Truyền Kì Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Mary Candy, 20 Tháng chín 2018.

  1. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chú thích chương V:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    (1) Thiên Trường: Đời Trần là phủ, gồm các huyện Mỹ Lộc, Giao Thủy, Tây Chân, Thuận Vi, khoảng thời Lê thuộc trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Nam Định và một phần nhỏ thuộc tỉnh Thái Bình.

    (2) Thiệu Bình: Niên hiệu của vua Lê Thái Tông từ 1434 đến 1439.

    (3) Ức Trai: Tên hiệu của Nguyễn Trãi (1380-1442), quê ở xã Nhi Khê, huyện Thượng Phúc, nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, đỗ đệ nhị giáp khoa thi Thái học sinh năm Thánh Nguyên thứ 1 (1400) đời nhà Hồ. Ông là một đại văn hào và là một anh hùng dân tộc Việt Nam.

    (4) Vu Phong: Non Vu, theo bài phú Cao đường của Tống Ngọc, là nơi Sở Hoài Vương chăn gối với thần nữ. Xem thêm chú thích (11) Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu.

    (5) Bùi Hàng đời Đường đi thi trượt trở về đến trạm Lam Kiều khát nước, vào một nhà gần đó xin uống. Trong nhà có bà cụ già gọi một cô gái tên là Vân Anh nhan sắc tuyệt đẹp. Bùi Hàng xin lấy làm vợ. Bà già đòi phải đem bộ chày cối ngọc để giã một viên thuốc tiên thì sẽ gả cho. Sau Hàng quả đi kiếm được chày cối ngọc đem đến rồi được lấy cô gái ấy. Té ra người con gái là một nàng tiên. Sau vợ chồng đưa nhau vào ở trong động Ngọc Phong đều thành tiên cả (Thượng hữu lục). Ngưu Tăng Nhụ cũng người đời Đường, đi thi trượt về, đến dưới núi Minh Cảo, trời tối lạc đường. Một lúc có bóng trăng lên, thoáng thấy một mùi hương lạ. Xa trông một chỗ có bóng đen, tìm đến thấy một tòa cung đền rực rỡ, thì ra là miếu của bà Thái hậu họ Bạc đời Hán. Bà Bạc Hậu hiện lên mời đón, rồi lại họp mời cả các bạn như Thích Phu Nhân. Chiêu Quân, Thái Chân, Phan Phi, v. V để cùng làm thơ, Tăng Nhụ cũng là một bài (Thượng hữu lục).

    (6) Nguyên tiêu: Đêm rằm tháng Giêng.

    (7) Tống Tử, Tề Khương: Lấy ý từ hai câu Kinh thi (Trần phong) : Khởi kỳ, thú thê, tất Tề chi Khương (Nếu lấy vợ, ắt là nàng họ Khương nước Tề) ; Khởi kỳ thú thê, Tất Tống chi Tử (Nếu lấy vợ, ắt là nàng họ Tử nước Tống). Họ Khương và họ Tử là hai họ dòng dõi và có con gái đẹp.

    (8) Hàn Hoành: Xem chú thích (4) Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu

    (9) Thôi Hộ đời Đường, ngày thanh minh đi chơi, khát nước vào một nhà xin uống, thấy một người con gái đem chén nước ra cho rồi đứng dựa cây đào nhìn mình chăm chú. Thôi đi rồi, bẵng một năm, năm sau cũng ngày thanh minh lại đến nhà ấy thì thấy đóng cửa. Chàng đề một bài thơ như sau: "Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất chi hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong". Nghĩa là: Bữa nay năm ngoái chốn qua chơi, Mặt ngọc hoa đào óng ánh tươi. Mặt ngọc ngày nay đâu vắng tá. Hoa đào năm ngoái vẫn còn cười. Người con gái xem thơ, nhớ thương rồi ốm chết. Chợt Thôi Hộ đến, nghe tiếng khóc chạy vào ôm thây mà khóc. Người con gái bỗng hồi tỉnh rồi sống lại. Ông bố bèn đem cô con gái gả cho Thôi Hộ (Tình sử).

    (10) Nàng Tây Thi là vợ vua Phù Sai nước Ngô người tuyệt đẹp.

    (11) Nàng Tiểu Man, vợ lẽ của nhà thi sĩ Bạch Cư Dị, múa rất khéo.

    (12) Cúc Hà: Lấy ý từ bài Thu phong từ của Hán Vũ Đế làm khi đi tế ở Hà Phần: Lan hữu tú hề cúc hữu phương: Hoài giai nhân hề bất năng vương (Lan có hoa chừ cúc tỏa hương, Nhớ người đẹp chừ lòng vấn vương). Lan Sở: Hoa lan nước Sở, một loài hoa cao quý mà Khuất Nguyên luôn nhắc tới trong tác phẩm Sở từ của ông.

    (13) Tôn Kính đời Hán, người Tín Đô, khi học ở nhà Thái Học, vì không có tiền sách vở nên đã ghép lá liễu làm giấy chép bài mà học. Ban đầu ngồi học, sợ ngủ quên nên đã túm tóc buộc lên xà nhà, hễ ngủ gật sẽ bị thức dậy.

    (14) Xem hoa: Theo lệ, sau khi thi Hội, những người thi đỗ được cho cưỡi ngựa xem hoa trong vườn thượng uyển. Nhưng Liễu và Hoa ở đây còn liên hệ đến tên hai nàng.

    (15) Vườn lãng: Chỉ cõi tiên, cũng như La Phù, Bồng Đảo đều là nơi tiên ở.

    (16) Mạt lỵ hoa: Tức hoa nhài.
     
  2. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương VI: Chuyện đối tụng ở long cung

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Huyện Vĩnh Lại ở Hồng Châu (1) khi xưa có nhiều giống thủy tộc. Men sông người ta lập đền thờ đến hơn mười chỗ. Năm tháng dần lâu, có chỗ linh thiêng thành yêu; song cầu tạnh đảo mưa đều rất linh ứng, nên hương lửa bất tuyệt mà người ta càng phải kính sợ.

    Về đời vua Minh Tông nhà Trần, (2) có quan Thái thú họ Trịnh làm quan ở Hồng Châu, vợ là Dương thị nhân khi về thăm nhà, đỗ thuyền ở bên cạnh một ngôi đền thờ thủy tộc. Bỗng có hai người con gái, bưng một cái hộp nhỏ thếp vàng, đến trước mặt Dương thị nói rằng:

    - Đức ông tôi sai đem vật này kính biếu phu nhân gọi là để tỏ một chút tình; sớm muộn trong làng nước mây, duyên cưỡi rồng sẽ được thỏa nguyện.

    Nói xong không thấy đâu nữa. Dương thị mở hộp ra xem thì trong đó có cái dải đồng tâm mầu tía, trên dải đề một bài thơ tứ tuyệt rằng:

    Giai nhân tiếu sáp bích dao trâm,

    Lão ngã tình hoài chúc vọng thâm.

    Lưu đãi động phòng hoa chúc dạ,

    Thủy tinh cung lý kết đồng tâm.

    Người đẹp đầu cài trâm bích ngọc,

    Cho ta thương nhớ ngẩn ngơ lòng.

    Vật này dành để đêm hoa chúc,

    Trong thủy tinh cung kết dải đồng.

    Dương thị cả sợ, cùng con hầu bỏ thuyền lên bộ; lại quay về nhiệm sở, kể chuyện với chồng. Trịnh cũng kinh sợ nói:

    - Giống thủy quái ở dâm từ chực bắt mình đấy, phải nên tránh nó đi. Phàm những chỗ bờ sông bến nước đừng bước chân đến. Gặp những đêm mưa gió hay đêm tối trời, phải thắp đèn sáng và cắt người canh giữ.

    Phòng ngừa như thế được chừng nửa năm vẫn thấy vô sự. Đến đêm trung thu kia, nhân thấy bầu trời quang mây, bốn bề trong vắt, sông Ngân vằng vặc, trăng sao sáng tỏ như ban ngày, Trịnh mừng mà rằng:

    - Trăng thanh gió mát như đêm nay có thể không lo gì cả.

    Vợ chồng bèn cùng nhau uống rượu, uống say rồi ngủ lỳ. Chả ngờ đâu sấm chớp bỗng chốc nổi lên, lúc Trịnh thức dậy thì cửa ngõ vẫn nguyên mà Dương thị không thấy đâu nữa. Đến xem chỗ cái đền ngày trước thì mặt sông phẳng lặng, trăng chiếu lạnh lùng, thấy có áo xiêm của Dương thị ở đó. Trịnh Thái thú tiếc ngọc thương hoa, nỗi buồn thật không sao kể xiết, chỉ đứng giữa trời mà nghẹn ngào than thở, không biết làm sao được.

    Rồi Trịnh buồn nản bỏ quan về, chôn một cái mả hờ dưới chân núi Đốn, hằng ngày ở một mình trong cái lầu nhỏ. Cái lầu trông xuống bến sông, mà chỗ bến ấy là một cái vực sâu thăm thẳm. Trịnh mỗi khi lên lầu đứng trông, thường thấy có ông cụ già đeo một cái bao đỏ đựng tiền, sớm đi rồi tối về. Trịnh nghĩ thầm: Quái! Đây là một bến sông sâu thẳm, nào có thôn xóm gì đâu mà ông già kia lại đi lại như vậy. Bèn thử tìm đến chỗ ấy thì quả thấy chỉ có bãi cát phẳng lặng không có nhà cửa gì, duy lèo tèo mấy khóm lau sậy đứng rung rinh ở trên mặt nước. Trịnh lấy làm lạ, đi rộng ra các ngả để tìm, thấy ông cụ già đã đương ngồi xem bói ở trong chợ Nam. Trịnh trông cụ mặt mũi gầy guộc nhưng tinh thần trong sáng, đoán chắc là một kẻ ẩn sĩ lánh đời, nếu không thì một vị chân nhân đắc đạo, lại không nữa thì hẳn là một tiên khách trong áng yên hà, bèn cùng ông cụ làm thân, hằng ngày bày tiệc rượu, cùng nhau chè chén rất vui vẻ. Ông cụ có vẻ cảm bụng tốt của Trịnh, nhưng hỏi họ tên thì chỉ cười mà không chịu nói. Trịnh lấy làm nghi hoặc lắm. Hôm khác Trịnh trở dậy rất sớm, nép mình ở bên khóm lau sậy để nhòm trộm xem ra thế nào. Bấy giờ sương mai ướt át, khói sớm mịt mù, Trịnh thấy ông già từ dưới nước thủng thỉnh đi lên, vội vàng chạy ra sụp lạy. Ông già cả cười nói:

    - Thế ra ông định dò tìm tung tích của tôi ư? Thôi nay đã biết nhau rồi, để tôi kể cho mà biết rõ. Tôi là Bạch Long hầu, may bây giờ hãy còn năm đại hạn, mới có thì giờ rỗi đi chơi lăng băng, chứ nếu Ngọc Hoàng có sắc chỉ truyền đi làm mưa thì chẳng còn đâu thì giờ nhàn để đi làm nghề bói ở nhân gian nữa.

    Trịnh nói:

    - Ngày xưa Liễu Nghị có cuộc xuống chơi dưới Động Đình (3). Thiện Văn có cuộc ăn yến ở Long cung (4), chẳng hay kẻ phàm tục này, có thể được theo dấu của người xưa không?

    Hầu nói:

    - Khó gì sự đó.

    Liền lấy đầu gậy vạch xuống nước, nước rẽ đôi ra, Trịnh theo Long hầu xuống. Đi được chừng nửa dặm thì thấy trời đất trong sáng, lâu đài chót vót, từ nhà ở đến thức ăn, đều là những vật ở nhân gian không có. Hầu tiếp đãi rất chu đáo. Trịnh nói:

    - Không ngờ một kẻ nghèo khó lại được bước đến chỗ tôn nghiêm này. Ngày xưa có cái tai biến phi thường, ngày nay có sự gặp gỡ phi thường, công việc báo phục, có lẽ chính ở dịp này chăng?

    Long hầu hỏi căn do, Trịnh đem việc Dương thị ra kể, và nói mong nhờ cậy uy linh, trừ loài hung xú, khiến buồm nhân gió mà được thuận, cáo nhờ hổ để dương oai, thì thật là cũng bõ một phen gặp gỡ.

    Long hầu nói:

    - Họ dù càn rỡ, đã có sắc mệnh của triều đình Long vương. Huống chi mỗi người riêng ở một nơi, không thống thuộc gì với nhau, ai dám vượt qua sông nước, dấy động giáp binh, để phạm vào một cái tội lỗi không thể tha thứ.

    Trịnh nói:

    - Vậy thì bây giờ tôi phát đơn kiện ở triều đình Long vương được không?

    Hầu nói:

    - Âm dương khác nẻo, chuyện chưa rõ ràng, ông muốn đem cái việc vô bằng, bắt kẻ địch rất mạnh, sợ rằng mối thù ấy chưa thể trả được. Chi bằng trước hẵng cậy người dò xét, lấy được chứng cớ, thì trừ kẻ gian kia chẳng khó khăn gì. Song tả hữu của tôi, không có người nào đủ chắc cậy để sai đi được, vậy để ta hãy liệu xem đã.

    Cạnh đấy có một người con gái áo xanh bước ra nói rằng:

    - Thiếp xin nhận công việc ấy.

    Trịnh bèn cung kính mà nói lời ủy cậy và trao cho một cành thoa bằng ngọc mầu biếc để cầm đi làm tin.

    Nàng áo xanh đến miếu thờ Thần Thuồng luồng ở Hồng Châu, hỏi thăm quả có người đàn bà họ Dương, hiện được phong là Xương ấp phu nhân, ở trong một cái điện bằng ngọc lưu ly, chung quanh có ao sen bao bọc, gối chăn yêu dấu, hơn hết các phòng, và năm ngoái đã sinh được một con trai.

    Nàng mừng lắm, song lâu đài chi chít, không có đường thông, đành chỉ thẩn thơ ở ngoài cổng. Bấy giờ màu xuân đương đẹp, hoa tường vi nở rất nhiều, trông hình như muôn điểm ráng hồng, kết lại ở trên tường rực rỡ. Nàng vờ như không biết, vừa bẻ vừa rung. Người canh cổng nổi giận. Nàng liền đưa cành thoa đút lót mà nói:

    - Tôi tưởng những dây hoa leo này, không phải là của quý gìn giữ, lỡ tay vin hái, thật là có tội. Tấm thân yếu ớt, sợ không chịu nổi roi vọt. Vậy xin bác cầm cành thoa này đưa vào lầu ngọc, để mong được khoan tha không phải đánh đập, thì tôi thực đội ơn vô cùng.

    Người ấy nghe lời, cầm cành thoa vào dâng Dương thị. Dương thị nhìn lúc lâu, giả cách nổi giận mà rằng:

    - Con bé nào mà dám đường đột như vậy, làm hỏng cả một giàn hồng cẩm của ta.

    Truyền đem trói người con gái ấy trong vườn ngân hạnh. Thừa lúc vắng vẻ, Dương thị lẻn đến, cầm cành thoa khóc mà nói rằng:

    - Đây là vật cũ của Trịnh lang chồng ta xưa làm sao lại ở tay chị? Hãy nói rõ sự thực đi!

    Nàng áo xanh nói:

    - Bảo vật này chính là do Trịnh lang đã giao cho tôi.

    Lại nói:

    - Trịnh lang hiện đương ở nhà Bạch Long hầu, vì phu nhân mà quên ăn bỏ ngủ, rồi nhờ tiện thiếp xa gửi đến một mối tình để trả món tương tư nợ cũ.

    Nói chưa hết lời thì có con tiểu hoàn vào báo là tuần Thuồng luồng có lệnh vời. Dương thị vội lật đật đi ra: Sáng hôm sau lại đến, ân cần hỏi han và trao cho một bức thư mà dặn rằng:

    - Chị về nói hộ với Trịnh lang cho ta: Người vợ xấu số ở bến nước xa xăm, lúc nào cũng vẫn thương nhớ đến chàng; chàng nên cố xoay xở cách nào để cho được phượng lại trong mây, ngựa về trên ải, đừng khiến tôi phải già đời ở chốn cung nước làng mây này.

    Bức thư gửi cho Trịnh lang như sau:

    "Non thề bể hẹn, chao ôi việc trước lỡ làng, gió dập mưa dồn, ngán nỗi kiếp này lận đận. Nước non muôn dặm, tâm sự mấy lời. Nghĩ như thiếp chút phận mỏng manh, tấm thân mềm yếu. Duyên đôi lứa tự trời xe lại, ước trăm năm cùng huyệt dám sai. Nào ngờ biến dậy một đêm, đến nỗi hình rơi đáy vực. Bởi không thể chìm châu đắm ngọc, nên đành cam giãi nguyệt dầu hoa. Áo xiêm đã lắm tanh nhơ, thân thế tạm thời còn thoi thóp. Sầu đầy tựa bể, ngày dài như năm. Nào hay giữa lúc bơ vơ, bỗng nhận được thư thăm hỏi. Ngắm cành thoa mà ứa lệ, nhìn khách đến những đau lòng. Một bước lỗi lầm, riêng cỏ nội hoa hèn thắc mắc; ba sinh thề ước, có trời cao đất cả chứng tri. Ngọc bích chưa lành, cân vàng xin chuộc".

    Nàng áo xanh trở về báo tin cho biết, Long hầu bảo Trịnh rằng:

    - Việc có thể nên được đấy.

    Bèn cùng nhau đi ra bể nam, đến thăm một tòa thành lớn. Hầu vào trước, bảo Trịnh đứng đợi chỉ ở ngoài cửa thành. Một lát, Trịnh thấy một người ra dẫn vào trong một cái đền, trên đền có một vị vua mặc áo tinh hồng, (5) mang đai ly châu, (6) quần thần đứng chầu chực hai bên không biết bao nhiêu mà kể. Trịnh quỳ dài xuống mà tâu bày mọi nỗi, lời rất thê thảm. Đức vua ngoảnh nhìn vào một viên đứng bên phía tả, giục thảo trát đòi. Rồi có hai người lính vượt không ra đi. Chừng độ nửa ngày, hai người lính áp giải đến một người đàn ông, thân thể vạm vỡ, mũ đỏ mặt đen, râu ria đâm tua tủa như rễ tre vậy, ra giữa sân mà quỳ rạp xuống. Đức vua mắng rằng:

    - Tước không cho nhảm, phải đợi người công lao, hình không dùng xằng, để trị kẻ gian nhũng. Như nhà ngươi trước có công lao, nên ta cho coi giữ một phương, vì dân che trở. Vậy mà ngươi giở thói dâm ngược, như thế là trừ tai ngừa hoạn cho dân đấy ư?

    Người ấy nói:

    - Kẻ kia ở trên trần, tiểu thần ở dưới nước, mỗi người một ngả, có can thiệp gì đến nhau. Vậy mà hắn buông lời phao vu, để hãm hại người vô tội. Nếu bệ hạ tin nghe lời hắn thì triều đình mắc sự lừa dối mà tiểu thần chịu tội mập mờ, tưởng không phải là sự yên trên toàn dưới vậy.

    Bên nói đi, bên cãi lại, người ấy vẫn không chịu nhận tội, đức vua cũng hồ nghi không biết quyết định thế nào. Long hầu đứng bên khẽ rỉ tai bảo Trịnh rằng:

    - Chi bằng khai tên tuổi Dương thị, xin cũng bắt đến xét hỏi.

    Trịnh theo lời tâu lên, đức vua quả truyền đi bắt Dương thị đến. Ngày đã xế chiều, lại thấy hai người lính dẫn đến một mỹ nhân, xúng xính thướt tha, từ mé đông lại. Đức vua hỏi:

    - Chồng ngươi đâu?

    Dương thị tâu:

    - Người áo xanh kia là chồng thiếp, còn người áo đỏ là kẻ thù. Độ trước không may bị cái yêu ấy bắt cướp, trải đã ba năm trời nay. Nếu không nhờ được sự soi tới của vầng thái dương, thì hồn tàn vóc nát sẽ phải chịu nhơ nhuốc trọn đời, còn mong gì được ló mặt ra nữa.

    Đức vua cả giận nói:

    - Không ngờ thằng giặc kia lại gian hoạt đến như thế. Bên trong thì làm sự dâm dật, mặt ngoài thì già họng chối cãi. Việc ấy nỡ làm thì dù đem xử tử cũng không đáng tiếc.

    Bấy giờ có một người mặc áo bào xanh hiệu là Chính hình lục sự, tâu rằng:

    "Thần nghe: Vì tình riêng mà ban thưởng, thưởng sẽ không công, đương lúc giận mà xử hình, hình tất quá đáng. Duỗi co vốn khác, châm chước mới nên. Đem cái tài vuốt nanh, giữa cái trách phên giậu, tự hắn dẫu gây nên tội nghiệt, với dân cũng có chút công ân. Có tội phải gia hình, tuy đã cam bề vạn tử; đem công mà trừ lỗi, cũng còn mong được toàn sinh. Xin khoan cho tội tru di, hãy giam vào ngục đen tối".

    Đức vua khen phải, bèn phê phán rằng:

    "Mảng nghe: Đời người như khách trên đường, kẻ trước đi qua mà kẻ sau tiếp đến; đạo trời không sai tơ tóc, làm lành được phúc mà làm ác chẳng yên. Lệ luật không mờ, cổ kim vẫn thế. Nay nhà ngươi vốn do huân phiệt, lạm giữ phương ngung. Lẽ nên linh hiển, để tỏ đức rồng, sao được tà dâm, làm theo nết rắn. Sự càn rõ ngày càng quá tệ, luật công minh tất phải thi hành. Than ôi, vợ người cố chiếm, đã rất mực mê cuồng, phép nặng không dong, để răn phường gian ác. Dương thị kia, nết tuy đáng trỏ, tình cũng khá thương; thân nên về với tiền phu, con để trả cho hậu phu. Mấy lời phê phán, lập tức thi hành".

    Nghe lời phán xong, thần Thuồng luồng cúi đầu đi ra. Tả hữu cũng đưa mắt cho Trịnh bảo lui. Long hầu về nhà bèn đặt tiệc mừng, và tặng cho các thứ văn tê, đồi mồi. Vợ trồng Trịnh cùng lạy tạ rồi trở về nhà, kể hết đầu đuôi cho người nhà nghe, ai cũng đều mừng thay và lấy làm một chuyện lạ.

    Sau Trịnh có việc đến Hồng Châu, lại đi qua chỗ đền ấy, thấy tường xiêu vách đổ, bia gẫy rêu trùm, duy có cây gạo đương tung bay bông trắng ở dưới bóng dương tà xế. Hỏi thăm những ông già bà cả, đều nói: "Trước đây một năm, một hôm giữa ban ngày bỗng dưng không mây mà mưa, nước sông đầy dẫy, rồi có một con rắn dài mười trượng, vẩy biếc mào đỏ, nổi trên mặt nước mà đi lên mạn Bắc, đằng sau có hàng hơn trăm con rắn nhỏ đi theo, đền từ đấy không linh thiêng nữa". Bấm đốt tính xem thì ngày ấy chính đúng vào ngày Trịnh kiện. Ôi lạ thay!

     
  3. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chú thích chương IV:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    (1) Hồng Châu: Tương đương với vùng đất thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.

    (2) Minh Tông nhà Trần: Trần Mạnh, vua thứ năm nhà Trần từ 1314 đến 1329; niên hiệu Đại Khánh (1314-1323) và Khai Thái (1324-1329).

    (3) Liễu Nghị người đời vua Trung Tông nhà Đường, đi thi bị trượt, về đến đất Kinh Dương, thấy một người đàn bà chăn dê đến nói rằng: "Thiếp là con gái vua Động Đình, gả cho con thứ vua Kinh Xuyên, bị con hầu gái xúc xiểm, thành ra đắc tội với cha mẹ chồng, nên phải truất đuổi đến đây. Nghe chàng về qua Động Đình, làm ơn đưa hộ thiếp bức thư. Nhà thiếp ở cổng có cây quýt lớn, cứ gõ vào cây ba tiếng thì có người ra". Nghị theo lời. Rồi nhân thế được đón xuống chơi Long cung. Sau Nghị lấy người con gái họ Lư, nàng xưng mình chính là Long nữ nhờ Nghị đưa thư ngày trước, rồi cùng đưa nhau về ở Động Đình.

    (4) Khoảng niên hiệu Chí Chính nhà Nguyên, có người học trò là Dư Thiện Văn, giữa ban ngày thấy hai người lực sĩ đến nói là vâng mệnh của Quảng Lợi vương (vua thủy) sai đón, Thiện Văn theo đi. Đến bến sông xuống một chiếc thuyền, thấy hai con rồng vàng cắp mà đem đi, rồi xuống đến Thủy phủ. Quảng Lợi vương tiếp đón long trọng rồi nhờ soạn hộ một bài văn để đọc lúc làm lễ cất câu đầu của tòa đền Linh Đức sắp dựng. Thiện Văn liền làm hộ một bì rất hay. Khi khánh thành, Thiện Văn được dự một bữa yến lớn.

    (5) áo tinh hồng: Áo màu đỏ; tinh: Con tinh tinh thuộc họ vượn. Tinh hồng: Màu đỏ như huyết con tinh tinh.

    (6) Đai ly châu: Đai ngọc quý. Ly châu: Ngọc, ý từ sách Trang Tử: "Ngọc châu nghìn vàng tất ở dưới hàm con ly long, dưới vực sâu chín trùng" (Thiên kim chi châu, tất tại cửu trùng chi uyên, nhi ly long hàm hạ)
     
  4. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương VII: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị (*)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ả danh kỹ ở Từ Sơn (1) là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu Thiệu Phong (2) thứ năm (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc.

    Một hôm vua thả thuyền chơi trên sông Nhị, rồi đi lần xuống tận bến Đông Bộ Đầu (3). Vua lãng ngâm rằng:

    Vụ ế chung thanh tiểu,

    Sa bình thụ ảnh trường.

    Nghĩa là:

    Mù tỏa tiếng chuông nhỏ,

    Cát phẳng bóng cây trường (dài).

    Các quan chưa ai nối được vần, nàng Đào liền ứng khẩu được ngay:

    Hàn than ngư hấp nguyệt,

    Cổ lũy nhạn minh sương.

    Nghĩa là:

    Bến lạnh cá đớp nguyệt,

    Lũy cổ nhạn kêu sương.

    Vua khen ngợi hồi lâu rồi nhân đó gọi là: "ả Hàn Than".

    Vua Dụ Tôn mất, nàng phải thải ra ở ngoài phố, thường đi lại nhà quan Hành khiển là Ngụy Nhược Chân. Bà vợ quan Hành khiển không có con mà tính hay ghen, ngờ Hàn Than tư thông với chồng, bắt nàng đánh một trận rất là tàn nhẫn. Nàng tức tối vô cùng, bèn đem những trâm hoa bằng vàng ngọc bán đi để thuê thích khách vào nhà Nhược Chân trả thù.

    Nhưng thích khách đến, bị người nhà Nhược Chân bắt được, lúc đem tra khảo, hắn xưng ra Hàn Than. Hàn Than sợ, phải cạo trọc đầu và mặc đồ nâu sồng, trốn đến tu ở chùa Phật Tích (4), giảng kinh thuyết kệ, chỉ mấy tháng đã làu thông lắm. Nàng có dựng ra am gọi là am Cư Tĩnh, mời họp các văn nhân để xin một bài bảng văn. Bấy giờ trong làng có một cậu học trò tuổi độ 14, 15, cũng đến hội họp. Hàn Thanh khinh là còn ít tuổi, nói đùa rằng:

    - Anh bé con này cũng làm văn được à? Vậy thử làm cho tôi xem nào.

    Cậu học trò không tỏ vẻ giận gì cả, lui lại dò hỏi được gốc tích Hàn Than, rồi làm bài văn như sau:

    Cái văn: Phật bản từ bi, kỳ danh viết giác,

    Nhân năng thanh tịnh, tức ngụy thành chân.

    Năng tu pháp giới tân lương,

    Tiện thị tùng lâm tông chủ.

    Kính duy Phật Tích am sơn chủ Đào Thị

    Danh đào nhạc tịch,

    Đính lễ Phạm vương.

    Đào khẩu liễu yêu, trạo thiệt tế tài án duyệt Lương Châu kỷ khúc,

    Từ vân tuệ nhật, đài đầu gian dĩ quy y Đâu suất chư thiên.

    Quần phao tương thủy tằng tằng,

    Mấn lạc Sở vãn đoạn đoạn.

    Mộng lý vô đoan xúc cảnh, bán chẩm du tiên,

    Phong tiền hà xứ liêu nhân, sổ xoang đoản địch.

    Ca viện bất như tăng viện tĩnh,

    Nạp y tuyệt thắng vũ y lương.

    Thủy cúc Tào khê, do phân khuy kính ảnh,

    Dạ tuyên bối diệp, thượng tác nhiễu lương thanh.

    Tuy vân thiền định vong cơ,

    Phả nại cuồng tâm bị tửu.

    Túc bất hướng Tầm Dương tống khách,

    Thân khước lai Hàng Quận tham thiền.

    Ngũ Lăng nhi phao cẩm triền đầu, tuy tùy vị dĩ,

    Tam sinh khách kết Liên hoa xã, chiêu dẫn hà tần.

    Y! Chung tàn trà yết vô dư sự,

    Hảo hướng sơn phòng nhất đả miên.

    Mảng nghe:

    Phật vốn từ bi, gọi tên là Giác,

    Người mà thanh tĩnh, hóa giả thành chân.

    Muốn lên tông chủ trong rừng thiền,

    Hãy gắng tu trì trong cõi phép.

    Kính nghĩ am chủ ở núi Phật Tích là Đào Thị,

    Sổ ca nhạc rút tên ra khỏi.

    Cửa Phạm vương (5) núp bóng tìm vào,

    Miệng đào lưng liễu, uốn lưỡi vừa véo von mấy khúc Lương Châu (6).

    Nhật sáng mây lành, nghển đầu đã tựa nương dưới trời Đâu Suất (7),

    Quần ném dòng Tương lớp lớp.

    Tóc rơi mây Sở từng từng,

    Trong mơ xúc cảnh bâng khuâng, du tiên nửa gối,

    Trước gió ghẹo người réo rắt, đoản địch vừa xong.

    Phòng tăng vắng vẻ khác phòng ca,

    Áo đạo nhẹ nhàng hơn áo múa.

    Khe Tào múc nước (8), chợt ngờ mặt phấn trong gương,

    Lá bối (9) tụng kinh, còn thoảng âm vang trước nóc (10).

    Mùi thiền dẫu bén,

    Lòng tục chưa phai.

    Bến Tầm Dương (11) không đến gẩy tỳ bà,

    Chùa Hàng Quận (12) lại vào nghiền kinh kệ.

    Gấm triền đầu phấp phới, theo đuổi chưa thôi (13),

    Hội Liên Hoa dập dìu, đón mời sao khéo (14).

    Ôi! Chuông tàn trà cạn ngồi chi nữa?

    Buồng núi vào tìm một giấc say.

    Bài văn làm xong, viết lớn rồi dán vào cửa chùa, xa gần đua nhau chép. Hàn Than nhân thế, đương đêm bỏ chùa mà trốn. Nghe chùa Lệ Kỳ (15) ở hạt Hải Dương là một nơi nước tú non kỳ, phong cảnh tuyệt đẹp, trụ trì có sư già Pháp Vân và sư bác Vô Kỷ, bèn đến chùa xin bái yết. Pháp Vân không nhận và bảo Vô Kỷ rằng:

    - Người con gái này, nết không cẩn nguyện, tính bén lẳng lơ, tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt. Vậy ngươi nên liệu lời từ chối, đừng để hối hận về sau.

    Vô Kỷ không nghe, lại cứ nhận cho Hàn Than ở. Pháp Vân lập tức dời lên ở tận trên đỉnh núi Phượng Hoàng.

    Hàn Than tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa từ bỏ.

    Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son, tô má phấn. Cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng Vô Kỷ tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa.

    Hằng ngày hai người cùng nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được đều dấp bút đề vịnh để ghi danh thắng. Những thơ như thế nhiều lắm không thể chép hết được, xin thuật ra đây độ một hai phần:

    Sơn Vân

    Dao đễ nùng hoàn đạm,

    Thiên biên thấp vị hy.

    Hiểu tùy sơ vũ khứ,

    Mộ đới lạc hà quy.

    Ái đại nhân phong quyển,

    Du dương đáo xứ phi.

    Tăng dung đồng diệc lãn,

    Thùy vị yểm nham phi.

    Mây núi

    Bên trời đậm nhạt không thường,

    Ráng chiều mưa sớm bốn phương đi về.

    Sư lười tiểu cũng lười ghê,

    Siêng năng khép cửa bồ đề ấy ai?

    Sơn vũ

    Nhất vũ thiên nham mính,

    Tiêu tiêu tác ý minh.

    Châu cơ đôi địa sắc,

    Tinh đẩu lạc thiên thanh.

    Lựu đoạt toàn lưu cấp,

    Lương hồi khách mộng thanh.

    Sơn phòng vô cá sự,

    Nhập dạ kỷ tàn canh.

    Mưa núi

    Rào rào một trận mưa rơi,

    Đầu non ngọc rụng, lưng trời sao sa.

    Nước xô hơi lạnh vào nhà,

    Buồng sâu quạnh vắng đêm tà tà canh.

    Sơn phong

    Linh lại khư u động,

    Chung tiêu sách sách thanh.

    Phiên hoa hồng ý loạn,

    Quyển thụ lục âm kinh.

    Tăng nạp hàm lương thiển,

    Chung lâu tống hưởng thanh.

    Mang mang thiên địa nội,

    Phi vị bất bình minh.

    Gió núi

    Thâu đêm tiếng thổi ào ào,

    Hoa xơ xác thắm, cây rào rạt xanh.

    Chuông lầu đưa tiếng thanh thanh,

    Không gian nào phải bất bình mà kêu.

    Sơn nguyệt

    Ẩn ẩn lâm sao quýnh,

    Liên không hạo khí phù.

    Hàm sơn ngân kính khuyết,

    Cách vụ ngọc bàn thu.

    Ảnh lạc tùng quan tĩnh,

    Lương hồi trúc viện u.

    Thanh quang tùy xứ hữu,

    Hà tất thướng Nam lầu.

    Trăng núi

    Sau rừng khí sáng lên cao,

    Long lanh gương bạc gác vào đỉnh non.

    Bóng soi mát dịu tâm hồn,

    Lên lầu Nam, lọ phải còn tốn công (16).

    Sơn tự

    Nhất thốc huy kim bích,

    Nham yêu ẩn tịch dương.

    Phong cao tùng húng lãng,

    Thiên cận quế phiêu hương.

    Động tiểu cầm thanh náo,

    Phong tà tháp ảnh trường.

    Trần gian danh lợi khách,

    Vọng thử kỳ bàng hoàng.

    Chùa núi

    Âm thanh ẩn dưới bóng tà,

    Thông cao hát gió, quế già phun hương,

    Chim rừng ríu rít kêu vang,

    Khách trần ai có mơ màng chăng ai?

    Sơn đồng

    Sinh trưởng tiều tô địa,

    Ninh tri thiển thảo nguyên.

    Cuồng ca vân hắc ám,

    Đoản địch nhật hoàng hôn.

    My lộc phù ê lữ,

    Yên hà thủy thạch thôn.

    Quy lai thâm động lý,

    Vân bế tiểu càn khôn.

    Tiểu đồng trong núi

    Năm năm sinh trưởng trong rừng,

    Đùa mây hát sớm, thét trăng còi chiều.

    Bạn bầy chim đá nai hươu,

    Càn khôn riêng mở bên đèo khói mây.

    Sơn viên

    Ẩn ước sào nam lữ,

    Duyên nhai nhật kỷ hồi.

    Sầu tương Ba lệ lạc,

    Thanh nhập Sở vân ai.

    Ẩm giản hô bằng khứ,

    Văn kinh tác bạn lai.

    Vân thâm hà xứ mịch,

    Sơn sắc chính thôi ngôi.

    Vượn núi

    Non cao ngoăn ngoắt leo chơi,

    Tiếng kêu buồn để cho người rơi châu.

    Uống khe dắt rủ bạn bầu,

    Ngàn mây ẩn bóng biết đâu dò tìm.

    Sơn điểu

    Thân thế vân yên ngoại,

    Y y tận nhật nhân.

    Nhất thanh sơn sắc minh,

    Sổ cá tịch dương hoàn.

    Tăng củng hàm lai quả,

    Sào thê đáo xứ san.

    Chu thu thùy hội ý,

    Phi nhiễu tiết la gian.

    Chim núi

    Khói mây ngày tháng thong dong,

    Kêu trong sắc núi, vờn trong bóng chiều.

    Tha quả chín, đậu đồi kiêu,

    Bên rừng lá rậm dập dìu liệng quanh.

    Sơn hoa

    Noãn nhập cao đê thụ,

    Chi chi hỏa dục nhiên.

    Đông tây hà thế giới,

    Viễn cận cẩm sơn xuyên.

    Hồng vũ lâm yêu đọa,

    Hương phong động khẩu truyền.

    Tự khai hoàn tự lạc,

    Kim cổ kỷ xuân thiên.

    Hoa núi

    Xuân sang đỏ ối cành cành,

    Mây thêu gấm dệt bao quanh bốn bề.

    Sắc hương man mác rừng khe,

    Cổ kim từng biết bao khi nở tàn.

    Sơn diệp

    Nhất bích thiên vô tế,

    Tùng điều nhân vọng mê.

    Thu lai hoàng bị kính,

    Xuân đáo lục doanh khê.

    Trú quyện vô nhân tảo,

    Yên thâm hữu điểu đề.

    Thương nhiên khan bất tận,

    Thiên lý tịch dương tê (tây).

    Lá núi

    Lưng không bát ngát bốn bề,

    Thu sang ngập úa, xuân về rợp xanh.

    Chim kêu ríu rít đầu cành,

    Tà dương bóng ngả chênh chênh ngàn đoài.

    Hai người ham mê nhau quá, chỉ cốt cái thú vui sướng trước mắt. Nhưng vui quá hóa buồn, lẽ tự nhiên như thế, không có gì là lạ. Năm Kỷ Sửu (1349) nàng quả vì có thai rồi ốm, lay lứt từ mùa xuân đến mùa hạ, ngồi lên nằm xuống, tất thảy đều có người đỡ vực. Sư Vô Kỷ vốn không biết thuốc, lại không biết đường chạy chữa, khiến nàng sau phải nằm quằn quại chết ở trên giường cữ. Vô Kỷ xót thương vô hạn, quàn nàng ở cuối mái hành lang phía Tây, sớm tối vỗ vào áo quan mà khóc rằng:

    - Em ơi, em vì anh mà chết một cách oan uổng. Nếu anh được theo em cùng chết, anh rất sẵn lòng, khỏi để em vò võ một mình ở nơi chín suối. Huống chi khi em bình sinh vốn thông tuệ, khác hẳn với mọi người thường, nếu có linh thiêng, xin sớm cho anh được theo về dưới đất, anh không muốn lại trông thấy sư cụ Pháp Vân nữa.

    Sau mấy tháng Vô Kỷ cũng vì nhớ thương mà thành ốm, lai rai đến nửa năm trời, bỏ cả cơm cháo. Một đêm thấy Hàn Than hiện đến bảo rằng:

    - Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệt, đài Dao mệnh dứt, đến nỗi chia bày, sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn quýt. Mong chàng hiểu câu lục như (17), như bỏ giường thiền tứ đại (18), tạm rời cảnh Phật, về chốn suối vàng để thiếp được ngửa nhờ Phật lực, thác hóa đầu thai, đặng trả cho xong một cái nợ oan gia ngày trước.

    Nói xong thì không thấy đâu cả. Từ đấy bệnh Vô Kỷ ngày càng nguy kịch. Sư cụ Pháp Vân nghe tin, xuống núi để thăm, thì bệnh đã không thể cứu vãn được nữa, đành chỉ trông nhau ứa nước mắt, rồi một lát thì Vô Kỷ chết.

    Đêm hôm ấy gió mưa dữ dội, ở kinh đô có nhiều nhà lật mái đổ tường. Bà vợ quan Hành khiển Ngụy Nhược Chân chiêm bao thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách bên tả. Sau đó rồi bà có mang sinh ra được hai người con trai, đặt tên người con lớn là Long Thúc, người con bé là Long Quý. Hai đứa trẻ ấy mới đầy một tuổi đã biết nói, lên tám tuổi đã biết làm văn, được cha mẹ rất là yêu quý. Bây giờ đang giữa mùa hè nóng bức, Nhược Chân một hôm ngồi hóng mát trên cái lầu cao. Cửa lầu trông xuống đường, có một vị thầy tu đói khó đi qua ở dưới, dùng dằng trông ngắm, muốn đi mà không đi dứt được. Chợt rồi người ấy phàn nàn:

    - Lạ thay tòa lâu đài thế kia mà rồi sẽ thành cái vực của thuồng luồng. Đáng tiếc! Đáng tiếc!

    Nhược Chân sợ hãi thất sắc, vội chạy theo hỏi; ban đầu thầy tu không chịu nói, chỉ bảo vừa rồi bàng hoàng nói nhảm chứ không thấy có gì lạ, xin bất tất phải nghi ngờ. Nhưng Nhược Chân cứ cố khẩn nài, thầy tu mới bảo là nhà ông chứa đầy khí yêu quái, nếu không là nghiệp báo kiếp trước thì tất là oan gia kiếp này; người ta đã ở trong nhà ông, chỉ năm tháng nữa thì cả nhà không còn sống sót một mống. Nhược Chân kêu xin cứu cho, thầy tu nói: Tôi vốn có con mắt xem người rất sành. Xin cho tôi xem tất cả người trong nhà, hễ tôi thấy đúng người nào thì gõ vào chậu để cho ông biết. Nếu tiết lộ ra một lời thì tai vạ xảy ra ngay lập tức.

    Nhược Chân gọi tất cả người nhà ra lạy chào; thầy tu xem khắp lượt rồi lắc đầu nói:

    - Đều không phải cả. Vị tất đã biến thành hình. Lại hỏi trong nhà còn ai phải gọi nốt ra. Nhược Chân vào gọi nốt hai con trai đang ngồi trong nhà học. Khi hai người con trai đến, thầy tu liền gõ vào chậu rồi nức nở khen:

    - Quý hóa thay hai cậu con trai! Sau này làm nên sự nghiệp lừng lẫy, vẻ vang cho nhà và danh giá với đời, tất nhiên là những cậu này.

    Hai người đều giận nói:

    - Thầy chùa ở đâu đến đây mà bẻm mép tán xằng gì thế?

    Nói rồi đều phất áo đi vào. Nhược Chân không bằng lòng; thầy tu cũng từ giã ra đi.

    Đêm hôm ấy, Long Quý khóc bảo với Long Thúc rằng:

    - Vị yêu tăng hôm nay, lời nói ba hoa hình như có ý dòm dỏ. Nếu hắn mà biết, e rằng sẽ nguy cho chúng ta lắm đấy.

    Long Thúc cười mà rằng:

    - Trừ được chúng ta, duy có một sư cụ Pháp Vân. Còn những kẻ khác, ta chỉ giơ tay là cướp được bùa dấu của họ. Huống chi Nhược Chân đối với ta, tất vì tình cốt nhục mà không hiềm nghi gì cả, ta có thể yên ổn không lo ngại gì.

    Bấy giờ Nhược Chân nằm ngủ không yên, đang dậy đi một mình thơ thẩn, tình cờ do chỗ khe cửa sổ mà nghe lóng được, sợ hãi kinh hoàng không biết tính thế nào. Ngày hôm sau, nói vờ là có chút việc, từ nhà ra đi, dò thăm khắp chốn danh lam, tìm hỏi vị sư cụ có tên hiệu là Pháp Vân. Trải hơn một tháng đến tìm chùa ở Lệ Kỳ, thấy gã tiểu đồng nói hồi nhỏ có nghe tên hiệu ấy nhưng sư cụ đã dời vào núi sâu từ lâu rồi. Tiểu đồng nhân trỏ lên ngọn núi Phượng Hoàng (19) mà bảo:

    - Sư cụ ở trên núi kia kìa.

    Nhược Chân bèn xắn áo đi lên, qua bốn năm dặm nữa mới tới chỗ sư cụ ở. Bấy giờ sư cụ đang nằm ngủ ở trên ghế tiếng ngáy như sấm, hai bên tả hữu có hai chú tiểu đứng hầu. Nhược Chân khúm núm đi lên, hai gã tiểu đồng quát mắng làm cho sư cụ tỉnh giấc. Nhược Chân đến trước sụp lạy và kể cái bản ý tìm đến của mình. Sư cụ cười mà rằng:

    - Sao tiên sinh lầm thế? Lão phu thân không ở chùa chiền, chân không đến thành thị đã lâu năm rồi. Nay chỉ có thể ở trong am cỏ, quét đất thắp hương, tụng kinh Lăng nghiêm mấy lần. Chứ còn đến bay bùa chạy dấu thì không phải là việc của lão.

    Sư cụ từ chối rất dứt khoát. Hai tiểu đồng đứng bên bàn rằng:

    - Đức Phật nhà ta lấy từ bi làm bè, tế độ làm cửa, thương bể khổ trôi nổi, cứu sông mê đắm chìm. Bởi vì ngài muốn ai nấy cùng sang bỉ ngạn, cùng gội thiện duyên. Nếu thầy nhất định chối từ thì sao làm rộng đạo nhà Phật ra được.

    Bấy giờ sư cụ mới vui vẻ nhận lời. Bèn dựng một đàn tràng ngay ở trên núi, treo đèn bốn mặt và lấy bút son vẽ bùa dấu. Ước độ trống canh thì có đám mây đen mươi trượng bao bọc ở chung quanh đàn, một cơn gió lạnh thổi ào làm cho người phải ghê rợn. Sư cụ cầm cây tích trượng chỉ huy tả hữu, có lúc lại ra khỏi đàn làm ra bộ quát mắng. Nhược Chân ngồi ở một ngôi nhà phía xa, vén mành trông trộm; nhưng vắng lặng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe trên không có tiếng khóc y ỷ, một lúc tiếng tắt mà đám mây cũng tan. Sáng hôm sau, sư cụ lấy một phiến đá bôi hùng hoàng vào rồi viết mực lên, trao cho Nhược Chân mà bảo:

    - Ông về hễ thấy loài yêu quái biến ra vật gì, kịp lấy đá này mà ném thì những mối thừa của tai họa sẽ dứt được hết.

    Nhược Chân về đến nhà. Thấy người nhà đương ngồi châu đầu mà khóc. Bà vợ kể chuyện canh ba đêm nọ, hai con trai cùng dắt nhau xuống giếng mà chết, nước giếng dâng lên hầu ngập cả thềm, hiện ra hai cái thây đều đã quàn ở vườn nam, chỉ đợi Nhược Chân về thì đem mai táng. Nhược Chân hỏi:

    - Trước lúc chết, chúng có nói gì không?

    Người nhà nói:

    - Chúng chỉ phàn nàn là giá chậm độ mấy tháng nữa thì công việc xong, không ngờ bị kẻ cuồng tăng làm hại.

    Nói xong, lại gào khóc. Nhược Chân can ngăn rồi cùng ra vườn nam mở nắp quan tài để xem. Khi mở thấy hai cái thây đã hóa thành hai con rắn vàng, lấy hòn đá ném thì chúng liền nát ra tro cả.

    Vợ chồng liền sắm nhiều vàng lụa đem đến tạ ơn sư cụ Pháp Vân. Nhưng đến nơi thì thấy am cỏ rêu phong, không tìm nhận ra được vết đi nào cả, nhân buồn bã cùng nhau trở về.


    Chú thích:

    (*) Nguyên văn: Đào Thị nghiệp oan ký.

    * Nguyên văn: Tản Viên từ phán sự lục.

    (1) Từ Sơn: Tên huyện, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh

    (2) Thiệu Phong: Niên hiệu vua Trần Dụ Tông (1341-1357)

    (3) Đông Bộ Đầu: Bến sông Hồng phía trên cầu Long Biên, gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay.

    (4) Chùa Phật Tích: Nguyên chú: "Chùa núi Phật Tích thuộc xã Sài Khê, huyện Thạch Thất", tức chùa Thày, nay thuộc tỉnh Hà Tây.

    (5) Cửa Phạn Vương: Cửa chùa, cửa Phật..

    (6) Khúc Lương Châu: Khoảng niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, các điệu nhạc đều lấy tên các vùng đất ngoài biên tái như Lương Châu, Cam Châu, Y Châu..

    (7) Đâu Suất: Là tầng trời thứ tư trong sáu tầng dục giới, nơi Di Lặc ở và giáo hóa những người có thiện duyên (Theo kinh Phật).

    (8) Khe Tào múc nước: Đời Lương có vị cao tăng là Trí Dược từ nước Thiên Trúc vào Trung Quốc. Thuyền đến cửa Khe Tào ở Thiều Châu, thoảng thấy mùi thơm, múc nước nếm rồi bảo: "Thượng lưu dòng nước này có thắng địa". Bèn khai núi làm chùa, đặt tên là Bảo Lâm.

    (9) Lá bối: Một thứ lá cây, trước đây thường dùng chép kinh Phật.

    (10) Hàn Nga sang Tề, đi qua cửa Ung thì hết lương, phải hát rong kiếm tiền ăn; đi rồi mà tiếng hát còn văng vẳng trên nóc nhà ba ngày không dứt.

    (11) Tầm Dương: Bạch Cư Dị bị giáng chức làm tư mã Giang Châu. Một hôm đi thuyền tiễn khách, đậu ở bến Tầm Dương đã nghe tiếng đàn tì bà ai oán mà tuyệt diệu, thổ lộ tâm tình của người kỹ nữ tài hoa luống tuổi lấy người lái buôn chè. Người lái buôn ham lợi để nàng ca nữ một mình trên bến sông lạnh lùng.

    (12) Hàng Quận: Cầm Tháo là một ca kỹ ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, một lần tiếp Tô Đông Pha, một trong bát đại gia Đường Tống, nghe ông đọc hai câu thơ: Môn ngoại lãnh lạc yên mã hi; Lão đại giá tác thương thân phụ (Ngoài cửa lạnh lùng xe ngựa vắng; tuổi già duyên kết chú phường buôn). Cầm Tháo tỉnh ngộ bèn cắt tóc đi tu.

    (13) Đời Đường các công tử vương tôn nghe hát, thường lấy gấm quàng đầu con hát để thưởng, gọi là "phao cẩm triền đầu" (Ném gấm quấn đầu).

    (14) Thầy chùa Tuệ Viễn đời Tấn cùng các bạn tu 15 người họp thành hội Bạch Liên hoa, viết thư mời Đào Uyên Minh đến dự, Uyên Minh bảo có rượu mới tới. Viễn nhận lời, nhưng Uyên Minh đến lại không có rượu, ông chau mày bỏ đi.

    (15) Chùa Lệ Kỳ: Nguyên chú: "Chùa Lệ Kỳ nay thuộc huyện Chí Linh". Chí Linh nay thuộc tỉnh Hải Dương.

    (16) Dữu Lượng đời Tấn làm Đô đốc Kinh Châu thường lên lầu Nam thưởng nguyệt.

    (17) Kệ lục như: Bài kệ trong kinh Phật nói hết thảy mọi việc đời đều: Như mộng, như huyễn, như bọt, như sương, như điện, như bóng (tám điều như).

    (18) Giường thiền tứ đại: Kinh Phật nói thân thể người ta là do tứ đại (đất, nước, lửa, gió) hợp thành. Tô Đông Pha vốn chơi thân với sư Phật ấn. Một hôm ông Tô đến chơi, Phật ấn đùa bảo "Quan nội hàn đến làm gì? Ở đây không có chỗ ngồi". Ông Tô đùa lại: "Xin mượn cái" tứ đại "của sư làm giường thiền".

    (19) Núi Phượng Hoàng: Nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

    Mình sẽ gộp luôn phần chú thích nha!
     
  5. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương VIII: Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lang Giang (1). Chàng vốn khẳng khái nóng nẩy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương. Trong làng trước có một tòa đền, vẫn linh ứng lắm. Cuối đời họ Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian, có người dốc hết của cải, gia sản khánh kiệt cũng không đủ để cầu cúng. Tử Văn rất là tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả.

    Đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét. Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại tòa đền như cũ, và nói:

    - Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần ra sao, cớ gì lại dám lăng miệt, hủy tượng đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ. Nếu không thì vô cớ hủy đền Lư sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ (2).

    Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên, người kia tức giận nói:

    - Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà người đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết.

    Nói rồi phất áo đi.

    Chiều tối, lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi vào đến trước thềm, vái chào mà rằng:

    - Tôi là vị Thổ thần ở đây, nghe thấy việc làm rất thú của nhà thầy, vậy xin đến để tỏ lời mừng.

    Tử Văn kinh ngạc nói:

    - Thế người đội mũ trụ đến đây ban nãy, chẳng phải là Thổ địa đấy ư? Sao mà nhiều thần quá thế vậy.

    Ông già nói:

    - Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc Triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo tên họ của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu. Xin kể đầu đuôi để nhà thầy nghe:

    "Tôi từ đời vua Lý Nam đế làm chức Ngự sử đại phu, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã có hơn một nghìn năm nay, khi nào lại làm việc gieo tai rắc vạ để kiếm miếng ăn như kẻ khuất tặc kia đã làm. Gần đây vì thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay".

    Tử Văn nói:

    - Việc xảy ra đến như thế, sao ngài không kiện ở Diêm vương và tâu lên Thượng đế, lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê.

    Ông già chau mặt nói:

    - Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở. Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Khư khư một chút lòng thành thực, không làm thế nào để thông đạt được lên cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.

    Tử Văn nói:

    - Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?

    - Hắn quyết chống chọi với nhà thầy, hiện đã kiện thầy ở Minh ty. Tôi thừa lúc hắn đi vắng nên lén đến đây báo cho nhà thầy biết để mà liệu kế, khỏi phải chết một cách oan uổng.

    Lại dặn Tử Văn:

    - Hễ ở Minh ty có tra hỏi, thầy cứ khai ra những lời nói của tôi. Nếu hắn chối cãi, thầy kêu xin tư giấy đến đền Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải đớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đời mà thầy cũng khó lòng thoát nạn.

    Tử Văn vâng lời. Đến đêm, bệnh càng nặng thêm, rồi thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía đông. Đi độ nửa ngày đến một dinh tòa rất lớn, chung quanh có thành sắt cao vọi đến mấy chục tượng. Hai quỷ đến nói với người canh cổng, người canh cổng đi vào một lúc rồi ra truyền, chỉ rằng:

    - Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm.

    Nói rồi xua tay bảo đi ra phía bắc. Đằng phía bắc, tức là một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hơn nghìn bước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác. Hai quỷ dùng gông dài thừng lớn gông trói Tử Văn mà giải đi rất nhanh, Tử Văn kêu to lên rằng:

    - Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo rõ cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng.

    Chợt nghe trên điện có lời tuyên ngôn rằng:

    - Tên này bướng bỉnh gân guốc, nếu không phán đoán cho rõ, vị tất nó đã chịu phục tội.

    Bèn sai dẫn Tử Văn vào trong cửa điện. Tử Văn vào đến nơi, đã thấy người đội mũ trụ đương kêu cầu ở trước sân.

    Diêm vương mắng Tử Văn rằng:

    - Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần khích liệt, có công với tiên triều, nên Hoàng thiên cho được huyết thực ở một tòa đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội nghiệt tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?

    Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như lời ông cụ già đã nói, lời rất cương chính, không chịu chùn nhụt chút nào. Người đội mũ trụ nói:

    - Ấy là ở trước vương phủ mà hắn còn quật cường như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu, sợ gì mà hắn không dám cho một mớ lửa.

    Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái, nhưng Diêm Vương vì thế bụng cũng sinh nghi. Tử Văn nói:

    - Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin đem giấy đến đền Tản Viên để hỏi hư thực; không có sự thực như thế, tôi lại xin chịu thêm cái tội nói càn.

    Người kia bây giờ mới có vẻ sợ, quỳ xuống tâu rằng:

    - Gã kia là một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ trừng giới. Xin đại vương khoan tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Bất tất đòi hỏi dây dưa và thẳng tay trị tội, sợ có hại cho cái đức hiếu sinh.

    Diêm vương quát lớn rằng:

    - Cứ như lời hắn thì nhà người đáng tội tru lục. Điều luật lừa dối đã sẵn sàng đó. Nhà ngươi cớ sao dám làm sự xuất nhập luận tội người ta như vậy?

    Lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực. Sai nhân về tâu, nhất nhất đúng với lời Tử Văn. Vương cả giận, bảo các Phán quan rằng:

    - Lũ ngươi chia tòa sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên hư, phạt thì đích xác mà không hà lạm, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời Hán đời Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn xiết nói được ư?

    Liền sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu u. (3)

    Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa, và sai lính đưa Tử Văn về. Chàng về đến nhà, té ra mình chết đã được hai ngày rồi. Nhân đem những việc đã qua kể cho mọi người nghe, ai cũng kinh hãi và không tin là thực. Sau họ đón một bà đồng về phụ bóng, đồng lên cũng nói đúng như lời Tử Văn. Người làng bèn mua gỗ, lại dựng một tòa đền mới. Còn ngôi mộ của người tướng kia thì tự dưng thấy bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy.

    Sau đó một tháng, Tử Văn thấy ông già đến bảo:

    - Lão phu đã trở về miếu, công của nhà thầy, không biết lấy gì đền đáp được. Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân Phán sự, không có người lo việc. Lão với nhà thầy đã biết nhau nên đã vì nhà thầy hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Người ta sống ở đời, xưa nay ai không phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau là đủ rồi. Nếu trùng trình độ nửa tháng, sợ sẽ về tay người khác mất. Nên cố gắng đi, đừng nên coi là việc tầm thường.

    Tử Văn vui vẻ nhận lợi, bèn thu xếp việc nhà rồi không bệnh tật gì mà mất.

    Năm Giáp Ngọ (1414) có người ở thành Đông Quan (4) vốn quen biết với Tử Văn, buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm, trông thấy ở trong sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe thấy tiếng quát rằng:

    "Người đi đường tránh ra, xe quan Phán sự!".

    Người ấy ngẩng đầu trông về phía trước, người ngồi trên xe chính là Tử Văn. Song Tử Văn chỉ ngồi trên xe chắp tay thi lễ chứ không nói một lời nào, rồi thoắt đã cưỡi gió mà đi biến mất. Đến nay con cháu hãy còn, người ta còn truyền là "nhà quan Phán sự!".


    Chú thích:

    (1) Yên Dũng đất Lạng Giang: Lộ Lạng Giang đời Trần Hồ là miền đất thuộc tỉnh Bắc Giang và một phần Tây Nam tỉnh Lạng Sơn ngày nay. Huyện Yên Dũng nay thuộc tỉnh Bắc Giang.

    (2) Đời Tam quốc, Cố Thiệu làm quan Thú ở quận Dự Chương phá hủy các đền thờ những vị thần bất chính. Sau thấy thần miếu Lư Sơn hiện lên đòi làm trả, Thiệu không nghe. Không bao lâu bị ốm mà chết (sách Loại tụ).

    (3) Ngục Cửu u: Chín ngục dưới âm phủ, mỗi ngục coi một hình phạt, như: A tì (giam vĩnh viễn), núi dao, cắt thịt, ngậm sắt nóng..

    (4) Đông Quan: Tên gọi Thăng Long thời thuộc Minh.


     
  6. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương IX: Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (*)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong năm Quang Thái (1) đời nhà Trần, người ở Hóa Châu (2) tên là Từ Thức, vì có phụ ấm được bổ làm Tri huyện Tiên Du (3). Bên cạnh huyện có một tòa chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở thì người các nơi đến xem đông rộn rịp, thành một đám hội xem hoa tưng bừng lắm. Tháng 2 Bính tý (4), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ 15, 16 phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại, ngày đã sắp tối vẫn không ai đến nhận. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội, thấy vậy động lòng thương, nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền đức.

    Song Từ Thức vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, việc sổ sách bỏ ùn cả lại thường bị quan trên quở trách rằng:

    - Thân phụ thầy làm đến Đại thần mà thầy không làm nổi một chức Tri huyện hay sao!

    Từ than rằng:

    - Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy.

    Bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn (5), nhân làm nhà tại đấy để ở. Thường dùng một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh, (6) hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú non kỳ như núi Chích Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga (7), không đâu không từng có những thơ đề vịnh. Một hôm Từ Thức dậy sớm trông ra bể Thần Phù (8) ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp. Từ kinh ngạc bảo lái thuyền rằng:

    - Ta đã từng lênh đênh trên áng giang hồ, các thắng cảnh miền đông nam, không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, ý giả là non tiên rụng xuống, vết thần hiện ra đây chăng? Sao trước không mà nay lại có?

    Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng, nếu không có cánh thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó được. Nhân đề một luật thơ rằng:

    Thiên chương bích thụ quải triêu đôn,

    Hoa thảo nghênh nhân nhập động môn.

    Nhiễu giản dĩ vô tăng thái dược,

    Duyên lưu thặng hữu khách tầm nguyên.

    Lữ du tư vị cầm tam lộng, Điếu đĩnh sinh nhai tửu nhất tôn.

    Nghĩ hướng Vũ Lăng ngư tử vấn,

    Tiền lai viễn cận chủng đào thôn.

    Triêu dương bóng rải khắp ngày xanh,

    Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.

    Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,

    Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.

    Lang thang đất lạ đàn ba khúc,

    Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.

    Bến Vũ (9) chàng ngư, tìm thử hỏi,

    Thôn Đào (9) chỉ hộ lối loanh quanh.

    Đề xong, trông ngắm thẫn thờ, như có ý chờ đợi. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng độ một trượng. Vén áo đi vào, vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại tối tăm mù mịt như sa vào cái vực đen tối. Bụng nghĩ không còn thể nào sống được nữa, lấy tay sờ soạng lối rêu, nhận thấy có một cái khe nhỏ, quằn quèo như cái ruột dê vậy. Đi mò độ hơn một dặm thì thấy có đường đi ngoi lên. Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa. Sinh nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, như những nơi núi Thứu nguồn Đào (9) chẳng hạn. Rồi chợt thấy có hai người con gái áo xanh bảo nhau rằng:

    - Lang quân nhà ta đã đến!

    Đoạn họ vội chạy vào báo tin, một lúc đi ra nói rằng:

    - Phu nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi.

    Sinh đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung điện bằng bạc đứng sững, có những tấm biển đề: "Điện Quỳnh hư", "Gác Dao Quang". Trên gác có bà tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất bảo bên cạnh đặt một chiếc giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời Sinh lên ngồi và bảo rằng:

    - Tính hiếu kỳ của chàng đã thành chứng nghiện. Sự vui sướng trong một chuyến đi chơi này, kể cũng đã thỏa nguyện bình sinh. Nhưng mối duyên gặp gỡ chàng có còn nhớ gì không?

    Từ thưa rằng:

    - Tôi là một kẻ dật sĩ ở Tống Sơn. Một cánh buồm gió, một lá thuyền nan, phóng lãng giang hồ thích đâu đến đấy. Nào có biết chốn này lại có Tử phủ Thanh đô! Lần mò lên được tới đây, chẳng khác như mình đã mọc cánh mà bay lên đến cõi tiên vậy. Song lòng trần mờ tối, chưa biết tiền đồ ra làm sao. Dám xin chỉ bảo rõ ràng cho chúng tôi được hiểu.

    Bà tiên cười bảo:

    - Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong 36 động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan hợp theo với sóng rợn, mà tôi tức là địa tiên ở Nam nhạc là Ngụy phu nhân. Vì thấy chàng là người cao nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên mới dám làm phiền mời chàng đến đây.

    Bà tiên nhân đưa mắt cho con hầu để bảo gọi một cô tiên ra, Từ liếc nhìn trộm, chính là người bẻ gãy cành hoa ngày trước. Bà tiên trỏ bảo rằng:

    - Đứa con tôi đây tên là Giáng Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy khôn quên, nay muốn cho nó kết duyên để báo đền ơn trước.

    Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vàng rồng, để hai người làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi con ly từ đàng bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời lại họp. Tiệc yến đặt ở từng thượng trên gác Dao quang, buông rèm câu (10) ngọc, rủ trướng móc vàng, phía trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu ly mà để không. Quần tiên vái chào nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả; Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên hữu. Ngồi xong, có tiếng truyền hô là Kim tiên (11) đã đến, mọi người đều bước xuống đón cúi lạy chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã não, đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ, lại có những thứ rượu kim tương, ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được cái của quý như vậy. Người áo gấm trắng nói:

    - Chúng tôi chơi ở chốn này mới tám vạn năm, mà bể Nam đã ba lần tung bụi. Nay chàng từ xa tới đây, không vì tiên phàm mà cách trở, ba sinh hương lửa, tưởng cũng không phụ, đừng nên cho chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường.

    Rồi có những người trẻ nhỏ, chia ra từng lớp mà múa điệu Lăng Ba. Đoạn, phu nhân mời tiệc. Giáng Hương rót rượu. Người bận xiêm lụa nói đùa rằng:

    - Nương tử hôm nay mầu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa. Người ta bảo ngọc nữ không chồng, câu ấy hỏi có tin được không?

    Quần tiên đều cười, duy người mặc áo xanh buồn rầu không vui mà nói rằng:

    - Mối duyên của cô em đây, thật cũng là tốt đẹp. Song nghĩ cái giá băng ngọc ở trên mây, mà đi kết mối tóc tơ ở cõi thế, vạn nhất tiếng tăm vỡ lở, thiên hạ chê cười, quần tiên chúng ta e không khỏi mang tiếng lây được.

    Bà Kim tiên nói:

    - Ta ở trong chốn lâu thành trên trời, chầu hầu cạnh đức Thượng đế, mênh mang trần hải, chưa từng đặt bước xuống bao giờ. Thế mà những kẻ hiếu sự họ còn bịa ra, nào bảo Dao trì hội kiến ở đời Chu (12), thanh điểu truyền tin ở đời Hán (13), ta còn thế, huống chi là lũ các nàng ư? Song tân lang ngồi đây, ta không nên bàn phiếm những câu chuyện khác làm rối lòng dạ người ta.

    Bà phu nhân nói:

    - Tôi nghe tiên khá gặp chứ khôn tìm, đạo không tu mà tự đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm lạ, đời nào mà không có: Như đền Bạc hậu (14), như quán Cao đường (15), như thần Lạc phố lướt sóng (16), như nàng Giang Phi cởi ngọc (17), như Lộng Ngọc lấy Tiêu Sử (18), như Thái Loan gặp Văn Tiêu (19), như Lan Hương gặp Trương Thạc (20). Bao nhiêu những chuyện cũ còn sờ sờ đó; nếu thế này mà bị chê cười thì đã có những người trước ấy họ chịu đỡ tiếng cười cho mình.

    Mọi người cùng phá lên cười rất vui vẻ. Rồi đó mặt trời gác núi, các khách khứa đều giải tán cả. Từ đùa bảo Giáng Hương rằng:

    - Thì ra tất cả các cõi trời đều có chuyện phối ngẫu cả. Cho nên ả Chức Nữ lấy chàng Ngưu Lang, nàng Thượng Nguyên tìm chàng Phong Trắc (21), Tăng Nhụ có bài ký Chu Tần (22), Quần Ngọc có bài thơ Hoàng lăng (23), cảnh khác nhưng tình cũng giống nhau, nghìn xưa vẫn như thế cả. Nay quần tiên ai về chỗ nấy, sống trong cảnh quạnh quẽ cô liêu, đó là vì lòng vật dục không nẩy sinh, hay là cũng có nhưng phải gượng đè nén?

    Nàng đổi sắc mặt nói:

    - Mấy người ấy là những cái khí huyền nguyên, những cái tính chân nhất, thân hầu cửa tía, tên ghi đền vàng, ở thì ở phủ thanh hư, chơi thì chơi miền sung mạc, không cần gạn mà lòng tự trong, không cần lấp mà đục vẫn lặng. Không như thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục; chàng đừng nên nhân một mình thiếp mà cho tất cả quần tiên đều thế.

    Từ nói:

    - Nếu thế thì em còn thua các tiên kia xa lắm.

    Vợ chồng cùng vỗ tay cả cười.

    Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:

    Nhãn để yên hà cước để vân,

    Thanh quang sái sái bức Tam Thần.

    Tùng hoa bán lão hương phong động,

    Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.

    Khói rợp mây che khắp bốn trời,

    Non Thần trong sáng đó là nơi.

    Hoa thông theo gió đưa hương ngát,

    Dắt dẫn thuyền câu khách một người.

    II

    Thu phong nhất dạ nguyệt man san,

    Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan.

    Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ,

    Ngâm hào túy các bích lang can.

    Một đêm gió thổi nguyệt đầy non,

    Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son.

    Rượu mệt mê say người nặng trĩu,

    Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.

    III

    Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương,

    Biệt tài tân phổ lý nghê thường.

    Từ thành bất cảm cao thanh đạo,

    Kinh khởi âm lai phong vũ trường.

    Đốt lại lò trầm nhóm lại hương,

    Đắn đo đổi mới khúc nghê thường,

    Bài thành không dám cất cao tiếng,

    E gió mưa về ẩm một phương.

    IV

    Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu,

    Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu,

    Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác,

    Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.

    Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu,

    Cung tường cao vút vắng teo teo,

    Trăng sao dường mọc quanh bên mái,

    Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (24)

    V

    Thương mang vân ngoại đoản trường chu,

    Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù,

    Nhất điểu mộ xuân phi bất tận,

    Liên không đạm tảo bích du du.

    Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu,

    Mận, Quế (25) phương trời ngút tận đâu.

    Xuân muộn con chim bay lạc lõng,

    Vòm không quang sạch biếc làu làu.

    VI

    Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng,

    Khiếp đối suy nhan bả kính dung.

    Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng,

    Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.

    Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung,

    Gương võ vàng soi luống thẹn thùng.

    Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp,

    Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.

    VII

    Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê,

    Phương trượng huề nam Nhược thủy tê.

    Xướng bãi đà canh thiên dục thự,

    Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.

    Khí lành quanh quất phủ buồng xuân,

    Phương trượng (26) non xa, Nhược thủy (27) gần

    Dứt tiếng canh đà (28) trời sắp sáng,

    Lòng quê theo rõi áng mây Tần.

    VIII

    Yên lam như kế liễu như điền,

    Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền.

    Vũ khách khứ thời vô xứ mịch,

    Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.

    Hơi lam: Mái tóc, liễu: Hoa cài,

    Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài.

    Đạo sĩ một đi tìm khó thấy,

    Trong không tản mác tiếng ngân dài.

    IX

    Tứ diện ba đào nhất kế sơn,

    Dạ lai hà xứ mộng hương quan.

    Mang mang trần giới hồi đầu viễn,

    Thân tại hồng vân bích thủy gian.

    Sóng nước bao quanh núi một vùng,

    Mộng về quê cũ lối không thông.

    Mây vàng nước biếc thân nương đậu,

    Trần giới xa coi ngút mịt mùng.

    X

    Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai,

    Ủy địa tàn hồng bán lục đài.

    Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động,

    Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.

    Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,

    Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.

    Lưu Lang biệt động sao khờ mấy,

    Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (29)

    Như Từ, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam. Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:

    - Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.

    Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:

    - Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?

    Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói:

    - Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.

    Giáng Hương khóc mà nói:

    - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.

    Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân nói:

    - Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.

    Nhân cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:

    - Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.

    Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.

    Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:

    - Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (30)

    Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, (30) rồi sau không biết đi đâu mất.

    Chú thích:

    * Nguyên văn: Từ Thức tiên hôn lục.

    (1) Quang Thái: Niên hiệu Trần Thuận Tông, từ 1388-1398.

    (2) Hóa châu: Thanh Hóa ngày nay (theo nguyên chú Hóa Châu là châu Thanh Hóa cổ).

    (3) Tiên Du: Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

    (4) Năm Bính Tý: Dưới thời Thuận Tông là năm 1396.

    (5) Huyện Tống Sơn: Khoảng đời Trần là vùng đất tương đương với miền bắc huyện Nga Sơn và miền đông bắc huyện Hà Trung; thời Lê là vùng đất huyện Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay.

    (6) Đào Uyên Minh: Năm sinh có ba thuyết: 365; 372; 376, mất 427, tên là Tiềm, là thi gia đời Đông Tấn. Từng làm Huyện lệnh Bành Trạch, sau vì không chịu luồn cúi nên treo ấn từ quan. Ông có câu nói nổi tiếng: "Lẽ nào vì năm đấu gạo lương mà phải khom lưng!". Thơ văn của ông giản phác mà tinh luyện, có phong cách riêng, phần lớn thể hiện tư tưởng ẩn dật.

    (7) Núi Chích Trợ.. cửa Nga: Đều là những thắng cảnh của Thanh Hóa.

    (8) Thần Phù: Theo Lịch triều hiến chương loại chí, phần Dư địa chí: Cửa Thần Phù là cửa sông ra bể, thuộc huyện Nga Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.

    (9) Núi Thứu: Xưa Tây vực có núi Thứu Lĩnh, vì núi hình chim Thứu nên thành tên. Nguồn đào: Theo Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm thì đời Tấn có một người đánh cá ở Vũ Lăng đi thuyền lạc vào rừng đào. Ở đấy người đánh cá gặp một thôn xóm rất yên bình, hỏi thì là những người lánh nạn nhà Tần, họ không biết gì về thời cuộc hiện tại. Người đánh cá ở mấy hôm rồi ra về. Câu chuyện đến tai viên quan quận, ông ta muốn người đánh cá đưa đi, nhưng khi trở lại, người đánh cá không tìm được dấu vết gì nữa. Sau những từ Vũ Lăng, nguồn Đào, thôn đào vừa chỉ nơi ẩn dật cũng vừa chỉ cõi tiên.

    (10) Câu: Cái móc để vén rèm, màn.

    (11) Kim tiên: Tức Tây Vương mẫu.

    (12) Sách Loại tụ nói vua Chu Mục Vương ham thích thần tiên rồi gặp bà Vương mẫu ở Dao Trì.

    (13) Lời chua ở sách Đường thi, nói vua Hán Vũ Đế ngồi ở điện Thừa Hoa, chợt có hai con chim xanh từ phương tây bay lại, đậu ở trước điện. Vua hỏi Đông Phương Sóc. Sóc nói: "Đó là bà Vương mẫu sắp đến chơi đấy". Một lát quả nhiên bà Vương mẫu đến, có hai người thị nữ áo xanh tức là hai con chim xanh lúc trước.

    (14) Chuyện Ngưu Tăng Nhụ đời Đường gặp các nàng tiên ở đền Bạc thái hậu; xem thêm chú thích 5 Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.

    (15) Sở vương chơi ở quán Cao Đường, gặp một nàng thần nữ, cùng chung chăn gối. Xem thêm chú thích 11 Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu.

    (16) Thần nữ ở Lạc Phố tên là Bật Phi, con gái vua Phục Hy. Sách Quần ngọc có chép chuyện Trần Tư Vương gặp thần nữ ở Lạc Phố.

    (17) Hai nàng tiên Giáng Phi chơi ở bên sông gặp Trịnh Giao Phủ, cởi ngọc minh châu mà tặng cho. Trịnh nhận được ngọc đi được mấy chục bước thì ngọc không còn nữa mà những nàng kia cũng biến mất.

    (18) Chàng Tiêu Sử giỏi thổi ống tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là Lộng Ngọc gả cho. Chàng dạy nàng thổi tiêu, chim phượng hoàng nghe tiếng bay đến. Sau vợ chồng cùng cưỡi phượng mà bay lên trời.

    (19) Chàng Văn Tiêu gặp nàng tiên Thái Loan ở núi Tây tại đất Chung Lăng, hai người lấy nhau.

    (20) Ngọc nữ Đỗ Lan Hương lấy Trương Thạc. Sau nàng về trời, Trương Thạc rất thương nhớ.

    (21) Phong Trắc đọc sách ở trong núi sâu, bà tiên Thượng Nguyên phu nhân đêm đến ve vãn (xuất ở sách Thiên hạ dị kỷ).

    (22) Chuyện Ngưu Tăng Nhu. Xem chú thích 5 Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.

    (23) Lý Quần Ngọc qua miếu Nhị phi ở Sầm Dương có đề một bài thơ câu đầu là: "Hoàng Lăng miếu tiền xuân dĩ không" chợt có hai người con gái hiện lên tự xưng là hai nàng Nga Hoàng, Nữ Anh hẹn sau hai năm sẽ cùng Lý gặp gỡ.

    (24) Tần nữ: Xem chú thích 18 cùng truyện.

    (25) Mân, Quế: Nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến.

    (26) Phương trượng: Tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng.

    (27) Nhược thủy: Theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: Tương truyền là nơi tiên ở.

    (28) Đà: Tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh.

    (29) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích.

    (30) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.
     
  7. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương X: Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào (*)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, (1) là một người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm; Trạm thường răn Tử Hư về cái tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi, trở nên người có đức tính tốt.

    Khi Dương Trạm chết, các học trò đều tản đi cả, duy Tử Hư làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về. Năm 40 tuổi, Tử Hư đi thi vẫn chưa đỗ, đời Trần, sang du học ở kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ hồ Tây.

    Một buổi sáng, ở nhà trọ đi ra, trong áng sương mù thấy có một đám những tán vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm hạt châu, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc. Tử Hư khẽ dòm trộm xem thì người ngồi trong xe, chính thầy học mình là Dương Trạm. Chàng toan đến gần sụp lạy nhưng Trạm xua tay nói:

    - Giữa đường không phải chỗ nói chuyện, tối mai nên đến đền Trấn Vũ cửa Bắc, thầy trò ta sẽ hàn huyên một hôm Tử Hư bèn sắm rượu và thức nhắm, đúng hẹn mà đến. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lắm, chàng nhân hỏi rằng:

    - Thầy mới từ trần chưa bao lâu, thoắt đã trở nên hiển hách khác hẳn ngày trước, xin thầy cho biết rõ duyên do để con được vui mừng.

    Dương Trạm nói:

    - Ta thuở sống không có một điều thiện nào đáng khen, chỉ có hay giữ điều tín thực đối với thầy bạn, quý trọng những tờ giấy có chữ, hễ thấy rơi vãi liền nhặt mà đốt đi. Đức Đế quân đây ngài khen là có bụng tốt tâu xin cho làm chức trực lại ở cửa Tử đồng (2). Hôm qua ta hầu lính giá ngài lên chầu Thiên cung, tình cờ lại gặp nhà ngươi, đó cũng là vì thầy trò mình có cái mối duyên.

    Tử Hư nói:

    - Thầy được lĩnh chức trọng quyền cao như vậy, chẳng hay sự sống chết thọ yểu của con, thầy có được rõ không?

    - Việc đó không phải thuộc về chức vụ của ta.

    - Vậy thế thầy giữ về việc gì?

    - Ta trông coi về việc văn chương thi cử, khoa danh cao thấp của những học trò trong thiên hạ.

    Tử Hư mừng mà rằng:

    - Nếu thế thì tiền trình của con cùng đạt thế nào chắc thầy biết rõ?

    - Cứ như văn chương tài nghệ của anh, đương đời này không ai bì kịp, huống anh lại còn có tính trung hậu thành thực; có điều lúc thiếu thời thường lấy văn tài mà kiêu ngạo với người khác, cho nên trời mới bắt đỗ muộn để phải chùn nhụt cài nết ngông ngáo đi. Nếu không thì cướp thẻ trước của Mông Chính (3), lặt cỏ rác của Hạ Hầu (4) phỏng anh còn khó khăn gì nữa. Cho nên xưa nay người ta bàn về kẻ sĩ, tất trước hết xét đến đức hạnh là vì thế. Ngày nay những người mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho thì lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên để đi thi; hễ trượt đỗ thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông ngáo, tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo thì lảng tránh, gặp bạn nghèo thì làm ngơ, không biết rằng ngày thường dắt dẫn rèn cặp phần nhiều là cái công đức của thầy bạn. Vả như ta ngày xưa, dạy có đến mấy nghìn học trò, giao du ở kinh đô rất nhiều bè bạn thế mà sau ta mất, nghe có người đai vàng, mũ bạc, có người quan cả ngôi cao, nhưng không hề một ai tìm đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên một vài chén rượu. Nhân thế ta vẫn để ý đến anh lắm.

    Tử Hư nhân đem những người làm quan bấy giờ, nhất nhất hỏi về từng người một:

    - Thưa thầy, ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm chức sư tư (5) mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà dân bị tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà buộc tội oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn nói thì môi mép bẻo lẻo, đến lúc trù tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm đến không nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng, lớn thì làm việc bán nước của lưu Dự (6), nhỏ thì làm việc dối vua của Diên Linh (7). Bọn ấy sau khi chết có phải luận tội gì không, hay là cứ được hưởng tôn vinh mãi thế?

    Trạm cười mà rằng:

    - Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Lưới trời thênh thang, thưa nhưng chẳng lọt. Chỉ bởi rằng thời gian chưa đến mà thôi. Nay ta bảo rõ anh nghe: Trong khoảng trời đất báo ứng luân hồi, chỉ có hai loài thiện ác. Người chăm làm thiện, tuy hãy còn sống, tên đã ghi ở Đế đình; người hay làm ác, không đợi đến chết, án đã thành ở Địa phủ. Cho nên Nhan Hồi lúc sống ở trong ngõ hẻm mà chết làm chức Tu văn (8), Vương Bàng ngày thường có nết kiêu ngoan mà chết phải máu rây mặt đất (9). Không phải như người ở cõi đời, có thể mượn thế mà được làm quan, có thể nhờ tiền mà được khỏi vạ, hình phạt thì quá lạm, tước thưởng thì quá thiên tư, cúi đầu khom cật, dù hèn hạ cũng cất nhắc lên, đứa đoạt thằng gian, nhờ đút lót mà được thoát khỏi. Anh nên cố gắng, đừng gieo cái nghiệp báo ở kiếp sau này.

    Tử Hư nói:

    - Cái cửa họa phúc đã được nghe đại khái. Nhưng nay những người học trò thường đến đền Đế quân làm lễ cầu mộng, xin ngài báo ứng cho biết những sự nghiệp về sau. Việc đó có quả thực không?

    Trạm cười mà rằng:

    - Đấng Đế quân ngài nuốt nhà nguyên khí, chu du tám phương, ngày xét giấy tờ, đêm chầu Thượng đế, còn lúc nào rỗi để làm cái việc vụn vặt ấy. Song những người một lòng chay sạch thành kính, thì trong lúc bập bùng, tựa như có thấy. Người đời không hiểu bèn cho là sự thực, thật đáng buồn cười.

    - Thưa thầy, nếu thế thì chuyện phóng bảng cửa trời, cũng là câu chuyện truyền ngoa chăng?

    - Không, việc đó thì thật đấy.

    Trạm bèn giơ ra một cuộn giấy phong dán rất kỹ bảo Tử Hư rằng:

    - Đây là bảng xuân sang năm đây. Ta vâng mệnh Đế quân đi tra xét kỹ lưỡng để giao lên cửa trời biên vào cho đủ. Vì có anh đến chơi đây nên ta chưa đi được.

    Dương Trạm lại kể cho Tử Hư nghe những thú vui ở trên Thiên tào, hơn ở cõi trần nhiều lắm, và bảo nhà ngươi nên cố gắng sửa mình chuốt nết, tự nhiên có ngày được lên ở trên ấy; như ta đây cũng là một cái duyên may mắn khác thường. Tử Hư nói:

    - Mình trần vóc tục, còn biết do lối nào mà ngoi lên được! Chỉ mong theo đòi xe gió, được tạm lên chơi xem một chuyến, chẳng hay thầy có thể giúp cho được không?

    - Sự đó cũng không khó. Để ta bẩm với đức Đế quân đem tên họ anh điền vào.

    Bèn lấy bút son viết vào cuốn giấy hơn mười chữ, rồi bảo cất bỏ tiệc rượu. Tử Hư được theo thầy lên ngồi ở một bên xe, rồi cỗ xe thẳng đường bay lên. Lên đến trên trời, Tử Hư thấy một khu có những bức tường bạc bao quanh, cái cửa lớn khảm trai lộng lẫy, hai bên có những tòa lầu châu điện ngọc, vằng vặc sáng như ban ngày, sông Ngân bến Sao, ôm ấp sau trước, gió thơm phưng phức, đượm ngát quanh hiên, hơi lạnh thấu da, ánh sáng chói mắt, trông xuống cõi trần, thấy mọi cảnh vật đều bé nhỏ tủn mủn.

    Dương Trạm nói:

    - Anh có biết đây là đâu không? Tức là kinh đô Bạch Ngọc ở trên trời mà người đời vẫn thường nói đó. Ở chính giữa kia có một đám mây hồng che phủ, tức là cung Tử Vi của đức Thượng đế ngài ngự. Anh nên đứng chờ ta ở ngoài cửa thành để ta vào tâu xin cho anh.

    Nói rồi Dương Trạm cầm cuộn giấy đi vào, sau một lúc lâu mới ra. Chợt nghe ở trên thành có tiếng hô vang, nói người đỗ đầu bảng sang năm, đã kén được viên trạng nguyên họ Phạm rồi.

    Dương Trạm bèn dẫn Tử Hư đi chơi thăm khắp cả các tòa. Trước hết đến một tòa có cái biển đề ngoài là "Cửa tích đức" trong có chừng hơn nghìn người mũ hoa dải huệ, kẻ ngồi người đứng, Tử Hư hỏi thì Dương Trạm nói:

    - Đó là những vị tiên thuở sống có lòng yêu thương mọi người, tuy không phải dốc hết tiền của để làm việc bố thí, nhưng biết tùy thời mà chu cấp, đã không keo bẩn, lại không hợm hĩnh. Thượng đế khen là có nhân, liệt vào thanh phẩm nên họ được ở đây.

    Lại đi qua một tòa sở có cái biển đề ở ngoài là "Cửa Thuận hạnh", trong đó độ hơn nghìn người, áo mây lọng mưa, kẻ hát người múa. Tử Hư lại hỏi, Dương Trạm nói:

    - Đó là những vị tiên thuở sống hiếu thuận, hoặc trong lưu ly biết bao bọc lấy nhau, hoặc đem đất cát mà san sẻ cho nhau, mấy đời ở chung không nỡ chia rẽ. Thượng đế khen là có lòng, cho vào cung mây nên họ được ở đây.

    Lại đến một tòa sở có cái biển đề là "Cửa Nho thần" người ở đấy đều áo dài đai rộng, cũng có tới số một nghìn, trong có hai người mặc áo lụa, đội mũ sa.

    Dương Trạm trỏ bảo Tử Hư rằng:

    - Ấy là ông Tô Hiến Thành (10) triều Lý và ông Chu Văn An (11) triều Trần đó. Ngoài ra thì là những danh thần đời Hán, đời Đường, không sung vào quan vị hay chức chưởng gì cả, chỉ ngày sóc ngày vọng thì vào tham yết Đế quân, như những viên tản quan đời nay thỉnh thoảng vào chầu vua mà thôi. Cứ cách năm trăm năm lại cho giáng sinh, cao thì làm đến khanh tướng, thấp cũng làm được sĩ phu, hiệu doãn. Ngoài ra còn đến hơn trăm tòa sở nữa, nhưng trời gần sáng không đi xem khắp được, vội cưỡi gió mà bay xuống trần. Xuống đến cửa Bắc, thấy trăm quan đã lục tục vào triều chầu vua.

    Tử Hư từ biệt thầy trở về, sang năm đi thi quả đỗ tiến sĩ. Phàm những việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo cho biết.

    Chú thích:

    * Nguyên văn: Phạm Tử Hư du Thiên tào lục.

    (1) Cẩm Giàng: Nay vẫn là huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

    (2) Tử đồng: Vốn là tên một huyện ở Trung Quốc, nơi thờ Đế quân Văn Xương, trông coi về văn học, thường có tục cầu tiên giáng bút. Ở đây tác giả chỉ dùng với nghĩa là nơi ở của Đế quân.

    (3) Lã Mông chính là người đời Tống, thi đỗ trạng nguyên. Khi nghe tin Mông Chính đỗ, Hồ Đán Phủ phàn nàn rằng: "Thôi thế là sang năm ta đỗ, lại phải sau hắn một thẻ rồi". Quả nhiên sang năm Hồ đỗ thật.

    (4) Hạ hầu Thắng là một danh nho đời Hán. Ông thường nói: "Kẻ sĩ chỉ sợ không sáng nghĩa kinh, nếu sáng thì lấy áo xanh áo tía dễ dàng như lặt cỏ rác ở dưới đất vậy".

    (5) Sư tư: Chỉ các học quan. Theo lời sớ của Cốc lương truyện (kinh Xuân thu), vì thầy học là dạy cho người ta những điều thiếu hụt nên gọi là "sư tư" (tư là của cải, ý nói vốn kiến thức).

    (6) Lưu Dự làm tôi vua Khâm Tông đời Tống, đầu hàng nhà Kim, Kim lập làm Tề đế.

    (7) Diên Linh làm tôi vua Đức Tông đời Đường, làm nhiều sự gian dối, mỗi khi ứng đối, toàn là những lời dối trá cả.

    (8) Nhan Hồi là học trò bậc cao của Khổng Tử, nghèo khó ở trong ngõ hẹp mà vẫn vui vẻ, năm 32 tuổi mất sớm. Sau đến đời Tấn có Tô Thiều chết đi rồi lại hồi tỉnh. Người em là Tiết hỏi chuyện dưới đất thì Thiều nói: "Hai ông Nhan Hồi và Bốc Thượng hiện được làm chức Tu văn lang ở dưới đất" (Văn uyển).

    (9) Vương Bàng là con Kinh công Vương An Thạch, một lần ban ngày Kinh công ở Kinh Lăng thấy một kẻ lại cũ của mình đã chết từ lâu hiện đến. Kinh công hỏi có biết Vương Bàng ở đâu không. Kẻ lại dẫn ông đến một chỗ thấy Bàng đương bị ngục tốt cùm kẹp, máu vấy ra đầy đất (Loại tụ).

    (10) Tô Hiến Thành (? -1179) : Làm quan dưới triều Lý Anh Tông và Lý Cao Tông, được sử khen là cao minh chính trực.

    (11) Chu Văn An (1312-1370) : Người xã Thanh Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thời Trần ông được giao chức Tư nghiệp Quốc tử giám, là một vị thầy học trung tín cương trực, không sợ quyền thế, không ham tước vị; từng dâng sớ xin chém bảy kẻ lộng thần, được triều đình và kẻ sĩ đương thời nể trọng.
     
  8. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương XI: Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang (*)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Năm Bính Dần (1386), vua Trần Phế đế đi săn, đỗ lại trên bờ bắc sông Đà, đêm mở bữa tiệc ở trong trướng. Có một con cáo từ dưới chân núi đi về phía nam, gặp một con vượn già, nhân bảo:

    - Vua tôi Xương Phù (2) vào rừng săn bắn, để ý vào bọn ta lắm đó. Tính mệnh các loài chim muông, thật là treo ở sợi dây cung. Nếu tuyết chưa xuống, gió chậm về, mình sẽ nguy mất, nếu không vẫy đuôi xin thương thì ắt bị cày sân lấp ổ. Tôi định đến kiếm một lời nói để ngăn cản, bác có vui lòng đi với tôi không?

    Vượn già nói:

    - Nếu bác có thể đem lời nói mà giải vây được, đó thật là một việc hay. Nhưng chỉ e nói năng vô hiệu, họ lại sinh nghi, trốn sao khỏi cái nạn thành cháy vạ lây, há chẳng nghe câu chuyện hoa biểu hồ tinh ngày trước (3) ?

    Con cáo nói:

    - Những người theo nhà vua đi săn, phần nhiều là võ nhân, bụng không bác vật như Trương Hoa, (4) mắt không cao kiến như Ôn Kiệu (5), vậy chắc không việc gì mà sợ.

    Bèn cùng nhau hóa làm hai người đàn ông mà đi, một người xưng là tú tài họ Viên (6), một người xưng là xử sĩ họ Hồ (7) đương đêm đến gõ cửa hành cung, nhờ kẻ nội thị chuyển đệ lời tâu vào rằng:

    - Tôi nghe thánh nhân trị vì, càn khôn trong sáng, minh vương sửa đức, chim muông hòa vui. Nay chúa thượng đương kỳ thái hạnh, làm chủ dân vật, tưởng nên mở lưới vơ hiền, giăng chài vét sĩ, đương gội thì quấn mái tóc, lên xe thì dành bên tả (8), đem xe bồ ngựa tứ săn những người hiền trong chỗ quê lậu, lấy lễ hậu lời khiêm đón những kẻ sĩ trong đám ẩn dật, khiến trong triều nhiều bậc lương tá để ban ân trạch cho sinh dân, đưa tất cả cuộc đời vào cõi nhân thọ. Cớ sao lại đi săn gấu bắt thỏ, tranh cả công việc của chức Sơn ngu (9), như vậy!

    Bấy giờ vua say rượu đương muốn đi nằm, sai thủ tướng Quý Ly mời hai người vào tiếp đãi, ở phía dưới thềm khách, và hiểu bảo cho biết săn bắn là phép tắc đời xưa, sao lại nên bỏ.

    Hồ nói:

    - Đời xưa đuổi loài Tề tượng là để trừ hại, mà mở cuộc sưu miêu (10) là để giảng võ. Chuyện đi săn Vị Dương là vì một ông già không phải vì gấu cũng không vì hùm (11). Vì sự phô phang quân lính mới có cuộc săn ở đất Hồng (12). Vì sự phô phang cầm thú mới có cuộc bắn ở Trường Dương (13). Nay thì không thế, đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân, là không phải thời, giày trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn là không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt, là không phải lẽ, ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xa giá, để khiến người và vật đều được bình yên!

    Quý Ly nói:

    - Không nên.

    Hồ nói:

    - Đó là tôi thương những giống chim hèn muông yếu và xin nài cho chúng. Chứ còn những giống tinh khôn lanh lẹn thì tự nhiên chúng biết xa chạy cao bay đàng nam núi Nam, đàng bắc núi Bắc, há chịu trần trần một phận ấp cây đâu!

    Quý Ly nói:

    - Nhà vua đi chuyến này, không phải vì ham thích chim muông, chỉ vì nghe ở đây có giống hồ tinh nghìn tuổi, nên ngài muốn đại cử đến để tiễu trừ, khiến loài yêu gian không thể giở trò xằng bậy được, còn các loài khác không can dự gì.

    Viên đưa mắt cho Hồ rồi mỉm cười. Quý Ly hỏi cớ, Hồ chợt đáp:

    - Hiện giờ sài lang đầy đường lấp lối, sao lại lo đi hỏi đến giống hồ ly?

    Quý Ly nói:

    - Ngài nói vậy là ý thế nào?

    Hồ nói:

    - Hiện nay thánh hóa chưa khắp, bờ cõi chưa yên: Bồng Nga (14) là con chó dại, cắn càn ở Nam phương, Lý Anh (15) là con hổ đói gầm thét ở tây bắc. Ngô Bệ (16) ngông cuồng, tuy đã tắt, Đường Lang (17) lấm lét vẫn còn kia, sao không giương cái cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên tử, lấy nhân làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào kiệt làm nanh vuốt, lấy trung tín làm giáp trụ, cẩn thận lồng cũi để giá ngự những tướng khó trị, sửa chuốt cung tên để dọa nạt những nước bất phục, tóm bắt giặc giã, đóng cũi về, khiến cho gần xa quang sạch. Cớ sao bỏ những việc ấy không làm, lại đi lẩn quẩn ở công việc săn bắn dù được chim muông như núi, chúng tôi cũng lấy làm không phục.

    Quý Ly nghe lời, hai người mừng thầm nói:

    - Thế là mưu kế có kết quả rồi.

    Nhân nâng chén rượu đầy lên uống rồi nói bàn vanh vách, trôi như nước suối, không bị đuối một tý gì cả.

    Quý Ly giận nói:

    - Ta từng tranh luận với người Trung Hoa, người Chiêm, chưa hề chịu khuất lý bao giờ, thế mà nay phải lúng túng với các gã này. Các gã nếu chẳng phải yêu núi ma rừng thì sao nói năng được nhọn sắc như vậy!

    Hai người giận mà nói:

    - Ông là thủ tướng đáng lẽ nên tiến dẫn nhân vật để làm đồ dùng cho quốc gia, cớ sao lại ghen người hiền, ghét người tài, há phải là cái nghĩa ở trong Kinh Thư đã nói: "Kẻ khác có tài, coi như ta có!".

    Quý Ly đổi nét mặt để xin lỗi và an ủi rằng:

    - Tôi nghĩ đương đời bây giờ, hiếm có được hạng người như là các ông. Sao các ông không đốt bỏ tơi nón, từ giã cá tôm, rướn mình con rồng ở Nam Dương (18), đuổi vó ngựa ký của Bàng Thống (19), lập công với đương thế, để tiếng về đời sau. Cớ chi lại đi nằm chết khô ở chốn hang núi, còn ai người biết đến nữa.

    Hai người cười mà rằng:

    - Chúng tôi nương mình bên cành khói, náu vết chốn hang mây, ngủ thì lấy cỏ làm đệm êm, khát thì lấy nước suối làm rượu ngọt, vương chân có khói ráng, kết bạn có hươu nai, chỉ biết ăn bách nhai tùng, ngâm trăng vịnh gió, ngõ hầu mới khỏi vướng lưới trần. Ai hơi đâu mà đi lo giúp việc đời dù chỉ nhổ một sợi lông.

    Nhân lại nói:

    - Chúng tôi vốn là những người phóng lãng, không chịu ở trong vòng ràng buộc. Trước vẫn hay thơ, thường ngâm vang cả hang núi. Đêm nay bồi tiệc, há lại không có bài nào để kỷ thực ư?

    Hồ bèn ngâm rằng:

    Ẩm liễu thanh toàn hựu bích than,

    Du du danh lợi bất tương can.

    Vân biên thạch quật khiêu thân dị,

    Thế thượng trần lung trước cước nan.

    Nhật lạc miên tàn sơn trủng quýnh,

    Canh lan thính quyện dạ băng hàn.

    Yên hà thử khứ vô tung tích,

    Tử ngã tương kỳ cửu viễn khan.

    Khe trong suối biếc nước ngon lành,

    Đường thế chi màng đến lợi danh.

    Hang đá dễ nương mình phóng khoáng,

    Vòng trần khôn đặt bước chông chênh.

    Bóng tà giấc tỉnh trơ hình núi.

    Băng lạnh đêm tàn cạn trống canh.

    Mây khói rồi đây không dấu vết,

    Đôi mình buộc chặt nghĩa non xanh.

    Viên cũng ngâm rằng:

    Vạn hác thiên khê hữu kính thông,

    Du nhiên phất tụ nhiệm tây đông.

    Hứng lai trực bạn xuân sơn vũ,

    Sầu khứ phân huề biệt phố phong.

    Tương lĩnh vô thanh đề lạc nhật,

    Sở thiên hữu lệ khấp loan cung.

    Ngã đầu lâm mộc quân nham huyệt,

    Kham tiếu cầu an kế bất đồng.

    Nghìn suối muôn khe có lối thông,

    Mặc dầu tha thẩn bước tây đông.

    Tung tăng lúc giỡn cơn mưa núi,

    Đủng đỉnh khi chờ ngọn gió sông.

    Tiếng bặt bờ Tương gào bóng xế (20),

    Lệ tràn đất Sở khóc dây cung (21)

    Tôi lên rừng, bác vào hang núi,

    Tìm chốn yên thân cũng một lòng.

    Ngâm xong, từ biệt ra đi. Quý Ly mật sai người rón bước theo sau, khi gần đến lưng chừng núi, thấy cả hai hóa làm con cáo và con vượn mà đi biến mất.

    Chú thích:

    * Nguyên văn: Đà Giang dạ ẩm ký.

    (1) Đà giang: Đời Trần là châu, gồm khu vực hai bên tả, hữu sông Đà, tương đương với miền tây tỉnh Sơn Tây và miền đông tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình ngày nay.

    (2) Xương Phù: Niên hiệu của Trần Phế đế từ 1377-1388.

    (3) Đời vua Huệ Đế nhà Tần, ở mả vua Yên Chiêu Vương có con hồ tinh già và một cây hoa biểu (cây cột gỗ). Hồ tinh một hôm muốn biến làm người học trò, đến nghe Trương Hoa giảng sách, nhân hỏi cây hoa biểu. Hoa biểu nói: "Ông Trương là người trí độ, khó che mắt được, đừng đi mà lại bị nhục, chẳng những hại anh mà lại lụy cả đến tôi nữa. Hồ không nghe, bèn hóa mình đến yết Trương Hoa bàn luận văn chương sử sách, thông hiểu suốt hết. Trương Hoa phải chịu và than rằng:" Thiên hạ đâu lại có người tuổi trẻ thông minh như thế, nếu không là ma quỷ tất là hồ ly ". Sai người đề phòng rất nghiêm ngặt. Sau quan lệnh Phong Thành là Lôi Hoán xui Hoa thử huýt chó săn cho cắn xem sao, nhưng gã kia vẫn không sợ hãi gì cả. Hoa giận nói:" Nó đích thực là yêu rồi, bây giờ chỉ hễ được cây khô nghìn năm mà soi thì hình nó sẽ hiện ra ". Hoán nói:" Cây nghìn năm lấy đâu ra được. Người ta vẫn nói cây hoa biểu trước mồ Chiêu Vương đã trải nghìn năm, nên thử dùng xem sao..".

    Bèn sai người ngả cây ấy đốt ra để soi, gã kia liền hóa thành con hồ, nhân sai đem mổ giết.

    (4) Trương Hoa người đất Phương Thành đời nhà Tấn học nhiều xem rộng, cái gì cũng biết, có làm ra sách Bác vật chí; người đời bấy giờ ví Hoa như Tử Sản nước Trịnh đời xưa. Xem thêm chú thích 3.

    (5) Ôn Kiệu đời Tấn đi qua bến Ngưu Chử là chỗ nước sâu không thể lường được, và người ta vẫn đồn ở đấy có nhiều quái vật. Kiệu bèn đốt sừng tê để soi. Một lát thấy các thủy tộc hiện ra những kỳ hình dị trạng, hoặc đi xe, cưỡi ngựa, hoặc mặc áo đỏ. Đêm ấy mộng thấy người đến bảo: Chúng tôi với ông u minh khác nẻo, việc gì mà ông lại đi soi chúng tôi!

    (6) Viên là họ Viên, đồng âm với viên là con vượn.

    (7) Hồ là họ Hồ, đồng âm với hồ là cáo.

    (8) Chu Công đương gội đầu quấn tóc lại để tiếp người hiền, Ngụy công tử đi xe, dành sẵn bên phía tả để đón bậc hiền sĩ Hầu Doanh.

    (9) Sơn ngụ: Chức quan coi rừng.

    (10) Đời xưa bên Trung Quốc cuộc săn mùa xuân gọi là sưu, cuộc săn mùa thu gọi là miêu.

    (11) Vua Văn Vương nhà Chu đi săn đón được ông già Lã Vọng đang ngồi câu ở sông Vị. Xem thêm chú thích 19, Câu chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na.

    (12) Chỉ việc Lỗ Chiêu công đi săn.

    (13) Chỉ cuộc đi săn của Hán Bình đế.

    (14) Chế Bồng Nga, vua Chiêm Thành, hồi ấy thường vào quấy nhiễu nước Việt.

    (15) Thuở ấy vua Minh sai chức Xá nhân là Lý Anh xuống Vân Nam đòi mượn đường đi sang Chiêm Thành, yêu sách những voi ngựa lương thảo, bắt ta phải cung đốn.

    (16) Đời vua Trần Dụ Tông, người làng Trà Hương là Ngô Bệ họp đảng nổi dậy, giữ núi Yên Phụ, dựng cây cỡ lớn ở trên núi, xưng vương.

    (17) Đời Trần Phế đế, người lộ Bắc Giang là Nguyễn Bồ, xưng là Đường Lang Tử y, dùng pháp thuật, nổi dậy xưng vương, sau bị giết.

    (18) Câu này nói về Gia Cát Lượng bỏ nơi ở ẩn Nam Dương để đi giúp Lưu Bị.

    (19) Bàng Thống: Người có tài, được Gia Cát Lượng tiến cử với Lưu Bị.

    (20) Thơ vịnh loài vượn có câu: Đề thời mạc cận Tiêu Tương ngạn, Minh nguyệt cô chu hữu lữ nhân. Nghĩa lúc kêu chớ gần bờ sông Tiêu Tương, vì trong chiếc thuyền chờ dưới bóng trăng trong có người lữ khách, ý nói nếu kêu để người lữ khách nghe tiếng, sẽ gợi cho người ấy nỗi buồn cố quốc tha hương.

    (21) Sân triều nước Sở có con vượn trắng rất thiêng, người giỏi bắn đến đâu cũng không bắn trúng được. Vua Trang Vương sai nhà thiện xạ là Dưỡng Do Do Cơ bắn, vừa xách cung mang tên ra, chưa bắn mà vượn đã ôm cây khóc, lúc bắn vượn liền theo ngay mũi tên mà sa xuống.
     
  9. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương XII: Chuyện người con gái Nam Xương

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương (1). Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Trương tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi, bà mẹ có dặn rằng:

    - Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

    Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:

    - Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An (2), nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.

    Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ.

    Rồi đó chén đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Bấy giờ nàng đã đương có thai. Sau khi tương biệt được mươi ngày thì sinh một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản.

    Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây ám non Tần, nỗi buồn hải giốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng:

    - Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.

    Bà cụ nói xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.

    Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song đứa bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành:

    - Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!

    Đứa con nói:

    - Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.

    Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:

    - Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

    Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.

    Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:

    - Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

    Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:

    - Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa (3).

    Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang (4) ngửa mặt lên trời mà than rằng:

    - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương (5), xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ (6). Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

    Nói xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một mình phòng không vắng vẻ, đến đêm khêu bấc đèn tàn, không sao ngủ được. Chợt đứa con nói rằng:

    - Cha Đản lại đến rồi!

    Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách:

    - Đây này!

    Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa.

    Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải. Chi Lăng (7). Phan và người làng sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nói rằng:

    - Đây là vị ân nhân cứu sống cho ta xưa đây.

    Linh phi bèn sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy nga lộng lẫy không biết là mình đã lạc vào trong thủy tinh cung, Linh Phi bấy giờ mặc tấm áo cẩm vân dát ngọc, đi đôi giày mầu ráng nạm vàng cười bảo Phan rằng:

    - Tôi là Linh Phi trong Quy động, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa.

    Phi bèn đặt yến ở gác Triệu Dương để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có vô số những mỹ nhân bận quần nhẹ và búi tóc xễ. Trong số có một người, mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ nương. Phan thường nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng:

    - Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách qua đường xa lạ rồi ư?

    Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ nương. Gạn hỏi duyên do. Nàng nói:

    - Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự tử. Chư tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để cho tôi được khỏi chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông.

    Phan nói:

    - Nương tử nghĩa khác Tào Nga (8), hờn không Tinh Vệ (9) mà có mối hận gieo mình nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư!

    Vũ thị nói:

    - Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về gặp mặt chồng!

    Phan Lang nói:

    Thưa nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng, phần mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mắt. Nương tử dầu không nghĩ đến, nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử thì sao?

    Nghe đến đây, Vũ nương ứa nước mắt khóc rồi nói:

    - Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắc (10), chim Việt đậu cành nam (11). Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.

    Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai Xích Hỗn (12) sứ giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:

    - Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.

    Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói:

    - Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.

    Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào:

    - Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.

    Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chìm đi mất.


    Chú thích:

    (1) Nam Xương: Huyện thuộc trấn Sơn Nam, nay là huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam.

    (2) Trường An: Thường chỉ chung kinh đô.

    (3) Núi Vọng Phu: Núi trông chồng. Theo truyền thuyết người đàn bà có chồng đi xa, ngày ngày lên núi ngóng trông đến nỗi hóa đá. Câu này ý nói không còn được coi là tiết phụ nữa.

    (4) Sông Hoàng Giang: Con sông chảy qua huyện Nam Xương.

    (5) Ngọc Mỵ Nương: Mỵ Nương con gái An Dương Vương, gả cho Trọng Thủy, bị Trọng Thủy lừa lấy mất lẫy nỏ thần. Nước mất nàng bị vua cha chém chết. Vì nàng lòng ngay bị chết oan, nên máu của nàng hóa thành ngọc trai.

    (6) Cỏ Ngu Mỹ: Xem chth. 37 truyện Câu chuyện ở đền Hạng Vương.

    (7) Chi Lăng: Nay thuộc huyện Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn. Khai Đại niên hiệu của Hồ Hán Thương (1403-1407).

    (8) Nàng Tào Nga người đời Hán, cha chết đuối, tìm không được xác. Tào Nga mới 14 tuổi chạy theo bờ sông kêu khóc; 17 ngày không thấy xác cha, nàng cũng nhảy xuống sông tự tử.

    (9) Con gái vua Viêm Đế ra chơi bể Đông, chết đuối, hóa làm chim Tinh Vệ, ngày ngày ngậm đá núi Tây về lấp bể.

    (10) Ngựa Hồ sinh ở đất Bắc quen với gió Bắc nên dù đi xa hễ thấy gió Bắc nổi thì hý.

    (11) Chim Việt sinh ở đất Việt cảm thụ được khí ấm áp, cho nên khi bay đi xứ khác, thường đến đậu ở cành cây phía nam cho ấm, giống với khí hậu quê hương.

    (12) Xích Hỗn: Hỗn là tên một loại cá quả; Xích hỗn: Cá quả đỏ.
     
  10. Mary Candy Mary Candy

    Bài viết:
    77
    Chương XIII: Chuyện yêu quái ở Xương Giang

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ở Phong Châu (1) có người họ Hồ tên là Kỳ Vọng. Cuối đời họ Hồ, Kỳ Vọng đi buôn bán, ngụ ở thành Xương Giang (2), rồi ốm chết ở thành ấy. Người vợ nghèo kiết, không có tiền để đưa ma chồng về quê được, phải đem bán người con gái nhỏ là Thị Nghi cho một nhà phú thương họ Phạm. Người con gái lớn lên, khá có tư sắc, họ Phạm yêu mến rồi cùng nàng tư thông. Vợ Phạm biết việc ấy, bèn mượn cớ khác đánh Thị Nghi một trận đau quá đến chết rồi đem chôm ở bên cạnh làng. Sau đấy mấy tháng hồn Thị Nghi hưng yêu tác quái, biến huyễn đủ vẻ, hoặc nhập vào chị ả buôn tương, hoặc ốp vào cô nàng bán rượu, người có vai vế thì bị dâm sát, người có tiền của thì bị bóc lột, suốt một dải đường mười dặm, người ta đều phải đi trưa về sớm, bảo nhau thấy gái đẹp chớ trêu vào. Sau người làng đó biết là hồn Thị Nghi làm tai làm quái, bèn đào mả tán xương vứt xuống sông, từ đấy việc quấy nhiễu cũng hơi bơn bớt.

    Triều Lê sau khi hỗn nhất, có một viên quan họ Hoàng người Lạng Giang (3) đi xuống Trường An (kinh đô) lĩng chức, đỗ thuyền ở bên cạnh sông. Bấy giờ trăng tỏ sao thưa, bốn bề im lặng, chợt nghe thấy ở mỏm bãi cát đàng phía đông nam, có tiếng khóc rất ai oán. Chèo thuyền đến xem, thấy một người con gái tuổi 17, 18, mặc một cái áo lụa đỏ, đương ngồi trên đệm cỏ. Hoàng hỏi:

    - Đêm sâu như vậy, tại sao mà cô khóc lóc thế, khiến lòng sắt đá cũng phải ỉu mềm đi.

    Người con gái khép nép, lau ráo nước mắt rồi nói:

    - Thiếp vốn người ở Phong Châu, cha mẹ làm nghề buôn hàng tấm. Không may bị quân cường bạo giết người cướp của, cha mẹ thiếp đều hồn chôn bụng cá, xương gửi lòng sông. Còn lại tấm thân yếu ớt trơ trọi này thoát khỏi miệng hùm lần lên bờ sông tìm vào nhà dân ở đậu. Hôm qua nhân ra bờ sông hái dâu cho bà chủ, chợt đi qua chỗ gặp nạn cũ bất giác đau xót mà ngồi đây khóc lóc đến giờ.

    Hoàng nói:

    - Cô đã bơ vơ trơ trọi, không chỗ tựa nương, nay tôi nhân đi chơi Trường An, nếu cô muốn về kinh thì tôi cho xuống ngồi nhờ thuyền. Vả từ kinh về đến quê hương nhà cô, thuận gió no buồm bất quá cũng chẳng là mấy chốc.

    Người con gái lại khóc nói:

    - Chiếc thân trôi nổi, nào có đáng tiếc gì đâu, chỉ hận một điều là hài cốt cha mẹ, chưa vớt lên được để đem về mai táng.

    Hoàng nói:

    - Nếu nàng muốn thế tôi cũng chẳng quản gì bỏ một số tiền, vì nàng thu thập những xương rơi đưa về cố hương, đó cũng là một cái nhân duyên trên bước đường gặp gỡ.

    Người con gái mừng rỡ:

    - Nếu vậy thật là lòng trời. Ngài quả giúp cho được như thế, thật là cái ơn nhục cốt sinh tử (4). Thiếp dù có nát thân báo đền cũng không dám quản.

    Hoàng bèn thuê người giỏi lặn lội, ngụp xuống đáy sông mò vớt hài cốt rồi chở đem xuống nam. Có lúc chàng lấy lời thử đùa cợt nàng để dò xem ý tứ thế nào, nhưng nàng chống cự lại rất xẵng. Hoàng càng yêu quý và nể sợ.

    Khi về đến kinh, Hoàng không đi lĩnh chức vội, lại ngược lên cửa tuần Bạch Hạc, đem hài cốt táng ở bên sông. Việc xong, một hôm nàng bảo với Hoàng rằng :

    - Thiếp cùng chàng vốn chẳng hẹn hò, bỗng nên gặp gỡ. Nhưng trước kia vì cha mẹ chưa được mồ êm mả đẹp, cho nên phải chống lại những sự đùa cợt của chàng. Nay việc đã viên thành, vậy xin được đem mình hầu hạ khăn lược. Vả lại chàng đi làm quan xa, giúp trong thiếu kẻ, vậy thiếp xin đương những công việc tảo tần.

    Đã thàng vợ chồng, tình ái rất là thắm thiết. Nàng lại cử động rất hợp lễ, nói năng biết lựa lời, họ hàng bè bạn ai cũng đều khen ngợi.

    Làm quan được một tháng. Hoàng bỗng bị bệnh điên cuồng hoảng hốt, mê lịm đi không còn biết gì. Nàng sớm tối khóc lóc thiết tha không rời ra một bước. Song Hoàng thuốc không chịu uống, mạch không cho xem; ai đem bùa dấu đến thì Hoàng mắng nhiếc. Các thầy thuốc, thầy cúng đều ngờ là có ma quỷ, nhưng cũng không biết làm thế nào, chỉ đành nhìn nhau mà thôi. Sau đó có một người khăn cũ giầy rách, ăn mặc lôi thôi đi vào. Mọi người trông thấy cả cười thì người ấy nói:

    - Các ông đều là tay hèn cả, ta đây mới chính là bậc thần y, chẳng những chữa được khỏi bệnh lại còn có thể khiến người mọc cánh thành tiên được nữa.

    Hỏi đến phương thuật thì biết chữa phong trị khí, thăm đến tay nải thì có trần bì phụ tử. Hoàng bèn cười rồi đưa tay cho xem mạch. Người ấy nói:

    - Không hề gì, chỉ có phủ tạng không điều hòa, sinh ra mê hoặc. Nên uống thang thuốc tiến thực để ăn được nhiều và làm nhiều cỗ bàn lễ thần cúng quỷ sẽ được vô sự.

    Bèn lấy thuốc hòa vào trong một cái chai trắng rồi dốc cho Hoàng uống tất cả. Uống thuốc xong, Hoàng nôn mửa ra vài đấu bọt dãi rồi nằm thiếp đi. Người con gái cả giận, lấy gậy đập vỡ cái chai rồi mắng rằng:

    - Anh chàng huyễn thuật này ở đâu đến đây ly gián vợ chồng ta, chia rẽ nhà cửa ta!

    Người ấy lấy một đạo bùa ném ra, người con gái liền theo bùa mà ngã bổ nhào xuống đất, thành ra một đống xương trắng. Người ấy lấy nước nóng thất hương rót vào ngực Hoàng. Một lúc Hoàng tỉnh lại, hỏi những việc trước thì chẳng biết gì cả. Mọi người tranh nhau hỏi duyên cớ, người ấy nói:

    - Tôi chợt trông mặt ông này, thấy đầy những yêu khí, mà người con gái ấy, chính là gốc rễ tà yêu. Ban đầu tôi phải nói lăng nhăng để nàng coi thường lời tôi, rồi tôi mới có thể trổ tài ra được. Nếu không thì vị tất đã cho được ông ấy uống thuốc.

    Mọi người đều kính phục.

    Bèn sai người đến bến sông Bạch Hạc đào ngôi mộ táng ngày trước lên, thấy chỉ có mấy hòn máu tươi chứ chẳng có xương cốt đâu cả. Vừa toan nhặt lấy những hòn máu thì thoắt đã chẳng thấy đâu nữa. Người ấy than rằng:

    - Cành lá tuy trừ nhưng gốc rễ còn chưa cắt được. Nếu không có thiên binh thần tướng, trừ khử một cách ráo riết, chỉ e lại mắc phải độc thủ thì rất nguy cho ông.

    Sau đó hơn một tuần, Hoàng đương ban ngày nằm chơi, thấy hai người lính vào bắt đem đi, đến một chỗ chung quanh có tường bao bọc, trong có cung điện trang nghiêm, duy mái hành lang bên tả bị xiêu đổ. Trên điện có một người đầu đội mũ miện quát to lên rằng:

    - Diêm vương có chỉ, sai ta tra xét cái án nhà ngươi đó.

    Sai tả hữu lấy đưa cho chàng giấy bút, bắt phải cung khai. Hoàng nói:

    - Tôi vốn nhà nghèo, may được đăng tên vào sổ sĩ hoạn, xử mình không quắt quéo, làm quan không tham tàn, tội trạng không rõ, chẳng dám tuân mệnh.

    Nói chưa dứt lời, đã thấy người con gái ở với mình ngày trước từ mái hành lang phía tả đi ra. Hoàng hiểu ra ngay, liền cầm bút cung rằng:

    "Kính nghe:

    Kính Xuân thu góp sự lạ, tuy đá nói, thần giáng đều biên (5).

    Sách Dã sử nhặt điều rơi, phàm vía mai, tinh đèn cũng chép (6).

    Há bởi trước đặt bày huyền hoặc,

    Cốt muôn người phòng bị tà gian.

    Cho nên Thái Chân đốt sừng tê soi xuống vực sâu, Thủy thần trách móc (7).

    Mã Lượng viết bàn tay thò vào cửa sổ, quỷ vật kêu van (8).

    Hoặc xua giống quái khiêng giường (9).

    Hoặc giết con tinh thổi lửa (10).

    Ấy kẻ sĩ cương phương bao thuở chẳng sợ tà yêu,

    Huống tòa đền hương lửa trăm năm, lại dong xú loại!

    Như tôi,

    Tính vốn thô sơ,

    Vận may hiển đạt.

    Tiêu điều một chức, lạm ăn món bổng thay cày.

    Tịch mịch nửa chăn, riêng nặng nỗi buồn lẻ bạn.

    Ai biết dưới trăng gặp gỡ,

    Vốn vì kiếp trước nợ nần.

    Đem môi son má phấn làm tôi say mê,

    Rút nguyên khí chân tinh khiến tôi hao tổn.

    Nếu không gặp thần y cứu chữa,

    Sớm đã về chín suối vật vờ.

    Xuống sông mà rằng không bắt cá, hồ dễ ai tin,

    Lấy đức mà làm sự phạt tội, dám xin thương đoái".

    Tờ cung tiến trình lên, Diêm Vương cả giận nói:

    - Không ngờ cái nhãi, mà dám đảo điên, đã làm sự dâm tà lại còn toan kiện bậy. Vậy nên đem tống giam vào ngục.

    Bèn viết lớn lời phê phán rằng:

    "Mảng nghe:

    Biến hóa ra vượn hạc sâu cát, đời Chu từng nghe (11).

    Tinh linh của hoa biểu hồ ly, triều Tấn lại thấy (12),

    Thế vận dần xuống,

    Ma quái càng nhiều.

    Cho nên, Đạo gia có phép trừ yêu,

    Địa ngục có bùa triệu quỷ.

    Hăm bốn tòa nghiêm mật, công việc chia riêng,

    Nghìn vạn giống quỷ yêu, tăm hơi trốn biệt.

    Cớ sao loài nhơ nhớp,

    Dám dở thói điên cuồng,

    Một đời chỉ sống với tà dâm, tham lam đã lắm,

    Đến chết vẫn còn toan dối trá, giả mạo sao nhiều,

    Cho là tội danh có thể trốn qua,

    Cho là Minh phủ không thể trừng phạt.

    Cáo họ Nhâm, hổ họ Thôi, lắm trò biến huyễn (13)

    Gươm làm cây, dao làm núi, phải giở nhục hình (14)

    Đến như gã Hoàng,

    Cũng là đáng trách.

    Chí thiếu bền cứng,

    Lòng nhiều ham mê.

    Không biết bắt chước Nhan Thúc Tử chối từ cô ả láng giềng (15)

    Lại đi nối bước Vũ Thừa Tự mê mải con yêu hoa nguyệt (16)

    Chẳng tội gì đó,

    Có nhẹ mà thôi.

    Lời ta phán truyền,

    Thi hành lập tức".

    Lại ngoảnh bảo Hoàng rằng:

    - Nhà ngươi theo đòi nho học, đọc sách thánh hiền, trải xem những sự tích xưa nay, há không biết lời răn sắc đẹp, cớ sao lại đi vào con đường ấy!

    Liền cầm bút phê rằng:

    "Bỏ nết cương cường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ".

    Lại sai hai tên lính đưa Hoàng về nhà. Hoàng vươn vai bừng tỉnh mồ hôi toát ra đầy mình. Sau mấy năm, nhân đi việc quan đến Tam Giang, vào nghỉ ở đền Phong Châu, thấy đền đài tường vách, tượng thần và cái hành lang trụt đổ, đúng như trong chiêm bao trông thấy, mới biết dạo trước chính mình bị đòi đến đây. Hoàng vội lên ngựa ruổi mau, không dám ngoảnh lại. Bấy giờ là ngày Đinh tỵ tháng tám năm Thiệu Bình thứ 2. (17)


    Chú thích:

    (1) Phong Châu: Nguyên chú: "nay là huyện Bạch Hạc", nay thuộc tỉnh Phú Thọ.

    (2) Xương Giang: Nguyên chú: "nay thuộc huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc"; nay là thị xã Bắc Giang.

    (3) Lạng Giang: Nay là vùng đất thuộc tỉnh Bắc Giang.

    (4) Nhục cốt sinh tử: Làm cho xương khô sinh thịt, người chết sống lại; ý nói cứu sống người.

    (5) Kinh Xuân thu chép mùa Xuân năm Đinh mão thứ 8 đời vua Chiêu công nước Lỗ, có hòn đá biết nói ở ấp Ngụy Du nước Tấn. Lại chép năm thứ 31 đời vua Trang công có vị thần giáng xuống đất Sằn.

    (6) Vía mài, tinh đèn: Triệu Sư Hùng đời Tùy, trong năm Khai Hoàng, đi qua núi La Phù ở huyện Nam Hải đất Quảng Châu, một hôm trời tối lạnh lùng, thấy một mái nhà tranh bên cạnh quán rượu ở giữa rừng thông, có cô gái mặc áo trắng ra mời đón. Dưới bóng trăng mờ, Sư Hùng cùng cô gái chuyện trò thân mật, rồi cùng gõ cửa nhà hàng rượu vào uống với nhau, một lát lại có đứa trẻ áo xanh ra cười đùa hát múa. Sư Hùng say rượu nằm kềnh ra ngủ đến khuya thấy rét lạnh lắm, gần sáng nhìn xem, té ra nằm ở dưới gốc một cây mai lớn. (Thượng hữu lục). Tống Tiềm làm chức Tuần kiểm ở Cam Lăng đón một người bạn là Triệu Đương đến nhà ngồi dạy trẻ học. Một đêm Triệu thấy một người đàn bà đẹp đứng dưới đèn ngâm thơ khêu gợi, rồi tắt phụt đèn đi, từ đấy hai người đêm nào cũng quấn quít với nhau. Lâu rồi Tống Tiềm biết, sai người nhà vây bắt được người đàn bà ấy, nắm cổ tay thấy bé tý, nhìn ra thì là cái quặng đèn, bèn đốt bỏ cái đèn ấy đi (Viên cơ).

    (7) Ôn Kiệu đời Tấn tên tự là Thái Chân, đi qua bến Ngưu Chử. Chỗ đó nước sâu thăm thẳm. Người ta vẫn đồn là có nhiều quái vật; Kiệu bèn đốt một cái sừng tê soi xuống, một chốc vô số những thủy tộc kỳ hình quái trạng hoặc đi xe, hoặc đi ngựa, hoặc mặc áo đỏ lố nhố hiện ra. Đêm hôm ấy Kiệu nằm chiêm bao thấy có người bảo: "Ta cùng người tối sáng khác đường, sao lại soi nhau để làm gì thế". Xem ý có vẻ tức giận lắm (Viên cơ).

    (8) Mã Công Lượng đời Tống, thuở nhỏ một đêm ngồi đọc sách dưới đèn ở trong cửa sổ, chợt thấy có một bàn tay lớn như cái quạt thò vào, đêm hôm sau cũng lại như thế. Lượng bèn lấy bút nhấp nước hùng hoàng viết lớn một chữ "hoa" vào tay. Ngoài cửa sổ chợt có tiếng kêu to xin rửa hộ ngay. Lượng cứ mặc kệ. Gần sáng tiếng kêu van càng tha thiết và tay vẫn không rút ra được. Lại nói: "Ông sắp làm nên đại quý nên tôi đùa ông, sao nỡ làm tôi khốn quẫn quá thế! Há không biết việc ông Ôn Kiệu đốt sừng tê ư?" Lượng nghĩ ra, bèn lấy nước rửa sạch chữ hoa, "cái quỷ ấy cảm tạ mà đi" (Viên cơ).

    (9) Ngụy Nguyên Trung đời Đường, một hôm thấy có mấy người đàn bà con gái từ đâu hiện đến đứng ở trước giường. Ông bảo: "Có thể khiêng cái giường ta xuống dưới sân được không?" Họ liền khiêng ngay giường ông xuống dưới sân. Lại bảo: "Có thể khiêng trả giường ta đặt vào chỗ cũ được không?". Họ lại đặt vào chỗ cũ. Lại bảo: "Có thể khiêng giường ta ra phố được không?" Họ đều cúi lạy rồi đi và bảo với nhau rằng: "Đó là bậc trưởng giả khoan hậu, ta không nên đùa cợt như với những người khác" (Viên cơ).

    (10). Đời Tam quốc, Quản Lộ một đêm đương ngồi dưới đèn, chợt có một con vật nhỏ, tay cầm mớ lửa kề lên miệng thổi, suýt nữa cháy nhà. Lộ sai học trò giơ dao chém đứt đôi lưng, té ra là một con cáo. Từ đấy trong làng không có hỏa tai nữa (Viên cơ).

    (11) Vua Mục vương nhà Chu đi đánh phương Nam, có một đội quân đều biến hóa, quân tử thì hóa làm vượn làm hạc, tiểu nhân thì hóa làm sâu làm cát (Loại tụ).

    (12) Đời Tấn Huệ đế mả vua Chiêu vương nước Yên có con hồ ly già và cây cột trụ đều thành yêu tinh. Con hồ ly hóa thành người học trò đến thăm nhà Bác vật Trương Hoa (Sách Tiễn đăng).

    (13) Nữ yêu họ Nhâm rất đẹp, lấy chàng Trịnh sinh. Sau mấy tháng vợ chồng đưa nhau ra ngoài thành chơi, gặp người đi săn dắt chó, nàng Nhâm chợt ngã ngựa hóa thành con cáo rồi bị chó săn cắn chết (Hương đài). Thôi Thao đi đến quán Hiếu nghĩa, thấy một người đàn bà gối đầu vào cái da hổ mà ngủ. Thao kéo lấy da hổ vất xuống giếng, người đàn bà sực tỉnh dậy, mất da không biến được nữa. Thao lấy làm vợ. Sau ba năm, nàng hỏi da hổ để đâu. Thao bảo ở dưới giếng. Nàng vớt lên khoác vào mình, hóa làm hổ, gầm thét mà đi mất (Hương đài).

    (14) Gươm làm cây, dao làm núi là trỏ vào những ngục Kiếm thụ, Đạo sơn, người ta tin là có ở dưới âm phủ.

    (15) Nhan Thúc Tử đời Chu, người nước Lỗ; một mình ở một nhà. Đêm mưa bão, nhà láng giềng phía bắc bị đổ, một cô gái chạy sang trú nhờ. Thúc Tử bắt cô gái cầm một cây nến ở tay, nến hết lại đưa cây khác để đốt tiếp, đến sáng mới thôi. Giữ mình ngay sạch đến như thế. (Thượng hữu lục).

    (16) Vũ Thừa Tự tức là Vũ Tam Tư người đời Đường, có người nàng hầu là Tố Nga, vốn là cái tinh hoa nguyệt hiện thành người. Xem thêm chú thích 17 Chuyện Kỳ ngộ ở Trại Tây.

    (17) Thiệu Bình: Niên hiệu của vua Lê Thái Tông từ 1434 đến 1439. Nếu Đinh Tị thì là năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), ở đây có lẽ người viết sách nhầm.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...