1 người đang xem
Bài viết: 139 Tìm chủ đề
1327 36
Top những bài thơ Nôm hay nhất của Hồ Xuân Hương

Nguồn: Sưu tầm

Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương có thể nói là những bài thơ xuất sắc và độc đáo nhất của văn học trung đại Việt Nam. Thơ của bà táo bạo, nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo và ẩn chứa nhiều nét văn hóa dân gian phồn thực thú vị. Thơ bà là sự kết hợp giữa sự hóm hỉnh sâu cay, nỗi đau với cuộc đời, và sự ngạo nghễ trong tinh thần.

Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn những bài thơ Nôm hay nhất của Hồ Xuân Hương:​

BÁNH TRÔI NƯỚC

Thân em thời trắng phận em tròn

Bảy nổi ba chìm mấy nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

CÁI QUẠT

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa

Duyên này tác hợp tự ngàn xưa

Chành ra ba góc da còn thiếu

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa

(Quốc văn tùng ký)

Bài này trong văn bản chỉ có 4 câu, các bản quốc ngữ sau này có thêm 4 câu nữa:

Mát mặt anh hùng khi tắt gió

Che đầu quân tử lúc sa mưa

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng

Phì phạch trong lòng đã sướng chưa.

CANH KHUYA (Tự tình II)

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan mấy nước non

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy chòm

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình son trẻ tí con con.

CẢNH THU

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,

Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ,

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.

Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,

Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ

Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,

Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

CHẾ SƯ

Chẳng phải Ngô chẳng phải ta

Đầu thì trọc lốc áo không tà

Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm

Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà

Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ

Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha

Tu lâu có nhẽ lên sư cụ

Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà.

CHƠI KHÁN ĐÀI

Êm ái chiều xuân tới Khán Đài

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai

Bốn mùa triêu mộ, chuông gầm sóng

Một vũng tang thương, nước lộn trời

Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn

Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi

Nào là cực lạc là đâu tá?

Cực lạc là đây, chín rõ mười.

CHÙA HƯƠNG TÍCH

Bày đặt vì ai khéo khéo vòm

Nứt ra một lỗ hổng hòm hom

Người quen cửa Phật chen chân xọc

Kẻ lạ bầu Tiên mỏi mắt dòm

Giọt nước hữu tình rơi thánh thót

Con thuyền vô trạo cúi lom khom

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại

Rõ khéo trời già đến dở dom.

CHÙA SÀI SƠN

Khen thay con tạo khéo khôn phàm

Một đố giương ra biết mấy ngàm

Triền đá cỏ leo sờ rậm rạp

Lạch khe nước rỉ mó lam nham

Một sư đầu trọc ngồi khua mõ

Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am

Đến nơi mới biết rằng Thánh Hóa

Chồn chân mỏi gối hãy còn ham.

DU CỔ TỰ

Thầy tớ thong dong dạo cảnh chùa

Cầm thư lưng túi rượu lưng hồ

Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác

Chim núi nghe kinh cổ gật gù

Then cửa từ bi nêm chật cánh

Nén hương tế độ cắm đầy lò

Nhà sư ướm hỏi nhà sư tí

Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ.

DỮ PHẠM TẾ TỬU XƯỚNG HỌA kỳ 2

Kìa ai tỉnh, kìa ai say

Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày

Khoan khoan xin hãy dừng tay lại

Chớ mó hang hùm nữa mất tay.

ĐÁ ÔNG BÀ CHỒNG

Khéo khéo bày trò tạo hóa công

Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng

Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc

Thớt dưới sương pha đượm má hồng

Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt

Khối tình cọ mãi với non sông

Đá kia còn biết xuân già giặn

Chả trách người ta lúc trẻ trung.

ĐÁNH ĐU

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,

Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,

Trai co gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,

Hai hàng chân ngọc duỗi song song.

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá.

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

ĐỀ NHỊ MĨ NHÂN ĐỒ

Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mình

Chị cũng xinh mà em cũng xinh

Trăm vẻ như in tờ giấy trắng

Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh

Phiếu mai chăng dám đường kia nọ

Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh

Có một thú vui sao chẳng vẽ

Trách người thợ ấy khéo vô tình

HANG CẮC CỚ

Trời đất sinh ra đá một chòm

Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom

Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm

Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm

Con đường vô ngạn tối om om

Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc

Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.

HÀNG Ư THANH

Ðứng tréo trông ra cảnh hắt heo

Ðường đi thiên thẹo quán cheo leo

Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác

Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo

Ba chạc cây xanh hình uốn éo

Một dòng nước biếc cỏ lèo tèo

Thú vui quên cả niềm lo cũ

Kìa cái diều ai gió lộn lèo.

HỎI TRĂNG bài 1

Một trái trăng thu chín mõm mòm,

Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.

Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,

Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.

KHÓC TỔNG CÓC

Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

LẤY CHỒNG CHUNG

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm chừng mười họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng

Cầm bằng làm mướn mướn không công

Nỗi này ví biết dường này nhỉ

Thời trước thôi đành ở vậy xong.

LỠM HỌC TRÒ

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây chị dạy lối làm thơ

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

MỜI TRẦU

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

NHĨ HÀ TỨC CẢNH

Thấp thoáng đầu ghềnh lún phún mưa

Đố ai vẽ được cảnh tiêu sơ

Xanh om cổ thụ tròn như tán

Trắng xóa tràng giang phẳng ngỡ tờ

Còi mục thét trăng miền khoáng dã

Lưới ngư chăng gió bãi bình sa

Chuông ai đứt nối bên kia tá

Lầm lỡ chung tình một túi thơ.

NÚI BA ĐÈO

Một đèo một đèo lại một đèo

Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo

Cửa son tía ngắt lơ thơ móc

Đường đá xanh rì lún phún rêu

Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc

Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương gieo

Hiền nhân quân tử ai là chẳng

Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo

NÚI KẼM TRỐNG

Hai bên thời núi giữa thời sông

Có phải đây là Kẽm Trống không

Gió vật sườn non kêu lắc rắc

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong

QUÁN SỨ TỰ

Quán Sứ chùa xưa cảnh vắng teo

Thương ôi sư đã hóa ra mèo

Sáng banh vắng kẻ khua dùi mõ

Trưa trật không người quét kẽ rêu

Chí chát chày kình im lại đấm

Lầm rầm tràng hạt đếm cùng đeo

Buồm từ cũng rắp sang Tây Trúc

Gió vật cho nên phải lộn lèo

SƯ HOẠNH DÂM

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo

Làm chi một chút tẻo tèo teo

Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc

Trái gió cho nên phải lộn lèo

TỰ TÌNH I

Tiếng gà xao xác gáy trên vòm

Oán hận trông ra khắp mọi chòm

Mõ thảm không khua mà cũng cốc

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ

Sau hận vì duyên để mõm mòm

Tài tử văn nhân ai đó tá

Thân này đâu đã chịu già tom

TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ

Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền

Cũng đòi học nói nói không nên

Ai về nhắn nhủ phường lòi tói

Muốn sống đem vôi quét trả đền

TRÁCH CHIÊU HỔ

Sao nói rằng năm lại có ba?

Trách người quân tử hẹn sai ra.

Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,

Nhớ hái cho xin nắm lá đa.

CHIÊU HỔ HỌA LẠI:

Rằng gián thì năm, quý có ba

Bởi người thục nữ tính không ra.

Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt

Cho cả cành đa lẫn củ đa.

TỨC SỰ

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng

Nín đi kẻo thẹn mấy non sông

Ai về nhắn nhủ đàn em nhé

Xấu máu thời khem miếng đỉnh chung

VỊNH ĐỜI NGƯỜI

Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày

Dẫu có ngàn vàng khó đổi thay

Trong núi ngàn năm cây vẫn có

Dưới trần trăm tuổi dễ không ai

Nghĩ đường danh lợi lòng thêm chán

Thấy kẻ gian ngoan bụng lại đầy

Đắng xót ghê thay mùi tục lụy

Bực mình theo Cuội tới cung mây

VỊNH NẰM NGỦ

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông

Tiên nữ nằm chơi quá giấc nồng

Lược trúc chải cài trên mái tóc

Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Ðôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt

Ði thì cũng dở ở sao xong.​
 
Last edited by a moderator:

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back