

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu hay Tam Phủ, Tứ Phủ được thờ cúng rộng rãi trong dân gian, có nghi lễ hát văn, hầu đồng đã tạo nên bức tranh đời sống văn hóa tâm linh hết sức đa dạng và phong phú với nét riêng dân tộc. Lễ chầu văn hay còn gọi là hầu đồng được hiểu đơn giản là hình thức diễn xướng trên nền âm nhạc tâm linh, sử dụng lời ca tinh tế và các nghi thức, nghi lễ trang nghiêm, một hình thức nhảy múa cho phép mọi người giao tiếp với các vị thần.
Hát hầu là một trong những hình thức của hát văn, được sử dụng để phục vụ hầu đồng. Khác với hát ca trù, hát quan họ hay hát xẩm; hát chầu văn hầu Thánh là sự kết hợp của các làn điệu dân ca và các điệu múa dân gian. Dưới góc nhìn văn hóa, hầu đồng là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian tổng hợp, mang đậm bản sắc Việt Nam, bao gồm âm nhạc, văn học, ca múa, kịch câm, mỹ thuật.. Về cơ bản, ca từ của các bài hát hầu có nội dung ca ngợi quê hương, đất nước, cuộc sống mới.
Lễ hầu đồng có thể được coi là một loại hình nghệ thuật trình diễn tâm linh. Những người tham gia hầu đồng để thưởng thức các làn điệu âm nhạc và đáp ứng nhu cầu tinh thần, tâm linh. Ngoài ra, việc đi hầu đồng sau những ngày làm việc mệt mỏi sẽ giúp lấy lại tinh thần thoải mái. Trong những lễ hầu đồng, người tham gia hầu đồng cũng cổ vũ và "phiêu" theo không kém gì những buổi concert của các idol hiện nay.
Từ tín ngưỡng dân gian liên quan đến nông nghiệp, hy vọng sinh sôi nảy nở, đến tín ngưỡng kinh doanh đem lại lợi ích thương mại, hầu đồng đã làm thay đổi nhiều diện mạo của hệ thống đền thờ, môn đồ, tín đồ của đạo Mẫu.
Hầu đồng giống như một bằng chứng của sự phát triển thương mại. Không khó để nhận thấy các đền thờ tôn giáo phân bố trên các trục giao thương quan trọng như Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Yên Bái, Lào Cai, Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh, Hà Nội - Nghệ An.. và sau đó đi theo con đường tự nhiên về phía Nam.
Trong những năm 1930 đến 1950, lễ hầu đồng (vấn hầu) thường do nông dân nông thôn làm. Y phục trong hầu đồng lúc đó rất giản dị: Áo nâu, thắt lưng lụa, khăn màu đỏ.
Hầu đồng bây giờ đang chuyển sang giai cấp kiếm tiền nhiều, giàu có hơn, sắm sửa sang trọng hơn, đây là quyền và mong muốn của các đệ tử và thầy đồng. Quần áo cho đồng bây giờ rất đắt. Bộ áo dài gấm thêu hoa có giá hơn 200 triệu. Các loại vải được dệt, đo, khâu, thêu riêng các hoa văn cổ. Tổng cộng 36 giá hầu đồng với những áo, khăn, trang sức, thẻ ngà, bội.. có trị giá lên tới hàng chục tỷ đồng.
Theo quan niệm dân gian, những người có thể lên đồng là những người có vía nhẹ nên đa số là bà đồng nữ và thầy đồng "ái nữ". Những người có giới tính không rõ ràng sẽ rất nhạy cảm và có thể tiếp cận lĩnh vực này dễ dàng hơn những người bình thường.
Trong hầu đồng, hầu hết trong số 36 giá hầu đồng đều là hóa thân thành các nhân vật phụ nữ, vì vậy đối với những người bị gọi là "ái nam, ái nữ" trước đây, hầu đồng là nơi để giải tỏa và để họ sống thật với bản ngã của mình, không phải sợ sự ghẻ lạnh của xa hội và khoảng cách vô tận giữa con người với nhau.
Trước đây, những người nghèo khó, không có khả năng hầu đồng vẫn có thể ngồi hầu thông qua những lễ vật đơn giản phù hợp với khả năng của họ, và các nghi lễ hầu đồng vẫn diễn ra suôn sẻ. Người ta gọi họ là đồng tủi. Khi hầu đồng trở nên thương mại hóa, để được trình đồng, cái cần thiết nhất là tiền, sau đó mới bàn đến "căn". Bạn không thể đi hầu đồng mà không có tiền. Nếu bạn muốn trình đồng thì đầu tiên là bỏ ra 1 đến 3 triệu tiền giọt dầu (tiền thuê đền phủ), rồi tiền thuê cung văn (người hát văn trong các giá hầu đồng), không phải ngôi sao đang lên đi chăng nữa cũng phải mất từ 15 đến 20 triệu đồng, tiền phát quà chúc phúc tán lộc cho các đệ tử tham gia, tiền trang hoàng cửa Mẫu cũng phải mất tới hơn 10 triệu đồng. Tổng hợp mọi chi phí sẽ tiêu tốn ít nhất hơn 30 triệu đồng. Bởi vậy mà không còn đồng tủi ngày nay nữa. Hiện giờ, đầu tiên vẫn là tiền đâu! :(
Hát hầu là một trong những hình thức của hát văn, được sử dụng để phục vụ hầu đồng. Khác với hát ca trù, hát quan họ hay hát xẩm; hát chầu văn hầu Thánh là sự kết hợp của các làn điệu dân ca và các điệu múa dân gian. Dưới góc nhìn văn hóa, hầu đồng là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian tổng hợp, mang đậm bản sắc Việt Nam, bao gồm âm nhạc, văn học, ca múa, kịch câm, mỹ thuật.. Về cơ bản, ca từ của các bài hát hầu có nội dung ca ngợi quê hương, đất nước, cuộc sống mới.
Lễ hầu đồng có thể được coi là một loại hình nghệ thuật trình diễn tâm linh. Những người tham gia hầu đồng để thưởng thức các làn điệu âm nhạc và đáp ứng nhu cầu tinh thần, tâm linh. Ngoài ra, việc đi hầu đồng sau những ngày làm việc mệt mỏi sẽ giúp lấy lại tinh thần thoải mái. Trong những lễ hầu đồng, người tham gia hầu đồng cũng cổ vũ và "phiêu" theo không kém gì những buổi concert của các idol hiện nay.

Từ tín ngưỡng dân gian liên quan đến nông nghiệp, hy vọng sinh sôi nảy nở, đến tín ngưỡng kinh doanh đem lại lợi ích thương mại, hầu đồng đã làm thay đổi nhiều diện mạo của hệ thống đền thờ, môn đồ, tín đồ của đạo Mẫu.
Hầu đồng giống như một bằng chứng của sự phát triển thương mại. Không khó để nhận thấy các đền thờ tôn giáo phân bố trên các trục giao thương quan trọng như Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Yên Bái, Lào Cai, Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh, Hà Nội - Nghệ An.. và sau đó đi theo con đường tự nhiên về phía Nam.
Trong những năm 1930 đến 1950, lễ hầu đồng (vấn hầu) thường do nông dân nông thôn làm. Y phục trong hầu đồng lúc đó rất giản dị: Áo nâu, thắt lưng lụa, khăn màu đỏ.
Hầu đồng bây giờ đang chuyển sang giai cấp kiếm tiền nhiều, giàu có hơn, sắm sửa sang trọng hơn, đây là quyền và mong muốn của các đệ tử và thầy đồng. Quần áo cho đồng bây giờ rất đắt. Bộ áo dài gấm thêu hoa có giá hơn 200 triệu. Các loại vải được dệt, đo, khâu, thêu riêng các hoa văn cổ. Tổng cộng 36 giá hầu đồng với những áo, khăn, trang sức, thẻ ngà, bội.. có trị giá lên tới hàng chục tỷ đồng.
Theo quan niệm dân gian, những người có thể lên đồng là những người có vía nhẹ nên đa số là bà đồng nữ và thầy đồng "ái nữ". Những người có giới tính không rõ ràng sẽ rất nhạy cảm và có thể tiếp cận lĩnh vực này dễ dàng hơn những người bình thường.
Trong hầu đồng, hầu hết trong số 36 giá hầu đồng đều là hóa thân thành các nhân vật phụ nữ, vì vậy đối với những người bị gọi là "ái nam, ái nữ" trước đây, hầu đồng là nơi để giải tỏa và để họ sống thật với bản ngã của mình, không phải sợ sự ghẻ lạnh của xa hội và khoảng cách vô tận giữa con người với nhau.
Trước đây, những người nghèo khó, không có khả năng hầu đồng vẫn có thể ngồi hầu thông qua những lễ vật đơn giản phù hợp với khả năng của họ, và các nghi lễ hầu đồng vẫn diễn ra suôn sẻ. Người ta gọi họ là đồng tủi. Khi hầu đồng trở nên thương mại hóa, để được trình đồng, cái cần thiết nhất là tiền, sau đó mới bàn đến "căn". Bạn không thể đi hầu đồng mà không có tiền. Nếu bạn muốn trình đồng thì đầu tiên là bỏ ra 1 đến 3 triệu tiền giọt dầu (tiền thuê đền phủ), rồi tiền thuê cung văn (người hát văn trong các giá hầu đồng), không phải ngôi sao đang lên đi chăng nữa cũng phải mất từ 15 đến 20 triệu đồng, tiền phát quà chúc phúc tán lộc cho các đệ tử tham gia, tiền trang hoàng cửa Mẫu cũng phải mất tới hơn 10 triệu đồng. Tổng hợp mọi chi phí sẽ tiêu tốn ít nhất hơn 30 triệu đồng. Bởi vậy mà không còn đồng tủi ngày nay nữa. Hiện giờ, đầu tiên vẫn là tiền đâu! :(
Chỉnh sửa cuối: