thảm rêu trắng mịn. - Nào, các bạn nhảy qua đây! Bên này là sự sống.. Từng người một băng mình nhảy qua. Không ai bảo ai, họ cùng nấp sau một vách đá, khuất tầm mắt bọn săn người từ dưới nhìn lên. - Tốt lắm! Bây giờ chúng ta cứ yên vị tại đây! Phinéas nói và thò đầu ra khỏi các vách đá sừng sững để quan sát bọn người phía dưới. Bọn này cũng đang kiếm cách leo lên. - Bọn chúng rất có thể bắt được chúng ta nếu chúng muốn, nhưng bắt buộc chúng phải tiến vào khe đá từng tên một, vừa tầm súng của ta. Các bạn đồng ý không? - Vâng! Nhưng đến đây là phần việc của chúng tôi. Anh hãy để chúng tôi chiến đấu và nhận lấy hậu quả việc này. - Không ai giành đâu mà nói mãi? Nhưng cũng để cho tôi chứng kiến chứ? Tôi hứa chỉ đứng xem thôi, chịu không? - Phinéas khôi hài - Kìa! Coi chúng ung dung chưa: Chúng ngẩng đầu cao lên y như bầy gà mái sắp nhảy lên ổ vậy. Này, Georges! Ta có nên cho chúng vài lời cảnh cáo trước khi ra tay chứ? Ta hành động đường đường chính chính mà? Cho chúng hay là ta chỉ hạ chúng nếu chúng ngoan cố liều lĩnh tiến vào đây chứ? Georges gật đầu tỏ vẻ đồng ý với lời Phinéas. Hai cảnh sát viên với sự hỗ trợ của toán người tay sai bọn buôn nô lệ hung hăng tiến lên - Than ơi, họ bị mua chuộc chỉ bằng vài cốc rượu. - Này Tom! Bầy thỏ của ta coi bộ ngoan há? Chúng sắp chui vô rọ hết rồi. - Đúng vậy! Chúng ở trên kia, một bầy chung nhau, ta leo lên, thế là chúng phải xuống bằng ngả này, chúng đâu có thể xuống bằng ngả nào khác? - Coi chừng đó Tom ơi! Có thể chúng nấp sau những tảng đá bắn vào ta à! Và nếu thế thì.. chúng ta chết ráo chứ không chơi đâu. - Bậy bạ! Mày thì lúc nào cũng nghĩ đến chuyện chết chóc, tụi da đen nhát như thỏ ấy, sợ gì? Gã tên Tom át lời bạn, giọng hùng hổ. Một tên cãi lại liền. - Trời ơi! Ta có quyền nghi ngờ chứ, bạn? Vả lại, bắt chúng thì lợi lộc gì? Bọn da đen.. hừ, đừng có coi thường chúng. Đôi lúc chúng cũng can đảm, đừng tưởng chơi. Anh cứ hay nói tướng, làm sao không lo ngại: Mỗi người chỉ có một mạng, không lo sao được? Rủi chết ai chịu cho? Anh chết thay tôi được không? Giỡn hoài. Đột nhiên, Georges xuất hiện trên một tảng đá, giọng bình thản, rõ ràng: - Này, các ông kia! Các ông là ai và muốn gì? - Tao, tao đuổi bắt một bọn da đen trốn chủ. Georges Harris, Élisa Harris và con trai chúng, thằng bé Henri, thằng Jim với mụ mẹ già của nó nữa. Chúng tao thừa hành pháp luật. Có cảnh sát đi với chúng tao và một tờ trát đàng hoàng. Chúng tao có nhiệm vụ bắt tụi bay. Biết điều, biết thân thì chui đầu ra, đầu hàng đi! Mày là Harris phải không? - Đúng! Tôi là Harris, nô lệ ở Kentucky, nhưng chuyện đó qua rồi. Giờ đây, tôi ở trên phần đất tự do, tôi là người tự do. Tôi giữ vợ và con tôi. Anh Jim cũng có mặt tại đây. Chúng tôi có vũ khí. Nếu các anh muốn bắt chúng tôi thì cứ lên đây. Nhưng nhớ là cứ một người tiến lên sẽ lãnh tức thì một viên đạn và cứ thế tiếp tục cho đến người cuối cùng.. - Chà! Bảnh quá ta! Nói như một công dân da trắng không bằng! Nghe đây bạn! Chúng ta là kẻ thừa hành luật pháp, còn bạn, bạn là cái thớ gì? Bạn là tên nô lệ trốn chui trốn nhủi như lươn.. Thôi đi, đừng giỡn không đúng cách, bạn ơi! Bạn cùng đường rồi, tất cả các bạn đều cùng đường rồi. Nghe lời tụi này đi cho êm thắm. Một tên lùn, bé loắt choắt thêm: - Đúng, trước sau gì cũng nạp mạng, thì tốt hơn nên nạp mạng ngay đi cho vui vẻ.. - Tôi thừa biết là luật pháp đứng về phía các anh. Các anh muốn bắt vợ tôi để đem bán ở Nouvelles Orléans, các anh muốn bày con tôi ở chợ như bày một con bò chờ khách đến. Các anh muốn bắt mẹ Jim để trả lại cho mụ chủ tàn ác, đặng mụ ta hành hạ bà già, vì mụ không thể hành hạ con bà. Cả tôi và Jim nữa, các anh cũng muốn chúng tôi bị chà đạp dưới gót chân những kẻ mà các anh gọi là chủ nhân của chúng tôi. Nhưng còn khó lắm. Tôi không cần thứ luật pháp bất nhân, bất công của các anh. Chúng tôi đây! Chúng tôi ở dưới bầu trời tự do của Thiên Chúa, chúng tôi tự coi mình cũng tự do như các anh. Chúng tôi xin thề là sẽ chiến đấu vì sự tự do này hay là chịu chết, vậy thôi! Có gan, cứ lên đây! Nếu còn chút lương tri, các anh phải.. Georges nói, giọng sang sảng, cương quyết, tin tưởng, anh đứng thẳng người giữa vừng ánh sáng, trên tảng đá, oai nghi như pho tượng cổ. Những tia nắng chiếu rọi lên khuôn mặt rắn rỏi của anh, can đảm và uất hận cũng như sự tuyệt vọng bùng lên như ngọn lửa trong tia nhìn sáng quắc. Hai tay giơ cao lên, như anh muốn kêu gọi bọn săn người nhớ đến lời Chúa phán về sự bình đẳng giữa con người với con người. Thái độ, ánh mắt, giọng nói của anh, tất cả những gì xảy ra khiến đám người bên dưới tiêu tán đi một phần hăng hái của lúc lên yên, chúng đứng ngớ ra một lát khá lâu. Những lời vừa thốt ra như có một sức mạnh vô hình thôi miên chúng, dù chúng vốn là bọn vô lại, thô lỗ nhất. Chúng cảm thấy xao xuyến, cả bọn cùng cảm thấy thế, trừ một tên: Marks. Hắn không xao động mảy may. Trong khi các bạn hắn theo dõi thái độ của Georges và như bị lôi cuốn vì những lời lẽ quả cảm đó thì hắn rút súng chĩa vào anh, nói trong lúc bóp cò súng: - Đừng có nghe làm chi cho mệt. Cách tốt nhất là thịt thằng đen này đi cho yên! Georges nhảy lùi lại một bước. Elisa bật lên một tiếng kêu thảng thốt, viên đạn lướt sát mái tóc người chồng và phớt ngang má người vợ, rồi ghim vào một tảng đá. Georges trấn an Elisa: - Không sao đâu, em đừng sợ. - Quả là một bọn đê tiện. Nhưng cũng do lỗi anh, thay vì nói dài, anh nên vắn tắt rồi nấp liền mà nghênh tiếp chúng chứ! Phinéas nói. Bây giờ thì không còn nói năng kêu gọi gì nữa. Đôi bên sửa soạn chiến đấu. - Jim, coi chừng! Hãy nhắm kỹ ở ngõ vào, tên đầu tiên để đó cho tôi, phần anh tên thứ hai. Phải nhớ: Mỗi viên đạn phải làm ngã gục một tên, không nên phí phạm. - Nhưng rủi anh bắn hụt thì sao? - Không đâu. Tôi sẽ chỉ bắn trúng. Georges nói một cách tự tin. Phinéas lẩm bẩm một mình: - Anh chàng thật đúng là một người bất khuất. Bên dưới, sau phát súng của Marks, cả bọn lao xao: - Marks, anh hạ được một thằng rồi, nghe có tiếng la. - Tới phần tao - Tom Loker hăng hái - Tao sẽ hạ thằng kế tiếp. Chúng có gì là ghê gớm? Tao sẽ hạ chúng liền tức thì à! Đứa nào theo tao không? Nói xong, gã hăm hở leo lên những tảng đá nhanh như cheo. Georges nghe rõ ràng những lời huyênh hoang đó, anh im lặng hướng mũi súng về phía khe đá, nơi hắn sắp tiến lên. Tên thứ hai tiến theo Locker, bọn đi sau xô đẩy những tên phía trước trong khi vài tên phía trước cố trì hoãn. Càng lúc, chúng càng gần hơn, không bao lâu bóng chúng xuất hiện ở bờ hố. Georges nổ súng, viên đạn xuyên qua hông Tom Locker, hắn rú lên như một con bò mộng, băng mình qua khoảng trống của cái hố và rơi xuống một táng đắ phẳng lì. Phinéas tức thì lao mình tới, giơ đôi cánh tay hộ pháp ra, xô mạnh gã một cái, miệng la lên: - Này bạn, chúng tôi không cần anh lên tận trên này. Locker rơi tõm xuống hố, lăn tròn theo triền dốc giữa những cành cây, bụi rậm, những mỏm đá chìa ra; cũng may là nhờ những vật này cản lại, nếu không chắc gã lăn tuột xuống vực sâu, mất mạng như chơi. Nhờ vây, gã được chặn lại giữa lưng chừng hố. Gã nằm thẳng đờ, rên rỉ thảm thiết, mất hết hùng khí. - Cha chả! Tụi quỷ này hăng chứ chơi đâu! Marks vừa nói vừa nhanh nhẹn tháo lui khỏi khe đá, nhanh nhẹn còn hơn khi tiến vào rất nhiều. Cả đám co giò chạy theo sau, một cảnh sát khá mập mạp chạy muốn hụt hơi. Marks ra lệnh: - Này các bạn! Hãy vòng xuống dưới kia mà kéo Locker lên, anh ta bị thương đó nghe! Phần tôi, tôi đi lấy ngựa và kiếm thêm người tiếp viện. Hai ba tiếng xầm xì phản đối, nhưng Marks giả điếc, lên ngựa lủi tức thì, bỏ cả bọn lại như rắn không đầu. Một tên phát khùng lên, chửi thề ỏm tỏi và tên khác phân bua: - Đồ thứ chết nhát! Cầm đầu cái kiểu chó gì vậy chứ? Nó kêu tụi mình đi theo mà giờ lại bỏ nửa chừng, lo tẩu thoát một mình. - Giờ tính sao đây? Đứng đó mà trách móc ích gì? - Phải! Lo cứu thằng Loker! Lần theo hướng có tiếng rên rỉ phát ra, cả bọn vạch cành cây, bụi rậm, chúng đem được Loker xuống đáy hố. Nằm thẳng đơ như cái xác, tuy vậy, miệng anh ta không ngớt chửi thề và rên la. Một tên can: - Thôi đi ông tướng! Ông la hét hoài chỉ thêm mất máu, dễ chết lắm à! - Đỡ tao dậy, đỡ.. mau! Thằng Quakers hèn hạ! Không có nó, tao đã liệng xác tụi kia xuống vực hết rồi.. Để rồi chúng biết tay tao! Cả bọn hì hục hồi lâu mới khiêng gã lên vai, trở lên, đến chỗ bầy ngựa. Locker vẫn tía lia miệng: - Tụi bay chỉ cần đưa tao ra khỏi đây chừng một dặm, tới chỗ quán rượu.. Cho tao xin cái khăn tay, cái giẻ gì cũng được, để tao đắp lên vết thương cầm máu, coi! Từ trên cao, nhìn xuyên qua khe đá, Georges thấy bọn chúng cố gắng để giúp Locker ngồi lên yên ngựa, thân hình gã xiêu vẹo như thể không có xương sống và sau nhiều lần cố gắng một cách vô ích, gã lại bổ nhào xuống đất. Elisa thở dài, đáng thương xót: - Em hy vọng ông ta không chết.. Nàng nói trong lúc cả bọn lặng im theo dõi cảnh tượng phía dưới. Phinéas bảo: - Hạng như thế nên chết hơn là sống. - Nhưng sau khi chết, sẽ còn bị sự phán xét. Lời Elisa. Bà cụ từ nãy giờ cầu nguyện cũng lên tiếng: - Linh hồn gã sẽ phải vào cửa địa ngục. Phinéas thực tế hơn: - Tôi đám cá là bọn kia sẽ bỏ thằng Loker này lại cho coi. Quả nhiên, lời Phinéas nói đúng: Cả bọn bàn cãi xì xào một lát rồi nhảy lên ngựa rút lui, bỏ mình Loker ở lại. Đợi chúng đi khuất, Phinéas đề nghị: - Thôi, chúng ta trở xuống. Tôi đã nói với Michael đến trại cầu cứu và trở lại đây với cỗ xe, nhưng tôi nghĩ là chúng ta có thể đi bộ một khoảng trong lúc chờ ảnh trở lại. Nãy giờ đứng một chỗ cuồng chân quá, bây giờ hãy còn sớm. Chúng ta chỉ còn cách trại cỡ hai dặm đường, nếu không có gì trở ngại trong đêm nay, chúng ta có thể đi xa. Một lúc sau, Phinéas thấy chiếc xe trở lại với những người bạn. - Tốt lắm! Michael, Stéphen và Amariah.. Lúc này coi như chúng ta đã thực sự an toàn, sắp đi đến đích rồi. Elisa nói: - Chúng ta hãy dừng lại một chút, hãy làm một cái gì giúp đỡ người đàn ông khốn khổ đang rên rỉ ở kia, tội nghiệp.. - Đó là bổn phận của chúng ta, những người có đạo. Chúng ta hãy khiêng hắn lên xe và chở theo ta. - Và chúng ta sẽ săn sóc hắn bằng những bàn tay của tín đồ Quakers. Phinéas nói: - Được lắm! Tôi không phản đối việc này. Khiêng hắn lên. Phinéas, nhờ kinh nghiệm săn bắn và phiêu bạt nên có được chút ít hiểu biết về cách săn sóc vết thương, quỳ xuống bên kẻ bị thương và chăm chú quan sát. Tom nói với giọng yếu ớt: - Phải mày đó không, Marks? - Không, không phải gã - Phinéas nói - gã lo lắng cho mạng sống gã hơn là của bạn.. Gã đã bỏ đi từ lâu rồi! - Tôi tưởng là đã chết rồi chứ! - Tom nói - Bạn bè thật chó má, nó bỏ rơi tôi! Bà già tôi vẫn thường nói là cuộc đời tôi sẽ kết thúc như thế này, mà tôi không chịu nghe.. - Bạn bớt giận! - Phinéas nói - đừng cử động mạnh. Bạn sẽ chết nếu không cầm được máu. Tom nói thật yếu: - Chính anh đã xô tôi? - Nếu tôi không làm vậy, thì chính bạn lại sẽ xô chúng tôi, bạn hiểu chứ? - Phinéas vừa băng vết thương vừa nói - Này, này, để yên tôi băng bó cho; chúng tôi đây, chúng tôi không có âm mưu gì mờ ám cả. Chúng tôi chỉ tự vệ thôi. Chúng tôi sẽ đưa bạn về một ngôi nhà, nơi đó người ta sẽ chăm sóc bạn như chính mẹ bạn săn sóc bạn vậy. Tom mệt nhọc rên rỉ và đôi mắt hắn ríu lại.. Trong khi đó Michael đứng bên cỗ xe: Cả bọn kéo băng ngồi ra, xếp đôi những tấm da trâu lại, để chúng về một phía, và bốn người đàn ông khiêng Tom đặt nằm trên xe. Gã hoàn toàn bất tỉnh. Bà lão da đen sốt sắng ngồi trên sàn xe và nâng đầu của kẻ bị thương gác trên gối bà. Elisa, Georges và Jim ngồi dồn bên nhau, tiếp tục lên đường. Georges hỏi Phinéas khi xe bắt đầu lăn bánh: - Anh thấy gã ra sao? - Đỡ lắm, viên đạn chỉ trúng thịt thôi, nhưng cái té mới nặng. Gã đã bị mất nhiều máu, điều này làm gã kiệt sức và mất hết cam đảm. Gã sẽ bình phục và nhờ đó có thể gã sẽ mở mắt ra, hiểu biết hơn. - Chúng ta sẽ làm gì cho gã? Georges hỏi. - Chúng ta sẽ đưa gã về nhà Amariah! Ở đấy có bà cụ Stephen, đó là một bà y tá giỏi nhất vùng.. Trong vòng 15 ngày, bà sẽ chữa gã bình phục. Một giờ đồng hồ sau, cả bọn đến một ngôi trại xinh xắn, một bữa ăn thịnh soạn đang chờ họ. Tom được đặt nằm cẩn thận trên một chiếc giường sạch sẽ và êm ái hơn những nơi mà gã thường đặt lưng, vết thương gã được rịt thuốc và băng bó lại. Như một đứa trẻ mệt nhọc, gã uể oải mở mắt nhìn chăm chăm những tấm màn cửa sổ, rồi nhìn những kẻ mà gã muốn sát hại, nhưng giờ đây lại tận tình săn sóc gã. Rồi gã tỉnh táo hẳn khi nhớ đến lũ bạn vô lương, nhớ đến lời mẹ, và gã buông tiếng thở dài..
Chương 15 Bấm để xem Bác Tom, con người thuần hậu, chất phác vẫn thường so sánh thân phận nô lệ sung sướng của mình hiện nay với địa vị Joseph ở Ai Cập trước kia. Ngày tháng trôi qua, càng hầu hạ ông Saint Clare lâu hơn, bác càng xác tín điều này khi hiểu chủ thêm. Saint Clare vốn tính thờ ơ đối với vấn đề tiền bạc, không bao giờ quan tâm đến sự chi tiêu trong nhà. Từ trước đến nay, ông giao phó cho gã Adolphe tự quyền trong việc xuất phát mua sắm, chợ búa v. V.. Mà gã này, tâm tính thì.. như ta đã biết: Ưa lẫn lộn của chủ thành của mình, cho nên sẵn tiền trong tay gã vung vãi không chút e dè, thận trọng. Ông chủ mặc cho hắn ta phung phí, không hề kiểm soát nên hắn càng được trớn, làm già. Tom, trái lại, là một người cần kiệm, có lương tâm, coi trọng của chủ như của mình - có thể nói còn quý hơn của mình - luôn luôn gìn giữ từng chút một, luôn luôn cảm thấy mình có trách nhiệm phải giúp chủ hơn là phá hại của chủ, bác rất buồn lòng thấy tình trạng không tốt đẹp đó kéo dài. Clare, do một sự tình cờ đã giao cho Tom đôi việc dính dáng đến tiền bạc và ông không khỏi kinh ngạc khi thấy khả năng đáng tin cẩn của người nô lệ mới: Tận tâm, tiết kiệm. Trước nay, vốn sống trên tiền bạc, ông chi ra không bao giờ thèm nhìn con số cũng như thờ ơ khi nhận lại. Giá Tom mà gian xảo hay lợi dụng như kẻ khác thì có cơ hội để thủ lợi, nhưng Tom đã làm ông sửng sốt vì sự phân minh, ngay thẳng đặc biệt ở bác ta. Thật ra, Tom đã chống trả mãnh liệt với chính mình trước mọi cám dỗ vì tính dễ dãi quá mức của chủ nhân. Clare rất hài lòng, mỗi ngày mỗi tỏ ra tin cậy Tom hơn, và Tom càng tỏ ra xứng đáng với sự tin cậy ấy, không tơ hào, suy suyển một đồng nào. Clare cũng bắt đầu cảm thấy sự vô trách nhiệm, phao phí, lạm dụng của Adolphe. Ông cảm thấy nếu cứ tiếp tục giao phó cho tên quản gia Adolphe mọi thứ chi tiêu, gã sẽ gây một lỗ thủng lớn trong ngân quỹ gia đình ông, không hàn vá nổi. Thật nguy hiểm mà giao cho con người hời hợt bừa bãi đó cái trách nhiệm lớn như trước nay ông nhắm mắt giao càn, vì bà vợ vốn là người vô tích sự không chịu quan tâm đến. Tuy nhiên, vốn là người rộng lượng, ông không nỡ loại hẳn gã trong những công việc có liên quan đến tiền bạc. Ông dễ dàng bỏ qua mọi lỗi lầm của gã dù cho không phải gã vô tình và là những lỗi nặng đi nữa. Một lòng yêu kính chủ, Tom nhận thấy ông chủ sống như một kẻ vô thần, không bao giờ nhìn đến cuốn Thánh kinh, không bao giờ đi lễ ở nhà thờ, lại hay chế giễu khi nghe ai đề cập đến vấn đề tôn giáo; ưa la cà đến các trà thất, rạp hát, vũ trường, những nơi ăn chơi trụy lạc; không phải chỉ đi vào những ngày thường trong tuần, mà đi cả trong ngày chúa nhật. Gần đây, ông còn hay say rượu nữa chứ. Nếu sự phung phí tiền bạc của chủ làm Tom buồn thì sự phung phí sức khỏe và không có tác phong đạo đức của chủ càng lảm cho Tom buồn nhiều hơn. Vì vậy, tuy được chủ đối xử khoan dung, tử tế, Tom vẫn không bao giờ vui vẻ thực sự, bác buồn ngấm ngầm, và nỗi buồn đó dày vò bác, làm nét mặt bác luôn luôn lộ vẻ ưu tư như bác lo lắng cho chính thân phận của bác. Tom thường giam mình trong gian phòng nhỏ của bác, thành khẩn cầu nguyện, kêu gọi từ tâm của Chúa, xin gìn giữ linh hồn của ông chủ mà bác rất thương yêu, kính trọng. Bác kiên nhẫn chờ cơ hội thuận tiện để có thể khuyên can chủ, nhưng bổn phận của một kẻ tôi đòi như bác thì muốn thực hiện được thiện chí đâu phải dễ dàng gì? Dù sao, bác vẫn không đổi ý, vẫn kiên tâm chờ đợi. ° ° ° Một đêm kia, Saint Clare trở về nhà vào quãng hai giờ đêm, ông say khướt, không còn biết trời đất chi nữa. Người ta phải lấy làm lạ là ông có thể về đến cửa được. Tom và Adolphe phụ lực khiêng ông vào phòng, đặt lên giường. Gã Adolphe có vẻ gần như thỉch thú về chuyện tệ hại này, phần nữa, gã quá quen thuộc cho đến nỗi gã còn chế giễu Tom là lẩn thẩn, là lo lắng không đâu, vô ích. Khác với sự vô tâm của Adolphe, Tom bồn chồn lo sợ, thao thức trọn đêm, quỳ gối cạnh giường chủ, cầu nguyện, canh chừng và chỉ thở phào nhẹ nhõm khi thấy ông Saint Clare cựa mình, mở mắt vào lúc bình minh trở lại. Vẻ mệt nhọc phở phạc ưu tư như hằn lên gương mặt thuần phác của người tớ da đen khiến cho ông chủ bối rối không ít. Một chốc sau, trong bộ quần áo ngủ chỉnh tề, ông bước vào phòng đọc sách và hỏi bác Tom: - Này, tại sao đêm qua anh không ngủ? Hở Tom? Tom vẫn đứng im, ông hỏi tiếp: - Có gì làm anh lo lắm phải không? - Thưa ông, vâng! Tom đang lo lắng nhiều, nhiều lắm. Chủ nhân đặt tờ báo xuống, buông luôn tách café uống dở, gặn lại: - Chuyện gì khiến anh lo lắng? Coi mặt anh như thể sắp đưa ma. Giọng ông vẫn luôn luôn pha chút hài hước. Tom buồn rầu nói: - Thưa ông, tôi buồn lắm, chưa bao giờ buồn như hôm nay. Tôi thấy chủ tôi là người tốt, rất tốt với tất cả mọi người, nhưng.. - À, tưởng gì, chắc anh quên việc gì phải không? Không sao đâu, tôi nhận thấy là anh rất tận tâm, nếu đã quên thì không có gì phải áy náy. Coi như thằng Adolphe nó phá của biết bao mà tôi vẫn tha thứ.. - Thưa ông, ông lầm rồi. Tôi không quên bổn phận bao giờ, vì vậy nên tôi mới bận tâm không nguôi. Ông chủ nghĩ coi, ông là người chủ tốt lắm, với ai ông cũng tốt, nhưng riêng một người, ông lại không xử tốt.. - Anh muốn ám chỉ cái gì đây? Tôi nóng ruột rồi nghe, giải thích rõ hơn coi? Tôi xử tệ với ai đâu? - Thưa ông, đêm qua tôi đã thức suốt đêm, suy nghĩ về hành động của ông, ông đã không tốt với ông, vâng; với chính bản thân ông, ông tự hủy hoại thân ông, ông không chú ý gì đến ông cả. Tôi đau đớn biết bao nhiêu vì không làm gì được để ngăn ông đi dần đến chỗ nguy hại.. Cố gắng thu hết can đảm vào đầu lưỡi để thốt được ngần ấy lời, Tom vội vã quay lưng lại, đặt tay lên quả nắm của cánh cửa, toan rút lui. Saint Clare cảm thấy nóng bừng cả mặt song rồi.. ông trấn tĩnh được, cười gượng đi che giấu cảm động: - Chỉ có vậy mà anh cũng buồn khổ đến mức đó ư? - Thưa ông, chỉ có vậy thôi! Tôi biết nói gì hơn để ông chủ hiểu rõ lòng tôi, hiểu rõ sự lo sợ của tôi? Tom đột ngột quay lại và quỳ xuống cạnh chủ, van vỉ: - Ông chủ ơi! Tôi quý yêu ông biết là ngần nào! Tuy tôi không phải là tôi tớ thuộc qựyền ông từ thuỏ còn nhỏ, tôi kính quý ông lắm. Ngày đêm tôi cầu nguyện, chỉ e ông sẽ sa xuống hố thẳm của tội lỗi, đến chỗ mất cả xác lẫn hồn. Thánh kinh có viết rằng "Tội ác giống như con rắn độc.." Bác nghẹn lời không nói hết câu, thổn thức khóc, nước mắt tuôn đẫm má. Saint Clare la lên: - Tom! Anh điên rồì sao? Can gì mà khóc chứ? Nhưng ông nói xong mắt cũng mờ lệ vì xúc động trước tấm chân tình hiếm hoi quý báu của người nô lệ thấp kém hơn mình. Ông nén khóc và dịu giọng bảo người nô lệ trung thành: - Hãy đứng lên đi. Tom! Anh quá tốt làm tôi cảm thấy xấu hổ, vì không xứng đáng với những lo lắng và những giòng nước mắt của anh. Tom không chịu đứng lên, bác vẫn quỳ một chỗ, khẩn khoản nài nỉ ông chủ mình phải gìn giữ sức khỏe và linh hồn. - Này, Tom ơi! Nào tôi có ưng giao du với đám bạn bè đầy thói hư, nết xấu đó. Phải! Với tất cả danh dự, tôi nói cho anh biết điều này. Đã lâu lắm rồi, tôi ghét họ, tôi ghét cả chính tôi. Nhưng.. Này Tom, đứng lên d0i! Lau khô nước mắt đi! Chớ, đừng làm như mang ơn tôi quá nặng như thế, tôi thật không xứng đáng.. Ông đỡ Tom đứng lên và thân mật dắt Tom đến cửa phòng: - Tôi hứa với anh là kể từ nay tôi sẽ không say sưa bừa bãi nữa. Tôi sẽ cố gắng, anh sẽ thấy tôi không bao giờ ở trong tình trạng tồi tệ như đêm qua. Tom tươi ngay nét mặt, đưa tay gạt những giọt nước mắt loang loáng trên má và quay ra, lòng thanh thản, sung sướng vì tin lời chủ hứa. Và kể từ đó, ông Saint Clare giữ lời hứa với Tom. Người ta không hiểu có bao giờ ông mong mỏi vợ ông - người đàn bà kiêu kỳ, ích kỷ kia - có được đôi chút đức tính của một người tôi tớ da đen? ° ° ° Tuy nhiên, nếu nói về nỗi khổ tâm của những người trong đại gia đình này, ta phải kể đến cô Ophélia, người được giao cho trọng trách điều hành mọi việc trong ngôi nhà to lớn ở miền Nam này. Có một sự khác biệt giữa bọn nô lệ miền Nam, họ tùy thuộc nhiều vào đức tính của chủ nhân, nhất ìa các bà chủ. Nhưng dù ở miền Nam hay miền Bắc, có những phụ nữ da trắng có một trình độ rất cao trong việc điều khiển cũng như dạy dỗ đám nô lệ của họ. Có người không cần phải khắc nghiệt, cứng rắn mà vẫn được nô lệ kính phục, tuân lời răm rắp. Chẳng hạn như bà Shelby. Điều đáng tiếc là những bà chủ như thế này không có nhiều. Marie Clare cũng thừa hưởng nết đoảng của mẹ không thuộc vào loại phụ nữ khả kính này. Vì vậy, ngày đầu tiên đứng ra đảm nhận trọng trách do vợ ông em họ giao phó, cô Ophélia đã đứng thẳng bốn tiếng đồng hồ, và sau khi quét dọn sạch sẽ gian phòng dành cho cô, một việc cô vẫn tự tay làm lấy từ lúc đến nhà này, trước vẻ kinh ngạc của chị bồi phòng; cô bắt đầu thanh sát nghiêm khắc tất cả các ngăn, các tủ và các phòng mà cô được giao chìa khóa. Phòng ăn, phòng giặt giũ, phòng đựng đồ sứ, nhà bếp, kho rượu v. V.. tất cả đều được cô quan tâm cẩn thận. Chao ơi! Biết bao bí mật cẩu thả bừa bãi được phơi trần trước mắt con người sắt thép này làm cho bọn tôi tớ vốn quen nhác nhờn một phen hoảng vía. Có đứa lo âu, thấp thỏm nhưng cũng có kẻ phản đối - ngấm ngầm thôi -phương pháp làm việc của cô gái già miền Bắc. Riêng bà đầu bếp chính Dinad, người coi sóc tổng quát khu vực quanh nhà bếp, người có nhiều quyền hạn trong nhà bếp thì sự chống đối tỏ ra mạnh mẽ nhất, bộc lộ chứ không cần che giấu. Nói cho công bình, tài nấu nướng của bà ta không thua kém chi Chloé, vợ của bác Tom tại trang trại ông bà Shelby, nhưng bác Tom gái được hướng dẫn bởi một bà chủ ngăn nắp, bác sống từ nhỏ đến lớn ở một đại gia có tổ chức phân minh, thứ tự, sạch sẽ đâu ra đấy. Bà Dinad thì khác hẳn, hãnh diện và kiêu ngạo về tài nấu nướng của mình, bà không coi ai ra gì. Bà ta lại có tính bướng bỉnh, độc đoán, thích gì làm nấy, không biết phục thiện, không thèm nghe ai cả - (vả lại, đâu có ai đủ uy quyền để khiển trách bà ta, có một nữ chủ nhân thì suốt ngày chỉ những than đau, kêu mệt) vì vậy bà ta tha hồ tung hoành theo ý thích mình. Bà ta cho rằng trên đời này không có một kẻ nào có tài hơn mình, giỏi hơn mình, khôn hơn mình để đủ sức khiến bà ta có thể chịu để lọt tai một lời khuyên bảo. Cách của bà ta là cách hoàn hảo nhất, dù rằng nhìn vào gian bếp, người ta tưởng như nhìn vào khu rừng sau trận bão tố ghê người. Phần lớn người phụ nữ da đen này chịu ảnh hưởng của bà chủ cũ, mẹ vợ ông Saint Clare, kế đó là bà chủ hiện thời: Marie Clare; mà hai người này thì có thiết để mắt vào khu vực bếp núc bao giờ đâu? Mụ Dinad được quyền sai khiến hàng tá tôi tớ dưới quyền (như tất cả các đại gia miền Nam). Bắt nạt đám tôi tớ dưới quyền mình và khúm núm, hết sức lấy lòng chủ nhân, đó là tài riêng của mụ. Mụ có trăm ngàn cách để bào chữa lỗi minh và cỡ vài chục đứa để mụ đổ lỗi cho, vì mụ luôn miệng nói: "Người đầu bếp chính không bao giờ có lỗi". Suốt ngày, mụ tha hồ khiển trách đứa này, la lối đứa kia, rộng miệng, to tiếng còn hơn cả bà chủ trên nhà, trong cái giang san riêng tại nhà bếp! Tuy nhiên, nếu chỉ xét đến kết quả thì không có chỗ nào chê trách mụ cả, mụ được nể nang nhờ những kết quả rõ ràng ấy. Dù rằng mụ theo đuổi con đường quanh co, lồi lõm.. nhưng vẫn đến đích một cách cừ khôi. Ấy vậy, cứ kiểu đó mụ điều hành bổn phận, những vật mà mụ bày ra trong bếp, ta có thể đếm và kinh ngạc mà thấy có nhiều như số ngày trong một năm! Nhưng hãy cứ yên tâm, mụ có cách chống chế: Có thế chủ nhân mới có được những bữa ăn ngon lành, thịnh soạn mà người khó tính, sành điệu mấy cũng không thể đặt miệng vào chỗ nào để chê bai lấy nửa lời. Túc trực xung quanh dưới quyền Dinad là một số tôi tớ, thuộc hạ của gia đình sang trọng này. Theo lệnh mụ, chúng ngồi la liệt quanh gian bếp, đứa bóc vỏ đậu, đứa gọt khoai tây, đứa nhặt rau, đứa thái hành, xắt thịt.. đứa thì săm soi nhổ những bộ lông láng mướt của chú vịt béo hay chị gà mái tơ! Mụ Dinad dáng bộ thư thả, uy nghi như một vị tướng đang sắp đặt trận đồ, ngồi bệch trên nền nhà, miệng phì phà cái ống píp mà mụ rất ưa thích và luôn luôn lập lòe lửa khói như một cái đỉnh trầm hương. Đừng tưởng mụ ngồi chơi, đó chính là lúc mụ làm việc hăng say hơn ai hết: Với dáng bộ suy tư mà nhàn nhã đó, mụ moi óc tìm ra những món lạ, thức ngon, cống hiến cho thực khách sắp vào bàn lát nữa đây. Đôi khi, bữa ăn dọn trễ hơn thường lệ, nhưng có sao: Ông Clare vốn dễ tính và lỗi đâu ở mụ: Tại bọn tôi tớ dưới quyền kia mà! Để điều chỉnh, sai phái bọn dưới quyền cho hiệu quả, thỉnh thoảng Dinad ngừng thở và hít khói, lấy tay cốc lên đầu đứa này một cái nên thân hoặc la đứa kia về tội lơ là bổn phận, chậm chạp chi đó. Cô Ophélia mở cuộc thanh tra nhà bếp vào giữa một lúc như thế. Tin cô đi thị sát đã mọc cánh bay đến tai mụ trước nhiều giờ, nhưng mụ Dinad chớ đâu phải tay hèn mà lo sợ? Mụ quyết định sẽ cứng rắn đương đầu với cô, chống lại việc này và thề không chịu thay đổi gì cả. Đừng có hòng mà nói chuyện thay đổi, cải cách gì với mụ ta. Ngay bà chủ kia mà còn chưa bao giờ nghĩ đến cải cách nữa là.. Nhà bếp là một căn phòng rộng rãi, nền lát gạch, một lò sưởi lớn kiểu cổ chiếm một góc phòng. Ông chủ cố gắng thuyết phục mụ Dinad trong việc đập phá nó đi để xây một cái lò mà không xong, vì mụ ta nhất định không bằng lòng, và ông.. chịu thua. Với một tinh thần chống đối như thế, mụ Dinad ngồi tỉnh bơ tiếp tục phì phà khói thuốc với vẻ bình thản như không trong lúc cô Ophélia bước chân vào gian bếp. Mụ ngồi yên làm như không biết đến sự hiện diện của cô, như đang bận điều khiển đám thuộc hạ của mình song kỳ thật vẫn liếc xéo, theo dõi hành động con người phá đám, theo ý mụ. Ophélia mở một ngăn tủ, cao giọng hỏi: - Chỗ này đựng gì đây, già Dinad? - Thưa cô, đủ thứ, đựng đủ thứ. Mụ lễ phép giả tạo, bình tĩnh trả lời. Mà đúng như mụ nói, trong đó đựng đủ thứ: Trước hết cô Ophélia thấy một cái khăn trải bàn có hoa sặc sỡ dính đầy máu tươi, chắc là vừa được dùng gói một miếng thịt sống. Giọng cô nghiêm khắc: - Cái gì vậy, Dinad? Tôi nghĩ là bà không đến nỗi bừa bãi dùng khăn bàn đẹp đẽ thế này mà gói thịt chứ? - Chúa ơi! Tôi không còn cái khăn nào khác, trong lúc lật đật quá, tôi dùng tạm rồi sẽ bỏ giặt, có sao đâu, thưa cô. - Khùng thật! Cô Ophélia lẩm bẩm trong miệng, dáng bực tức song vẫn cố nén, tiếp tục việc thanh sát. Trong ngăn tủ thứ hai, cô thấy cái dũa, vài ba hạt đậu khấu, một cuốn thánh ca của giáo phái méthodisme, một cuộn len, một cái áo ấm, một gói thuốc, một cái ống píp, vài tấm giẻ rách bẩn thỉu, những chiếc giày cũ, vài cái pháo, hai lọ sốt vàng ối nhưng không dựng sốt mà đựng pom-mát, một miếng nỉ được đục lỗ tỉ mỉ thì dùng gói mấy củ hành.. rồi khăn ăn hoa hòe lộn trong khăn bàn nhăn nhúm, cặp que đan áo bên cạnh cái bao thư rách nát lòi ra vài cọng hành ngò bốc mùi thơm, có những thứ nồng nặc, hôi hám.. - Chỗ bà dành cất đậu khấu ở đâu, hở bà Dinad? Cô hỏi, giọng của một người hết sức nhẫn nhục. Mụ Dinad đáp tỉnh bơ: - Dạ, cùng hết, chỗ nào cũng được: Trong tủ, trong cái tách nứt. - Tôi thấy bà để chung đậu với cái dũa. Con người ngăn nắp cố gắng để đừng nổi nóng lên. - Dạ, sáng nay tôi để đó cho tiện. Tánh tôi.. tôi ưa để mọi vật vừa tầm tay, cô à! - Hừ, vừa tầm tay, nhưng đừng lộn pom-mắt với sốt chứ.. - Chúa ơi! Tôi bận bịu quá đó, tôi sẽ sắp đặt đâu ra đó trong vài bữa nữa. - Còn khăn bàn thì sao? - Ả, tôi để đó chờ đem bỏ giặt, vài bữa nữa sẽ giặt.. - Bà không có một chỗ nào để dành riêng mà đựng đồ sắp giặt sao? - Có chứ, thưa cô! Ông chủ có sắm cho tôi một cái thùng, nhưng thùng có nắp mà nắp thì nặng trịch, thêm nữa tôi để mấy thứ đồ vật trên nắp, mỗi lần giở ra đậy lại mất công quá đi. - Tại sao không để đồ lặt vặt trên bàn? - Cô Ophélia vẫn ôn tồn, kiên nhẫn. - Dạ, để chớ, mà chật chỗ, cô thấy đó: Ly tách, bát dĩa đầy nhóc bàn.. không còn chỗ trống. - Bà phải rửa hết ly tách, dĩa bát và dọn trống cái bàn. Lần này mụ Dinard nổi tam bành lên, quên cả giữ lễ: - Rửa dọn hết à? Nếu tôi làm theo lời cô thì chừng nào ông chủ mới được dùng bữa trưa đây? Tôi không thể mất thì giờ rửa ba cái đồ quỷ này. Các bà, các cô, nói xin lỗi.. biết gì chuyện nhà bếp? Bà Clare không khi nào chen vô chuyện của tôi hết, thưa cô. - Còn củ hành thì để.. - Ạ! Cái đó là tôi quên, tôi không định bỏ trong đó, tôi tính sấy cho khô đó chứ, thưa cô! - Hành ngò thì gói trong bao thư.. Cô Ophélia nói và lôi túm hành ngò ra, đưa lên. - Thưa cô, tôi nghĩ là cô không nên đụng đến mấy thứ này, cô làm lộn xộn hết ba cái đồ cần dùng của tôi, tôi muốn là, hễ khi cần đến tức thì có sẵn, khỏi mất công tìm.. - Nhưng bà phải nhận thấy bao thư rách chứ? - Dạ, rách càng dễ lấy ra. Giọng Dinad quyết liệt. Ophelia cao giọng: - Bà không thấy là trong ngăn tủ lộn xộn sao? - Có thể.. có thể là tại cô, chính cô làm lộn xộn thêm - Lần này, bà ta chịu xê dịch, đứng lên ngăn tủ - Nếu cô chịu trở lên phòng khách, tôi mới có thể sắp đặt đâu vô đó đàng hoàng, thứ tự. Nói thiệt, tôi không thể làm gì được nếu có các bà làm rộn.. - Dinad, nghe đây: Tôi sẽ sắp đặt thứ tự lại từ trên chí dưới, phải, tôi sẽ đích thân làm lấy. Và từ nay, tôi hy vọng là bà sẽ tiếp tục làm giống y như tôi. Dinad làm như dẫm nhằm tổ kiến lửa, bà ta nhảy nhổm lên: - Á, ý, cô ơi, đây không phải là việc của những người như cô.. Tôi chưa bao giờ thấy quý cô, quý bà làm chuyện này, kể cả bà chủ trước của tôi, bà mẹ của bà Marie và cả bà Marie. Không! Không! Mặc kệ mụ già phản đối, cô Ophélia thoăn thoắt xếp dọn, rửa ráy, bày biện, đâu ra đó, thứ tự, ngăn nắp từ chút một, nhanh nhẹn, mau mắn làm cho mụ Dinad sững sờ, sau khi đi lui, đi tới bằng những bước chân nặng nhọc, bực bõ. Trong vòng hai ba hôm liền, cô Ophélia cải tạo cả nhà, nhưng những cố gắng ấy, trong sự bất hợp tác của đám tôi tớ, giống y như là những cố gắng của Sisyphe hay của dân xứ Danaides, của một con dã tràng xe cát trên bãi hiển. Một hôm vì quá nản lòng, cô than phiền với Saint Clare: - Tôi hết sức cố gắng, nhưng cậu ơi! Tôi có cảm tưởng như không thể nào tái lập trật tự trong nhà này. - Đúng đó, chị ơi! - Tôi chưa bao giờ gặp phải hạng người ngoan cố, hư hỏng, bừa bãi như bọn gia nhân nhà cậu. - Em hoàn toàn đồng ý với chị đó, chị Ophélia. - Cậu sẽ không còn thờ ơ kiểu này nếu cậu đảm nhận công việc của tôi. - Chị thân mến ơi! Chị nên hiểu rõ điều này: Chúng ta - em muốn nói hạng người làm chủ chúng ta đây - được chia làm hai thành phần: Một hạng áp bức và hạng nữa.. bị áp bức. Chúng ta là hạng tốt, ghét sự áp bức, vì vậy chúng ta gặp phải trở ngại. Giữ bọn nô lệ trong nhà, chúng ta phải gánh chịu hậu quả. Thật khó lập được trật tự mà không dùng kỷ luật sắt. Em không thích đánh đập, cho nên em phó mặc mọi việc đến đâu thì đến. Em không nỡ trừng phạt chúng bằng roi đòn, chúng biết rõ điều này nên lợi dụng lòng tốt của em. - Nhưng, thử hỏi cậu, dù sao đi nữa cũng phải có ngăn nắp, giờ giấc đôi chút chứ, có lẽ nào lại tệ đến cái mức như nhà này.. - Ở Vermont miền Bắc, người ta quen kỷ luật khuôn khổ đi rồi, nhưng để làm gì chứ? Như em đây, giờ giấc mà làm chi? Em có bận rộn công việc gì đâu, chị thấy chứ? Vậy thì thứ tự, ngăn nắp, giờ giấc để đi đến đâu? Em có việc gì ngoài việc nằm ườn ra trên trường kỷ, đợi bữa ăn, vậy thì tôi tớ nó có dọn sớm một tí, hay trễ một tí đã làm sao, có hại gì đâu? Mà chị thừa rõ đó: Dinad dọn cho ta những bữa ăn ngon lành không chê vào đâu được. Từ rau cải, thịt, cá cho đến thức ăn tráng miệng, món bánh ngọt, món kem lạnh, ừ, em đồng ý là mụ ta lộn xộn, bừa bãi đấy.. nhưng mà để ý làm chi? Em cam đoan chị cứ tiếp tục xuống bếp ít lâu chắc chị không dám nếm đến các món mụ làm nữa. Chị sẽ không chịu đựng nổi và chị sẽ phát điên cho mà coi. Tốt hơn, chị nên để mặc mụ ta. - Tôi chắc cậu không biết hết mọi sự ở trong bếp, cậu chưa biết mà.. - Sao lại không: Này, cái cây cán bột mụ ta vứt dưới gậm giường, cái dũa nằm trong túi áo lẫn với thuốc lá, mụ ta lau bát dĩa bằng cái khăn bàn ngày hôm qua, nhưng hôm nay thì lau bằng cái áo cũ của mụ chứ gì? Ôi thôi! Em thừa biết, em biết chán ra rồi, nhưng được cái là bữa ăn mụ dọn hoàn hảo, cà phê mụ pha ngon lành. Em, thì xếp hàng mụ vào ngang với các nhà lãnh đạo quốc gia và hàng tướng lãnh tài ba, mụ thành công vượt bực, chị đồng ý chứ? - Còn sự hư hỏng, sự cẩu thả, sự phí phạm? - À! Điều này thì.. cũng không có gì là khó: Hãy từ từ, chầm chậm thi hành biện pháp đề phòng, đừng để ý chi tiết mà nhọc trí; chị cất phăng chìa khóa đi, phương cách của em coi vậy mà hay à! - Cậu Clare, đôi khi tôi thắc mắc: Không hiểu bọn chúng có lương thiện không? Có nên tin tưởng chúng không? Clare cười ngất trước vẻ trang trọng của bà chị: - Thật là quá, quá! Lương thiện! Đòi hỏi chi điều đó? Ta phải làm thế nào đạt được điều mong mỏi này? - Bộ dễ cả lũ không được một đứa tin được hay sao? - Em có nói vậy đâu. Thỉnh thoảng Thượng đế cũng giỡn chơi bằng cách tạo vài tên thật thuần phác, hiền hậu, trung thành chp đến nỗi dù ai ác cảm với dân da đen đến đâu cũng không thể phủ nhận điều này. Nhưng thường thường thì, chị nghĩ xem: Từ thuở lọt lòng mẹ bọn trẻ da màu đã ý thức được rằng chỉ có thể thành công bằng cách gian ngoa, điêu trá. Làm sao để lừa được cha mẹ chúng, chủ nhân chúng và con của chủ chúng, ngay các bọn đồng chúng nữa. Đó, mưu mẹo, gian dối, trở thành thói quen cần thiết, làm sao tránh được? Ta không thể đòi hỏi gì khác ở chúng, mà cũng chớ nên trừng phạt vì tật xấu này. Em cho là vô phương cảm hóa chúng.. A! Người như Tom là một ngoại lệ khó hiểu, một phép lạ hiếm có. - Cậu nói vậy, nghĩa là dân da đen không có lương tâm gì ráo? - Lương tâm? Đó thật không phải là việc em tìm hiểu. Em chỉ biết chúng qua hành động chúng và như thế người ta có thể tin là dân da đen ám dân da trắng như một lũ quỷ dữ trên trái đất này. Có thể trên Thiên đàng mọi sự đổi khác. - Thật khủng khiếp! Đám chủ nhân nô lệ như cậu phải lấy làm xấu hổ chứ! - Em không dám chắc như thế. Ta thuộc về một tập thể tốt lành.. Nhưng chị hãy nhìn từ trên xuống dưới coi, khắp mọi nơi sự việc xảy ra y như nhau. Hạng thấp hèn phải chịu hy sinh cho hạng trên, cả xác lẫn hồn. Bên Anh cũng vậy và trong khi ấy, dân theo Chúa chống lại chúng ta chỉ vì ta làm một việc như họ nhưng với phương pháp khác. - Vậy theo ý cậu, nô lệ có nên được giải phóng chăng? - Em không rõ lắm, có điều chắc chắn là ngày nay sự bất bình đang ngấm ngầm lan tràn khắp mọi nơi trên quả đất. Em nghĩ là không sớm thì muộn, thế thôi. Một sự đảo lộn khủng khiếp. Tai họa sẽ giáng xuống châu Âu, nước Anh và cả trên cả xứ sở này. Mẹ em ngày trước vẫn nói rằng một kỷ nguyên mới sắp đến và nhân loại sẽ thấy uy quyền của Chúa, Chúa dành sự tự do và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Từ khi em còn nhỏ, mẹ em đã dạy em cầu nguyện cho ngày mở đầu kỷ nguyên này. Phần em, đôi khi em cảm thấy những tiếng thở dài, những lời van vỉ, những nỗi uất hận.. tất cả những thứ đó như báo trước những ngày thay đổi.. nhưng ai có thể sống để mà thấy được ngày này? - Cậu Clare, có nhiều lúc tôi tưởng như cậu không phải là người vô thần, bất kính. Cậu có tâm hồn. Cậu.. Bà chị nói, mắt nhìn em ái ngại. - Cảm ơn chị về ý nghĩ tốt cho em. Em thì như vừa ở Thiên đàng vừa ở Địa ngục. Trên lý thuyết, em đang đứng ngang trước cổng nước Trời, song trong thực hành em lại gần cát bụi. Mà thôi, bữa ăn sắp xong kìa, em hy vọng là chị không còn cho rằng em chỉ biết nói chuyện nhảm thôi, ít nhất, em cũng có thể nói chuyện đứng đắn một lần, phải không, hở chị? ° ° ° Trong bữa ăn, Marie phàn nàn là bà không chịu được khi thấy bọn da đen ăn uống vồ vập, ngốn ngấu như thể bị bỏ đói lâu ngày. - Có lẽ do những cùng khổ thiếu thốn lâu ngày khiến chúng khó lòng bỏ được thói xấu, chắc cần phải có biện pháp nghiêm khắc mới chế ngự nổi chúng. Tôi còn nhớ lúc trước cha tôi có một tên nô lệ lười biếng lạ lùng, gã luôn luôn tìm mọi cách để trốn việc, bỏ đi lang thang trên đồng cỏ, ăn cắp và phạm đủ tật xấu. Có khi bị bắt và bị đánh đập. Rồi chỉ ít lâu sau lại y như cũ, không sao hoán cải. Sau cùng, gã bỏ đi lần nữa, cho đến nỗi kiệt súc chết đi. Mà ở nhà cha tôi gã đâu có bị hành hạ, cha tôi đối xử với nô lệ rất tốt. Thật khó hiểu. - Có một lần, tôi làm thay đổi được tên da đen mà tất cả mọi người đều tỏ ra tuyệt vọng về hắn. Clare nói. Marie hăm hở bảo chồng: - Em muốn biết anh chế ngự hắn cách nào, em tò mò muốn biết anh làm sao mà.. - Đó là một tên vạm vỡ, có sức manh vô song mà cũng bất trị nhất. Không ai trị hắn nổi, họ chuyển nhượng hắn từ tay người chủ này sang tay người chủ khác. Sau hắn thuộc quyền anh Alfred của tôi. Anh mua hắn với hy vọng là sửa trị nổi hắn. Ai ngờ, hắn hạ gục người canh gác và bỏ trốn. Gặp lúc tôi đến thăm anh tôi. Anh ấy đang tức giận tột độ. Tôi thì cho là lỗi ở anh ấy và tôi bằng lòng dự vào cuộc săn đuổi tên nô lệ làm loạn này. Người ta đồng ý là nếu tôi bắt được hắn, hắn sẽ thuộc quyền tôi và đồng ý để tôi chế ngự hắn theo phương cách riêng của tôi. Bọn người đi săn hắn gồm bảy hay tám người chi đó, có súng ống đầy đủ và cả.. chó săn. Coi bộ mọi người hăng hái trong cuộc săn này cũng như đi săn nai vậy đó, có lẽ do thói quen. Phần tôi, tôi cảm thấy bị khích động đôi chút, dù tôi là người ngoại cuộc, tôi nghĩ đến trong trường hợp họ giết chết tên này.. Ông Clare ngừng lại một giây trong lúc vợ ông và Eva có vẻ nôn nóng: - Chúng tôi thúc ngựa phi nhanh, đàn chó thì sủa vang trời. Chúng tôi đuổi kịp hắn, hắn vừa chạy vừa nhảy như một con mang, chúng tôi rượt theo thật mệt lử mới thu ngắn được khoảng cách. Sau cùng, hắn ngừng lại bên một bụi mía rậm rạp, quay người đối mặt với chúng tôi. Tôi phải công nhận là hắn rất can đảm, mình hắn, hắn hạ gục hai ba con chó với hai nắm tay không, mỗi con nằm lăn lộn một bên Thế rồi, một phát súng nổ làm hắn gục xuống, mình mẩy đầy máu, hắn lê đến bên chân tôi. Cái nhìn của hắn vừa tuyệt vọng vừa bất khuất. Tôi không thể nào để mặc cho đám chó và người xông vào xâu xé hắn nên đứng ra ngăn họ lại. Tôi phải cố hết sức mới thuyết phục được những người đang say máu một hai đòi giết hắn ngay lúc đó. Tôi thân hành đưa hắn ra đến chợ và cuối cùng tôi mua hắn khỏi tay chủ cũ: Anh Alfred. Tôi đưa hắn về nhà tôi. Trong vòng nửa tháng sau, tôi đã biến hắn thành một người khác, hắn ngoan và hiền hơn một con cừu non. - Anh làm sao? Marie kêu lên. - Thật giản dị: Anh cho hắn ở trong phòng anh, nằm trên giường anh, anh tự tay băng bó vết thương của hắn, anh đích thân săn sóc hắn cho kỳ đến khi hắn hoàn toàn bình phục. Sau đó anh giải phóng hắn, anh bảo hắn có thể đi đâu tùy ý, anh không ngăn cản. - Thế hắn nói sao? Hắn có đi không? Cô Ophélia hỏi. - Không! Tên cứng cổ bất trị ấy xé đôi tờ giấy và từ chối ra đi. Kể từ đấy tôi có một tên nô lệ đặc biệt: Trung thành, siêng năng, lúc nào cũng một lòng với chủ hơn cả một con nghĩa khuyển. Sau đó, hắn trở lại đạo và thuần nết như một đứa trẻ. Hắn có phận sự trông nom khu vườn của tôi bên bờ hồ. Hắn chu toàn bổn phận đến mức tối đa, tôi chưa bao giờ thấy có gì trách hắn được. Ông tiếp: - Nhưng hắn đã chết vì bệnh đậu mùa, nguyên thế này: Tôi vướng chứng ngặt nghèo này, thật là một điều đáng sợ - mọi người đều bỏ rơi tôi. Hắn thì không. Một mình Scipion - tên hắn - săn sóc tôi tận tình, có thể nói hắn giật tôi khôi thần chết, sự cố gắng phi thường đó đã cứu sống tôi nhưng than ơi: Hắn bị lây bệnh và không ai cứu hắn được. Tôi chưa bao giờ thấy tiếc thương một nô lệ như thương tiếc hắn. Eva càng lúc càng cảm động, em ngồi sát cạnh cha hơn, đôi môi hé mở, mắt long lanh rực sáng và khuôn mặt em ửng hồng lên. Khi cha em dứt lời em vòng tay quanh cổ cha, ràn rụa nước mắt, nức lên khóc. - Coi kìa! Con yêu của ba! Con làm sao vậy? Đáng lẽ ba không kể chuyện này cho con biết. Con nhạy cảm quá. Người cha hôn con âu yếm, khi thấy con run rẩy, ôm mình. - Không đâu, ba ơi! Con không nhạy cảm đâu, ba đừng lo.. Em nói, cố làm ra vẻ cứng rắn như một người lớn: - Con không có xúc động bậy bạ đâu, nhưng những chuyện như thế làm con đau nhói trong lòng. - Con nói gì vậy, ý con muốn nói gì? - Thưa, ba con không biết nói sao cho ba hiểu. Con thường nghĩ đến nhiều điều.. Có một ngày kia, con sẽ kể cho ba biết rõ, con sẽ nói cho ba nghe con nghĩ gì. - Con cứ suy nghĩ, ba không ngăn con, miễn là đừng khóc và làm ba buồn, thế thôi. Này, nhìn coi: Trái đào xinh ghê chưa, ba hái cho con đấy! Eva tươi cười đón trái đào nhưng trên mặt em còn phảng phất nét buồn vướng lại. - Ra đây với ba! Ba chỉ cho con coi bầy cá đỏ đẹp lắm! Người cha nói và nắm tay con, dắt ra sân. Chỉ lát sau, người ta nghe tiếng hai cha con ông cười ròn rã, Eva ngắt bông hồng ném cha và hai cha con rượt đuổi nhau chạy khắp vườn. ° ° ° Nơi bác Tom ở là một căn phòng nhỏ bé nằm bên canh chuồng ngựa. Căn phòng rất ngăn nắp, sạch sẽ, bên trong có một cái giường, một cái ghế, một cái bàn nhỏ bằng gỗ tạp; trên bàn người ta thấy cuốn Thánh kinh và tập Thánh ca của Tom. Lúc này vào giờ rảnh rỗi, nên Tom đang ngồi trước bàn, chăm chỉ để làm việc riêng của mình, một công việc trọng đại nhất: Viết thư cho vợ con mình. Công việc viết lách phiền toái khó khăn còn hơn hồi bác ở nhà ông Shelby tập viết rất nhiều. Thật dễ hiểu: Lúc đó bác chỉ cố đọc và viết thông thạo để thoát khỏi tình trạng mù chữ, để có thể đọc Thánh kinh và vừa lòng cậu chủ nhỏ tốt bụng; còn giờ đây là bác vận dụng hết khả năng văn hóa của mình để truyền đạt tới những người thân yêu nhất tại Kentucky - mà bác biết đang ngày ngóng đêm trông - những cảm nghĩ, những ước muốn tha thiết nhất của mình, cũng như hỏi thăm sức khỏe mọi người, kể cả ông bà chủ đã bán bác đi vì thế kẹt và cậu Georges. Thật ra, bác Tom nghĩ đến chuyện viết thư đã khá lâu, cho đến một hôm sự nhớ nhung dày vò bác tới mức không chịu nổi, bác đánh bạo hỏi Eva xin một tờ giấy viết thư. Và giờ đây là lúc con người đáng thương đó tập trung hết cố gắng, đem hết cái vốn liếng học hỏi thu thập từ khi còn ở Kentucky ra thực hành, hướng đến cái mục đích chính đáng đã khiến bác do dự, đã nghiền ngẫm ngày đêm. Trước tiên, bác viết nháp trên tấm bảng. Chao ôi! Bác vấp phải một trở ngại khá lớn. Lâu quá không có dịp gần gũi đèn sách, bác quên mất đi nhiều nguyên âm, quên cả các phụ âm. Tuy nhiên, bác đâu dễ nản lòng? Bác cặm cụi, cố gắng một cách cực nhọc, khó khăn, nom thật đáng thương. Thình lình, bác giật mình ngẩng lên vì cô bé Eva, vị thiên thần bé nhỏ kính yêu của bác bước vào lúc nào bác không hay biết, đang đứng cạnh bác và nhìn xuyên qua vai bác, lên tiếng hỏi: - Ủa, bác Tom, bác làm gì đó, bác viết cái gì? - Tôi đang viết thư đó cô Eva, tôi viết thư cho vợ tôi và lũ con tôi. Tội nghiệp, cả nhà đang đợi tin tôi, đợi từng giờ, từng ngày.. - Cháu giúp bác được à: Cháu có học mà, cháu đã thuộc làu tất cả các chữ từ hồi năm ngoái.. Chà, nhưng cháu cũng hơi ngán: Cháu có thể quên vài chữ chớ chẳng không. Tom lấy làm sung sướng vì sự sốt sắng của cô chủ nhỏ dễ thương. Thế là hai người, một già một trẻ, tụm lại bên nhau: Mái tóc vàng óng ả nhỏ nhắn của Eva và mái tóc đen, to lớn của người nô lộ. Cả hai có trình độ xuýt xoắt nhau, không xê xích mấy, dù rằng cô bé thừa thiện chí sẵn sàng giúp đỡ người lão bộc mà cô thương mến nhiều nhất so với đám nô lệ trong nhà cô. Hai bên cùng hợp lực, suy nghĩ, nắn nót, gò gẫm một lát, tuy không dễ dàng chút nào nhưng rồi công việc cũng hoàn thành, Eva sung sướng ngắm nghía kỳ công và cất tiếng khen: - Bác Tom nhìn coi: Đẹp ghê há? Cháu tin là vợ bác sẽ mừng ghê gớm và con bác cũng vậy. Tội nghiệp quá! Để rồi cháu sẽ xin ba cháu, sau một thời gian nữa, trả bác về với gia đình. Cháu muốn vậy. - Cảm ơn cô Eva! Cảm ơn lòng tốt của cô lắm. Bà chủ của tôi hứa là sẽ chuộc lại tôi ngay khi bà có thể. Con trai bà, cậu Georges cũng nói cậu sẽ tìm đến tận nơi tôi ở, một ngày kia. Cô Eva xem này: Cậu ấy cho tôi đồng vàng này, chính tay cậu đục lỗ, xâu dây và đeo vào cổ tôi, coi như bảo đảm.. Bác nói và rút đồng vàng ra khỏi ngực đưa cho Eva thấy. Eva cũng tỏ ra tin tưởng như bác nô lệ: - Thế thì cậu ấy sẽ đến. Cháu tin chắc.. - Tôi phải viết thư cho họ, cô thấy không? Đặng mọi người biết tôi đang mạnh giỏi thế nào, ở đâu. Tội nghiệp vợ tôi, bà ấy vẫn lo lắng cho tôi từng chút. - Ê! Tom! Làm gì vậy? Hai người làm gì vậy hả? Ba của Eva hỏi trong khi chân ông đặt ở cửa phòng, đưa mắt nhìn vào. Tom và Eva cùng ngẩng đầu lên một lượt: - Thưa ông chủ, chúng tôi, cô Eva và tôi đang thảo một lá thư, thưa có được không, thưa ông? Viết gửi về Kentucky đó, thưa ông.. - Tôi không muốn làm các bạn nản lòng đâu, việc này đáng khuyến khích nhưng.. Ông chủ Clare ngừìig lại một chút, giọng ôn tồn: - Tốt hơn hết, tôi sẽ viết lại giùm cho rõ ràng, sau khi tôi đi công chuyện đằng này một lát. - Ồ, thưa ba, vậy thì hay lắm. Lá thư này quan trọng lắm, ba ơi! Bởi vì ba biết không? Bà chủ cũ của bác ấy hứa sẽ kiếm tiền chuộc bác về.. - Ba biết, ba biết, ba hiểu lắm mà. Để chốc về ba sẽ viết cho. Miệng nói thế, vì tốt bụng không muốn Tom mất tin tưởng ở chủ cũ, song ông nghĩ hơi khác: Ông không nghi ngờ thiện chí của bà chủ xa lạ ở Kentucky, nhưng ông đoán rằng đó chỉ là lời hứa của một người tốt bụng, thốt ra cốt để an ủi, xoa dịu nỗi khổ tâm của tên nô lệ bị bán đi. Dù sao để Tom tin tưởng vẫn hơn là làm cho bác thất vọng. Saint Clare sai Tom đi thắng ngựa cho mình. Ngay chiều đó, khi vừa về đến nhà thì việc đầu tiên của ông là viết lại lá thư Tom cho đàng hoàng, và Tom rất yên lòng vì thư được phong lại, bỏ vào thùng trước mắt mình.
Chương 16 Bấm để xem Một buổi sáng đang bận những công việc như ta đã biết thì cô Ophélia bỗng nghe tiếng ông em trai reo lên, vui vẻ dưới chân cầu thang: - Chị ơi! Xuống đây mà coi này! Có chuyện hay lắm, chị ơi! - Cái gì đó, cậu? Miệng hỏi, chân đi xuống thang lầu, và vì cô là một người không bao giờ chịu ngồi không cho nên cô mang theo cả que đan và len. Clare cười rất tươi: - Em tặng chị một món quà.. hiếm có! Nói xong, ông đẩy tới trước mặt chị một đứa trẻ da đen cỡ lên tám hay chín tuổi chi đó. Con bé quả thật là đen, đen bóng, từ ngọn tóc đến ngón chân. Đôi mắt to, sáng quắc như hai hạt thủy tinh nhìn láo liên khắp xung quanh. Nó há hốc miệng ra khi nhìn thấy những đồ vật xinh đẹp sang trọng bày biện trong phòng khách lớn của gia đình này, để lộ hàm răng trắng nổi bật. Tóc nó xoăn tít, cuốn thành nhiều lọn nhỏ, bù xù bao quanh đầu. Khuôn mặt nhỏ bé choắt lại, vừa có nét sắc sảo, ma mãnh lại vừa nghiêm trang buồn bã. Còn áo quần nó.. Người ta có thể gọi đó là áo quần không, khi mà chỉ là một mớ giẻ rách chằm nhíu lại, vá víu lung tung che từ ngang vai xuống tới gối. Nó đứng yên, hai tay vòng trước ngực, nhưng con ngươi nó lộ ra một sự hiếu động khác thường, nó không có vẻ nhu mì của một đứa con gái mà toát ra một vẻ gì rất.. con trai.. rất du côn. Tóm tắt lại thì nó là một đứa hình dung cổ quái, tướng mạo lạ lùng. Cô Ophélia chưa từng trông thấy một đứa bé gái nào giống như nó, nên cô quay lại em trái, vẻ mặt cau có, hỏi ông ta: - Hết chuyện đùa rồi chắc, sau cậu lại rước nó về đây làm chi vậy, cậu Clare? Ông em trai cười - cũng nụ cười như lúc đầu - nói với chị mình: - Coi! Em tính đem nó về cho chị giáo dục nó, theo quan điểm tốt lành của chị chớ để chi. Em tin rằng con bé này đúng là điển hình của dân tộc da đen, chưa được khai hóa. Nó như mảnh đất hoang mà chị, chị sẽ là nhát cuốc khai phá đầu tiên. Chắc chị thích lắm? Công việc có vẻ hợp với người tín đồ ngoan đạo! - Ông huýt sáo, đoạn búng tay đánh tróc một cái, gọi con bé như lối người ta gọi con chó trong nhà, đoạn bảo nó: - Hát lên một bài cho ta nghe đi! Mày cũng biết múa nữa phải không? Múa đi xem! Đôi mắt buồn rầu của con bé sáng lên một cách thích thú, lém lỉnh, rồi nó vâng lời, cất giọng hát một khúc hát quen thuộc của dân da đen. Giọng nó sắc và thân mình nó uốn éo, nó nhịp tay, dợm chân, nhảy múa, trình bày một điệu múa kỳ lạ, man rợ. Chốc chốc, nó đổi giọng khàn khàn rồi nhào lộn tiếp hai ba bận, cuối cùng nó rú lên như một cái đầu mấy tàu hỏa và ngồi xuống sàn nhà, chắp tay lại với nhau, mặt nó trở lại lầm lì, bướng bỉnh y như cũ. Song trong cái nhìn của nó có vẻ gian dối không sao che giấu nổi. Ophélia kinh ngạc đến lặng người đi, nhưng ông Clare thì có vẻ hài lòng, giọng ông tinh quái: - Đây là cô giáo mới của mày. Ta giao mày cho cô ấy đó nghe! Phải vâng lời cô, nghe chưa! - Thưa ông, vâng! Con bé nói với giọng lễ phép song ánh mắt nó thì khác hẳn. Clare nhắc lại: - Phải tỏ ra là học trò ngoan, nghe chưa? Topsy. - Thưa ông, vâng! Topsy lại tỏ ra lễ phép một cách giả tạo trả lời, hai tay khoanh trước ngực. Ophélia bấy giờ mới phàn nàn: - Này, cậu Clare, cậu làm vậy có nghĩa gì đây? Nhà này há không đầy nhóc thứ yêu quái này rồi sao? Cậu thấy chứ: Mỗi sáng thức giấc, vừa mở mắt là tôi thấy một đứa bé da đen ngủ trước cửa phòng. Dưới gầm bàn một cái đầu đen nhũi. Rồi trên cầu thang một đứa, giữa lối đi một đứa nữa. Chúng đông gần bằng kiến, suốt ngày la hét, đùa giỡn, leo trèo, vật lộn cùng khắp. Chưa chán sao mà còn đem về thêm một đứa để làm chi? - Thì em đã nói rồi: Để chị giáo dục theo chiều hướng tốt đẹp của chị. Chị cứ thử đi! - Cậu không cần phải nói khích tôi làm gì. Tôi đã làm nhiều việc khó hơn. Nhưng cậu coi tôi có rảnh không chứ? - Coi, tín đồ ngoan đạo mà nói vậy, nghe sao cho xuôi tai? Chị thấy công việc các giáo sĩ không? Có vị đã đem về hàng chục đứa như con Topsy này, chịu khó săn sóc từng ly từng tí, dạy dỗ, kiên nhẫn đủ thứ.. - Cậu so sánh kỳ cục, cái đó là việc của các Thánh Tông đồ, tôi làm sao bì với các ngài được, các ngài hy sinh đến mức tối đa. Nhà này, với ngần ấy đứa đã đủ mệt cho tôi rồi, cậu biết mà. Clare bỏ hết vẻ mặt bỡn cợt: - Em xin lỗi chị, thật tình em không có ý muốn trêu chọc chị hay làm mệt chị thêm đâu. Số là con bé Topsy này ở với một cặp vợ chồng bán quán nghèo nàn, họ hay say rượu, ngày nào em có dịp đi ngang là y như nghe tiếng họ chửi bới hay đánh đập nó, họ rượt nó ra tận ngoài dường. Em chịu không nổi. Em muốn giải thoát nó khỏi cảnh khổ sở đó nên đã mua nó về và em hy vọng chị sẽ giáo dục nó nên người. Em thì em không làm gì hơn được, nhưng chị.. Trong lúc ông Clare nói, cô Ophélia quan sát kỹ con bé và cô không khỏi động lòng trắc ẩn, cái nhìn cô dịu dàng hơn. Thật cô không sao tưởng tượng được có người cùng khổ đến mức này. - Tôi sẽ cố gắng, xem sao. Cậu coi, nó bẩn thỉu quá sức và gần như trần truồng.. Vừa nói, cô vừa lại gần nó thận trọng, dè dặt như người ta đến gần một con nhện đen. - Thì đem nó xuống dưới nhà, bảo bọn kia xát xà phòng tắm rửa cho sạch và cho nó áo quần tử tế vào. Cô Ophélia công nhận đó là điều đầu tiên phải làm, cô đưa con bé vào bếp. Mụ Dinad nhìn con bé bằng đôi mắt miệt thị: - Chà, tôi mong là con quỷ nhỏ này không làm quẩn chân tôi, tôi mệt quá đi rồi! Jane và Rosa thì tỏ vẻ kinh tởm, Rosa khỉnh khỉnh nói: - Khéo làm bận thêm trong nhà. Không biết ông chủ nghĩ sao mà đem cái thứ da đen dơ đáy về đây.. Mụ Dinad nguýt Rosa một cái, giọng kẻ cả: - Chê đen hở? Còn mày thì gì đó? Mày xuất thân từ gia đình da trắng chắc? Thôi, đừng có làm bộ Rosa ơi! Mày coi kỹ lại, mày rờ sau ót mày coi! Mụ nói mỉa thế là vì cô gái này vốn là một nô lệ lai hai màu da. Riêng cô Ophélia trông thấy thái độ của bọn gia nhân là cô đủ chán, cô không muốn sai họ tắm rửa cho con bé nữa. Cùng một nguồn gốc, song cả bọn làm như họ là thứ quý tộc da trắng trước con bé khốn khổ đen đủi này, như họ có quyền khinh bỉ nó, hất hủi nó mà không chút áy náy, ngượng ngùng. Rõ ràng là không đứa nào muốn dịch chân. Vì vậy mặc dù không tránh khỏi ghê tởm con bé, cô thân hành tắm rửa cho nó. Một người cương quyết như cô, không bao giờ vì một trở ngại nhỏ mà lùi lại hay bỏ dở công việc, mặc dù là vừa tắm rửa, kỳ cọ cho nó cô vừa cố gắng hết sức để khỏi nôn ọe vì mùi hôi hám từ thân hình gớm ghiếc đó tỏa ra. Và rồi, những lằn roi ngang dọc, thâm tím, có vết còn rớm máu, có vết đã chai thành sẹo chằng chịt trên lưng và khắp thân thể nó làm cho con người sắt đá ấy phải xót thương. Nhưng Jane thì không, chị ả chỉ những vết bầm đó nói với giọng hiểu biết: - Cô thấy chưa? Tôi đã nói con nhỏ này là con quỷ cái mà. Tôi thấy là biết liền, ông mua nó uổng tiền mà. Nó khó trị lắm đa! Để rồi coi! Topsy nghe những lời mạt sát đó với vẻ buồn rầu, trang nghiêm nhưng đôi mắt thì chăm chú nhìn vào đôi hoa tai lủng lẳng trên tai Jane. Khi được thay áo quần tử tế, lành lặn và cắt tóc xong, trông nó cũng khá, không đến nỗi nào. Ophélia ngồi trầm ngâm nhìn nó, phác họa trong trí chương trình giáo dục của mình. Cô hỏi nó: - Topsy, em mấy tuổi? - Thưa cô, em không biết. Giọng nó có vẻ hài hước, hai hàm răng trắng nhỡn bày ra. - Sao em lại không biết em mấy tuổi? Không ai nói cho em biết hay sao? Mẹ em đâu? Mẹ em là ai? - Ý, em đâu có mẹ. Nó lại cười, vẻ như trêu chọc người đối diện. - Vậy chớ ai sinh ra em? - Đâu có ai sinh em ra? Nếu là một người nhút nhát chắc đã chán rồi, song cô Ophélia thì không. Cô rất tự tin, cô vạch ra một con đường và cô đi cho kỳ đến đích. Cô nghiêm nghị bảo Topsy: - Không phải là chuyện cợt đùa đâu, em phải trả lời câu tôi hỏi: Em con ai, ở đâu, cha mẹ làm gì.. - Em đã nói rồi, em không có cha có mẹ gì hết. Có một người buôn bán nuôi em với nhiều đứa nữa, vậy thôi. Nó có vẻ thật thả khi trả lời câu hỏi. Jane chen vào: - Đúng đó cô, tụi lái buôn mua lũ quỷ này khi còn nhỏ xíu, nuôi lơn lớn rồi bán lại, bắn thật mắc nghe cô! - Em sống với người chủ đó bao lâu? - Dạ không biết! - Trả lời tử tế đi, Topsy! Một năm hay nhiều hơn, ít hơn? - Không biết mà! - Em có nghe nói về Đức Chúa Trời không? - Dạ không. - Em biết ai tạo ra em không? - Dạ không, em chắc không ai hết. Nó lại cười rộ lên như có gì thích thú lắm vậy. Ophélia nghĩ là nên đặt câu hỏi khác: - Em biết may vá chi không? - Dạ, không. - Vậy em biết làm gì? Em làm gì khi ở với chủ cũ? - Em biết xách nước, rửa bát đĩa, mài dao, làm chuyện gì họ biểu. - Người ta có tử tế với em không? Con bé lần này hơi ngập ngừng: - Dạ.. dạ tử tế. Ophélia chăm chú trong câu chuyện dễ nản lòng này. Ông Clare tựa lưng vào ghế từ nãy, quan sát, chen vô: - Đúng như em nói từ lúc đầu: Nó là một mảnh đất mới, chị hãy gieo lên đó hạt giống lành đi! Những người như cô Ophélia tự coi mình có bổn phận gieo rắc ánh sáng cho những kẻ tối tăm, đưa họ lên khỏi vũng bùn của sự dốt nát, giáo dục cho ra con người.. Cô không thể coi việc này như một thí nghiệm như trò đùa kiểu ông em Clare được. Cô tự thấy không phải cô chỉ dạy nó khuôn phép bề ngoài mà phải cải tạo tư tưởng nó, làm sao cho nó nên ngoan nên tốt. Dĩ nhiên trong đó có cả việc tập đọc, tập viết, tập cho nó có lòng tin về Đấng Tối cao, hiểu biết và phân biệt thiện ác, tốt xấu v. V.. Phải, đó là công việc khó khăn, nhưng con người cương nghị ấy không dễ nản lòng. ° ° ° Ophélia đưa Topsy vào phòng mình và từ đó nó thuộc về cô, quanh quẩn trong khu vực riêng biệt của cô, vì cô không thể nào để nó lẫn lộn với đám tôi tớ kiêu ngạo, ích kỷ nhà dưới được. Cô tập nó trải ra giường, thay bao gối, quét dọn lau chùi. Thật ra nếu không kiên nhẫn, thì chắc cô tự làm lấy còn khỏe hơn nhiều. Song cô đã tự hứa là huấn luyện nó thành thục nên cô phải cố gắng chịu đựng nó. Chịu đựng! Quả thật không ngoa. Vì là nó không phải ngu ngốc mà trái lại rất ma mãnh. Nó có thể hoàn thành công việc nếu nó thấy thích làm, còn không thì, ôi thôi, khó mà lay chuyển nó. Nó lại hay phá phách hơn con khỉ, lanh lẹ hơn con sóc nhỏ, quỷ quyệt như loài cáo, nham hiểm hơn loài mèo! Thật quả là bất trị. Nó muốn thì ăn cắp ngay, mà rất tài tành, không sao thấy được. Một hôm, nó ăn cắp đôi găng tay của cô và cái ruy băng cột tóc cho vào tay áo rồi khoanh tay trước ngực, dáng bộ như một học trò ngoan. Nhưng rủi cho nó: Trong khi cử động tay để trải ra giường, nó làm hai món ăn cắp tuột ra. Cô Ophélia rầy nó: - Tại sao em lại ăn cắp của cô? Mà lấy làm gì hai thứ này? Nó nhìn hai tang vật với cặp mắt ngờ nghệch chối biến: - Dạ, em đâu có ăn cấp, tự nhiên mà nó.. Trước cặp mắt nghiêm khắc của Ophélia, nó không nói được gì nữa để chạy tội, nhưng nó làm cái vẻ mặt thật ngây thơ vô tội làm cô tức muốn điên lên. Nếu không thấy tận mắt, không ai tin nó gian được. - Em có biết nói dối là có tội không? - Dạ, em đâu có nói dối? Tự nhiên nó dính vô tay áo em đó, cô ơi! Ophélia dọa: - Nếu em còn tiếp tục gian dối, tôi phải đánh đòn em. Cô ngỡ nó sẽ tỏ ra sợ hãi, nào ngờ trước sự kinh ngạc của cô, nó nói trơn tru một cách tự nhiên: - Dạ, cô phải đánh em mới được. Một hôm cô có việc đi vắng nhà, nó lấy khăn quàng cổ của cô choàng vào, đứng trước gương soi mặt, nhăn nhó, múa may làm đủ trò. Cứ mỗi lần như vậy, bị la rầy, dẫn dụ, dỗ dành hay mắng nhiếc xong, nó cũng tỏ vẻ hối hận chút đỉnh, nhưng không bao lâu lại trở về thói cũ. Cô Ophelia bảo nó: - Em phải tỏ ra ngay thẳng. Còn gì nữa kể hết ra, thú tội đi, cô sẽ tha em. Em còn lấy cái gì của ai nữa không? Ngày hôm qua, em chạy rong cả ngày. Nói thật hết đi, em đã làm gì. Phải thú nhận.. - Thưa cô, em lấy chuỗi ngọc đo đỏ của cô Eva.. - Trời ơi, chuỗi hồng ngọc cùa cháu Eva? Còn gì nữa? - Dạ, với lại đôi hoa tai của chị Rosa.. - Em để hai thứ đó đâu, đem hết lại đây cho cô ngay, mau lên! - Dạ, còn đâu mà đưa, thưa cô? Em đốt sạch trơn rồi. - Lại nói dối, em muốn bị đòn sao chứ? Cứ nhì nhằng như thế hồi lâu, cô Ophélia tra gạn gì nó cũng cứ một mực rằng đã đốt tuốt hai món nữ trang của Rosa và Eva. - Tại sao em lấy của người ta mà đốt đi.. - Dạ, tại em ghét mấy cái đó, em ưng đốt đi.. Thình linh, Eva xuất hiện, chuỗi hồng ngọc nằm ngay ngắn trên cổ. Cô Ophélia ngạc nhiên quá: - Eva, chuỗi hồng ngọc cháu tìm đâu ra đó? - Dạ, thưa cô có tìm gì đâu? Cháu đeo cả ngày, đêm qua cháu quên tháo ra trong lúc ngủ. - Ủa, chứ không phải cháu bị mất hôm qua sao? - Thưa cô, làm sao mất được.. Cô Ophélia đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khắc khi Rosa đội giỏ áo quần ủi xong bước tới: Đôi hoa tai vẫn lủng lẳng trên tai ả ta. Cô quay sang Topsy: - Này, tại sao em lại tự nhận đã ăn cắp hai thứ đó chi vậy? - Dạ, thì cô biểu em thú nhận hết đi, em phải thú nhận chớ sao giờ? Nó nói tỉnh bơ, nhe răng trắng nhỡn làm cô Ophélia không biết dùng lời lẽ ra sao để mà răn dạy, dùng phương pháp nào mà trừng phạt. - Nghe đây: Em nên thật thà, cái gì có thì nói có, không thì nói không. Không lấy mà nói có lấy, đó cũng là dối láo, hiểu chưa? - Ủa, vậy cũng là dối láo, cũng có tội hở cô? Rosa hằn học: - Tôi mà có quyền, tôi quất cho tóe máu ra, thứ đổ quỷ ranh! Eva tỏ ra nghiêm khắc - em vốn dịu dàng, tử tế và không bao giờ dùng quyền chủ nhân với mọi người - với Rosa: - Chị Rosa, chị đừng ác như thế. Tồi không muốn nghe chị nói thế đâu. - Thưa cô, cô tốt quá không được. Tụi da đen ghê gớm lắm, phải trừng trị thẳng tay. Phải đánh đòn những đứa như con nhỏ này mới xong.. - Thôi, tôi đã nói là chị đừng có độc ác mà! Chị đừng bàn đến chuyện này, đâu phải là phần việc của chị? - Eva giống ông chủ, cô hiền lắm. Với ai cô cũng tốt hết. Rosa vừa nói vừa rút lui. Eva nhìn Topsy bằng đôi mắt dịu dàng: - Tội nghiệp chị! Chị ăn cắp làm chi, nói dối làm chi. Ở đây không ai xử ác với chị đâu. Chị cần gì, em sẽ cho chị, đừng ăn cắp, chị Topsy à! Lần thứ nhất trong cuộc đời khốn khổ, cực nhục, con bé này nghe một câu nói dịu dàng và cái nhìn bao dung làm nó xúc động sâu xa, nó rơm rớm nước mắt, nhưng liền đó nó chai lỳ lại ngay. Nó ngỡ là có thể, người ta trêu chọc nó, chứ không ai thương được nó, một đứa trẻ da đen, không cha, không mẹ, hạ tiện, thấp hèn. Có lần cô Ophélia nhốt Topsy vào căn phòng tối. Cô phân bua với Clace; vì cô biết ông ghét lối giáo dục này: - Tôi không thể làm khác hơn, cậu phải biết.. - Chị cứ tự nhiên làm theo ý chị, miễn đi đến đích. Em không có ý kiến gì hết. Em đã từng thấy họ đánh nó bằng cái xẻng, mà không chỉ với cái xẻng đâu: Tất cả cái gì vừa tầm tay họ, quơ gì đập nấy như đánh súc vật chứ không phải con người. Ông ta ngừng lại giây lát, đổi thế ngồi cho thoải mái, tiếp: - Nhưng rồi mọi sự có đi đến đâu không? Sự ngược đãi của chủ nhân đối với nô lệ đôi khi cũng đăng lên cả trên mặt báo. Mà hễ chủ càng ngày càng ác, càng tệ thì nô lệ càng ngày càng bướng bỉnh, cứng cổ thêm, chủ lại càng khắc nghiệt thêm. Y như nha phiến với người nghiện nó: Càng ngày càng phải tăng số lượng lên mà độ cảm nhạy giảm dần đi. Tôi biết rõ điều này, thật là cái vòng lẩn quẩn. Tôi, ít nhất về phần tôi, tôi không chấp nhận bạo lực, và như vậy, than ơi, nô lệ của tôi lại đâm ra nhác nhờn, bừa bãi. Thôi, giờ đến phiên chị, chị thử giáo dục con bé này theo phương cách của chị đi! - Cảm ơn cậu, tôi sẽ cố gắng xem sao! ° ° ° Khi cô Ophélia dạy Topsy học, nó tỏ ra tiến bộ khác thường, chỉ ít lâu là nó đọc trôi chảy. Nhưng khi học may vá thì khó khăn hơn: Nó không muốn ngồi yên một chỗ với cái công việc tỉ mỉ, kiên nhẫn ấy. Nó lén cô bẻ gãy kim hoặc vứt ra cửa sổ, hay nhét vào khe hở ở tường. Nó bứt đứt chỉ, làm rối tung lên, hay giấu biến cả chỉ lẫn kim. Nó lanh như một tay làm ảo thuật và rồi làm bộ hiền lành không ai ngờ được. Phải công nhận là nó quỷ quyệt hết chỗ chê: Nó bắt chước ai cũng giống hết, nó nhảy múa, leo trèo, quay vòng tròn, huýt sáo, bắt chước tiếng kêu và bất cứ tiếng động gì. Lũ trẻ con đi theo sau nó vào giờ chơi, há hốc miệng vừa kinh ngạc vừa khâm phục. Eva cũng tỏ ra thích nó nữa. Thật y như con rắn độc mê hoặc con bồ câu trong trắng hiền lành, Ophélia thấy cảnh tượng ấy, cô lấy làm lo lắng, thổ lộ nỗi e ngại với em trai: - Cậu coi, con nhỏ đó có thể gây ảnh hưởng xấu cho cháu Eva, phải tìm cách cho nó khỏi tác quái.. Nếu Eva là con tôi thì.. - Chị quá cẩn thận vô ích. Không sao đâu, mặc kệ lũ trẻ với nhau. - Cậu sao mà quá vô tâm, cậu không thấy con Topsy như con quỷ đó sao? - Không. Tôi dám đoan quyết với chị như thế. Với đứa khác thì sợ tiêm nhiễm thói xấu của nó, với Eva thì không, không bao giờ. Eva khác thường, tôi biết con tôi, chị chớ quan tâm. Mà con bé Topsy phi thường thật: Thoạt đầu, dám con nít con em của bọn gia nhân ông Clare khinh thường nó - như kiểu mụ Dinad, ả Rosa và Jane - nhưng chẳng bao lâu chúng thấy Topsy hay hay, thấy theo con bé này vui quá. Topsy ăn cắp tài lắm; giấu đâu không ai thấy, mọi vật trong phòng tắm, ngay cả trên cổ, trên tay một người nào đó nữa, như là mọc cánh bay đi. Đứa nào vô phúc mà chọc tức nó hay khi dể nó ấy ư? Không sớm thì muộn sẽ bị nó trả thù đích đáng. Chẳng hạn một cái áo ủi thẳng bị nhàu đi hay lủng đi. Không ai tìm ra thủ phạm, dù ai cũng biết thủ phạm chính là Topsy. Hai người bị Topsy ghét nhất là Jane và Rosa, chúng tìm cách tố cáo với cô Ophélia để cô trừng phạt Topsy nhưng chúng thất bại, vì không có bằng cớ đích xác làm sao kết tội con bé này trước mặt cô? Hơn nữa, hai ả từ đầu đã tỏ ra ác độc với con bé, nên chúng không được cô Ophélia tin lời, cô không bằng lòng nghe chúng kể tội Topsy. Chỉ một thời gian ngắn, những kẻ phách lối, kênh kiệu trong nhà chủ nhân kiềng mặt con Topsy, không còn cái lối khinh bỉ, nhiếc mắng nó ra mặt nữa, phải để nó được yên thân. Khi nào ngoan ngoãn, Topsy trải khăn giường rất phẳng phiu, đặt cái gối thật ngay ngắn, nó lau quét, dọn đẹp trong phòng cô Ophélia ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng khốn thay: Nó không luôn luôn ngoan ngoãn. Một hôm nữa, cô đi thăm người bạn, giao nó dọn phòng và lại sơ ý bỏ quên chìa khóa trong ngăn kéo, không đem theo mình. Khi cô về, một cảnh tượng bừa bãi, ngổn ngang diễn ra trước mắt: Thay vì bao áo gối vào gối, nó lột ra, khăn giường thì lôi xuống đất, lấy áo ngủ của cô mà tròng vào làm bao gối cho cái gối ôm, gối cái đầu tóc xoắn tít của nó lên gối cô, khi thì thòng đầu xuống dất, miệng hát líu lo, rồi chạy lại soi gương, cười nức lên như quỷ nhập. Khăn choàng đỏ của cô nó quấn lên đầu, đi qua đi lại, diễn trước gương dáng bộ ưỡn ẹo như một cô đào hát đóng vai công chúa! - Topsy! - Cô chủ la lớn - Ai cho phép con làm như vậy? - Thưa cô, không biết, con thích phá chơi. - Con có biết rằng cô sẽ phạt con không? - Dạ, phải đánh con đó, cô! Chủ cũ của con đánh con tối ngày. Như vậy mới được à, cô! - Cô không muốn đánh con đâu. Topsy? Con có thể tốt ngoan, tại sao con lại giở chứng như vậy, hả? - Thưa cô, con có thói quen muốn ăn đòn. Chắc cô phải đánh con! Đôi khi không kiên nhẫn nổi, cô Ophélia phải trừng phạt nó bằng roi. Nó la hét, khóc lóc một chút rồi thì nửa giờ sau, đứng trên bao lơn, bu quanh là lũ nhỏ da đen, nó vênh váo, khoe: - Ý, cô Ophélia đánh tao, mà chẳng đau cóc khô gì hết. Hồi trước bà chủ cũ bả đánh tao đứt thịt ra kia mà còn không thấm tháp gì nữa là, tao đâu có ngán ai. Tao chì lắm à, tụi bây ơi! Rõ ràng là nó coi roi đòn của cô Ophélia như trò đùa. Nó ưỡn ngực lên, đáng bộ như vị tướng hành quân về, vừa thắng trận: - Tao ngon lành lắm à: Tao có tiếng lắm à! Ai làm gì nổi tao? Bà chủ cũ của tao bả đánh chửi tao hết nửa ngày, còn có nửa ngày làm chuyện khác! Nói cho tụi bây biết! Tao đây, Topsy đây! Tuy nhiên, nó học giáo lý đến đâu nhớ kỹ đến đấy. Trả bài rất thông suốt, đôi khi khá thông minh làm cho cô Ophélia rất hài lòng. Có bận, ông em ưa hài hước giễu cô: - Chị bận tâm dạy giáo lý cho nó làm gì? Em thấy vô ích đó, chị ơi! - Sao cậu biết là không có ích? Con người phải có căn bản đạo đức.. - Chị tin là nó hiểu ư? - Dù chưa hiểu, một ngày kia nó sẽ thấm nhập thấu đáo điều hay trong đó. - Em ngờ lắm.. - Cậu Clare, tôi muốn cậu đừng có coi cái gì cũng là trò đùa. Phải đứng đắn! Biết chị sắp giận, Clare vội vàng xin lỗi. Đôi khi, ông bênh vực Topsy. Con nhỏ tinh quái này biết rõ ông chủ rộng lượng, nó biết cái cách nấp dưới sự che chở của ông khi cô Ophélia nổi nóng. Nó có nhiều cách làm cho ông động lòng, nó cũng biết cách làm cho ông móc túi dúi tiền cho nó. Có đồng nào, nó mua hạt dẻ, đường phèn phân phát khắp hết cho lũ trẻ. Topsy tỏ ra hào phóng, thảo ăn.
Chương 17 Bấm để xem Một buổi chiều mùa hè trong trang trại của ông Shelby ở Kentucky. Tất cả các cửa lớn, cửa sổ trong nhà đều mở rộng. Gió thoang thoảng, man mát. Trong căn phòng khá rộng ăn thông với phòng khách và hướng ra mặt tiền ngôi nhà, ông Shelby ngồi tựa cửa ngửa ra ghế, chân duỗi thẳng, bắt chéo nhau, miệng phì phèo điếu xì gà sau bữa cơm tối. Bà vợ thì đang cặm cụi với mớ áo quần, hình như là không chăm chú lắm vào công việc, bà đang có gì muốn thảo luận với chồng mà chưa tiện nói ra. Bà không thể mở đầu một cách dễ dàng. Song sau cùng, bà cũng nói được: - Này mình, Chloé vừa nhận được thư chồng đó nghe! - A! Tốt lắm! Sao? Chú ấy mạnh giỏi chứ? Chắc là gặp được một người chủ tốt? Tôi mừng lắm.. - Chú ấy được may mắn gặp người chủ tốt, lại giàu có, coi bộ không vất vả gì cả, được đối xử tử tế lắm thì phải. - Thế ư? Thế thì còn gì bằng. Tôi rất yên bụng - Giọng ông vui vẻ thành thực - Có thể chú ấy sẽ không còn đòi về đây nữa, há? - Ông lầm rồi! - Chú nài nỉ mình mau mau tìm cách chuộc chú về. Tội nghiệp! Bà Shelby có vẻ nóng nảy. Người chồng buồn rầu nói: - Thật là khó xử cho mình. Công việc làm ăn thì cứ như cái xe đang xuống dốc, không ngừng lại được. Tôi như người lún xuống bùn, rút chân này, lún sâu chân kia. Vay của chỗ này trả cho chỗ kia, đắp đổi, vá víu. Rồi thì thời hạn tới trước khi tàn điếu thuốc; quay đi quay lại, chưa kịp trả tiền lời, thì đến tiền vốn. Và những hóa đơn, thuế má chồng chất.. - Mình ơi! Tôi muốn mình đừng ham kinh doanh nữa, bán bớt ít ngựa hay vài cái nông trại đi mà trả nợ cho yên. - Kìa, Emilie! Em nói thật kỳ.. Em là một phụ nữ tốt bụng, nhưng cũng giống như các bà vợ khác, không biết gì đến công việc làm ăn của chồng cả. - Đó là tại anh, anh không cho em dự vào công việc làm ăn. Sao anh không cho em biết anh thiếu nợ những ai, bao nhiêu, những khoản gì, xem em có thể giúp anh chút gì chăng? - Thôi, em hãy để tôi yên! Làm sao tôi kể cho em hết mọi chi tiết trong công việc làm ăn của đàn ông? Em nên biết là công việc của tôi khác với việc mụ bếp nhà mình, đâu có sắp đặt dễ dàng như mụ ấy cắt bánh sắp lên dĩa bàn? Nếu nó dễ dàng thì tôi đâu đến nỗi điên đầu. Câu sau cùng, ông hơi to tiếng. Đó là cách thông thường của đàn ông khi họ cãi với vợ và thấy sắp đuối lý. Bà vợ thở dài, im lặng. Phải, bà là đàn bà đâu biết đến việc kinh doanh to lớn của ông? Song thực tế, bà rất thiết thực, sáng suốt, có cá tính mạnh mẽ hơn ông tưởng. Bà nhận thấy mình có bổn phận thi hành đúng đắn một lời hứa danh dự đối với tôi tớ dưới quyền. Bà buồn rầu thấy ông không sốt sắng như mình trong việc này, ông có vẻ muốn trì hoãn? - Em không tin là mình không chuộc chú ấy nổi. Tội nghiệp vợ con chú! Thím cứ nghĩ đến chuyện này hàng ngày, kể từ khi chú bị mình bán đi. Anh nghĩ coi. Nỡ nào để họ xa nhau hoài.. - Em đừng tưởng tôi vui sướng chi. Hừ! Lời hứa! Tôi nào ngờ ngày nay tình trạng thế này. Tốt hơn, em nên tìm lời an ủi thím ta, nói rõ là đừng hy vọng gì nữa. Có thể vài năm tới đây Tom sẽ có vợ khác, còn thím thì cũng.. - Anh Shelby! Tôi xin anh! Họ có làm phép hôn phối, anh quên sao? Họ cũng như chúng ta mà, sao anh có thể nói câu ấy được? Tôi làm sao có thể mở miệng nói câu tàn nhẫn ấy với thím Tom? Tôi dạy họ cái gì? - Than ơi! Em đã vô tình làm họ bị trói buộc, làm họ khổ vì mớ giáo lý của em.. vì thứ đạo đức phiền toái của em.. - Giáo lý gì của em? - Bà vợ hết kiên nhẫn - Đạo đức gì của em? Mà dù cho của em thì đã sao? - Thôi, thôi! Đừng bàn chuyện đó, anh đau đầu quá rồi? Anh không có ý đụng đến đạo đức của em, anh chỉ nói là đạo đức đó không hợp với những người như vợ chồng Tom trong cảnh ngộ của họ, hiểu chưa? - Phải! Ông chồng tôi ơi! Ông có lý lắm! Nhưng tôi tin cho ông hay: Nếu ông đã viện cớ này, cớ nọ để trì hoãn, để khỏi thực hiện lời hứa với họ, thì đó là quyền của ông. Còn tôi đây, tôi xin nói rõ: Tôi sẽ, bằng mọi cách, thực hiện được lời hứa danh dự với họ, tôi không thể làm khác với lời nói. Tôi sẽ kiếm tiền chuộc chú ấy một ngày gần đây. - Em làm gì cho ra tiền? Bà vợ cương quyết đáp: - Em sẽ dạy nhạc.. - Thôi đi! Đừng có hóa rồ, tôi không muốn em tự hạ mình, làm giảm giá trị đến mức đó. - Dạy nhạc mà giảm giá trị? Mà tự hạ? Thôi đi ông ơi! Tôi, thì tôi cho là tôi sẽ tự làm giảm giá trị của tôi đi nếu tôi nuốt lời hứa kia, chớ còn như dạy nhạc.. - Tôi biết, tôi biết em có tâm hồn cao thượng, tốt lành, nhưng trước khi làm gì, em phải suy xét chín chắn một chút, Emilie ơi! Câu chuyện bị ngưng lại vì đúng lúc đó bác Tom gái xuất hiện: - Thưa bà. Mời bà xem qua mấy con gà sắp làm thịt, bà thích con nào làm món gì.. - Tùy ý thím, muốn làm con nào, làm món gì cũng được. Tôi đang bận.. với lại bếp núc là chuyện thím rành hơn cả tôi mà, Chloé! Chloé xách mấy con gà trong tay, có vẻ suy nghĩ. Thật ra bác ta theo dõi câu chuyện từ đầu, bác không hiểu sao chủ bác lại lo lắng tiền bạc trong khi của cải trước mắt không thèm nhìn tới, giao phó cho mình quyết định? Thấy dáng bộ người bếp, bà Shelby biết là bác đã hiểu hết mọi chuyện, hiểu vợ chồng bà đang bất đồng ý kiến về chuyện bác Tom trai. Bà hỏi Chloé: - Thím nghĩ gì đó, thím Tom? - Thưa bà, tôi đang nghĩ.. rằng sao ông bà giữ nuôi bọn tôi tớ nhiều quá, mà công việc thì có là bao nhiêu đâu? Hiện giờ có nhiều chủ trại cho thuê lại nô lệ, rất có tiền mà đỡ tốn hao chứ để chúng tôi ngồi ăn như núi lở, ăn mà không làm gì hết. Bà nghĩ coi, tôi nói có đúng không? - Coi, thím Tom ơi! Thím lại tính.. thím muốn tôi cho thuê bớt đứa nào chăng? Thím đề nghị.. - Thưa bà, tôi không có đề nghị gì. Nhưng tôi.. tôi có ý muốn.. Thấy bác ta ngần ngừ, bà chủ khuyến khích: - Cứ nói ý thím tôi nghe coi, không sao đâu. - Thưa, tôi nghe chú Sam nói ở Louisville có một hiệu bánh ngọt đang thiếu nhân công. Họ hứa trả mỗi tuần lễ tới bốn đô-la cho người nào đến làm cho họ. - Rồi sao nữa? Nói tiếp coi! - Thưa bà, tôi nghĩ là đã đến lúc giao cho cô Sally lo việc bếp núc nhà này, cô ấy lớn rồi, bao nhiêu năm ở cạnh tôi, học được khá nhiều, giờ cũng đảm nhận được công chuyện. Nếu bà vui lòng cho tôi đi xuống đó, tôi sẽ kiếm được bộn tiền. Thưa bà, gì chớ làm bánh thì tôi.. nghề của tôi mà, thưa bà. Bà chủ hơi băn khoăn: - Nhưng thím đi rồi lũ nhỏ làm sao đây? Bỏ chúng ở nhà, thím không nhớ chúng sao? Và ai coi chừng chúng? - Thưa, không sao đâu, tụi nó cũng đã lớn rồi, với lại sau khi xong việc nhà bếp, Sally coi chừng giùm tôi được. Nó nhận rồi, nó cũng ngoan lắm, thưa bà. Bà Shelby có vẻ trầm ngâm: - Louisville xa quá, thím Tom ơi! - Thưa bà, không can gì, ở cuối sông mà xa bao nhiêu? Xa sao bằng chỗ ông Tom nhà tôi đang ở? Phải không, thưa bà? Mà xa đây thì lại gần chỗ ông ấy.. Giọng bác thành khẩn, nồng nhiệt, mắt nhìn chủ chăm chú chờ câu trả lời. - Thím Tom ơi! Thím thật can đảm, nhưng còn cả trăm dặm mới đến chỗ chú Tom đang ở. Bác Tom gái buồn rầu ra mặt làm bà chủ động lòng, bà an ủi: - Nhưng có sao đâu, rồi đây sẽ đến lúc gần nhau. Tôi thấy không có gì ngăn thím đi làm việc cả. Và tôi cho thím biết; số tiền thím làm được thím cứ cất đó, dành cho đủ mà chuộc chú về. Tôi không giữ đâu. Nó thuộc quyền thím, vì là công lao của thím. Khuôn mặt đen đúa của người vợ sáng rực lên, niềm hy vọng, tin tưởng về ngày sum họp làm bác mừng rỡ, bác nói to: - Chúa ơi! Bà có lòng tốt quá! Tôi đội ơn bà lắm. Tôi đi liền, tôi không cần gì hết. Áo, quần, giày dép, không cần! Tôi để dành tất cả số tiền.. Chợt bác băn khoăn, vầng mây u ám lại thoáng hiện lên mặt bác: - Thưa bà, một năm có mấy tuần lễ? - 52 tuần cả thảy. - 52 tuần! Mỗi tuần được tới bốn đô-la. Thưa bà, tổng cộng là bao nhiêu? Bà chủ mau mắn đáp: - 208 đô la một năm. - Khá quá chớ, thưa bà! Mà phải mất mấy năm để có thể.. - Phải bốn hay năm năm mới đủ tiền chuộc chú ấy về, nhưng thím đừng lo. Tôi sẽ kiếm tiền phụ thêm với thím cho mau. Tôi dạy.. - Thưa bà, đừng! Bà đừng làm gì hết, cũng đừng dạy nhạc, ông không bằng lòng, vì nó giảm giá trị của gia đình. Tôi mong trong nhà này không bị giảm giá trị vì Tom. Tôi làm được, thưa.. - Đừng ngại, tôi biết cách giữ giá trị chớ, thím Tom. Tôi làm gì bậy mà thím lo? Bây giờ, thím tính đi làm ngày nào? - Tôi nghe chú Sam sắp xuống đó đi công chuyện ông sai. Tôi sẽ đi theo chú ấy. Tôi đã sắp xếp đâu đó đàng hoàng, chỉ còn chờ lệnh bà thôi. Bà vui lòng thì còn gì mà lo? Chắc sáng mai đi. Thím thêm: - Xin bà vui lòng viết cho tôi vài chữ nhận tôi là người tốt và cái thông hành. - Tôi phải bàn qua với ông, chắc không sao, ông cũng bằng lòng. Tôi sẽ viết giấy cho thím và thông hành. Yên bụng đi! Chloé hớn hở ra mặt trở về lều. Georges cũng vừa đến thăm bác, người đàn bà vừa sắp đặt áo quần cho các con vừa khoe: - Cậu Georges này, có một chuyện hay lắm, cậu biết không: Ngày mai tôi đi Louisville để làm công trong hiệu bánh, kiếm tiền chuộc Tom đó. Bà cho rồi. Cậu coi, tôi phải sửa soạn cho lũ nhỏ trước khi đi. Chắc phải lâu lâu mới về. Cậu coi: Bốn đô-la một tuần chớ ít ỏi gì, mà bà vui lòng cho tôi hết, bà không lấy xu nào, đặng tôi để đành. Georges tỏ ra sốt sắng, vui vẻ: - Hay lắm, tốt lắm! Tôi mong bác Tom về cũng như bác vậy. Chừng nào bác đi? - Sáng mai, đi với chú Sam. Cậu ở nhà mạnh giỏi, nghe cậu. À, tôi muốn nhờ cậu một chuyện, được không? - Tại sao không? Chuyện gì, bác nói liền coi, tôi sẵn sàng giúp bác mà. - Viết cho ông Tom lá thơ, kể rõ đầu đuôi chuyện này. Đặng ổng mừng, biết không! - Chắc chắn rồi. Để tôi đi lấy giấy bút, chờ chút nghe bác Tom. Tôi sẽ viết dài, kể hết, chuyện bác, chuyện lũ nhỏ, chuyện nhà tôi, chuyện bầy gà.. kể hết. - Phải à! Trong khi cậu viết, tôi làm món ăn thật ngon cho cậu. Rồi đây, chắc còn lâu lắm cậu mới có dịp dùng bữa trong lều này với già Chloé.
Chương 18 Bấm để xem Mấy năm ròng rã trôi qua, Tom sống tại gia đình ông Clare. Tuy được đối đãi tử tế, không vất vả chi, song bác vẫn hướng mắt về Kentucky, nơi bác phải lìa bỏ ra đi, cam chịu xa con, xa vợ vì số phận hẩm hiu của người nô lệ thuộc quyền sở hữu người chủ da trắng. Tất cả gia tài bác có gồm vỏn vẹn hai cuốn sách: Thánh kinh và Thánh ca mà bác luôn luôn cầm đến khi rảnh rỗi cũng an ủi bác được đôi phần. Bác biết hòa mình theo hoàn cảnh mới, âm thầm buồn nhưng không tỏ lộ ra, cố gắng làm tròn bổn phận với chủ mới, cũng rất tốt với mình. Và rồi, thư bác được hồi âm. Kể làm sao cho xiết nỗi vui mừng của con người nô lệ đáng thương đó! Bác nhận ra tuồng chữ của cậu chủ nhỏ tốt bụng, nay có vẻ rắn rỏi hơn, đẹp hơn. Bác run rẩy cầm lá thư lặng đi một lát rồi mới bình tĩnh lại mà đọc được. Bác đọc to cho đến nỗi có ai ở phòng bên cạnh chắc họ sẽ nghe rõ từng lời. Ủa, mà bác sợ gì ai phải giấu diếm? Bác cứ đọc to để hưởng trọn niềm vui, để xác quyết rằng lá thư có thật, nằm trong tay bác. Nhờ cánh thư đó, Tom biết rõ tình cảnh gia đình ông chủ, biết vợ được bà chủ rộng lượng cho đi làm thuê ở hiệu bánh tại Louisville, tiền được cất riêng để chuộc mình. Bà cũng tính đi đạy nhạc đặng mau có đủ số tiền phụ vào với vợ bác. Hai con trai bác làm việc siêng năng và con bé út thì đi vững vàng rồi, rằng trong lúc vợ bác xa căn lều yêu dấu, con Sally đã lớn (bao năm qua còn gì) sẽ săn sốc lũ trẻ. Mọi người cũng trông coi giúp. Căn lều sẽ đóng cửa trong thời gian bác gái vắng mặt, nhưng Georges với ngọn bút tài hoa của cậu học trò trung học đã nhắc đến việc sẽ sửa sang nó lại, nới rộng nó thêm cho phong quang, đẹp đẽ như cậu hứa ngày nào, khi Tom được trở về. Cậu cũng không quên nói rõ về sự học hành tiến bộ của mình, ba mẹ vẫn được sức khỏe, duy việc làm ăn thì sa sút chút ít. Cậu cũng không quên kể chuyện bầy gà sinh sôi, nảy nở ra sao, con mái thế nào, con trống thế nào v. V.. không sót một chi tiết nhỏ. Tom âu yếm, nâng niu bức thư như một báu vật và Eva được đặc biệt chia sớt niềm vui lớn lao này. Đọc đi, đọc lại, một già một trẻ cũng đồng ý đi đến kết luận là bức thư đó văn chương toàn hảo, tuyệt vời, chữ viết đẹp, có một không hai trên thế gian này, chắc chắn như vậy! Đọc hoài không chán, rồi cả hai còn nảy ra cái sáng kiến là lồng kính lá thư như kiểu người thợ chụp ảnh lồng kính hình thân chủ, treo lên để nhìn thấy hoài hoài. Song đến đây, họ gặp một khó khăn không sao giải quyết: Làm thế nào mà có thể nhìn thấy suốt hai mặt lá thư nếu lồng kính nó? Tình bạn của hai bên theo thời gian, mỗi ngày mỗi thêm thắm thiết. Khó mà xác quyết cái tình cảm đó ở một giới hạn nào. Bác Tom yêu quý Eva như người thủy thủ Ý đối với Chúa Hài Đồng khi lênh đênh trên biển cả. Một thứ tình cảm vừa tôn kính, vừa thương yêu như không phải thứ tình cảm thông thường dành cho hạng phàm nhân. Mỗi ngày bác càng cảm thấy tình yêu đó như thiêng liêng hơn và có khi bác lo sợ vẩn vơ, tưởng như Eva là một báu vật mong manh, có thể vỡ tan một ngày nào đó.. Bởi vì một đôi khi em có nhiều câu nói làm bác không khỏi rùng mình. Bác luôn luôn làm Eva vui lòng, chìu ý em đối với bác là việc quan trọng nhất. ° ° ° Gia đình ông Saint Clare ở trong biệt thự xinh đẹp, bao quanh bốn phía là hoa viên. Nhiều loài hoa hiếm và quý gần phòng khách, những con đường nhỏ đưa xuống bờ hồ, mặt hồ lấp loáng như dát bạc dưới ánh mặt trời. Mỗi chiều, khi mặt trời sắp lặn, chủ tớ Tom và Eva hay ra ngồi trên ghế trong khu vườn để ngắm cảnh và trò chuyện, hoặc đọc Thánh kinh cho nhau nghe. Tâm hồn em rất nhạy cảm, những đoạn trong Thánh kinh ảnh hưởng đến thần kinh em không ít. Em thường mơ đến cõi Thiên đàng. Em hỏi: - Bác Tom này, bác biết Thiên đàng hiện ở đâu không? - Trên trời trong những đám mây đó, Eva à. - Cháu tin là cháu sẽ thấy được Thiên đàng một ngày gần đây! Bác thấy đám mây kia không? Giống như những đôi cánh to lớn, mong manh bằng ngọc, có đám thì như bằng vàng.. Bác Tom ơi! Bác cháu mình hát những bài hát có Thiên thần đi! Này, bác biết không: Có khi cháu ngủ, cháu thấy Thiên thần đó, bác ơi! Họ cùng hát. Rồi Eva lại làm Tom giật mình: - Cháu sẽ đến đó, bác Tom ơi! - Eva nói gì vậy? Em đi đâu? Eva đứng dậy, chỉ tay lên trời. Mặt trời sắp lặn, ánh sáng của ngày tàn chiếu lên mái tóc óng ả của em, càng làm cho em có vẻ thoát tục, siêu phàm. Tom giật nẩy mình, bàng hoàng, run sợ nghẹn ngào. - Phải! Cháu sẽ đến đó, nay mai.. Tom có lo sợ hão huyền không? Mấy tháng gần đây, bác để ý thấy em mỗi ngày mỗi khác đi, em xanh xao, gầy guộc, rồi đôi khi em hồng hào một cách khác thường, hơi thở em gấp và ngắn, em mau mệt trong lúc chơi đùa. Vài lần em ho khúc khắc. Em hay mơ mộng, ít còn nghịch ngợm, và em hay nói đến Thiên đàng.. Bác cũng nghe lỏm cô Ophélia bảo ông Clare rằng em bị ho lao và đó là bệnh khó chữa thời bấy giờ. Tom nhìn Eva chăm chú, em đang lúc hồng hào nhưng bác biết em không được mạnh, chợt có tiếng cô Ophélia: - Eva! Vào nhà đi cháu, sương xuống rồi đó. Tòm dắt cô chủ nhỏ đi vào ngay. Phần cô Ophélìa, cô rất ngại cho sức khỏe mỏi mòn của cháu, cô cũng lo sợ như Tom. Vướng phải bệnh này có rất nhiều đứa trẻ không sao thoát chết. Nhưng hễ động cô có đề cập đến điều lo lắng này, tức thì cha đứa trẻ gạt đi: - Chị cứ lo lắng không đâu, con nít đôi khi nó.. thế có sao đâu. Thật tình, ông tự dối mình, ông cũng đang lo, nhưng không muốn ai biết rõ điều này. Ophélia không chịu thua: - Cậu hãy nhìn thẳng vào sự thật: Elisa Jams, Hélène rồi Marie Sanders đều chết vì thứ bệnh quái ác này. - Chị đừng nói đến chết chóc, em buồn lắm. Em xin chị! Nếu chị thương em xin chị coi chừng cháu kỹ kỹ một chút, đừng để nó ra gió chiều nhiều, đừng cho nó chơi chạy nhọc quá. Rồi mọi việc sẽ êm xuôi. Người cha cố dùng giọng bình tĩnh bảo người cô. Ophélia thương hại em, không nói ra, nhưng cô nghĩ: "Hừ, êm xuôi! Tôi chỉ sợ không êm xuôi như cậu nói thôi". Mỗi ngày, Clare càng quấn quít gần con không rời, ông đi dạo bằng ngựa với Eva.. như ông cũng tiên cảm bất hạnh lớn lao sắp đến. Ông luôn miệng bảo con: - Con khá lắm, con hồng hào lắm. Bệnh ho này không can gì, sơ sịa thôi mà, trẻ con nào cũng bị ho đôi khi, đừng quan tâm. Điều làm ông lo lắng hơn cả chính là sự khôn ngoan quá sớm của Eva và sự suy nghĩ về những gì mà vào tuổi đó, con nít khác chưa hề nghĩ tới. Một hôm, em hỏi mẹ: - Mẹ ơi! Sao ta không dạy cho mấy người nô lệ biết đọc, biết viết? - Để làm gì? Vô ích quá mà. - Sao mẹ cho là vô ích? Con thấy nó có ích lắm chớ, thưa mẹ? - Con nói kỳ cục quá, biết đọc biết viết hay không, bọn nô lệ vẫn không làm việc giỏi hơn. Không cần thiết đối với bọn họ, họ sinh ra để làm việc, con phải hiểu.. - Nếu họ biết đọc, họ sẽ đọc Thánh kinh, họ sẽ hiểu Chúa có lòng thương tất cả mọi người, không phân biệt.. - Khi nào cần, sẽ có người đọc cho họ nghe. - Nhưng con tưởng tự đọc được vẫn hơn chứ, thưa mẹ? Biết đọc thì khi nào muốn biết là tự mình đọc biết liền khỏi nhờ ai. Mẹ coi, như cô Ophélia đó, cô dạy cho Topsy.. - Con Topsy? Hừ! Mẹ chưa từng thấy con bé nào tồi tệ như nó. Để coi cô con giáo dục nó ra sao cho biết. - Mẹ này, con thấy vú Mammy của con cũng tội ghê, vú ưng đọc lắm, mà phải nhờ con đọc giùm. Con nghĩ nếu một ngày kia con không còn đọc cho vú nghe nữa thì vú sẽ buồn biết chừng nào.. Người mẹ ích kỷ ấy không bao giờ chịu chú ý đến lời con mình. Bà ta đang săm soi mấy thứ nữ trang quý giá trong tủ, nghe con nói thế, bà lơ đãng trả lời: - Phải, một ngày kia lớn lên, con sẽ có nhiều việc bận tâm hơn là suốt ngày đọc Thánh kinh và săn sóc bọn nô lệ, công việc đó không xứng đáng cho con gái cưng của mẹ đâu. Con phải lo giao thiệp, trang điểm, sửa soạn áo quần cho hợp với phong cách của một thiếu nữ con nhà danh giá. Con coi đây: Mẹ để dành những thứ này cho con cả đấy. Đây là thứ nữ trang đắt nhất, mẹ đã mang nó vào buổi dạ vũ đầu tiên trong đời mẹ, không phải cô gái nào cũng có diễm phúc được có nó đâu, con phải biết.. Eva bước lại gần mẹ, nâng một xâu ngọc bích lên ngắm nghía, dáng suy nghĩ, một giây sau, em nói: - Mẹ nói món nữ trang này đắt tiền lắm, hở mẹ? - Phải! Ba con mua nó tận bên Pháp đó; con ơi! Nó đáng giá bằng một gia tài của hạng xoàng xoàng đó, con ơi! - Con ưng có một vật như thế này, mẹ à. - Thì rồi một ngày kia, nó sẽ là của con chớ của ai. - Một ngày kia.. chậm quá, con muốn có bây giờ.. - Bây giờ? Con định làm gì xâu ngọc quý này? Giọng người mẹ ngạc nhiên. Eva bình tĩnh: - Dạ, con sẽ bán nó đi, mua một cái nhà trong xứ nào tự do, con đem đám nô lệ của mình đến đó, dạy họ học, đọc và viết.. Câu nói trang nghiêm của cô bé bị bà mẹ ngắt ngang bằng chuỗi cười lanh lảnh, chế giễu: - Chà, chương trình to lớn đó, con sẽ mở trường nội trú, dạy toán, dạy vẽ và dạy chúng đàn dương cầm nữa chứ? Eva vẫn tiếp tục giấc mơ của mình: - Con dạy họ đọc Thánh kinh, dạy họ viết đàng hoàng. Không làm được những điều đó, họ khổ sở lắm.. - Sao con biết họ khổ sở lắm? Người mẹ có sắc giận. Đứa trẻ tốt bụng trả lời, giọng xác quyết: - Thưa mẹ, con biết rõ chứ. Cứ nhìn bác Tom với vú Mammy, họ khổ.. Còn nhiều người nữa, mẹ không biết chứ con thì.. Để họ dốt nát, tội nghiệp. - Thôi đi! Một đứa con nít như con mà tính chuyện to lớn, kỳ cục. Đừng làm mẹ đau đầu, mẹ đã đau đầu vì ba con nhiều rồi. Bà cau có bảo con gái. Luôn luôn bà đau đầu mỗi khi cuộc đối thoại làm phật ý bà. Đau đầu! Có nghĩa là bà không thích thảo luận phải trái gì nữa, hãy để bà yên với mớ tư tưởng hẹp hòi, với tâm hồn nhỏ nhen, khe khắt, ích kỷ của bà. Eva biết ý mẹ, em nhẹ nhàng lui ra. Song kể từ hôm ấy, em cố gắng dạy Mammy đều đặn vì em biết rõ hơn ai hết, em không còn ở lại trần thế bao lâu nữa, em tận dụng năng lực mình để làm điều tốt.
Chương 19 Bấm để xem Một hôm, ông Alfred đưa con trai đến chơi, ở lại nhà em trai vài hôm. Như ta đã có dịp biết qua về tính khí anh em nhà này: Clare thì vóc dáng mảnh khảnh, tâm tính hiền lành, tốt bụng. Người anh khác hẳn: Nóng nảy, khắc nghiệt. Tóm lại, họ rất khác nhau về tính nết, dù vậy, họ rất thương nhau. Con trai ông Alfred cũng giống cha: Tóc đen, dáng dấp cao lớn, có vẻ kiêu ngạo, bảnh trai và độc đoán. Cậu bé 13 tuổi đó tuy còn nhỏ đã có cái vẻ hung hãn của một chủ nhân ông da trắng rồi. Vừa gặp cô em gái, con chú ruột mình, Henrique tỏ ra vui vẻ lắm. Eva cũng mừng không kém, hai anh em định cỡi ngựa đi dạo chơi một vòng. Eva có con ngựa bạch còn nhỏ, rất đẹp, lông nó trắng như tuyết và mịn như nhung, nó như cái nôi êm ái dành cho cô bé xinh đẹp, và chính nó, nó cũng xứng đáng với cô chủ nhỏ. Bác Tom lo dắt con ngựa bạch của Eva ra cùng lúc với một thằng bé lai da đen tên Dodo khoảng mười bốn tuổi cũng đang dắt con ngựa ô giống Ả Rập đen tuyền đến cho cậu chủ. Henrique rất hãnh diện về con ngựa này. Thay vì đón lấy dây cương, cậu ta xem xét con vật thật kỹ, cau mặt lại, quát to: - Dodol Thằng mọi nhác nhờn kia! Mày chưa chải lông ngựa sáng nay, phải không? - Thưa cậu, tôi có chải, tại vì.. Thằng bé chưa nói dứt câu, Henrique đã giơ cao ngọn roi lên, giận dữ: - Câm lại! Ai cho phép mày trả lời tao? Dodo, tên nài ngựa lai da đen này khá xinh xắn và không đen mấy, vì vậy khi bị mắng oan, nó đỏ bừng mặt lên: - Thưa cậu.. Henrique không cần nghe nó phân bua chi cả, cậu quất tưới lên đầu, lên mặt đứa nô lệ với dáng bộ cực kỳ hung tợn, rồi còn bắt nó quỳ xuống và đánh cho kỳ đến mỏi tay. - Đồ khốn! Để mày nhớ đừng có hỗn láo với chủ mày. Phải nhớ săn sóc ngựa tao cho kỹ càng. Nếu còn dắt nó đến như kiểu này nữa thì sẽ còn khổ với tao. Tom can thiệp: - Thưa cậu, cậu quá nóng nên không rõ: Dodo đã chải ngựa kỹ lắm trước khi dắt đến đây cho cậu, nhưng con ngựa vừa nghịch, nằm lăn xuống đất nên lấm láp trở lại. Cậu đã đánh oan nó.. - Câm đi! Tao không hỏi, ai cần giải thích? Henrique vẫn cái giọng chủ nhân ông nói với bác Tom và quay đi. Eva trong bộ quần áo kỵ mã xinh xắn đang nhìn sững cảnh tượng thô bạo mà anh cô đang thủ diễn, cảnh tượng không bao giờ xảy ra trong gia đình cô giữa chủ với tớ. Mặt cô tối sầm lại, làm Henrique biết là em mình phật ý, vội vàng chống chế: - Em đừng giận anh, anh thật ân hận vì điều lố bịch này, lại bắt em chờ lâu, phải không? Chịu khó đợi một chút đi, em Eva! Eva buồn rầu nói: - Anh ác lắm, anh có thể đánh đập người ta như vậy sao? Em không ngờ đấy, tội nghiệp Dodo quá! - Cái gì? Ác? Tội nghiệp à? Eva thân mến của anh ơi! Em hơi đâu mà để ý đến tụi mọi đen. Giọng Henrique hơi xẵng trở lại. Eva nói: - Em nói thật, em không thể là Eva thân mến của anh đâu, nếu anh còn cư xử với người dưới kiểu đó. - Trời ơi! Em chưa biết rõ thằng quỷ này. Nó nói dối như ranh, gian hết chỗ chê. Phải đánh nó, chính ba anh cũng bảo vậy đó, em ơi! - Bác Tom là một người có tư cách và đáng tin, bác không bao giờ nói sai, bác đã nói với anh là bác thấy Dodo có chải kỹ ngựa, mà anh cứ gạt đi, mắng luôn người ta. - Vậy ư? Nếu có một tên nô lệ nói thật thì quả là chuyện hi hữu, chứ thằng Dodo thì ôi thôi, nó nói dối đều đều. - Em nghĩ rằng có thể nó nói dối, vì quá sợ anh. - Này, em chú ý đến nó hơi nhiều đó, Eva ơi! - Em không chú ý đến nó nhiều đâu, chỉ tại anh đánh nó tàn nhẫn mà nó không có lỗi gì nên em thấy phải lên tiếng, vậy thôi. - Thì có sao đâu, có thể lần này nó oan, nhưng còn bao nhiêu lần khác nó đã đáng đòn mà anh không đánh, hay không biết để trị tôi nó. Nhưng mà thôi, nếu em không thích thấy nó bị đòn, thì anh sẽ không đánh nó trước mặt em. Eva không hài lòng với lối dàn xếp của anh cô, nhưng cô thấy vô ích nếu còn cãi cọ thêm. Henrique giống cha cậu cũng như Eva giống cha mình. Dodo đã chải lại ngựa và vừa dắt tới. Henrique tỏ vẻ hài lòng: - À, lần này thì khá lắm đây. Thôi, giờ thì lại giữ ngựa cho em tao trong lúc tao đỡ em tao lên ngựa. - Làm sao người ta bưng bít chân lý mãi được? Rồi cũng như ở Pháp cho mà xem! Như ở St. Dominique chẳng hạn.. - Xứ ngoài khác, xứ ta khác. Ta phải chặt chẽ chứ, ta chống lại thứ lý thuyểt tai hại ấy.. Alfred nói và dí mạnh gót giày xuống như định chà nát hệ thống tư tưởng trái với ý muốn ông. - Để xem! Tôi, thì tôi cho là chúng ta đang làm sứt mẻ mối liên lạc giữa nhân loại với nhau. Ta cư xử với đồng loại như với súc vật, lối giáo dục của ta - mà điển hình là con trai anh đó - tàn ác, phi nhân, sẽ phải thay đổi, không phải một hai người mà cả một cơ cấu quốc gia. - Chú hùng biện dữ há? Nhưng đừng lo xa. Rồi sẽ có cách, yên tâm! Hạng như tôi không chịu nhượng bộ đâu. Tụi hạ lưu thì ngàn đời vẫn là tụi hạ lưu.. - Nhưng có một ngày kia, bọn hạ lưu lại nổi lên.. rồi thì, anh đã chà đạp họ ra sao, họ sẽ chà đạp anh như thế, không sai. - Tôi đã nói ta thừa nghị lực mà! - Phải! Với những công dân như con trai anh chứ gì? Trông nó xử sự tôi không khỏi đặt câu hỏi: Nó có đủ tư cách không? Một người không đủ bình tĩnh, tự chủ như nó.. Người xưa có nói "Kẻ nào không tự trị được mình thì khó lòng mà cai trị được kẻ khác". Anh công nhận lời ấy đúng chứ? Lần đầu tiên trong cuộc đối thoại, Alfred có vẻ suy tư: - Chú nói đúng, đó là điều khó khăn đấy. Tôi cũng thắc mắc về điều này. Tôi có ý muốn gởi nó lên miền Bắc, có môi trường thuận tiện cho việc giáo dục trẻ hơn. Ở đây, nó có vẻ cao quá, nó là chủ nên nó dễ sinh kiêu ngạo, hư hỏng. Nền giáo dục của ta, tại đây, coi ra không mấy thích hợp. Miền Bắc, giữa những người bình đẳng, việc giáo dục dễ dàng. Họ cùng cảm thấy không nên cãi vã nhiều hơn. Anh em đến thăm nhau mà lại cãi nhau? Họ đã cãi nhau nhiều lần, rốt cuộc cũng không ai nhượng bộ ai, mỗi người giữ nguyên ý tưởng, quan niệm của mình. Vì vậy, họ chấm dứt cuộc cãi cọ, bày bàn cờ ra. ° ° ° Hai anh em chơi cờ cho đến khi hai đứa trẻ phi ngựa trở về. Clare đứng lên. - Anh coi, hai đứa có dễ thương không? Thật là một bức tranh sống động và đẹp, quá sức đẹp. Thật vây, anh em Eva trông thật dễ yêu: Henrique với mái tóc đen bóng, mắt sáng, nụ cười tươi, nét mặt rắn rỏi. Eva thì tóc vàng óng như tơ sống, nét mặt cao quý như thiên thần, nón không vành màu xanh, bộ y phục kỵ mã cùng màu. Cuộc đi chơi bằng ngựa vừa rồi làm em ửng hồng đôi má. Alfred nhìn con và cháu âu yếm, trả lời em: - Phải, quá đẹp! Mà rồi đây cháu Eva sẽ là cô gái đẹp nhất làm nhiều cậu trai chết mệt đây nhé! Tôi cam đoan.. Clare bỗng nghẹn ngào khi nghĩ đến sức khỏe mỏng manh của con, nhưng ông không muốn tiết lộ với anh, ông nói cho qua: - Phải, có thể.. nhưng làm sao biết chắc điều này? Giọng ông trầm xuỗng bất ngờ và ông vội vàng đến đỡ con xuống ngựa, ôm nó vào lòng, vẻ lo ngại: - Con gái ba, con mệt phải không? - Ồ, thưa ba, không mệt đâu. Nhưng lời em trái với sự thật, em thở đứt quãng làm cha em thêm hãi: - Con ơi! Sao con phi ngựa mau làm gì? Con biết là có hại cho sức khỏe của con mà? - Thưa ba, con vui quá nên quên mất. Người cha quay lại nói với đứa cháu trai: - Này Henrique, con phải trông chừng em đừng cho nó phi ngựa nhanh quá. - Thưa chú, cháu sẽ trông chừng em. Henrique trả lời chú rồi đến cạnh ghế trường kỷ, nơi chú vừa đặt em gái xuống, nắm tay em. Giây lát sau, Eva cảm thấy khỏe lại. Hai người lớn lại chơi cờ. - Eva này, anh muốn ở lại chơi với em lâu hơn, nhưng ba chỉ bằng lòng ở hai ngày thôi. Nếu được ở chơi lâu với em, anh sẽ sửa tính, anh sẽ không hung dữ nữa, anh không ác ý, nhưng anh nóng thật. Em thấy chứ, anh hay cho nó tiền lắm, anh rộng rãi chứ không xử tệ, anh cho nó áo quần đẹp nữa. Nói thật, nó ở với anh cũng sung sướng chứ. - Anh có thể sung sướng nếu xung quanh không ai tử tế, thương mến anh? - Dĩ nhiên là không. - Vậy mà anh làm khổ nó, một đứa cô độc, không có thân nhân như mình. Nó bị xa lìa mẹ nó, anh không thương nó chút nào hết sao? - Chúa ơi! Làm sao mà em có thể nói thế chứ? Ai mà thương bọn nô lệ da màu cho nổi? - Tại sao lại không thương được? - Em có thương bọn nô lệ của ba em không? - Có, em thương họ lắm. - Đừng có nói khùng. Eva ơi! - Thánh kinh dạy ta phải thương yêu mọi người. - Ôi, Thánh kinh thì dạy đủ trăm thứ, ai hơi đâu mà theo cho hết được? Eva im lặng, không cãi lại anh họ nữa. Nhưng rồi mắt em ràn rụa lệ, em nhỏ nhẹ bảo Henrique: - Dù vậy đi nữa, em xin anh cố gắng xử tốt với Dodo, vì em vậy, được chứ? - Vì em? Được, anh sẽ cố gắng thương yêu tất cả mọi người. Còn em, em là người anh thương yêu nhất. - Em rất vui vì lời hứa của anh, và em mong anh đừng quên. Chuông rung báo hiệu giờ ăn, hai anh em ngừng trò chuyện, vào nhà.