Top những bài thơ Nôm hay nhất của Hồ Xuân Hương Nguồn: Sưu tầm Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương có thể nói là những bài thơ xuất sắc và độc đáo nhất của văn học trung đại Việt Nam. Thơ của bà táo bạo, nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo và ẩn chứa nhiều nét văn hóa dân gian phồn thực thú vị. Thơ bà là sự kết hợp giữa sự hóm hỉnh sâu cay, nỗi đau với cuộc đời, và sự ngạo nghễ trong tinh thần. Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn những bài thơ Nôm hay nhất của Hồ Xuân Hương: BÁNH TRÔI NƯỚC Thân em thời trắng phận em tròn Bảy nổi ba chìm mấy nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son CÁI QUẠT Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa Duyên này tác hợp tự ngàn xưa Chành ra ba góc da còn thiếu Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa (Quốc văn tùng ký) Bài này trong văn bản chỉ có 4 câu, các bản quốc ngữ sau này có thêm 4 câu nữa: Mát mặt anh hùng khi tắt gió Che đầu quân tử lúc sa mưa Nâng niu ướm hỏi người trong trướng Phì phạch trong lòng đã sướng chưa. CANH KHUYA (Tự tình II) Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan mấy nước non Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đá mấy chòm Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình son trẻ tí con con. CẢNH THU Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa, Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ, Xanh om cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. Bầu dốc giang sơn say chấp rượu, Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ, Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. CHẾ SƯ Chẳng phải Ngô chẳng phải ta Đầu thì trọc lốc áo không tà Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha Tu lâu có nhẽ lên sư cụ Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà. CHƠI KHÁN ĐÀI Êm ái chiều xuân tới Khán Đài Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai Bốn mùa triêu mộ, chuông gầm sóng Một vũng tang thương, nước lộn trời Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi Nào là cực lạc là đâu tá? Cực lạc là đây, chín rõ mười. CHÙA HƯƠNG TÍCH Bày đặt vì ai khéo khéo vòm Nứt ra một lỗ hổng hòm hom Người quen cửa Phật chen chân xọc Kẻ lạ bầu Tiên mỏi mắt dòm Giọt nước hữu tình rơi thánh thót Con thuyền vô trạo cúi lom khom Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại Rõ khéo trời già đến dở dom. CHÙA SÀI SƠN Khen thay con tạo khéo khôn phàm Một đố giương ra biết mấy ngàm Triền đá cỏ leo sờ rậm rạp Lạch khe nước rỉ mó lam nham Một sư đầu trọc ngồi khua mõ Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am Đến nơi mới biết rằng Thánh Hóa Chồn chân mỏi gối hãy còn ham. DU CỔ TỰ Thầy tớ thong dong dạo cảnh chùa Cầm thư lưng túi rượu lưng hồ Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác Chim núi nghe kinh cổ gật gù Then cửa từ bi nêm chật cánh Nén hương tế độ cắm đầy lò Nhà sư ướm hỏi nhà sư tí Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ. DỮ PHẠM TẾ TỬU XƯỚNG HỌA kỳ 2 Kìa ai tỉnh, kìa ai say Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày Khoan khoan xin hãy dừng tay lại Chớ mó hang hùm nữa mất tay. ĐÁ ÔNG BÀ CHỒNG Khéo khéo bày trò tạo hóa công Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc Thớt dưới sương pha đượm má hồng Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt Khối tình cọ mãi với non sông Đá kia còn biết xuân già giặn Chả trách người ta lúc trẻ trung. ĐÁNH ĐU Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, Người thì lên đánh kẻ ngồi trông, Trai co gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Chơi xuân đã biết xuân chăng tá. Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! ĐỀ NHỊ MĨ NHÂN ĐỒ Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mình Chị cũng xinh mà em cũng xinh Trăm vẻ như in tờ giấy trắng Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh Phiếu mai chăng dám đường kia nọ Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh Có một thú vui sao chẳng vẽ Trách người thợ ấy khéo vô tình HANG CẮC CỚ Trời đất sinh ra đá một chòm Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn Luồng gió thông reo vỗ phập phòm Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm Con đường vô ngạn tối om om Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm. HÀNG Ư THANH Ðứng tréo trông ra cảnh hắt heo Ðường đi thiên thẹo quán cheo leo Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo Ba chạc cây xanh hình uốn éo Một dòng nước biếc cỏ lèo tèo Thú vui quên cả niềm lo cũ Kìa cái diều ai gió lộn lèo. HỎI TRĂNG bài 1 Một trái trăng thu chín mõm mòm, Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom! Giữa in chiếc bích khuôn còn méo, Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm. Ghét mặt kẻ trần đua xói móc, Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom. Hỡi người bẻ quế rằng ai đó, Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm. KHÓC TỔNG CÓC Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi Thiếp bén duyên chàng có thế thôi Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi. LẤY CHỒNG CHUNG Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Năm chừng mười họa hay chăng chớ Một tháng đôi lần có cũng không Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng Cầm bằng làm mướn mướn không công Nỗi này ví biết dường này nhỉ Thời trước thôi đành ở vậy xong. LỠM HỌC TRÒ Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ Lại đây chị dạy lối làm thơ Ong non ngứa nọc châm hoa rữa Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa. MỜI TRẦU Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá, bạc như vôi. NHĨ HÀ TỨC CẢNH Thấp thoáng đầu ghềnh lún phún mưa Đố ai vẽ được cảnh tiêu sơ Xanh om cổ thụ tròn như tán Trắng xóa tràng giang phẳng ngỡ tờ Còi mục thét trăng miền khoáng dã Lưới ngư chăng gió bãi bình sa Chuông ai đứt nối bên kia tá Lầm lỡ chung tình một túi thơ. NÚI BA ĐÈO Một đèo một đèo lại một đèo Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo Cửa son tía ngắt lơ thơ móc Đường đá xanh rì lún phún rêu Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương gieo Hiền nhân quân tử ai là chẳng Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo NÚI KẼM TRỐNG Hai bên thời núi giữa thời sông Có phải đây là Kẽm Trống không Gió vật sườn non kêu lắc rắc Sóng dồn mặt nước vỗ long bong QUÁN SỨ TỰ Quán Sứ chùa xưa cảnh vắng teo Thương ôi sư đã hóa ra mèo Sáng banh vắng kẻ khua dùi mõ Trưa trật không người quét kẽ rêu Chí chát chày kình im lại đấm Lầm rầm tràng hạt đếm cùng đeo Buồm từ cũng rắp sang Tây Trúc Gió vật cho nên phải lộn lèo SƯ HOẠNH DÂM Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi một chút tẻo tèo teo Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc Trái gió cho nên phải lộn lèo TỰ TÌNH I Tiếng gà xao xác gáy trên vòm Oán hận trông ra khắp mọi chòm Mõ thảm không khua mà cũng cốc Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ Sau hận vì duyên để mõm mòm Tài tử văn nhân ai đó tá Thân này đâu đã chịu già tom TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền Cũng đòi học nói nói không nên Ai về nhắn nhủ phường lòi tói Muốn sống đem vôi quét trả đền TRÁCH CHIÊU HỔ Sao nói rằng năm lại có ba? Trách người quân tử hẹn sai ra. Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt, Nhớ hái cho xin nắm lá đa. CHIÊU HỔ HỌA LẠI: Rằng gián thì năm, quý có ba Bởi người thục nữ tính không ra. Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt Cho cả cành đa lẫn củ đa. TỨC SỰ Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng Nín đi kẻo thẹn mấy non sông Ai về nhắn nhủ đàn em nhé Xấu máu thời khem miếng đỉnh chung VỊNH ĐỜI NGƯỜI Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày Dẫu có ngàn vàng khó đổi thay Trong núi ngàn năm cây vẫn có Dưới trần trăm tuổi dễ không ai Nghĩ đường danh lợi lòng thêm chán Thấy kẻ gian ngoan bụng lại đầy Đắng xót ghê thay mùi tục lụy Bực mình theo Cuội tới cung mây VỊNH NẰM NGỦ Mùa hè hây hẩy gió nồm đông Tiên nữ nằm chơi quá giấc nồng Lược trúc chải cài trên mái tóc Yếm đào trễ xuống dưới nương long Ðôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Ði thì cũng dở ở sao xong.