Đây là truyện thơ dài hơn một nghìn câu nói về toàn bộ diễn biến và các trận đánh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, mọi người đọc để thêm yêu lịch sử Việt Nam. Có trận đánh 2 nghìn nghĩa quân phải chống lại 10 vạn quân Minh, gấp 50 lần, nhưng bằng cách đánh mai phục vẫn đẩy lui được quân địch. Trong truyện có nhiều từ ngữ Hán Việt, điển cố điển tích, mình chú giải ở cuối truyện. Nếu có chỗ nào chưa được các bạn góp ý mình nhé.
Phần 1: Giới thiệu Lê Lợi và quá trình chuẩn bị khởi nghĩa
Trong vòng trời đất bao la
Đất nào sao ấy đã là từ xưa
Nước Đại Việt tự nghìn xưa
Khai sơn mười tám đời vua đến giờ
Bắc phương quen tính hung đồ
Vung gươm trỏ một ngọn cờ chinh Nam
Mười năm gây nghiệp quá quan[1]
Vừa hay đến lúc gươm đàn hiển linh
Đuổi thù phục quốc thu kinh
Anh hùng còn nhớ thuở bình Ngô xưa
***
Từ năm Khai Đại[2] triều vua
Nhân tâm bốn cõi mong mưa rửa hờn
Người trại chủ núi Lam Sơn
Trong tay vững nhị khúc côn cương thường[3]
Hồn thanh đạm nét cương phương[4]
Bạt sơn cử đỉnh[5] đường đường sức cao
Thân Huệ Mộc vóc Săng Đào[6]
Tinh anh sáng sắc sương sao trùng phùng[7]
Thanh thanh vọng tiếng kim chung[8]
Ngời ngời một bậc anh hùng sơn trang
Phong lưu áo gấm khăn vàng
Chữ là Lê Lợi vốn hàng danh gia
Tình thương tựa Tô Đông Pha[9]
Sóng lòng vì nước năm ba thước cường
Sinh thành giữa cuộc nhiễu nhương
Chăm nghề cày cấy náu nương núi rừng
Tháng ngày nuôi nấu chí hùng
Thương đời không nhận gấm nhung vĩnh thù[10]
Tấm lòng núi Mục sông Chu
Cao lương quên vị Xuân Thu[11] quên nàng
Ẩn mình giấu lưỡi gươm vàng
Giao long[12] chờ dịp huy hoàng hiện ra
***
Khi mang hoài bão lòng ta
Luôn niềm trăn trở biết là có yên
Lam Sơn trại chủ không riêng
Từ mang hoài bão bình thiên dẹp đời
Trò tiêu khiển, thú vui chơi
Đã không còn nữa lánh dời gia tư
Chuyên lòng ẩn chốn hoang vu
Kiếm cung dày luyện binh thư sáng đèn
Luyện tôi chí đức lâu bền
Trong lưu ly[13] vẫn không nhìn về sau
Sách Tôn Tử, kế Vũ Hầu[14]
Đông A, Cổ Nguyệt, Hợp Cầu, Văn Đao[15]
Những điều hưng phế ra sao
Khắc sâu như chữ tạc vào xương mai[16]
Lưỡi gươm lấp lánh hoa bay
Những người an phận khoanh tay sá gì
Vút theo gió bước ngựa phi
Mũi tên ghi cánh miên thùy hồng tâm[17]
Hướng theo ánh mắt thiên cầm[18]
Dời cung ba mũi ba lần gặp nhau
Võ ngày rạng, văn đêm thâu
Ba năm rèn kiếm Lưu Cầu[19] đã nên
Cửa nhà tựa cửa Bình Nguyên[20]
Đón mời tân khách tiếp thêm bạn bè
Những người ẩn dật thôn quê
Những người lánh nạn tìm về Lam hương
Khách dừng bên bến sông Lương
Chính thân trại chủ xuôi đường quá giang
Đưa về Nội Mục Sơn trang
Thết mời tân khách dựng làng nơi đây
Tiếng lành theo gió xa bay
Người theo kẻ lại như ngày nếp xôi
Người xuôi ngược, kẻ ngược xuôi
Ba trăm hai bảy con người thành thôn
Trong anh hùng tụ Lam Sơn
Có người vốn dõi nội tôn tư đồ
Bạch thành cát cứ dựng cờ
Là Trần Nguyên Hãn đến từ Giao Châu
Biết lường bộ hổ sức đâu
Nửa đêm đương giữa giấc sâu mơ màng
Mây làn, khói tỏa, bóng loang
Vị thần từ thuở Thuỷ Hoàng hiện lên
Báo rằng: "Chúa Lam Sơn miền
Là người được chọn để đền nợ xưa"
Nghe xong không khỏi ngẩn ngơ
Có người môn đệ nương nhờ nơi đây
Nhân đem ra kể chuyện này
Người em mơ giấc lạ thay cũng là
Mộng thần một giấc đêm qua
Hai người mơ một thực là thiên duyên
Đôi lời kể chút niềm riêng
Về người môn đệ Trần Nguyên Hãn này
Là Nguyễn Trãi, trí thẳng ngay
Nguyên quan ngự sử những ngày Hán Thương
Từ khi thôi chốn quan trường
Gặp cơn binh biến triều đường theo cha
Nhưng vì lời dặn thiết tha
Rằng: "Còn nợ nước thù nhà chưa xong
Con thuyền buộc chặt tình sông
Tìm nhân nghĩa chúa để cùng bình Ngô"
Như Phù Sai thấm dặn dò
Ngày nay lại bước thiên cơ thấm nhuần
Mới đem lời hỏi họ Trần
Rằng: "Điềm báo vậy huynh tâm thế nào"
Đáp rằng: "Người ấy ra sao
Thực hư chưa rõ, dẫu bao lời truyền
Là người tư chất phi thường
Cửa nhà rộng đón bốn phương anh tài
Vào Thanh ta thử một bài
Để xem là có thực tài hay không"
Tiên sinh nghe nói ưng lòng
Liền hôm sắm sửa để cùng anh đi
Tình ôm chặt, ngựa cương ghì
Tìm minh chủ để một khi tỏ bầy
Bình Ngô Sách vững trong tay
Nước non vó ngựa như say khắc giờ
Ba ngày sau đến bến bờ
Con sông giàn trải một tờ giấy phai
Khách xa buông tiếng kêu dài
Bên kia đò nhỏ khoan thai ngang dòng
Người trại chủ đứng ung dung
Thuyền vừa cập bến đều cùng chào nhau
Rằng: "Nghe danh tính đã lâu
Tướng quân dòng dõi vương hầu ngày xưa
Bạch thành tay dựng cơ đồ
Cớ sao lại phải tìm về Lam hương'
Đáp rằng:" tôi tự biết lường
Sức mình không nổi đảm đương việc đời
Nghe danh minh tướng hơn người
Những mong một mối kề đôi vai cùng
Đây người em cũng một dòng
Là con quan Nguyễn Ứng Long đời Hồ
Nguyên người giỏi việc binh cơ
Muốn đem dâng cuốn bình Ngô cho người "
Nghe xong trại chủ rạng cười:
" Tiên sinh có kế sách mời trình lên'
Khách xa bày tỏ nỗi niềm
Rằng:"trong năm tháng triền miên giam cầm
Vạch đường định quốc an dân
Tấm lòng cứu thế trở trăn những ngày
Chứa chan trong cảo sách này
Cúi xin người thấu điều hay sách truyền"
Nỗi niềm xúc động triều lên
Chủ nhân đón sách một niềm tỏ thông
Biết tình cuốn sách mênh mông
Từng trang là nhiệt huyết lòng son pha
Bình Ngô Sách hướng nhân hòa
Vững tay chẳng sợ đường xa sóng gần
Ngẫm nghiền hôm sớm từng phần
Từng trang lật giở khen thầm rằng hay
Hôm sau liền đến tỏ bày
Với người viễn khách đang ngày ngày trông
"Đoạt thành dụng kế tâm công
Khác gì Cai Hạ, Tử Phòng thổi tiêu
Lòng người đánh tới sâu chiều
Trước bền gốc cội sau nhiều cành vân
Không nằm ngoài ý quả nhân
Thực là cánh lớn chắp thân hổ rồi"
Tiên sinh như nói nghẹn lời:
"Lấy gì ví nỗi bề tôi lúc này
Bao năm một góc thành đày
Thù sâu nhà nước truyền tay viết thành
Có người hiểu đặng lòng mình
Thực là nay đã gặp minh chủ rồi
Từ nay sát cánh bên người
Dưới màn duy ác một lời trung trinh"
Hai người ánh mắt rưng rưng
Chữ sơ là tại chữ chung nguyện tồn.
Thời gian như nước sông tuôn
Ba năm kể đã tự nguồn con sông
Người tuấn kiệt kẻ đường cùng
Làm vây cánh để giao long hóa rồng
Đến nay đã có vài ngàn
Lương nhu chất chứa ngựa đàn nghìn con
Ba quân rèn luyện sớm hôm
Tìm nơi hẻo lánh dưới chòm trên thung
Khoẻ tay kiếm, dẻo tay cung
Voi xông xáo trận ngựa vùng vùng lên
Văn ôn võ luyện đã bền
Giờ đây đã đến lúc tiềm long ra
***
Đó là một buổi tháng ba
Tại nơi xóm nhỏ chữ là Lũng Nhai
Án hương đã đắp một đài
Mười tám người đứng kề vai một người
Cùng nhau hành lễ tế trời
Tiên nhân chủ lễ đọc lời thề xanh
Cùng nhau kết nghĩa liền cành
Anh em một mối thề sinh tử cùng
Đồng lòng thảo phạt thù chung
Trong cơn mưa gió bão bùng có nhau
Ai mà quên ước về sau
Núp trong thù nước mưu cầu gấm hoa
Thì trời gió giật sấm sa
Như xưa Thương Ưởng trâu trà tấc thân
Cùng vui tụ nghĩa quân thần
Rồi ra rượu trắng sông ngần thiết tha
Nghĩa kỳ dựng trước tư gia
Bình Định Vương ba chữ là tướng danh
Hịch truyền các trấn chung quanh
Nhân dân rỡ rỡ quan thành run run
Tin về khẩn báo Đông môn
Lam Sơn trại chủ khởi đồn phản quân
[1] Quá quan: Chỉ hành động vượt biên ải xâm lăng
[2] Khai Đại: Niên hiệu cuối triều Hồ
[3] Cương thường: Tam cương và ngũ thường. Tam cương là: Nghĩa vua tôi, cha con, vợ chồng. Ngũ thường là: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Tam cương và ngũ thường là các đạo đức thời xưa, ở đây được ví như hai khúc côn gắn chặt với nhau.
[4] Cương phương: Cứng cỏi
[5] Bạt sơn cử đỉnh; nhổ núi, nhấc vạc, chỉ sức khỏe hơn người
[6] Huệ Mộc, Săng Đào: Hai loại cây gỗ quý
[7] Câu này ý nói đôi mắt sáng như sương và sao gặp nhau
[8] Câu này ý nói giọng nói như tiếng chuông vàng. Kim chung: Chuông vàng
[9] Tô Đông Pha: Hiền sĩ ở Trung Quốc thời Tống. Nổi tiếng yêu thương nhân dân
[10] Vĩnh thù: Kẻ thù mãi mãi
[11] Xuân Thu: Tên các mỹ nữ. Ở đây dùng để chỉ chung các mỹ nữ
[12] Giao long: Loài sống dưới nước, khi chưa hóa rồng thì chỉ là bình thường
[13] Lưu ly: Lưu lạc, chia lìa, ở đây chỉ hoạn nạn, trong hoạn nạn vẫn không nhìn về phía sau để quay đầu, lui bước
[14] Tôn Tử: Nhà binh pháp nổi tiếng ở Trung Quốc thời Xuân Thu. Vũ Hầu: Tức Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, là quân sư cho Lưu Bị dựng nhà Thục Hán
[15] Triết tự chữ Hán: Đông A (Trần), Cổ Nguyệt (Hồ), Hợp Cầu (Minh), Văn Đao (Lưu, chỉ nhà Hán)
[16] Thời xưa chữ thường được viết vào xương động vật và mai rùa
[17] Miên thùy: Một loài hoa dại trên rừng có màu đỏ
[18] Thiên cầm: Chim trời
[19] Lưu Cầu: Tức đảo O-ki-na-oa ở phía nam Nhật Bản, nơi nổi tiếng có loại thép tốt để rèn kiếm
[20] Bình Nguyên: Tức Bình Nguyên Quân Triệu Thắng, người nổi tiếng hào hiệp, đón nhận nhiều môn khách
Phần 3: Trận Chi Lăng, Xương Giang và kết thúc thắng lợi
Minh triều đã tỏ chiến trường
Điều quân hai đạo chia đường phá băng
Một là thái phó Liễu Thăng
Trăm nghìn mã bộ Chi Lăng qua ngàn
Chinh Lỗ phó tướng ấn ban
Có Thôi đô đốc giúp giàn việc binh
Có Bảo Định Bá Lương Minh
Giữ danh tả phó tổng binh theo cùng
Hai là Mộc Thạnh quốc công
Năm vạn quân vượt ải đồng Lê Hoa
Chức tổng binh đạo quân qua
Chinh nam đại tướng quân là ấn xanh
Có Hưng An bá Từ Hanh
Tả tướng quân giữ chức danh trướng hùng
Có Tân Ninh bá Đàm Trung
Giữ danh hữu tướng giúp cùng việc quân
Hẹn khi tháng chín thượng tuần
Cứu nguy hai đạo đại quân chia đường
Ngựa lưu tinh đã tỏ tường
Minh công quyết kế khúc trường côn phân
Một vây thành quách giữ chân
Một lên quan ải kê gân sẵn chờ
Liễu Thăng dẫn đại quân Ngô
Tháng mười vừa đến cõi bờ Đại nam
Bỗng đâu một đạo quân Lam
Chặn đường tiếp chiến giữa ngàn Chi Lăng
Dẫn theo quân kỵ vài trăm
An Viễn hầu bước ruổi hăng giản mồi
Quân Lam vừa đánh vừa lui
Như Lưu Huyền Đức làm rơi đũa vờ
Dẫn theo mươi kỵ binh Ngô
An Viễn hầu đuổi qua gò Mã Yên
Quân ẩn phục vạn Cẩm Liên
Hai bên tả hữu câu liêm bời bời
Đại thượng tướng phi phản hồi
Một gươm Lam tới đầu rời tấc thân
Quân mất chủ miếu mất thần
Toàn quân nhuyễn sắc tương bần tựa như
Quân Ngô yếu ớt cành ngô
An hầu tử nạn trao cờ Lương Minh
Tiến Cần Trạm dấn thân mình
Nào đâu lại gặp quân Huỳnh đường mai
Chân hùm, tay gấu ngang tai
Tổng binh khôn đỡ hình hài giáo găm
Thôi Tụ đô đốc gắng tâm
Tàn quân thu thập sơn lâm băng miền
Ngựa Hồ nặng đá đeo yên
Thành Xương Giang nhắm hướng tiền lê binh
Đến nơi mới tỏ binh tình
Xương Giang đã thuộc tay Bình Định Vương
Đành lòng đóng trại giữa đường
Đào hào đắp lũy không mường tiến công
Quân Lam vây giáp như nung
Ngày giờ đã hẹn vạn tùng phá doanh
Mộc Thạnh quân đóng vùng ranh
Nhận về bằng sắc, ấn xanh An hầu
Vuốt hùm thành vuốt ấu nâu
Đại quân trên dưới chân đầu phút tan
Bấy giờ vạn gốc du sam
Đương vây giáp dữ Xương Giang trại này
Mồng năm tháng chín điểm ngày
Đại quân xung trận voi hay đưa ngà
Rộn vang hỏa pháo thanh la
Ầm ầm là tiếng của ba quân truyền
Hôm nay ngạnh kích xuyên tên
Đô đốc Thôi Tụ dây bền chặt thân
Đại quân cả phá đại quân
Cũng là nhờ tấm thuẫn thần tổ tông
Rồng Ngô nay hóa giao long
Cứu binh hai đạo tan đồng tàn kim
Ngô như Mạnh Đức vào Xuyên
Lam Sơn đồ điếu đã nên công thành
Ngô binh thủ giữ các thành
Đều là mặt trắng mặt xanh rụng rời
Mang tâm Phật, đem dạ người
Minh công mở lối Dĩnh, Thôi tha đoàn
Cấp Ngô ngàn lá Trắc vàng
Xe châu nếp tử thay bằng ngựa hay
Chọn giờ khắc, định tháng ngày
Đông Quan thành trước chung tay dưới cờ
Hòa thư cùng thảo một tờ
Từ đây Đại Việt cõi bờ hoan ca.
* * *
Nhà Hồ nối nghiệp Đông A
Nhà Lê dựng nghiệp nay là minh vương
Núi thiêng sinh gỗ trầm hương
Nước thiêng sinh sắc sao Lương tỏ mầu
Không thẹn nghe thuyết Vũ Hầu
Áo vàng thay tấm áo cầu (1) từ đây.
Chú thích:
(1) Áo cầu: Áo bằng lông cừu, chỉ lúc phong trần
Mình viết truyện này trong những năm gian khó của cuộc đời, mong đem đến cho mọi người một truyện thơ ý nghĩa và cái nhìn đúng hơn về Lê Lợi, xứng đáng với vai trò thực sự của ông. Năm học lớp 10 mình có đọc tác phẩm Khởi nghĩa Lam Sơn của GS Phan Huy Lê, mình thấy Lê Lợi không hề bị lu mờ trước vai trò của Nguyễn Trãi, bản thân Lê Lợi vẫn là người chủ đạo và là linh hồn của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi chỉ là hỗ trợ thôi. Cảm ơn mọi người đã theo dõi, và cùng mình đi hết chặng hành trình của cuốn truyện thơ.