Người xưa có câu: "Nhân vô thập toàn", phàm đã sinh ra làm người thì chẳng ai trong chúng ta là người toàn vẹn, tốt đẹp về mọi mặt. Mỗi chúng ta đều có những ưu điểm và hạn chế, đều có những mặt mạnh và mặt yếu của riêng mình tựa như A- sin dù có sức khỏe hơn người, không ai địch lại nhưng điểm yếu ở gót chân lại chính là chỗ chí mạng. Có một thực tế trong cuộc sống là những điều đối lập luôn song hành như sáng và tối, tốt và xấu, được và mất, thế nên trong mỗi con người cũng có sự hiện hữu của cả hai mặt mạnh và yếu. Chúng không chỉ mang tính chất đối lập mà còn có sự hòa quyện vào nhau để tạo nên một khung nhân cách hoàn thiện.
Trong lý thuyết Tâm lý học Cá nhân của Adfred Adler có đề cập đến hai xung năng quan trọng luôn tồn tại trong mỗi cá nhân bao gồm: Cảm giác tự ti và lòng tự tôn. Những điều khiến chúng ta cảm thấy tự hào và hài lòng về bản thân chính là biểu hiện của lòng tự tôn, nói cách khác đó chính là những điểm mạnh mà chúng ta có. Ngược lại, những điều ta cảm thấy không thoải mái để bộc lộ hay nhắc đến đó thường là nhưng điểm yếu của chúng ta. Dù là điểm mạnh hay điểm yếu thì trước hết chúng là những gì phản ảnh cho cuộc đời của một người. Chúng ta có thể xem xét hai ví dụ sau đây. Thứ nhất, là cảm giác tự ti sẽ biến thành phức cảm tự ti nếu một đứa trẻ từng gặp phải ít nhất một trong 3 trường hợp mà Adler đề cập: Bị chối bỏ, được nuông chiều và tàn tật. Những điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý cá nhân đó khi họ cảm thấy mình có những khiếm khuyết cả về thể lý lẫn tinh thần. Sự tự ti ban đầu sẽ dần tích tụ lâu dài cho đến 1 lúc nào đó chúng trở thành một sự phức cảm của lòng tự ti. Ngược lại với phức cảm tự ti là phức cảm tự tôn, hầu hết những đứa trẻ lớn lên dưới sự chăm chút quá mức cần thiết và thường được đề cao thái quá sẽ phát triển loại phức cảm này và thường mang trong mình suy nghĩ ảo tưởng bản thân. Hai ví dụ ấy cho ta thấy rằng điểm mạnh và điểm yếu chính là tấm gương phản chiếu cho cuộc đời của một con người vốn đã hình thành từ thời thơ bé và lớn dần lên theo thời gian.
Một ý khác cũng rất quan trọng khi chúng ta đề cập đến điểm yếu của một người. Có thể ngay từ ban đầu họ vốn k có những điểm yếu như thế nhưng một sự cố nào đó xảy đến và rồi tâm trí hằn sâu một vết thương ám ảnh khiến họ k cách nào vượt qua được. Người từng gặp hỏa hoạn sẽ rất sợ lửa, người từng mắc kẹt trong thang máy có xu hướng sợ bóng tối và nơi chật hẹp, người từng té ngã từ trên cây cao sẽ sợ độ cao khi cơ thể đã hồi phục. Mỗi một điểm yếu là một nỗi ám sợ nào đó từng trải qua trong quá khứ như một vết sẹo k còn gây nhứt nhói nhưng chúng cũng chẳng mất đi và rồi người ta cố tình che đậy.
Sau khi phân tích các khía cạnh về điểm mạnh điểm yếu, chúng ta quay trở lại với câu hỏi: "Theo bạn, chúng ta có cần thiết trở nên mạnh mẽ trước mắt người khác hay k?" Thật ra bề nổi của câu hỏi đã cho ta một câu trả lời và tùy vào quan điểm của mỗi người ta sẽ có những cách nghĩ khác nhau cho vấn đề này. Thế nên mình xin phép được bàn luận dưới góc độ phân tích động cơ của hành vi thay vì bày tỏ quan điểm cá nhân. Như đã nói, có một số điểm yếu vốn đã có từ khi ta được sinh ra và do môi trường tác động như bị tàn tật hay bị bỏ rơi, điều này khiến ta cảm thấy bị hụt hẫng và mất mác rất nhiều. Trẻ bị tàn tật tự thấy mình k như bạn bè và có suy nghĩ tiêu cực về bản thân dưới tác động của phức cảm tự ti. Trẻ bị bỏ rơi sẽ mang tâm lý thiếu hụt cảm giác an toàn và tình cảm, cả hai điều này là cực kỳ cần thiết cho trẻ nhỏ nếu thiếu đi chúng sẽ có một đời sống tâm lý bất ổn về sau mà biểu hiện cự thể là hay nghi ngờ và thiếu đi lòng tự tin nghiêm trọng. Trường hợp những người bị nạn và phát sinh nỗi ám sợ về sau hay những người từng có trải nghiệm k vui về một điều gì đó trong quá khứ cũng tương tự như thế. Họ cố gắng che giấu đi điểm yếu trước mắt người khác chỉ có một mục tiêu cuối cùng là phòng vệ. Đó chính là lý do quan trọng nhất cho hành vi này. Họ k muốn khơi lại hay một lần nữa những điều tối tệ đó nên họ tìm cách trốn tránh. Người bị bỏ rơi sẽ luôn tỏ ra mình rất ổn và mạnh mẽ như một cách họ tự an ủi và bảo vệ chính mình, họ thường có xu hướng chuyển di cảm giác lo lắng đó lên 1 đối tượng khác như một cơ chế phòng vệ. Người có nỗi sợ về bóng tối, lửa, nước.. thường chối bỏ những cảm giác lo âu, sợ hãi thông qua việc né tránh thái quá để đảm bảo mình được an toàn. Suy cho cùng đó chỉ là cách họ cố gắng bảo vệ bản thân. Tuy nhiên, bảo vệ bản thân trong môt cảm giác an toàn còn là sự giữ gìn hình tượng cá nhân. Chúng ta luôn coi trọng hình ảnh của mình trong mắt nguời khác, điều đó k cho phép ta bộc lộ ra những hạn chế, yếu kém của mình trước mặt ai đó vì chúng ta sợ cảm giác bị đánh giá. Do đó, tránh bộc lộ điểm yếu cũng là một bức tường phòng vệ thứ hai mang đến cho ta một cảm giác an toàn về hình ảnh bản thân trong xã hội, đặc biệt là cánh mày râu rất cần sỉ diện nên nhất định k thể để người khác thấy mình yếu đuối hay khóc lóc, bi lụy, đó cũng là một định kiến giới trong xã hội mà chúng ta đang sống.
Xét đén cùng bộc lộ hay k bộc lộ điểm yếu của mình trước mặt người khác vốn phụ thuộc nhiều vào tâm lý, tính cách của mỗi người. Một người có niềm tin cao sẽ dễ dàng chấp nhận và sống thật với chính mình, điều đó có nghĩa là anh ta vui vẻ thể hiện mọi khía cạnh của mình dù là tốt hay xấu vì mục tiêu anh ta hướng tới là phát triển và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên nếu đổi lại là một người có sự tự ti sâu sắc, sự nghi ngờ thái quá sẽ k bao giờ tỏ ra yếu đuối hay để ai khác biết mình có những điểm yếu vì họ k cảm thấy an toàn hay tin tưởng bất kỳ ai, thay vì nhìn nhận và khắc phục hạn chế của bản thân thì họ sẽ có xu hướng che đậy và chuyển di cảm giác bất an lên một đối tượng khác. Suy cùng, điều quan trọng k phải là ta có bộc lộ điểm yếu của mình hay k, quan trọng là ta có nhận thức được và tìm ra giải pháp khắc phục chúng hay k mà thôi, điều đó nằm ở sự lựa chọn của mỗi người.