Tan trường sao chẳng chờ nhau?
Em theo người ấy bỏ sầu tôi rơi
Em là hoa hướng mặt trời
Để tôi chiếc lá suốt đời ngóng... theo!
1999
(Tập thơ Cỏ hoa thì thầm - NXB Thanh niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Bài thơ được viết tặng cô Thùy Dương, giáo viên hóa trường THPT Võ Thị Sáu
Hoa hướng dương hay hoa Mặt trời giống như tên gọi của chính nó – luôn hướng về phía Mặt Trời
Tại một quán cà phê, tác giả vô tình gặp một em nam là cựu học sinh trường Võ Thị Sáu. Em nam này là bạn học cùng lớp với cô Thùy Dương, giáo viên hóa trường THPT Võ Thị Sáu. Bài thơ viết từ tâm sự khó nói của cậu học trò ngày xưa ấy.
Tháng tám ta về gió gió lên
Đông Hồ bàng bạc khói lênh đênh
Câu thơ áo trắng chòng chành vỡ
Kỷ niệm mù sương bỗng bập bềnh.
Gió đùa mặt nước, gió đùa mây
Hoàng hôn chấp chới cánh chim bay
Thuyền ai neo vội bên sông vắng
Neo mảnh trăng chìm sóng lắt lay?
Em xa xóm núi bỏ trầu không
Bỏ phố chênh vênh nắng biển nồng
Bỏ ta ngơ ngác mờ mưa bụi
Cầu phao bập bỗng bước long bong.
Long bong sóng vỗ nhịp âm âm
Một khúc xôn xao, một khúc thầm
Vọng nghe câu hát mùa ly biệt
Đau đáu tìm nhau vượt tháng năm.
Em đã về đâu, biết đến đâu?
Trời chiều nhuộm tím bến Tô Châu
Người xưa bỗng nhớ người xưa cũ
Một bóng trên sông, bóng lặng sầu.
2000
(Tuyển tập thơ Thơ tìm người thơ – NXB Văn hóa Dân tộc 2001) Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Bài thơ viết tặng một cô bạn tên Thúy.
Tô Châu là tên một dãy núi nằm ở phía Tây vũng Đông Hồ, thuộc phường Tô Châu, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Dưới chân núi là bến đò Tô Châu, đi qua trung tâm thị xã. Ngày nay, bến đò này đã được thay bằng cầu nổi Hà Tiên và cầu đúc Tô Châu kiên cố.
Khi Thanh Trắc Nguyễn Văn viết bài thơ Hà Tiên hoàng hôn thì thị trấn Hà Tiên vẫn còn cầu phao bắc tạm qua sông. Sau này, khi cầu Tô Châu được xây dựng xong (ngày 30-4-2003), cầu phao cũ mới bị tháo dỡ không còn dùng nữa...
Biển một bên- dập dềnh chao sóng
Em một bên- tóc lộng mây trời
Còng trên cát anh vồ cứ trượt
Kỷ niệm cười lấp lánh ánh sao rơi.
Bên bếp lửa đôi mình ngồi nấu cháo
Nước chợt sôi lúng búng những nỗi niềm
Anh thêm củi chỉ thêm vào bối rối
Khói cay nồng đặc quánh bóng biển đêm.
Tô cháo ấy em rắc đầy hành lá
Còng ngọt đậm đà, gạch đỏ hơn son
Anh húp mãi cạn cùng nỗi nhớ
Đến bây giờ vị đầu lưỡi còn ngon!
Anh đi xa nhớ miền quê biển
Nhớ mắt em xưa, nhớ món cháo còng
Gió du lãng trải tháng ngày phiêu bạt
Bỗng lặng lờ neo nhớ bến mong...
1999
(Tập thơ Cỏ hoa thì thầm - NXB Thanh niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Phan Rí là một địa danh trước đây dùng để chỉ một vùng đất nằm giữa hai con sông Lòng Sông (thuộc địa bàn huyện Tuy Phong) và sông Phố Hài (thuộc địa bàn thành phố Phan Thiết), nằm ở phía Bắc tỉnh Bình Thuận, gần tương ứng với địa bàn 2 huyện Tuy Phong và Bắc Bình ngày nay. Ngày nay địa danh này chủ yếu dùng để chỉ thị trấn Phan Rí Cửa thuộc huyện Tuy Phong. (Theo tư liệu địa lý năm 2025)
Bài thơ viết tặng cho một cô gái ở làng chài Phan Rí.
Ngày xưa, có một lần tác giả theo một người bạn về làng chài Phan Rí chơi. Tối đó có một cô gái rủ tác giả theo cô và các bạn cô đi bắt còng. Lần đầu tiên tác giả được tham gia trò vui cầm đuốc bắt còng trong đêm, rồi ăn món cháo còng dân dã miền biển... Sau này khi tác giả trở lại Phan Rí thì được tin cô gái đã theo chồng về xứ xa...
Gặp em gánh thóc trên đồng
Hỏi em em đã có chồng hay chưa?
Em cười lỏn lẻn rồi thưa:
Trước đây ba tháng vẫn chưa... có chồng!
1999
(Tập thơ Cỏ hoa thì thầm - NXB Thanh niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Đừng có hăm hở tin hết vào những gì con gái nói, đôi khi còn rất nhiều thứ không thành lời cần bạn khám phá.
Lời của một cô gái có đáng tin hay không, chỉ có bản lĩnh của người đàn ông mới nhận thức được.
Năm 1999, khi đi gác thi ở điểm thi là trường Nguyễn Trãi TP.HCM, có một giáo viên nam ở trường bạn thấy cô Bạch Tuyết - giáo viên dạy môn sinh vật trường THPT Võ Thị Sáu - quá xinh nên hỏi tôi: Cô ấy đã có người yêu chưa? Tôi cười và ứng khẩu đọc cho thầy ấy nghe bài thơ này. Đúng vậy, thời điểm đó cô Bạch Tuyết làm lễ kết hôn vừa đúng ba tháng trước!
Ngày ấy mình chung lớp
Hai đứa chung lối về
Em là hoa bưởi trắng
Thơm ngát giữa đường quê.
Một chiều thu gió lộng
Ngồi học cạnh bờ ao
Em quấn đôi nhẫn cỏ
Mơ ước chuyện ngày sau.
Em mơ làm cô giáo
Anh cũng ước làm thầy
Tuổi thơ như giọt nắng
Bước chân đầy cỏ may.
Ước mơ mình chia nửa
Hai nửa cùng chung mơ
Nửa em ép vào lá
Nửa anh gởi vào thơ.
Nửa em hóa lá đỏ
Bồng bềnh ra sông xa
Nửa anh thành khói trắng
Long đong nơi quê nhà.
Trang sách còn một nửa
Nửa cánh diều lặng bay
Bài thơ mất một nửa
Nửa xanh cọng cỏ gầy.
Nửa anh giờ trường cũ
Nửa em giờ mù khơi
Ước mơ đôi nhẫn cỏ
Đôi nửa còn nửa đôi.
Từng đêm bên giáo án
Nghe nửa mùa thu đau
Nửa anh còn tìm mãi
Nửa mơ ước xưa đâu?
1997
(Tập thơ Cỏ hoa thì thầm - NXB Thanh niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: "Nhẫn cỏ" là cách gọi một chiếc nhẫn đơn giản, thường làm từ những vật liệu rất bình thường, như cỏ, dây chỉ, hoặc một chất liệu rẻ tiền khác.
Nhẫn cỏ dù tết bằng cỏ đơn giản, tuy nghèo nhưng lại rất thơ mộng, rất lãng mạn và mang nhiều ước mơ của tình yêu tuổi trẻ.
Ra đi gió lạnh trời đông
Câu thơ mắc cạn dưới dòng sông Thương
Sông Thương ai nói lời thương Một thương hẹn nhớ, chín thương hẹn chờ.
Bắc Giang 1999
(Tập thơ Cỏ hoa thì thầm - NXB Thanh niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Ở Miền Tây vào những năm 1960, các gia đình thường rất đông con, có nhà có đến mười bốn mười lăm người con không phải là chuyện hiếm. Bài thơ lục bát này được viết tặng một cô gái ở Tiền Giang tên là Thương. Trong nhà người thân của cô cũng thường gọi cô là cô Mười Ba. Cô gái có nhờ tác giả viết một bài thơ tứ tuyệt lục bát nhưng làm sao phải có đủ 13 chữ "Thương" (tên cô) để cô làm kỷ niệm.
Tác giả năm đó cũng vừa từ Bắc Giang về, Bắc Giang có một dòng sông cũng tên là sông Thương. Thế là bài thơ ra đời...
Sông Thương nước chảy đôi dòng.
Bên trong bên đục em trông bên nào?
(Ca dao)
Sông Thương hay sông Nhật Đức (xưa còn gọi là sông Nam Bình, sông Lạng Giang, sông Long Nhỡn) là một phụ lưu của sông Thái Bình, là một sông lớn chảy qua các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương.