Sherlock Holmes (Quyển 1) - Arthur Conan Doyle

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Tống Tử Hân, 2 Tháng mười hai 2021.

  1. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    9. Chương 5: Mẩu quảng cáo của chúng tôi đưa tới một vị khách

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những công việc đòi hỏi sự tập trung suy nghĩ và gắng sức có vẻ hơi nhiều đối với sức khoẻ vẫn còn yếu ớt của tôi vì vậy, đến buổi chiều, tôi cảm thấy kiệt sức. Sau khi Holmes rời nhà đi xem hát, tôi ngả người trên ghế sofa và cố gắng chợp mắt một hai giờ. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Tâm trí tôi đã bị kích thích quá mạnh bởi tất cả những điều đã xảy ra cùng những tưởng tượng và phỏng đoán kỳ cục xung quanh sự việc đó. Cứ khi nào nhắm mắt lại, trước mắt tôi đều hiện ra khuôn mặt méo mó như một con khỉ đầu chó của người đàn ông bị giết. Ấn tượng về hình ảnh đó trong tâm trí tôi kinh hoàng và khủng khiếp đến nỗi tôi thật khó có thể cảm thấy điều gì khác ngoài việc cảm ơn người đã góp phần đẩy chủ nhân của cái đầu khủng khiếp đó ra khỏi thế giới này. Nếu như có những nét nào đó trên khuôn mặt một con người có thể hiển hiện trên đó tất cả sự xấu xa, đồi bại của những kẻ hiểm ác và xảo quyệt nhất thì chắc chắn chúng phải thuộc về người có tên Enoch J. Drebber đến từ Cleveland. Tuy nhiên, tôi vẫn ý thức được rằng công lý cần phải được thực thi và trong con mắt của luật pháp thì sự đồi bại và xấu xa của nạn nhân cũng không thể được coi là cái cớ của việc phạm tội.

    Càng nghĩ về điều đó, tôi càng nhận thấy giả thuyết là người đàn ông này đã bị đầu độc của người bạn đồng hành của tôi càng kỳ lạ. Tôi nhớ lại việc anh đã ngửi môi nạn nhân như thế nào và tin chắc rằng hẳn là anh phải phát hiện ra điều gì đó thì ý nghĩ đó mới nảy ra trong đầu anh. Nếu không phải là bị đầu độc thì tại sao người đàn ông đó lại chết bởi vì trên người nạn nhân không hề có thương tích cũng như không hề có dấu hiệu bị bóp cổ. Vậy thì máu của ai đã dây đầy trên sàn nhà? Không hề có dấu hiệu của sự vật lộn, nạn nhân cũng không hề có bất cứ thứ vũ khí nào trên người có thể làm cho địch thủ bị thương. Chừng nào mà những vấn đề này chưa được giải đáp thì tôi còn cảm thấy giấc ngủ là một tiện nghi quá xa xỉ đối với Holmes và cả tôi nữa. Phong thái tự tin và lặng lẽ của anh khiến tôi tin rằng anh đã có được một giả thuyết có thể giải thích được tất cả những sự kiện mà mọi người còn đặt câu hỏi mặc dù giả thuyết đó là gì thì tôi không thể nào đoán được.

    Hôm đó, anh trở về rất muộn, đến nỗi tôi tin chắc rằng không phải anh đã giành toàn bộ thời gian đó cho buổi hòa nhạc. Bữa tối đã được chuẩn bị sẵn chờ anh.

    – Thật tuyệt vời, – anh nói khi ngồi vào bàn. – Anh có nhớ Darwin đã nói gì về âm nhạc không? Ông ấy nói rằng khả năng sáng tạo và thưởng thức âm nhạc trong loài người đã tồn tại từ rất lâu trước cả khi con người biết tới ngôn ngữ. Có lẽ đó là lý do tại sao âm nhạc luôn tác động tới tất cả chúng ta một cách rất tinh tế và huyền diệu. Trong tâm hồn chúng ta luôn tồn tại những ký ức mơ hồ về những thế kỷ mù sương, khi thế giới này còn ở thuở sơ khai.

    – Đó là một ý tưởng khá rộng và bao quát, – tôi nhận xét.

    – Ý tưởng của một con người chắc chắn cũng sẽ rộng lớn và bao trùm như tự nhiên nếu như chúng được sử dụng để giải thích về tự nhiên, – anh trả lời. – Có vấn đề gì vậy? Anh trông khác quá. Có phải vụ ở đường Brixton đã khiến anh không được thoải mái không?

    – Phải thành thực mà nói là đúng vậy, – tôi trả lời. – Tôi đã từng trải và cứng rắn hơn sau những năm tháng ở Afghanistan. Tôi đã từng chứng kiến những đồng đội của mình bị thương, mất từng phần thân thể ở Maiwand mà không hề run sợ.

    – Tôi có thể hiểu được điều này. Trong vụ này, còn có một bí ẩn bao trùm toàn bộ sự việc. Chính nó đã kích thích trí tưởng tượng. Nếu không có sự tưởng tượng, sẽ chẳng bao giờ có nỗi sợ hãi. Anh đã đọc tờ báo buổi tối chưa?

    – Chưa.

    – Tờ báo đưa khá nhiều tin bài về vụ việc này. Nhưng không bài báo nào đề cập đến việc khi người đàn ông được khiêng đi thì một chiếc nhẫn của phụ nữ rơi xuống. Cũng thật may là chúng không đề cập tới chi tiết này.

    – Tại sao?

    – Hãy đọc mẩu quảng cáo này xem, – anh trả lời. – Tôi đã gửi một mẩu tin cho tất cả các tờ báo vào buổi sáng hôm nay ngay sau khi chúng ta rời khỏi hiện trường.

    Anh ném tờ báo qua bàn cho tôi và ngay lập tức, tôi nhìn vào chỗ anh vừa chỉ. Mẩu tin được đăng đầu tiên trong cột – Tìm thấy – ở mục quảng cáo. Mẩu tin đó như sau: – Sáng nay, trên đường Brixton, tôi có nhặt được một chiếc nhẫn vàng trơn trên phố ở góc giữa đường White Hart Tavern và Holland Grove. Liên hệ: Bác sĩ Watson, số 21B, phố Baker từ tám đến chín giờ tối.


    – Thứ lỗi vì tôi đã mượn tên anh, – anh nói. – Nếu tôi đề tên tôi, vài kẻ ngu ngốc sẽ nhận ra và muốn can thiệp vào vụ này.

    – Không sao, – tôi trả lời. – Nhưng nếu như có ai đó tới theo mẩu quảng cáo này thì tôi cũng chẳng có chiếc nhẫn nào cả.

    – Ồ, có, anh có chứ, – anh nói và trao cho tôi một chiếc nhẫn. – Chiếc nhẫn này khá ổn đấy. Nó gần như một bản sao của chiếc nhẫn thật.

    – Vậy anh nghĩ là ai sẽ đáp lại mẩu quảng cáo này?

    – Ai ư? Người đàn ông mặc chiếc áo choàng màu nâu – anh bạn mặt đỏ với những ngón chân vuông của chúng ta. Nếu như không phải chính hắn ta đến thì chắc chắn hắn ta sẽ phái một đồng bọn đến.

    – Hắn ta sẽ không nghĩ rằng việc đó quá nguy hiểm sao?

    – Không hề. Nếu những nhìn nhận của tôi về vấn đề này là đúng, và tôi có đầy đủ lý do để tin rằng nhìn nhận của tôi đúng, thì người đàn ông này có thể chấp nhận bất kỳ nguy hiểm nào ngoại trừ việc mất chiếc nhẫn. Theo như tôi nghĩ, hắn ta đã làm rơi chiếc nhẫn khi cúi xuống bên xác Drebber. Ngay lúc đó, hắn ta đã không biết điều đó. Nhưng sau khi rời khỏi ngôi nhà, hắn ta đã phát hiện ra bị mất chiếc nhẫn và vội vàng quay trở lại nhưng cảnh sát đã xuất hiện ở đó bởi việc làm ngu ngốc của hắn là để lại ngọn nến còn cháy trong phòng. Hắn ta đành phải giả vờ là kẻ đang say khướt nhằm dập tắt sự nghi ngờ của cảnh sát về việc hắn đột nhiên xuất hiện ở ngay cánh cổng ngôi nhà vừa xảy ra án mạng. Bây giờ, hãy thử đặt mình vào vị trí của người đàn ông đó. Hãy suy nghĩ thật kỹ toàn bộ vấn đề. Hoàn toàn có khả năng hắn sẽ nghĩ rằng có thể mình đánh rơi chiếc nhẫn ở trên đường, sau khi rời khỏi ngôi nhà, chứ không phải là ở hiện trường. Vậy thì hắn ta sẽ làm gì sau đó? Hắn ta sẽ vội vã tìm trong mục quảng cáo trên các tờ báo buổi tối với hy vọng có thể tìm thấy vật mà hắn cần giữa những vật người ta tìm thấy và rao trên báo. Và tất nhiên, mắt hắn sẽ không thể bỏ qua được mẩu tin này. Hắn ta sẽ quá sung sướng. Tại sao hắn ta lại phải lo lắng về một cái bẫy nhỉ? Sẽ chẳng có lý do gì khiến hắn có thể nghi ngờ rằng việc tìm thấy chiếc nhẫn sẽ có mối liên quan tới vụ giết người. Hắn ta sẽ đến. Hắn ta sẽ đến. Trong vòng một giờ nữa, chúng ta sẽ gặp hắn.

    – Và sau đó thì sao? – tôi hỏi.

    – Ồ, sau đó anh có thể để mặc tôi đối phó với hắn ta. Anh có vũ khí gì không?

    – Tôi vẫn còn khẩu súng từ khi phục vụ trong quân đội và vài băng đạn.

    – Anh nên lau chùi lại nó và nạp đạn đi. Hắn ta có thể là một gã hết sức liều lĩnh. Và mặc dù tôi sẽ cố gắng để hắn không nghi ngờ gì nhưng tốt hơn hết là chúng ta vẫn nên chuẩn bị tinh thần cho mọi trường hợp.

    Tôi về phòng mình và tuân theo lời khuyên của anh. Khi tôi trở lại với khẩu súng lục, bàn ăn đã được dọn sạch và Holmes đang chú tâm vào công việc ưa thích của mình là dạo một bản nhạc với cây đàn violon của mình. Khi tôi bước vào anh nói:

    – Các tình tiết đã dần khít lại. Tôi vừa mới nhận được câu trả lời cho bức điện tôi mới gửi tới Mỹ. Nhận định của tôi về vụ này hoàn toàn đúng.

    – Và đó là.. – tôi vội vã hỏi.

    – Cây đàn của tôi cần phải thay dây mới rồi, – anh nói. – Hãy cất súng của anh vào túi đi. Khi nào gã đó đến, hãy nói chuyện với hắn ta một cách bình thường. Phần còn lại cứ để tôi. Đừng nhìn vào hắn chằm chằm khiến cho hắn hoảng sợ.

    – Giờ đã là tám giờ rồi, – tôi nhìn vào đồng hồ và nói.

    – Phải. Có lẽ hắn ta sẽ tới đây trong vài phút nữa thôi. Mở hé cửa ra. Thế. Giờ hãy tra chìa khóa vào phía bên trong. Cám ơn anh! Đây là cuốn sách cũ rất lạ mà hôm qua tôi vừa mới mua được ở hiệu sách – De Jure inter Gentes – được xuất bản bằng tiếng La tinh ở Liége, Hà Lan và năm 1642. Cái đầu của Charles vẫn yên vị trên vai ông ta trong khi cuốn sách này đã bị xóa sổ.

    – Của nhà xuất bản nào vậy?

    – Philippe de Croy. Chẳng biết là ai nữa. Trên trang giấy trắng đầu cuốn sách có một dòng chữ viết bằng mực nhưng đã khá mờ "Ex libris Guliolmi Whyte". Tôi tự hỏi không biết William Whyte là ai. Có lẽ là một luật sư thực dụng nào đó ở thế kỷ mười bảy. A, tôi nghĩ là vị khách của chúng ta đến rồi đấy.

    Anh nói khi vừa nghe thấy tiếng chuông cửa vang lên. Sherlock Holmes nhẹ nhàng bật dậy và dịch cái ghế của anh quay lại theo hướng cửa ra vào. Chúng tôi nghe thấy tiếng chân người phục vụ đi qua sảnh và tiếng khóa lách cách khi bà mở cửa.

    – Bác sĩ Watson sống ở đây phải không? – một giọng nói rõ ràng nhưng hơi khàn khàn cất lên. Chúng tôi không nghe thấy tiếng người phục vụ trả lời nhưng cửa đóng lại và ai đó bắt đầu leo lên cầu thang. Tiếng bước chân có vẻ không chắc chắn và khá ngập ngừng, run rẩy. Một thoáng ngạc nhiên lướt trên gương mặt Holmes khi anh nghe thấy tiếng chân đó. Tiếng chân chậm rãi đi trên hành lang và một tiếng gõ yếu ớt vang lên ngoài cửa phòng chúng tôi.

    – Xin mời vào, – tôi nói.

    Vừa dứt lời, thay vì một người đàn ông mạnh khoẻ như chúng tôi chờ đợi, một người phụ nữ rất già nua, da nhăn nheo tập tễnh bước vào căn phòng. Dường như bà ta hơi bị chói mắt vì ánh sáng tràn ngập trong căn phòng bất ngờ ập vào mắt. Sau khi cúi chào, bà ta đứng đó, hấp háy nhìn chúng tôi bằng con mắt mờ đục, tay sờ soạng trong túi một cách căng thẳng, những ngón tay run rẩy. Tôi đưa mắt nhìn Holmes. Gương mặt anh lộ rõ một vẻ thất vọng đến nỗi cố gắng lắm tôi mới giữ được nét mặt bình thường.

    Bà già rút ra một tờ báo và chỉ vào mục quảng cáo. – Đây chính là thứ đã đưa tôi đến đây thưa các quý ngài tốt bụng, – bà ta nói và lại cúi chào một lần nữa, – chiếc nhẫn cưới vàng trơn trên đường Brixton. Đó là chiếc nhẫn của con gái tôi Sally. Nó kết hôn cách đây mười hai tháng và chồng nó là một bồi bàn trên tàu viễn dương. Tôi thật không dám nghĩ con rể tôi sẽ nói gì nếu khi quay trở về mà không thấy chiếc nhẫn cưới trên tay con gái tôi. Nó là kẻ cục cằn, thô lỗ nhất là khi rượu vào. Nếu các ngài muốn biết thì đêm qua, nó đã đi xem hát với..

    – Có phải chiếc nhẫn này là của cô ấy không? – tôi hỏi.

    – Ôi, tạ ơn Chúa! – bà già kêu lên. – Sally chắc hẳn sẽ là người phụ nữ cảm thấy sung sướng nhất tối nay. Đúng là chiếc nhẫn đó rồi.

    – Và địa chỉ của bà là? – tôi hỏi và cầm lấy chiếc bút chì trên bàn.

    – Số 13 phố Duncan, Houndsditch. Cách đây rất xa.

    – Nhưng đường Brixton không nằm giữa Houndsditch và bất cứ rạp hát nào, – Sherlock Holmes tinh ranh nói.

    Bà già quay ngoắt lại và nhìn xăm xoi vào Holmes với đôi mắt ti hí, viền mắt đỏ lựng. – Quý ngài đây hỏi địa chỉ của tôi. – Bà ta nói. – Còn Sally ở số 3, Mayfield Place, Peckham.

    – Và tên bà là gì?

    – Tên tôi là Sawyer, tên của nó là Dennis kể từ khi nó kết hôn với Tom Dennis – một chàng trai thông minh, sạch sẽ, bóng bẩy khi ở trên tàu, một bồi bàn tuyệt vời. Nhưng khi lên bờ, với đàn bà và với những chai rượu..

    – Nhẫn của bà đây bà Sawyer, – tôi ngắt lời khi nhận được tín hiệu đồng tình từ Holmes. – Rõ ràng nó là của con gái bà, và tôi cảm thấy rất vui khi trả được nó về cho đúng chủ nhân của mình.

    Sau khi lẩm bẩm vài lời cầu nguyện và cảm ơn chúng tôi, bà già nhét chiếc nhẫn vào túi và rồi lê bước xuống cầu thang. Ngay khi bà ta vừa ra khỏi cửa, Sherlock Holmes lập tức bật dậy. Hai phút sau, anh đã quay trở lại, trên người là chiếc áo choàng và đã kịp thắt caravat. – Tôi sẽ bám theo bà ta, – anh nói và vội vã ra đi. – Bà ta chắc chắn là một đồng bọn và sẽ dẫn tôi tới chỗ hắn ta. Đợi tôi nhé. – Cánh cửa dưới nhà vừa đóng lại thì Sherlock Holmes cũng bắt đầu bước xuống cầu thang. Nhìn qua khung cửa sổ, tôi thấy bà già run rẩy đi dọc theo một bên phố còn Holmes đi cách bà ta một đoạn không đổi và bám theo. – Hoặc là toàn bộ giả thuyết của anh ấy là sai lầm, nếu không thì anh ấy sắp khám phá được chân tướng sự việc rồi, – tôi nghĩ thầm.

    Thực ra Holmes không cần nhắc tôi phải thức đợi anh bởi vì tôi cảm thấy mình sẽ chưa thể ngủ được chừng nào chưa được biết về kết quả chuyến đi của anh.

    Lúc anh rời khỏi nhà đã là gần chín giờ tối. Tôi không biết anh đã ra ngoài hết bao lâu nhưng tôi đăm đăm với cái tẩu thuốc trên môi và đọc lướt qua từng trang cuốn Cuộc sống của người Bô hê miêng của tác giả Henri Murger. Hơn mười giờ, tôi nghe thấy tiếng chân người hầu gái hướng tới buồng ngủ. Mười một giờ, tiếng bước chân của bà chủ nhà cũng vang lên trên hành lang ngoài phòng tôi để về phòng. Gần mười hai giờ, tôi mới nghe thấy tiếng Holmes mở chốt cửa. Ngay khi anh vừa bước vào phòng, nhìn vẻ mặt anh, tôi đã biết anh không thành công. Buồn cười và thất vọng, chán nản dường như đang đấu tranh để được làm chủ và rồi cuối cùng anh bật lên một tràng cười ngặt nghẽo.

    – Tôi sẽ không bao giờ để cho những thanh tra của sở cảnh sát Scotland Yard biết được chuyện này đâu, – anh kêu lên và buông mình xuống ghế. – Tôi đã chế giễu và bỡn cợt họ quá nhiều đến nỗi họ sẽ không bao giờ từ bỏ cơ hội này để thêm mắm thêm muối bôi nhọ tôi. Tôi có thể cười bởi vì tôi biết rằng tôi sẽ còn sát cánh cùng họ trong một thời gian dài nữa.

    – Vậy đã xảy ra chuyện gì?

    – Ồ, tôi cũng không ngại kể lại chuyện chẳng mấy hay ho cho tôi đâu. Cái bà già đó đi bộ được một quãng thì bắt đầu khập khiễng và chắc hẳn đã bị sưng chân. Lập tức, bà ta dừng lại và vẫy một chiếc xe ngựa vừa chạy ngang qua. Tôi cố gắng đi gần lại để nghe được địa chỉ mà bà ta nói, nhưng thực ra tôi cũng chẳng cần phải bận tâm về điều đó bởi vì bà ta hét to đến nỗi đủ để người đứng tận bên kia đường cũng nghe thấy được. – Số 11 Phố Duncan, Houndsditch, – bà ta hét lên. Vậy là đã đến lúc chúng ta tìm được thủ phạm rồi, tôi thầm nghĩ như vậy và yên tâm vì chiếc xe của bà già vẫn nằm trong tầm ngắm còn tôi thì bám theo sau. Bám theo đối tượng là một nghệ thuật mà bất cứ một thám tử nào cũng phải trở thành một chuyên gia. Vậy là chúng tôi chạy xe và không nới lỏng cương ngựa cho tới khi chúng tôi tới con phố mà bà ta yêu cầu. Tôi xuống xe trước khi chúng tôi tới cửa ngôi nhà đó rồi thư thả đi bộ xuống con phố. Tôi nhìn thấy cỗ xe ngựa dừng lại. Người lái xe nhảy xuống và tôi thấy anh ta mở cửa xe và đứng chờ đợi một cách hy vọng. Nhưng chẳng có ai bước ra khỏi xe cả. Khi tôi đến gần anh ta, anh ta đang điên cuồng lục soát thùng xe trống không và văng ra hỗn hợp những câu chửi thề mà trong đời mình tôi chưa từng nghe thấy. Không có bất kỳ một dấu vết nào của vị khách lúc trước vẫy xe để lại. Sau khi hỏi thăm những người sống ở số nhà 13, chúng tôi được biết rằng ngôi nhà này thuộc về một người thợ dán giấy tường đáng kính tên là Keswick và chưa ai từng nghe thấy ai có cái tên Sawyer hay Dennis sống ở đó cả.

    – Không phải anh định nói rằng cái bà già yếu ớt, bước đi còn không vững đó có thể biến mất khỏi cỗ xe ngựa trong khi nó vẫn đang chạy đều đều trên đường mà cả người đánh xe lẫn anh đều không hề hay biết sao? – tôi kêu lên sửng sốt.

    – Bà già cái chết tiệt gì! – Sherlock Holmes điên tiết nói. – Chính chúng ta mới là những bà già chậm chạp và ngu ngốc khi để bị lừa dễ dàng đến thế. Chắc chắn đó là một gã trai tráng, khoẻ mạnh và rất hoạt bát nữa. Ngoài ra, hắn ta còn là một diễn viên kiệt xuất. Hắn ta đã hết sức sáng tạo. Chắc chắn là hắn ta đã phát hiện ra mình bị theo dõi và sử dụng cách này để cắt đuôi. Tôi có thể nhận thấy rằng người đàn ông mà chúng ta đang theo dõi không hành động một mình như tôi vẫn tưởng mà hắn ta phải có đồng bọn, những kẻ sẵn sàng liều mình vì hắn ta. Ồ, bác sĩ, trông anh mệt mỏi quá. Hãy nghe lời tôi, đi nghỉ một chút đi.

    Quả thực là tôi cảm thấy toàn thân đang rệu rã, vì vậy tôi nghe theo lời khuyên của anh ngay lập tức. Tôi để Holmes ngồi đó, trước lò sưởi vẫn đang âm ỉ cháy và rất lâu sau, khi đồng hồ đã điểm rất muộn rồi, tôi vẫn còn nghe thấy tiếng đàn violon nho nhỏ vang lên buồn bã và tôi biết rằng anh vẫn còn đang ngẫm nghĩ về sự việc kỳ lạ mà anh quyết tâm khám phá bằng được.
     
    Johanna thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 19 Tháng mười hai 2021
  2. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    10. Chương 6: Tobias Gregson chứng tỏ khả năng của mình (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày hôm sau, trên các mặt báo đều đăng tải thông tin về: Bí ẩn trên đường Brixton, cái tên mà báo chí đặt cho vụ việc này. Mỗi tờ báo đều có một bài tường thuật dài về vụ việc này và một số còn đưa ra thêm những phán đoán. Trong số những bài báo đó cũng có những thông tin mới đối với tôi. Trong những cuốn sổ ghi chép cũ kỹ của tôi vẫn còn lưu lại những bài báo, những đoạn trích mô tả về sự việc này được cắt ra từ những tờ báo thời đó. Đây là một trong những đoạn mô tả súc tích nhất về vụ việc này:

    Tờ Daily Telegraph nhận định rằng trong lịch sử các vụ phạm tội, hiếm có thảm kịch nào có nhiều nét kỳ lạ và bí ẩn như vụ này. Nạn nhân mang một cái tên đậm chất Đức, không hề có một dấu hiệu nào tiết lộ động cơ của việc phạm tội, chữ viết bằng máu trên tường; tất cả đều chứng tỏ có sự dính líu của những người tị nạn chính trị hoặc của cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản có thể có chân rết ở Mỹ và chắc hẳn là người bị giết đã vi phạm những luật lệ bất thành văn của họ và vì vậy anh ta đã bị theo đuổi tới tận đây. Sau khi nói bóng gió một cách hài hước đến Vehmgericht, tới Carbonari, tới Marchioness de Brinvilliers, tới học thuyết của Darwin, tới những nguyên lý của Malthus và tới những kẻ giết người trên đường Ratcliff, bài báo kết luận bằng cách đưa ra những lời khuyên đối với chính phủ và ủng hộ việc giám sát chặt chẽ hơn nữa những người nước ngoài đang sống ở Anh.

    Tờ Standard nhận xét rằng những hành động dã man, vô đạo đức như thế này vẫn thường xảy ra dưới một xã hội dân chủ. Chúng nảy sinh từ đầu óc đáng lo ngại của số đông và là hậu quả của sự yếu kém của các cơ quan chức năng. Người bị giết là một quý ông người Mỹ, người đã từng sống nhiều tuần ở thủ đô. Ông ta đã trọ trong nhà trọ của quý bà Charpentier ở Torquay Terrace, Camberwell. Ông ta được thư ký riêng là ông Joseph Stangerson hộ tống trong cuộc hành trình này. Hôm thứ ba ngày mùng bốn, hai người này đã chào tạm biệt bà chủ nhà trọ và tới ga Euston với ý định khá công khai là sẽ đón chuyến tàu tới Liverpool. Sau đó người ta còn nhìn thấy hai người này đi cùng nhau trên sân ga. Kể từ đó, người ta không nghe được tin tức gì khác về hai người bọn họ cho tới khi xác của ông Drebber được phát hiện trong một ngôi nhà bỏ không trên đường Brixton, cách Euston nhiều dặm. Ông ta đã tới Brixton như thế nào? Hay ông ta đã chết như thế nào? Tất cả những câu hỏi này vẫn còn đang là một ẩn số. Cũng không ai biết hiện giờ Stangerson đang ở đâu. Nhưng chúng tôi cảm thấy rất vui mừng khi biết rằng ngài Lestrade và ngài Gregson, thanh tra sở cảnh sát Scotland Yard, đang cùng điều tra vụ việc này và người ta tin tưởng chắc chắn rằng hai vị thanh tra tài năng này sẽ nhanh chóng đưa sự việc này ra ánh sáng.

    Tờ Daily News thì cho rằng chẳng có lý do gì để phủ nhận đây là một vụ phạm tội có liên quan tới chính trị. Chế độ chuyên quyền và việc ngăn cản chủ nghĩa tự do đã khiến cho rất nhiều người vượt biên tới lục địa. Những người này có thể là những công dân tuyệt vời nếu như họ không bị dày vò bởi ký ức về những gì họ đã phải trải qua. Giữa những người này có một mật mã hết sức nghiêm ngặt về danh dự và chữ tín. Bất cứ ai vi phạm điều này cũng sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Mọi nỗ lực đang được tập trung để tìm kiếm viên thư ký, Stangerson, và để tìm ra những thói quen đặc biệt của người bị hại. Cảnh sát đã đạt được một bước tiến vượt bậc trong quá trình điều tra khi tìm ra được địa chỉ mà anh ta đã ở trọ. Đây chính là kết quả đạt được nhờ sự chính xác và nỗ lực của ngài Gregson, thanh tra sở cảnh sát Scotland Yard.

    Sherlock Holmes và tôi cùng đọc những bài báo này trong bữa sáng và có vẻ như chúng giúp vui cho anh khá nhiều.

    – Tôi đã nói với anh rồi mà, dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì chắc chắn Lestrade và Gregson cũng sẽ ghi bàn thôi. –

    – Còn phụ thuộc vào kết quả cuối cùng như thế nào đã.

    – Ồ, điều đó chẳng có ý nghĩa gì đâu. Nếu thủ phạm bị bắt thì đó sẽ là thành quả của những nỗ lực của họ. Nếu thủ phạm thoát được, thì đó sẽ là điều đáng tiếc dù họ đã nỗ lực hết sức. Vậy đấy, dù họ có làm gì đi chăng nữa thì họ vẫn luôn có những kẻ bám theo nịnh bợ.

    – Chuyện quái quỷ gì thế? – tôi kêu lên khi nghe thấy những tiếng bước chân ầm ĩ dưới sảnh đang leo lên cầu thang cùng với những tiếng kêu phẫn nộ của bà chủ nhà trọ.

    – Đó là đội quân hè phố của văn phòng thám tử phố Barker, – anh nói một cách cứng rắn. Và anh vừa nói xong thì khoảng nửa tá những người Ảrập sống trên hè phố rách rưới, bẩn thỉu mà tôi chưa từng nhìn thấy ào vào trong phòng.

    – Chú ý! – Holmes kêu lên với một giọng cao, sắc và lập tức sáu kẻ ăn mày rách rưới đứng nghiêm như tượng. – Trong thời gian tới, các bạn sẽ chỉ cử một mình Wiggins tới đây báo cáo tình hình thôi, số còn lại sẽ đứng đợi ngoài phố. Anh đã tìm ra chưa, Wiggins?

    – Chưa, thưa ngài, chúng tôi vẫn chưa tìm ra. – Một trong số những người đó trả lời.

    – Tôi cũng không hy vọng là các anh tìm thấy ngay. Nhưng các anh sẽ phải tiếp tục tìm cho tới bao giờ thấy thì thôi. Đây là lương của các anh. – Nói rồi Holmes trao cho mỗi người bọn họ một shilling. – Còn bây giờ, các bạn hãy về đi. Lần sau tới, nhớ là mang tin tốt lành đến nhé.

    Holmes phẩy tay, thế là tất cả bọn họ tản đi, nhanh chóng bước xuống cầu thang như đội quân chuột cống, và một lúc sau chúng tôi đã nghe thấy những giọng nói the thé của họ trên phố.

    – Nhiều khi một người ăn xin bẩn thỉu còn thu thập được nhiều thông tin hữu ích hơn cả tá cảnh sát, – Holmes nhận xét. – Bộ đồng phục của một viên cảnh sát sẽ khiến nhiều đôi môi ngậm như hến. Còn những người ăn xin này có thể đi tới mọi nơi và nghe ngóng được mọi tin tức. Những giác quan của họ cũng có thể tinh nhạy và họ cũng sẽ trở nên hết sức sắc sảo. Tất cả những gì họ cần là một sự tổ chức chu đáo.

    – Anh thuê họ vì vụ Brixton phải không? – Tôi hỏi.

    – Đúng vậy. Còn có một điểm mà tôi cần phải khẳng định lại một cách chắc chắn. Vấn đề chỉ là thời gian. Ô kìa, chúng ta sắp sửa được biết thêm những thông tin mới ngoài mong đợi rồi đây. Tôi đã trông thấy Gregson đang đi xuống phố. Trên nét mặt ông ta hiện rõ vẻ tự hào, vui sướng và ban ơn. Chắc là định tới chỗ chúng ta. Tôi biết mà. Phải, ông ta đang dừng lại kìa. Ông ta đây rồi.

    Tiếng chuông cửa vang lên lanh lảnh và vài giây sau, mái tóc sáng màu của viên thanh tra đã xuất hiện trên cầu thang. Ông ta nhảy ba bậc một và lao vào phòng.

    – Bạn thân mến của tôi, – ông ta kêu lên và nắm chặt lấy đôi bàn tay hờ hững của Holmes lắc mạnh, – hãy chúc mừng tôi đi! Hôm nay, tôi đã làm sáng tỏ được mọi chuyện rồi.

    Tôi có cảm giác như một tia băn khoăn, lo lắng vừa lướt qua trên gương mặt người bạn đồng hành của tôi.

    – Ý ông là ông đã đi đúng hướng? – anh hỏi.

    – Đúng hướng! Chỉ thế thôi sao thưa ngài? Chúng tôi thậm chí đã tóm được thủ phạm, còng tay hắn và tống vào tù rồi cơ.

    – Và tên hắn là?

    – Athur Charpentier, trung uý quân đội hải quân của nữ hoàng. – Gregson nói lớn, hai tay xoa xoa vào nhau đầy vẻ tự hào, ngực vươn ra phía trước, khoe khoang.

    Sherlock Holmes thở phào nhẹ nhõm và nở một nụ cười có vẻ thư thái.

    – Xin hãy ngồi xuống và thưởng thức một điếu xì gà này đã, – anh nói. – Chúng tôi rất nóng lòng muốn biết ông đã giải quyết vụ việc như thế nào. Ông có muốn uống chút rượu uýt ki không? Hay là nước?

    – Tôi sẽ không từ chối đâu, – viên thanh tra trả lời. – Công việc căng thẳng mà tôi phải trải qua trong mấy ngày qua quả thật khiến tôi mệt lử. Ngài cũng biết đấy, không phải là công việc đòi hỏi sự mệt mỏi về thể xác, mà là sự căng thẳng thần kinh. Ngài Sherlock Holmes, chắc ngài cũng hiểu rõ điều đó, bởi vì chúng ta đều là những người làm việc trí óc.

    – Ông khiến tôi vinh dự quá, – Holmes nói một cách trang trọng. – Giờ hãy cho chúng tôi biết làm thế nào mà ông đạt được kết quả đáng hài lòng như vậy?

    Viên thanh tra ngồi xuống chiếc ghế bành và rút một điếu xì gà ra với vẻ thỏa mãn, tự hào. Rồi bỗng nhiên, ông ta vỗ đùi đánh đét một cái với sự vui vẻ bột phát.

    – Thật buồn cười là anh chàng Lestrade ngốc nghếch cứ nghĩ rằng mình rất thông minh đã đi chệch hướng, – ông ta kêu lên. – Ông ta quyết định theo dõi viên thư ký Stangerson. Thực ra trong vụ việc này Stangerson hoàn toàn vô tội. Nhưng lúc này chắc anh ta đã bị Lestrade bắt rồi cũng nên.

    Cái ý nghĩ này khiến cho Gregson cười sặc sụa.

    – Và làm thế nào ông tìm được đầu mối của sự việc?

    – A, tôi sẽ nói cho ngài biết điều đó. Tất nhiên, bác sĩ Watson, đây hoàn toàn chỉ là vấn đề giữa chúng ta mà thôi. Khó khăn đầu tiên mà chúng ta cần phải vượt qua là tìm ra nguồn gốc của người Mỹ này. Một số người chắc sẽ đợi cho tới khi những gì anh ta rêu rao nhận được câu trả lời, hay cho tới khi các bên tự động đến và mang theo thông tin. Nhưng đó không phải là cách làm việc của Tobias Gregson. Chắc hẳn các ngài vẫn còn nhớ chiếc mũ bên cạnh người chết chứ?

    – Nhớ! – Holmes nói. – Chiếc mũ mua ở hiệu John Underwood and Sons, 129 đường Camberwell.

    Gregson trông có vẻ tiu nghỉu.

    – Tôi không hề nghĩ rằng ngài có chú ý đến chiếc mũ đó, – ông ta nói. – Vậy ngài đã tới đó chưa?

    – Chưa.

    – Ha! – Gregson reo lên với một vẻ nhẹ nhõm; – Ngài đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội, dù cho cơ hội đó có nhỏ đến thế nào đi chăng nữa.

    – Đối với một bộ óc vĩ đại, chẳng có gì được gọi là nhỏ cả, – Holmes nhận xét một cách nghiêm túc.

    – Vậy là tôi đã tới hiệu Underwood và hỏi xem ông ta có bán chiếc mũ cỡ đó, và giống như chiếc mũ đó không. Ông ta nhìn sổ ghi chép của mình và ngay lập tức nhớ ra nó. Ông ta đã bán chiếc mũ cho ông Drebber, ngụ ở khu nhà trọ của bà Charpentier, Torquay Terrace. Thế là tôi đã có được địa chỉ của ông ta.

    – Thông minh – rất thông minh! – Holmes lẩm bẩm.

    – Sau đó, tôi đã đến thăm bà Charpentier, – viên thanh tra tiếp tục. – Tôi nhận thấy bà ta trông rất xanh xao và u buồn. Lúc đó cô con gái của bà ta cũng ở trong phòng – đó cũng là một cô gái hết sức xinh đẹp. Nhưng mắt cô ta đỏ hoe và đôi môi cô ta run rẩy khi tôi nói chuyện với cô ta. Và điều đó đã không qua nổi mắt tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy nghi ngờ. Ngài Sherlock Holmes, chắc ngài cũng biết cảm giác đó chứ, cái cảm giác khi mà ngài đánh hơi được đúng đối tượng – một cảm giác rung động tới đầu dây thần kinh. Tôi hỏi bà ta: – Bà đã nghe nói về cái chết của ông Enoch J. Drebber, vị khách đến từ Clevand trước đây đã từng trọ trong nhà bà chưa?

    Người mẹ gật đầu. Dường như bà ta không thể thốt ra được một lời nào cả. Còn cô con gái thì bật khóc. Hơn bao giờ hết, tôi dám khẳng định rằng những người này biết điều gì đó liên quan tới vụ án. Tôi hỏi:

    – Mấy giờ thì ông Drebber rời khỏi nhà bà để ra ga?

    – Tám giờ, – bà ta trả lời, một tay đưa lên chẹn ngang cổ họng để kìm lại tiếng nức nở chực trào lên. – Ông Stangerson, thư ký của ông Drebber, nói rằng có hai chuyến tàu, một chuyến khởi hành lúc 9h15, một chuyến khởi hành lúc 11 giờ. Và ông ta đã quyết định đi chuyến sớm hơn.

    – Và đó là lần cuối bà nhìn thấy ông ấy đúng không?

    – Khi tôi hỏi câu đó, sắc mặt người phụ nữ thay đổi rõ rệt, đang hồng hào chợt chuyển sang xám ngắt. Phải mất mấy giây, bà ta mới trả lời được từ: Đúng. – và bà ta thốt cái từ đơn giản đó ra với một giọng khô khốc, thiếu tự nhiên.


    -còn tiếp-
     
    Johanna thích bài này.
  3. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    11. Chương 6: Tobias Gregson chứng tỏ khả năng của mình (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mọi người im lặng một lúc, nhưng sau đó, cô con gái lên tiếng bằng một giọng rõ ràng và bình thản:

    – Mẹ ơi, nói dối như vậy cũng chẳng ích gì đâu. Chúng ta nên thành thật với quý ông đây. Sự thực là chúng tôi đã có gặp lại ngài Drebber.

    – Chúa tha lỗi cho con! – bà Charpentier kêu lên, hai bàn tay buông thõng và rơi người xuống ghế. – Con đã giết chết anh trai con rồi.

    – Athur sẽ muốn chúng ta nói ra sự thật, – cô gái đáp lại bằng một giọng cứng cỏi.

    – Tốt hơn hết là bà hãy kể lại cho tôi toàn bộ việc đó, – tôi nói. – Tin cậy nửa vời thì chẳng thà bà không tin cậy còn hơn. Ngoài ra, bà cũng biết rằng trong vụ này chúng tôi đã biết được những gì rồi.

    – Tại con đấy Alice! – bà mẹ kêu lên và sau đó, bà ta quay sang tôi: – Tôi sẽ kể tất cả cho ngài, thưa ngài. Đừng nghĩ rằng tâm trạng bối rối, lo lắng cho con trai tôi của tôi là do nó có dính líu tới chuyện này. Nó hoàn toàn vô tội. Ngược lại, tôi lo sợ rằng trong con mắt ngài và trong con mắt của những người khác, nó lại hóa ra là người có tội. Tất nhiên, điều đó hoàn toàn không phải là sự thật. Nhân cách cao cả của nó, nghề nghiệp của nó, truyền thống của gia đình, tổ tiên, tất cả đều không cho phép nó làm điều đó.

    – Tốt nhất là bà hãy làm sáng tỏ mọi việc bằng cách kể lại thật chi tiết mọi chuyện, – tôi trả lời. – Dựa vào đó, nếu như con trai bà vô tội, cậu ta sẽ không gặp phải bất cứ rắc rối nào cả.

    – Alice, có lẽ con nên để mẹ và ngài đây nói chuyện riêng với nhau, – bà ta nói. Và khi cô con gái đã rời khỏi phòng, bà tiếp tục: – Giờ thì, thưa ngài, thực ra tôi không hề có ý định kể với ngài tất cả những điều này, nhưng vì cô con gái tội nghiệp của tôi đã vô tình tiết lộ mọi chuyện nên tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Và vì đã quyết định sẽ nói ra nên tôi sẽ khai với ngài mọi chuyện mà không bỏ qua bất kỳ một chi tiết nào.

    – Bà làm thế là rất khôn ngoan, – tôi nói.

    – Ông Drebber đã trọ trong nhà tôi được gần ba tuần rồi. Ông ta cùng thư ký của mình, ông Stangerson, đang đi du lịch ở châu Âu. Tôi nhìn thấy trên mỗi chiếc va ly của họ đều có dán nhãn Copenhagen. Điều đó chứng tỏ rằng đó là nơi cuối cùng họ dừng chân trước khi đến đây. Stangerson là một người đàn ông ít nói, kín đáo và có vẻ đáng kính, nhưng ông chủ của ông ta thì hoàn toàn ngược lại, tôi rất tiếc phải nói như vậy. Ông ta có những thói quen thô lỗ, bỉ ổi và phong cách hung hăng, côn đồ. Ngay đêm đầu tiên tới đây trọ, ông ta đã uống say khướt và vì thế đến tận mười hai giờ trưa hôm sau, ông ta còn chưa tỉnh táo. Thái độ, cách xử sự của ông ta đối với những cô hầu phòng tự do và thân mật một cách đáng ghê tởm. Điều tệ hại nhất là ông ta bắt đầu có thái độ đó đối với con gái tôi, Alice, và hơn một lần ông ta nói với nó những lời mà, thật may mắn là nó còn quá ngây thơ để có thể hiểu được. Một lần, ông ta đã kéo giật con bé lại, ôm nó trong tay và hôn nó, một hành động đồi bại khiến cho thư ký của ông ta đã phải thẳng thừng chỉ trích ông ta vì hành động không đáng mặt đàn ông đó.

    – Nhưng tại sao bà vẫn để yên cho những chuyện đó xảy ra? – tôi hỏi. – Tôi nghĩ rằng bà có thể tống cổ những kẻ ở trọ đó ra khỏi nhà bà bất cứ khi nào bà muốn.

    Bà Charpentier đỏ mặt vì câu hỏi thẳng thừng của tôi. – Thề có Chúa là ngay từ ngày đầu tiên ông ta tới đây tôi đã lưu ý ông ta về điều đó rồi, – bà ta trả lời. – Nhưng điều đó dường như chỉ khuyến khích ông ta hơn nữa mà thôi. Họ trả chúng tôi mỗi ngày một bảng – mười bốn bảng một tuần, trong khi hiện đang là mùa làm ăn ế ẩm. Tôi không muốn ném tiền qua cửa sổ. Tôi đã cố gắng hết sức mình. Nhưng lần cuối cùng này đã vượt quá sức chịu đựng của tôi và tôi đã buộc họ phải rời khỏi nhà tôi ngay lập tức. Đó chính là lý do tại sao ông ta rời khỏi nhà trọ của tôi.

    – Vậy sao?

    – Tôi thực sự cảm thấy lòng mình thanh thản hơn rất nhiều khi tôi đứng nhìn ông ta rời khỏi nhà tôi. Con trai tôi cũng đang được nghỉ phép thời gian này, nhưng tôi không nói cho nó biết bất cứ điều gì liên quan tới chuyện này cả bởi vì tính khí nó rất hung dữ và nó lại quá yêu thương em gái. Khi cánh cửa nhà tôi đóng lại sau lưng họ, tôi cảm thấy tâm trí mình dường như vừa cất đi được một gánh nặng. Nhưng lạy Chúa, chưa đầy nửa giờ sau, chuông cửa rung ầm ĩ và tôi nhận ra rằng ông Drebber đã quay trở lại. Ông ta đang hết sức kích động và rõ ràng là đã uống tuý luý. Ông ta lao vào trong phòng nơi tôi đang ngồi với con gái tôi và nói vài lời rời rạc, lắp bắt về việc ông ta bị lỡ chuyến tàu. Sau đó, ông ta quay về phía Alice và ngay trước mặt tôi, ông ta đề nghị con bé chạy trốn cùng với ông ta. Ông ta nói: – Cô đã đến tuổi rồi và chẳng có luật pháp nào có thể ngăn cản được cô. Tôi có đủ tiền cho cô và còn có rất nhiều nữa. Đừng để ý đến bà già này, hãy đi với tôi. Với tôi, cô sẽ trở thành một nàng công chúa. – Alice tội nghiệp của tôi quá sợ hãi đến nỗi con bé cứ co người lại để tránh ông ta, nhưng ông ta đã tóm được cổ tay con bé và cố gắng kéo con bé ra phía của. Tôi thét lên và đúng lúc đó con trai tôi, Athur, bước vào phòng. Tôi cũng không biết chuyện gì xảy ra sau đó nữa. Tôi nghe thấy những tiếng chửi thề, tiếng đổ vỡ loảng xoảng của cuộc ẩu đả. Tôi sợ đến nỗi không dám ngẩng mặt lên. Khi tôi nhìn lên thì tôi đã thấy Athur đang đứng ở cửa và cười lớn với cây gậy trong tay. – Con không nghĩ là thằng cha đó còn dám quay trở lại đây nữa đâu, – nó nói. – Con sẽ đi theo hắn ta và xem hắn ta tự giúp mình ra sao. – Nói rồi nó cầm lấy mũ và xuống phố. Sáng hôm sau, tôi nghe tin về cái chết bí ẩn của ông Drebber.

    – Câu chuyện này được chính bà Charpentier kể sau nhiều lần ngập ngừng và ngắt quãng. Nhiều lúc, bà ta nói nhỏ đến nỗi tôi hầu như không thể bắt được những từ bà ta nói. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, tôi cũng đã ghi lại mọi lời mà ta khai nhờ vậy mà tôi không để lọt chi tiết nào.

    – Chuyện này khá thú vị, – Sherlock Holmes nói với một cái ngáp dài. – Sau đó chuyện gì xảy ra?

    – Khi bà Charpentier ngừng lời, tôi nhận ra rằng toàn bộ sự việc này đã tựu trunglại ở một điểm, – viên thanh tra tiếp tục. – Tôi nhìn bà ta một cách nghiêm khắc, cái nhìn mà tôi biết chắc chắn là sẽ có hiệu quả đối với phụ nữ, tôi hỏi bà ta rằng mấy giờ thì con trai bà ta trở về nhà.

    – Tôi không biết, – bà ta trả lời.

    – Không biết ư?

    – Không, nó có chìa khóa ngoài và có thể tự vào nhà mà không cần gọi cửa.

    – Vậy là cậu ta về sau khi bà đã đi ngủ?

    – Vâng.

    – Và bà đi nghỉ lúc mấy giờ?

    – Khoảng mười một giờ.

    – Vậy là con trai bà rời khỏi nhà ít nhất là hai tiếng đồng hồ?

    – Vâng.

    – Mà cũng có thể là bốn hoặc năm tiếng?

    – Vâng.

    – Và cậu ấy đã làm gì trong suốt thời gian đó?

    – Tôi không biết, – bà ta trả lời và khuôn mặt trở nên trắng bệch.

    – Tất nhiên, sau đó chẳng còn gì hơn để làm nữa. Tôi đã tìm ra được nơi ở của trung úy Charpentier và cùng với hai nhân viên cảnh sát nữa, tôi đến bắt anh ta. Khi tôi vừa đặt tay vào vai anh ta và đề nghị anh ta nên lặng lẽ đi theo chúng tôi, anh ta trả lời chúng tôi một cách thẳng thừng: – Tôi đoán rằng các ngài bắt tôi vì có liên quan tới cái chết của tên vô lại Drebber đó? – anh ta nói. Chúng tôi chưa hề nói gì với anh ta, vậy mà anh ta lại tự đả động tới chuyện đó. Đây chính là tình tiết đáng nghi ngờ nhất.

    – Rất đáng, – Holmes nói.

    – Lúc đó anh ta vẫn còn đang mang theo cây gậy lớn mà mẹ anh ta đã mô tả là anh ta có mang lúc đuổi theo Drebber. Đó là một cái dùi cui bằng gỗ sồi chắc, cứng.

    – Vậy thì giả thuyết của ông là gì?

    – Ồ, giả thuyết của tôi là anh ta đã theo Drebber tới tận đường Brixton. Tới đó, một cuộc ẩu đả giữa họ đã xảy ra và trong cuộc ẩu đả đó, Drebber đã nhận một cú đánh bằng cây gậy, có lẽ là vào đúng phần bụng, khiến cho ông ta chết mà không để lại dấu vết gì. Đêm đó trời quá ẩm ướt nên không có ai trên đường cả vì thế Charpentier đã lôi xác nạn nhân vào ngôi nhà trống. Còn về cây nến và những vết máu cũng như chữ viết trên tường và chiếc nhẫn, tất cả chỉ là trò tháu cáy của anh ta nhằm đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát mà thôi.

    – Rất tốt! – Holmes nói với một giọng khích lệ. – Thật đấy Gregson, ông thật sự đã rất tiến bộ.

    – Tôi cảm thấy tự hào vì mình đã giải quyết vụ việc này khá gọn gàng, – viên thanh tra đáp lại một cách tự mãn. – Viên trung úy trẻ tuổi đã khai rằng sau khi bám theo Drebber một lúc, ông ta nhận ra anh và đã bắt một chiếc xe ngựa để cắt đuôi anh ta. Trên đường trở về nhà, anh ta gặp một người bạn cũ và đi cùng anh này một quãng khá xa. Nhưng khi được hỏi anh bạn đó sống ở đâu thì anh ta không thể đưa ra được một câu trả lời làm chúng tôi hài lòng. Tôi nghĩ rằng mọi tình tiết thế là đã rất khớp với nhau rồi. Và điều khiến tôi cảm thấy nực cười là anh bạn Lestrade lúc này vẫn đang lần theo một đầu mối sai lầm. Tôi e rằng anh ta sẽ chẳng đạt được gì đâu. Ô, lạy Chúa, có phải chính anh ta đấy không?

    Và đúng là trong khi chúng tôi đang nói chuyện, Lestrade đã bước lên cầu thang và lúc này ông ta đã có mặt trong phòng. Nét mặt chắc chắn và sự vui vẻ hoạt bát thường ngày vẫn hiện hữu trên gương mặt ông ta giờ đây không còn nữa. Thay vào đó là sự bối rối và lo âu cộng với trang phục xộc xệch, chẳng mấy gọn gàng. Rõ ràng là ông ta định tới để tham khảo ý kiến của riêng Holmes bởi vì khi nhìn thấy sự hiện diện của người đồng nghiệp, ông ta lập tức trở nên lúng túng và khó chịu. Ông ta đứng giữa phòng, căng thẳng mân mê vành mũ và phân vân không biết phải làm gì. Cuối cùng, ông ta nói: – Đây là một vụ hết sức kỳ lạ, vụ án khó hiểu nhất mà tôi từng gặp.

    – A, vậy ra đó là điều anh nhận thấy hả Lestrade? – Gregson kêu to với một vẻ chiến thắng. – Tôi cũng đã nghĩ rằng anh sẽ đi tới kết luận như vậy. Thế anh có tìm thấy viên thư ký Joseph Stangerson không?

    – Viên thư ký, ông Joseph Stangerson đã bị giết ở khách sạn tư nhân Halliday vào khoảng sáu giờ sáng hôm nay, – Lestrade nghiêm trang nói.
     
    Johanna thích bài này.
  4. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    12. Chương 7: Ánh sáng trong bóng tối (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cái tin mà Lestrade vừa đem tới cho chúng tôi quá quan trọng và quá bất ngờ đến nỗi cả ba người chúng tôi đều chết điếng người. Gregson đứng bật dậy và đánh đổ cả ly rượu lẫn ly nước đặt trước mặt. Tôi yên lặng liếc nhìn Sherlock Holmes. Lúc này, môi anh mím chặt lại và hai hàng lông mày nhíu sâu trên đôi mắt đăm chiêu.

    – Lại cả Stangerson nữa! – anh lẩm bẩm. – Vậy là âm mưu đã dần xiết chặt lại.

    – Ngay cả trước đó nó đã rất chặt rồi, – Lestrade cằn nhằn và ngồi xuống ghế. – Tôi có cảm tưởng như mình đang ngồi giữa một hội đồng chiến tranh vậy.

    – Anh có khẳng định chắc chắn về thông tin vừa rồi không? – Gregson lắp bắp.

    – Tôi vừa mới từ phòng ông ta trở về đây, – Lestrade nói. – Tôi là người đầu tiên phát hiện ra sự việc.

    – Chúng tôi vừa mới được nghe ý kiến của Gregson về vấn đề này, – Holmes nói. – Ông có thể kể cho chúng tôi biết ông đã nhìn thấy gì và đã làm gì không?

    – Hoàn toàn đồng ý, – Lestrade trả lời và ngồi xuống.

    – Tôi phải thừa nhận là tôi đã nghĩ rằng Stangerson có liên quan tới cái chết của Drebber. Nhưng tình tiết mới này đã chứng minh rằng tôi đã hoàn toàn sai lầm. Nhưng trước đó, vẫn khẳng định rằng đây là đầu mối, tôi đã quyết tâm tìm xem viên thư ký hiện giờ đang ở đâu. Lúc tám rưỡi tối ngày mùng ba, người ta có nhìn thấy cả hai người bọn họ trên sân ga Euston. Vào hai giờ sáng hôm sau, xác của Drebber đã được tìm thấy ở đường Brixton. Vấn đề mà tôi phải tìm hiểu là Stangerson đã làm gì từ tám giờ ba mươi phút tối tới thời điểm xảy ra vụ án và sau đó ông ta ở đâu. Tôi đã đánh điện tới Liverpool, mô tả nhận dạng ông ta và thông báo với họ là phải để ý tới những tàu Mỹ. Sau đó, tôi gọi điện tới tất cả các khách sạn và nhà trọ ở khu vực lân cận Euston. Các ngài cũng biết đấy, tôi đã nghĩ rằng nếu Drebber và người bạn đồng hành của ông ta đã chia tay nhau thì chắc chắn là người đồng hành ấy sẽ tìm một nơi nào đó ở vùng lân cận để qua đêm và sau đó sẽ bắt chuyến tàu sáng hôm sau.

    – Chắc hẳn họ đã thỏa thuận trước điểm gặp gỡ, – Holmes nhận xét.

    – Đúng vậy. Tôi đã giành cả tối qua để dò hỏi nhưng không đem lại kết quả gì. Sáng nay, tôi bắt đầu công việc từ sớm và đến tám giờ, tôi đã tới Khách sạn tư nhân Halliday ở đường Little George. Khi được hỏi có ông Stangerson sống ở đây không, ngay lập tức họ trả lời là có.

    – Chắc chắn ông là người mà ông ấy đang chờ, – họ nói. – Đã hai ngày nay ông ta chờ gặp một quý ông.

    – Giờ ông ta ở đâu? – tôi hỏi.

    – Ông ta đang ngủ trên gác. Ông ta muốn chúng tôi đánh thức ông ta dậy lúc chín giờ.

    – Tôi sẽ lên đó và gặp ông ta ngay bây giờ, – tôi nói.

    Tôi nghĩ rằng sự xuất hiện bất ngờ của tôi sẽ khiến cho ông ta bối rối và sẽ khiến ông ta nói ra điều gì đó không đề phòng. Một người khuân vác hành lý trong khách sạn tự nguyện chỉ phòng ông ta cho tôi: Căn phòng ở tầng hai và có một hành lang nhỏ dẫn tới đó. Người phục vụ khách sạn chỉ phòng cho tôi và đang định đi xuống lầu thì tôi nhìn thấy cái gì đó khiến cho tôi cảm thấy buồn nôn, mặc dù tôi đã có tới hai mươi năm kinh nghiệm. Một dải dài màu đỏ bò ra từ dưới khe cửa, rỉ ra ngoài hành lang và đọng lại thành vũng nhỏ ở rìa lối đi. Tôi kêu lên một tiếng khiến cho người phục vụ quay lại. Anh ta suýt nữa ngất xỉu khi nhìn thấy vũng máu. Cửa phòng đã bị khóa bên trong nhưng chúng tôi đã dùng vai để phá cửa. Cửa sổ căn phòng mở toang và bên cạnh cửa sổ, giữa đống hỗn độn, xác một người đàn ông trong bộ đồ ngủ nằm đó. Ông ta đã chết được một thời gian rồi bởi vì chân tay đã tím tái và lạnh ngắt. Khi chúng tôi lật ông ta nằm ngửa ra, người phục vụ lập tức nhận ra đó chính là quý ông đã thuê phòng với cái tên Joseph Stangerson. Nguyên nhân cái chết là một vết đâm rất sâu từ sườn trái. Chắc chắn là vết đâm đó đã xuyên tới tận tim. Còn đây là điểm lạ lùng nhất của vụ án. Các ngài nghĩ trên xác chết có cái gì?

    Tôi cảm thấy một cơn rùng mình, ớn lạnh tới tận sống lưng, một sự rùng rợn xâm chiếm lấy tôi trước cả khi Sherlock Holmes trả lời.

    – Chữ RACHE được viết bằng máu tươi, – Holmes trả lời.

    – Chính là nó, – Lestrade nói với giọng kinh hoàng. Tất cả chúng tôi lặng thinh trong giây lát.

    Có một điều gì đó mang tính hệ thống nhưng hết sức khó hiểu trong hành vi của kẻ giết người bí ẩn này khiến cho những tội ác của hắn ta càng thêm phần rùng rợn. Thần kinh của tôi mặc dù đã được tôi luyện đến mức cứng rắn trên chiến trường, nhưng khi nghĩ đến việc này, tôi vẫn cảm thấy sởn da gà.

    – Có người đã nhìn thấy người đàn ông đó, – Lestrade nói tiếp. – Một cậu bé đưa sữa, trên đường trở về cửa hàng sữa, đã tình cờ đi ngang qua sân sau khách sạn. Cậu bé có để ý thấy một chiếc thang thường ngày vẫn đặt nằm nhưng hôm nay lại được bắc lên một ô cửa sổ ở tầng hai. Lúc đó ô cửa sổ này đang mở rộng. Sau khi đi ngang qua, cậu ta ngoái lại nhìn và thấy một người đàn ông đang leo xuống chiếc thang. Người đàn ông đó leo xuống nhẹ nhàng và có vẻ tự nhiên đến nỗi cậu bé cứ tưởng rằng đó là một người thợ mộc hay công nhân nào đó đang làm việc trong khách sạn. Cậu bé không đặc biệt chú ý lắm tới người đàn ông đó ngoài việc cậu ta thoáng nghĩ rằng ông ta đến làm việc hơi sớm một chút. Cậu ta có mang máng nhớ rằng người đàn ông đó cao, mặt đỏ và mặc một chiếc áo khoác ngoài dài màu nâu. Chắc hẳn là hắn ta phải ở lại trong phòng một lát sau khi giết người bởi vì chúng tôi có tìm thấy vết máu trong bồn rửa, nơi hắn ta đã rửa tay cũng như vết máu trên tấm ga trải giường nơi hắn ta đã lau con dao làm hung khí.

    Ngay khi nghe thấy mô tả nhận dạng của kẻ giết người, tôi liếc sang nhìn Holmes bởi vì mô tả này hoàn toàn trùng khớp với những gì anh đã nói trước đó. Tuy nhiên, tôi không hề nhận thấy dấu hiệu của niềm hân hoan và sự hài lòng trên nét mặt anh.

    – Ông đã không tìm thấy gì có thể làm dấu vết để tìm ra hung thủ trong căn phòng đó sao? – anh hỏi.

    – Chẳng có gì cả. Trong túi Stangerson có chiếc ví của Drebber nhưng có vẻ như đó là chiếc ví hết sức bình thường bởi vì Stangerson luôn luôn là người chi trả mọi khoản. Trong ví còn nguyên tám mươi mốt bảng. Vì vậy tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng dù thế nào đi chăng nữa, động cơ của những vụ giết người kỳ lạ này cũng không phải là để cướp của. Trong túi của người chết không hề có bất cứ giấy tờ hay thư từ gì cả ngoại trừ một bức điện tín được gửi đi từ Cleveland khoảng một tháng trước và chỉ vỏn vẹn có vài từ: "J. H đang ở Châu Âu." Cũng không có chữ ký sau lời thông báo ngắn ngủi đó.

    – Không còn gì nữa sao? – Holmes hỏi.

    – Chẳng còn gì quan trọng nữa. Có một cuốn tiểu thuyết mà chắc ông ta thường đọc trước khi đi ngủ vẫn đặt trên giường, chiếc tẩu thuốc đặt trên ghế ngay bên cạnh ông ta. Trên bàn có một cốc nước và trên bậu cửa sổ có một chiếc hộp trong đó có hai viên thuốc.

    Sherlock Holmes bật dậy từ chiếc ghế đang ngồi và reo lên một tiếng vui mừng.

    – Đó chính là điểm mấu chốt cuối cùng, – anh kêu lên sung sướng. – Chứng cớ của tôi thế là đã đầy đủ.

    Hai viên thanh tra sửng sốt nhìn anh.

    Bạn tôi tiếp tục một cách tự tin: – Giờ đây, tôi đã có trong tay đầy đủ mọi đầu mối để tái hiện lại đường đi nước bước của mớ bòng bong này. Tất nhiên vẫn còn có một số chi tiết cụ thể cần phải làm rõ nhưng tôi có thể khẳng định chắc chắn về tất cả những sự kiện chính kể từ lúc Drebber tạm biệt Stangerson trên sân ga cho tới khi các ngài tìm ra cái xác của viên thư ký, chắc chắn như chính mắt tôi được chứng kiến toàn bộ sự việc vậy. Tôi sẽ chứng minh cho các ngài thấy. Vậy ông có động tay vào những viên thuốc đó không?

    – Tôi có chúng ở đây luôn, – Lestrade nói và lôi ra một chiếc hộp nhỏ màu trắng. – Tôi mang theo chúng, chiếc ví cùng bức điện tín nhằm cất chúng vào một nơi an toàn trong sở cảnh sát. Nhưng quả thực suýt nữa thì tôi đã không đem theo những viên thuốc này bởi vì tôi không nghĩ rằng chúng có thể là một đầu mối quan trọng nên cũng không mấy quan tâm tới chúng.

    – Đưa chúng cho tôi, – Holmes nói. – Nào, bác sĩ, – anh quay sang tôi, – đây có phải là những viên thuốc bình thường không?

    Chắc chắn là không. Chúng có màu xám ánh ngọc trai, nhỏ, tròn và gần như chuyển thành trong suốt khi soi lên ánh sáng. – Qua độ sáng và độ trong suốt khi soi lên ánh sáng, tôi chắc rằng chúng có thể hòa tan trong nước, – tôi nhận xét.

    – Chính xác, – Holmes trả lời. – Giờ phiền anh xuống nhà và đưa chú chó tội nghiệp bị ốm khá lâu mà hôm trước bà chủ nhà vừa nhờ chúng ta hãy giúp nó chấm dứt sự đau đớn lên đây.

    Tôi xuống nhà và bế con chó lên lầu. Hơi thở nặng nhọc và ánh mắt rực lên của con chó cho thấy nó chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nước dãi trắng ởn rỏ ra bên mép cũng chứng minh điều đó. Tôi đặt con chó lên tấm đệm đặt trên thảm.

    – Tôi sẽ cắt những viên thuốc này làm hai phần, – Holmes nói và rút trong túi ra một con dao nhíp nhỏ để thực hiện luôn những gì anh vừa nói. – Một nửa chúng ta sẽ để lại trong hộp để giành sau này cần đến. Nửa còn lại tôi sẽ cho vào chiếc ly này, trong đó đã có một thìa đầy nước. Các ngài thấy đây, anh bạn tôi, bác sĩ Watson đây, đã đúng, nửa viên thuốc đã hoàn toàn bị hòa tan trong nước.

    – Điều này có thể cũng rất thú vị, – Lestrade nói với giọng của một người đang nghi ngờ rằng mình đang bị cười nhạo. – Tuy nhiên tôi không biết điều này thì có liên quan gì tới cái chết của Joseph Stangerson?

    – Bình tĩnh, ông bạn của tôi, hãy bình tĩnh! Rồi sẽ đến lúc ông nhận thấy điều này liên quan mật thiết tới vụ án mạng. Tôi sẽ thêm một chút sữa để làm cho hỗn hợp này ngon miệng hơn. Nhờ vậy, khi đưa nó cho con chó, nó sẽ sẵn sàng liếm sạch.

    Nói rồi, anh đổ hỗn hợp vừa pha từ cốc ra một chiếc đĩa và đặt nó trước mặt con chó. Và đúng như anh nói, nó nhanh chóng liếm sạch đĩa. Những hành động dứt khoát, quả quyết của Holmes khiến cho chúng tôi hoàn toàn bị thuyết phục và ngồi yên lặng, chăm chú nhìn con vật và chờ đợi một kết quả bất ngờ. Nhưng chẳng có điều gì xảy ra cả. Con chó vẫn nằm duỗi dài trên tấm thảm, thở một cách nặng nhọc nhưng không hề có dấu hiệu khoẻ lên hay yếu đi sau khi uống chỗ nước trong đĩa.

    -Còn tiếp-
     
    Johanna thích bài này.
  5. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    13. Chương 7: Ánh sáng trong bóng tối (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Holmes đã lấy chiếc đồng hồ ra khỏi túi và mỗi phút không kết quả trôi qua, nét mặt anh càng lộ rõ vẻ buồn nản và thất vọng. Anh cắn môi, những ngón tay gõ nhịp lên bàn, mọi cử động của anh đều cho thấy đó là dấu hiệu của sự mất kiên nhẫn cao độ. Nỗi thất vọng và bồn chồn của anh lớn tới nỗi tôi cảm thấy tội nghiệp cho anh vô hạn, trong khi đó, hai vị thanh tra mỉm cười đầy nhạo báng mà không hề bực mình vì sự thất bại này của Holmes.

    – Không thể chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, – cuối cùng, anh kêu lên và bật dậy, bước quanh phòng một cách bồn chồn. – Không thể nào! Đây không thể nào chỉ đơn thuần là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Những viên thuốc mà tôi đã nghi ngờ từ vụ Drebber thì giờ đây đã được tìm thấy sau cái chết của Stangerson. Nhưng chúng lại không hề có tác dụng. Điều này có nghĩ là gì? Chắc chắn, cả chuỗi lý luận của tôi không thể nào sai lầm được. Không thể nào! Tuy nhiên, con chó này vẫn không sao cả sau khi uống thuốc. A! Tôi biết rồi! Tôi biết tại sao rồi! – Với một tiếng hét sung sướng, anh lao tới bên chiếc hộp và cắt viên thuốc còn lại làm hai phần, hòa tan nó với nước, thêm một chút sữa và đưa cho con chó uống. Lưỡi con vật tội nghiệp vừa thè ra, chạm vào thứ chất lỏng trên đĩa thì tứ chi nó đã run rẩy, toàn thân co giật, sau đó nó nằm cứng đơ, bất động nhanh như vừa bị sét đánh.

    Sherlock Holmes thở hắt ra hài lòng và lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán. – Lẽ ra tôi phải tin tưởng ở mình hơn, – anh nói. – Sau lần này, tôi cần phải biết rằng một khi thực tế xảy ra không giống như những gì ta suy luận thì bao giờ cũng có thể có một cách giải thích khác. Trong số hai viên thuốc còn lại trong chiếc hộp, có một viên là thuốc độc chết người còn một viên thì hoàn toàn vô hại. Lẽ ra tôi đã phải biết điều này từ trước khi tôi nhìn thấy chiếc hộp mới đúng.

    Câu nói cuối cùng của anh quá bất ngờ đối với tôi đến nỗi tôi khó có thể tin được rằng lúc này anh đang tỉnh táo. Tuy nhiên, vẫn còn đó xác con chó để chứng minh rằng những điều anh phỏng đoán là chính xác. Tôi có cảm tưởng như màn sương trong tâm trí mình đang dần dần được xua tan và tôi bắt đầu mơ hồ nhận ra được chân tướng sự việc.

    – Tất cả những điều này dường như thật kỳ lạ với các vị bởi vì ngay từ đầu các vị đã sai lầm trong việc nắm bắt những đầu mối quan trọng, những đầu mối được bày ra rõ mồn một trước mắt các vị. Tôi lại có may mắn nhận ra được những thứ như vậy và tất cả những điều đã xảy ra từ đó đến giờ đã chứng minh cho giả định ban đầu của tôi là đúng và cả những suy luận logic từ giả định đó nữa. Vì vậy, những điều tưởng chừng như đang làm đau đầu các vị, đang làm cho sự việc ngày càng trở nên rắc rối hơn, khó hiểu hơn, mơ hồ hơn thì lại làm sáng tỏ hơn cho chuỗi suy luận logíc của tôi và củng cố thêm cho kết luận của tôi. Thật sai lầm khi lầm tưởng những tình tiết lạ lùng mà bạn chưa từng gặp bao giờ với sự bí ẩn. Thông thường, những vụ án cũ rích lại là những vụ án bí ẩn nhất bởi vì nó không bao hàm một đặc điểm mới lạ hay đặc biệt nào để người ta có thể đưa ra các phán đoán. Vụ giết người này thực sự sẽ vô cùng khó khăn nếu như chúng ta chỉ đơn giản là tìm thấy xác nạn nhân trên phố mà không hề có bất kỳ tình tiết thái quá hay những chi tiết bổ sung mang tính chất nhạy cảm nào khiến cho nó trở nên đặc biệt. Thay vì khiến cho sự việc càng trở nên khó khăn hơn, những chi tiết kỳ lạ này chỉ làm cho vụ án bớt phức tạp hơn mà thôi.

    Gregson, nãy giờ vẫn lắng nghe những lời Holmes nói với một vẻ sốt ruột tột độ, giờ không thể chịu đựng hơn được nữa. Ông ta nói:

    – Nghe này ngài Sherlock Holmes, tất cả chúng tôi đều biết rằng ngài là một người hết sức thông minh và xuất chúng và rằng ngài có một phương pháp làm việc riêng của mình. Dù vậy, hiện giờ, những gì chúng tôi cần không phải đơn thuần chỉ là lý thuyết. Cái mà chúng tôi cần là bằng chứng để bắt kẻ phạm tội. Tôi đã tìm ra được bằng chứng của mình nhưng thực tế chứng minh là tôi đã sai. Viên sĩ quan trẻ Charpentier không thể dính líu vào vụ án mạng thứ hai này được. Lestrade thì lần theo dấu vết kẻ tình nghi của anh ta, Stangerson, và thực tế cũng chứng minh là anh ta cũng sai lầm. Ngài đã đưa ra những dấu vết ở đây đó, và có vẻ như ngài biết nhiều hơn chúng tôi. Nhưng đã đến lúc, chúng tôi thấy mình có quyền hỏi thẳng thắn rằng trong vụ này ngài đã biết đến đâu rồi. Ngài có thể nói tên người đàn ông là thủ phạm của hai vụ án mạng này không?

    – Tôi không thể không nói rằng những gì Gregson đòi hỏi là chính đáng thưa ngài, – Lestrade thêm vào. – Cả hai chúng tôi đều đã rất cố gắng và cuối cùng chúng tôi đều thất bại. Từ lúc tôi bước vào căn phòng này, đã hơn một lần ngài khẳng định rằng ngài đã có đủ mọi bằng chứng mình cần. Và rõ ràng là ngài cũng không nên giữ bí mật những bằng chứng đó lâu hơn nữa.

    – Chúng ta càng trì hoãn việc bắt giữ kẻ giết người thì chúng ta càng khiến cho hắn có thể thời gian để thực hiện thêm những hành vi tàn bạo khác, – tôi nói thêm

    Và thế là, trước sức ép của cả ba người chúng tôi, Holmes có phần phân vân. Anh vẫn tiếp tục bước quanh phòng, đầu cúi xuống ngực, đôi lông mày nhíu lại như thói quen mỗi khi anh phải suy nghĩ căng thẳng.

    – Chắc chắn là sẽ không có thêm vụ giết người nào nữa, – cuối cùng anh bất ngờ dừng lại, quay mặt về phía chúng tôi và nói. – Các ngài có thể không cần phải lo lắng về điều đó. Các ngài vừa hỏi tôi có biết tên của kẻ giết người không. Tôi xin trả lời là tôi có biết. Tuy nhiên việc biết tên của hắn ta là một việc quá nhỏ so với việc chúng ta có thể tóm được hắn ta hay không. Tôi hy vọng chúng ta sẽ nhanh chóng thực hiện được việc này. Và tôi hy vọng rằng mình có thể tự thu xếp được. Nhưng để làm được điều đó cần phải có một sự sắp xếp cẩn thận, kỹ lưỡng và khéo léo bởi vì chúng ta đang phải đối mặt với một người đàn ông liều lĩnh và tinh ranh. Chính bản thân tôi đã có dịp thử nghiệm và có thể khẳng định rằng ông ta được trợ giúp bởi một một người nữa, người này cũng thông minh và tinh ranh chẳng kém gì ông ta. Nhưng chừng nào mà người đàn ông này vẫn còn chưa biết rằng ông ta đang bị nghi ngờ thì chúng ta vẫn còn cơ hội để tóm được ông ta. Tuy nhiên, nếu như chúng ta khiến cho ông ta nghi ngờ, dù chỉ là một tia nghi ngờ nhỏ nhất thì ông ta sẽ thay tên đổi họ và ngay lập tức biến mất tăm giữa bốn triệu dân của thành phố rộng lớn này. Dù không hề có ý định làm tổn thương tình cảm của bất cứ ai trong các ngài, tôi cũng vẫn phải nói rằng người đàn ông này không phải là đối thủ của lực lượng cảnh sát thành phố và đó là lý do tại sao tôi không yêu cầu hỗ trợ của các ngài. Tất nhiên, nếu như tôi thất bại, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về thất bại này. Nhưng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho mọi chuyện rồi. Ngay lúc này, tôi chỉ có thể hứa rằng ngay khi nào tôi nhận thấy mình có thể nói với các ngài toàn bộ những điều tôi biết mà không gây hậu quả xấu nào cho kế hoạch của tôi, tôi sẽ nói cho các ngài biết.

    Dường như Gregson và Lestrade chẳng mấy hài lòng với lời hứa của Holmes, cũng có thể là họ chạnh lòng vì lời nói bóng gió đánh giá thấp năng lực của lực lượng cảnh sát nên Gregson thì mặt đỏ tía tai trong khi đôi mắt tròn, nhỏ của Lestrade long lên vừa vì tò mò, vừa vì tức giận. Tuy nhiên, chẳng ai trong số họ kịp có thời gian để nói thêm được câu gì bởi vì có tiếng gõ cửa và người đại diện của đội quân đường phố người Arập của Holmes, anh chàng Viggins trẻ tuổi, đã bước vào với bộ dạng bẩn thỉu và thấp hèn của mình.

    – Thưa ngài, – anh ta nói, tay vuốt chùm tóc phía trước trán, – tôi đã gọi chiếc xe ngựa đó đến chờ dưới nhà rồi.

    – Tốt lắm, – Holmes nói với một giọng nhẹ nhàng. – Cậu hãy đưa cái còng tay này cho các ngài ở sở cảnh sát Scotland Yard. – anh nói tiếp và lấy từ trong tủ ra một chiếc còng số tám. – Để xem cái còng tay này còn làm việc tốt không, có còn nhạy không, bập vào khóa nhanh không?

    – Cái còng tay cũ này vẫn còn rất tốt, miễn là chúng ta tìm được người để đưa tay vào đó thôi, – Lestrade nhận xét.

    – Rất tốt, rất tốt, – Holmes nói và mỉm cười. – Người đánh xe ngựa có thể lên đây giúp tôi một tay chuẩn bị hành lý. Hãy bảo anh ta lên đây Wiggins.

    Tôi rất ngạc nhiên khi nhận thấy anh bạn tôi nói như thể anh đang chuẩn bị đi đâu một chuyến khá xa bởi vì anh chưa hề nói với tôi tiếng nào về điều đó. Trong phòng có một chiếc va li bằng da nhỏ và anh vừa mới lôi ra để buộc và đóng gói. Khi người đánh xe bước vào phòng thì anh vẫn đang bận rộn với chiếc va li.

    – Giúp tôi một chút, anh đánh xe, – anh nói, đầu vẫn cúi xuống chiếc va li mà không hề ngẩng lên giây nào.

    Người đánh xe bước tới nhưng có vẻ không mấy thoải mái, gương mặt hơi sưng lên vì không hài lòng. Anh ta đặt một tay vào giúp Holmes. Ngay lập tức, một tiếng cách vang lên, tiếng kim loại đập vào nhau chói tai và một lần nữa, Sherlock Holmes bật dậy.

    – Các quý ngài, – anh kêu lên với đôi mắt loé sáng, – cho phép tôi giới thiệu ngài Jefferson Hope, thủ phạm vụ giết Drebber và Joseph Stangerson.

    Toàn bộ diễn biến của sự việc diễn ra trong giây lát – nhanh tới nỗi tôi hầu như không có đủ thời gian để nhận ra rằng mọi chuyện đã kết thúc. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ cái giây phút ấy, về câu nói đầy chiến thắng của Holmes, về âm điệu trong giọng nói của anh, về gương mặt hung dữ nhưng ngạc nhiên đến sững sờ của người đánh xe ngựa khi ông ta nhìn xuống chiếc còng vừa bập vào tay mình nhanh như có một phép thần nào đó. Trong một hay hai giây sau đó, tất cả chúng tôi đứng yên như trời trồng. Sau đó, với một tiếng gầm giận dữ, hoang dại, người tù của chúng tôi gồng người thoát ra khỏi tay Holmes và lao mình qua cửa sổ. Những thanh gỗ và kính vỡ văng ra trước mặt anh ta. Nhưng trước khi toàn thân anh ta thoát ra khỏi khung cửa thì Gregson, Lestrade và Holmes đã cùng lao về phía anh ta như những chú chó săn được huấn luyện thuần thục. Anh ta bị lôi vào trong phòng và sau đó lại bắt đầu một cuộc vật lộn gay go, cuồng nộ. Anh ta khoẻ và điên cuồng tới mức cả bốn người chúng tôi phải vật lộn hết sức mình, trồi lên, tuột xuống một lúc lâu mới khuất phục được anh ta. Anh ta dồn hết sức mình vật lộn điên cuồng như một kẻ đang lên cơn động kinh. Mặt và tay anh ta đã bị kính cắt đứt và chảy máu ròng ròng. Nhưng việc mất máu không làm giảm đi sức chống cự của anh ta. Chỉ tới khi Lestrade trói chặt được hai tay anh ta lại bằng chiếc cà vạt và gần như bóp ngẹt cổ họng anh ta thì chúng tôi mới khiến được anh ta hiểu rằng có chống cự cũng vô ích. Nhưng ngay cả khi đó, chúng tôi vẫn chưa hề cảm thấy an toàn cho tới khi trói được cả hai tay và hai chân hắn ta lại. Xong việc, chúng tôi đứng dậy, mệt nhoài và thở hổn hển.

    – Chúng ta có cỗ xe ngựa của anh ta luôn, – Sherlock Holmes nói. – Chúng ta sẽ dùng nó để đưa anh ta về sở cảnh sát Scotland Yard. Còn bây giờ, thưa các quý ông, – anh tiếp tục với một nụ cười hài lòng, – chúng ta đã đặt dấu chấm hết cho bí ẩn nho nhỏ này. Giờ thì các ngài có thể đặt bất cứ câu hỏi nào mà các ngài muốn và sẽ chẳng còn gì nguy hiểm khiến tôi từ chối trả lời câu hỏi của các ngài nữa.
     
    Johanna thích bài này.
  6. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    Phần II: Đất nước của các vị thánh

    14. Chương 1: Trên vùng đồng bằng rộng lớn của muối mặn (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ở trung tâm của lục địa Bắc Mỹ rộng lớn có một sa mạc khô cằn, hoang sơ, đáng sợ, một sa mạc mà bao nhiêu năm qua đã trở thành biên giới ngăn cản bước tiến của cuộc sống văn minh. Trải dài từ Sierra Nevada tới Nebraska và từ Yellowstone River ở phía bắc tới Colorado ở phía Nam, vùng đất này là một vùng đất của sự hoang vu, tiêu điều và vắng lặng. Hơn nữa thiên nhiên cũng không ưu đãi tạo ra một đồng bằng bằng phẳng trên vùng đất u ám này. Nơi đây có những đỉnh núi cao ngất, quanh năm tuyết phủ và có cả những thung lũng sâu thăm thẳm, tối tăm và đáng sợ. Nơi đây có những dòng sông chảy xiết, chọc thẳng vào những vách vúi đá lởm chởm. Và nơi đây cũng có những vùng đồng bằng rộng mênh mông, trên những đồng bằng đó, mùa đông tuyết phủ trắng xóa và mùa hè thì nhuốm màu xám xịt của những lớp bụi kiềm mặn chát. Tất cả đều toát lên vẻ cằn cỗi và không thể là vùng đất hứa cho sự tồn tại của con người.

    Trên vùng đất của sự tuyệt vọng này không hề có cư dân nào sinh sống. Thi thoảng, có một nhóm người Pawnee hoặc người Blackfeet đi ngang qua đây nhằm hướng tới vùng đất săn bắn mới của họ nhưng ngay cả những người can đảm nhất, cứng rắn nhất, từng trải nhất cũng cảm thấy sung sướng nếu có thể tránh xa được vùng đồng bằng đáng sợ này để được một lần nữa nhìn thấy thảo nguyên xanh tươi của họ. Chó sói ẩn náu trong những bụi rậm rình mồi, chim ó butêo nặng nề vỗ cánh trên không và những chú gấu xám Bắc Mỹ nặng nề băng qua những khe núi tối tăm để kiếm những miếng mồi hiếm hoi có thể ẩn sau những tảng đá. Đó là những cư dân duy nhất của vùng đồng bằng hoang vu này.

    Trên thế giới này, không đâu có được một khung cảnh đáng sợ hơn khung cảnh của những cao nguyên phương Bắc vùng Sierra Blanco. Những dải đồng bằng rộng mênh mông ngút tầm mắt, tất cả đều phủ một lớp kiềm mặn chát và bị chia cắt bởi những lùm cây còi cọc trên thảo nguyên. Ở riềm chân trời xa tít tắp, người ta có thể nhìn thấy một dải núi dài với đỉnh núi lởm chởm, lô nhô phủ kín tuyết. Trên khắp một vùng đất rộng mênh mông, bất tận, không hề có dấu hiệu của sự sống, và cũng chẳng có thứ gì có thể sống được trên đó cả. Không một cánh chim nào trên bầu trời ánh bạc, không một chuyển động dù là nhỏ nhất trên mặt đất xám xịt, hoang vu. Bao trùm lên tất cả là một sự tĩnh lặng tuyệt đối. Hãy lắng nghe mà xem, không hề có một tiếng động nào giữa không gian hoang dã mênh mông này. Không có gì cả ngoài sự tĩnh lặng, một sự tĩnh lặng đến rợn người.

    Nếu nói rằng chẳng có bất kỳ thứ gì liên quan đến sự sống trên vùng đất rộng mênh mông này cũng không phải là hoàn toàn đúng. Hãy nhìn từ Sierra Blanco, người ta sẽ thấy một con đường mòn băng qua sa mạc. Con đường đó uốn lượn vòng vèo và mất hút phía xa tít tắp. Nó được hằn sâu bởi vết bánh xe ngựa và được củng cố bởi dấu chân của những người thích phiêu lưu, mạo hiểm. Đây đó, rải rác những vật màu trắng, lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, nổi bật lên hẳn so với cái màu xám ảm đạm của muối kiềm. Hãy tiến gần lại và xem đó là gì! Chúng là những mẩu xương: Có mẩu to và thô, một số nhỏ hơn và thon hơn. Những mẩu xương to và thô thuộc về gia súc như bò, ngựa, còn những mẩu xương nhỏ, thon là xương người. Trong vòng bán kính khoảng một nghìn năm trăm dặm, người ta có thể lần ra dấu vết con đường mòn đáng sợ của những đoàn lữ hành này qua những gì còn lại rải rác hai bên đường của những lữ khách đã ngã gục trên đường băng qua vùng sa mạc khủng khiếp này.

    Vào ngày mùng bốn tháng năm năm một nghìn tám trăm bốn mươi bảy, nhìn từ vị trí này, người ta sẽ thấy một người lữ hành đơn độc. Người ngoài nhìn vào chắc sẽ rất khó có thể đoán được anh ta gần bốn mươi hay gần sáu mươi tuổi. Gương mặt anh ta gầy guộc, hốc hác, phờ phạc, lớp da cháy nắng khô như da dê dán chặt vào những cục xương nhô ra; bộ râu cũng như mái tóc dài, màu nâu của anh ta nhuộm trắng bụi đường; đôi mắt trũng sâu và cháy rực nhờ một thứ ánh sáng không mấy tự nhiên trong khi hai bàn tay nắm chặt lấy khẩu súng trường cũng chỉ còn có da bọc xương. Khi anh ta đứng lại, anh ta tựa cả người vào khẩu súng trường để làm chỗ dựa. Có thể nhận thấy anh ta vẫn là một người rất cao, khung xương vạm vỡ cho thấy anh ta là người có sức khoẻ dẻo dai và cường tráng. Vì vậy, gương mặt hốc hác và quần áo rộng thùng thình khoác trên một bộ xương run rẩy cho thấy điều gì đã khiến cho anh ta trở nên yếu ớt và hom hem đến như vậy. Anh ta đang chết dần, chết dần chết mòn vì đói và khát.

    Anh ta di chuyển một cách chậm chạp, khó nhọc và đau đớn xuống những hẻm núi và lúc này, anh ta đang cố leo lên một chút với hy vọng tìm thấy chút nước ở đâu đó. Giờ đây, giữa vùng đồng bằng muối phủ đã trải dài trước mắt anh ta và cả cái vành đai núi đáng sợ phía xa đều không thấy chút xanh nào của cây cối, dấu hiệu chứng tỏ sự hiện diện của nguồn nước. Trên cả vùng đất rộng lớn này, chẳng có một tia hy vọng nào cho sự chờ đợi của anh cả. Từ Bắc rồi sang Đông, rồi qua Tây, anh ta nhìn dáo dác với con mắt tìm kiếm, mòn mỏi và sau đó anh ta nhận ra rằng cuộc hành trình của anh ta thế là đã kết thúc và rằng ở đây, trên con dốc lởm chởm đá và cằn cỗi này, anh ta sắp chết. – Tại sao lại ở đây mà không phải ở bên giường của cha hai mươi năm về trước? – anh ta lẩm bẩm khi nặng nề đặt người xuống một tảng đá bằng phẳng.

    Trước khi ngồi xống, anh ta đặt khẩu súng vô dụng xuống đất và sau đó là cái bọc lớn buộc chặt bằng một chiếc khăn choàng màu xám mà anh ta vẫn đeo bên vai phải. Có vẻ như cái túi đó hơi quá nặng đối với sức khoẻ của anh ta lúc này vì khi đặt xuống, cái bịch va hơi mạnh vào mặt đất. Ngay lập tức, từ trong cái bọc màu xám vang lên một tiếng kêu rên rỉ và từ trong cái bọc thòi ra một khuôn mặt nhỏ xíu, có vẻ lo sợ với đôi mắt nâu rất sáng và hai nắm đấm nhỏ xíu.

    – Chú vừa làm cháu đau quá đấy! – giọng nói trẻ con cất lên có vẻ trách móc.

    – Thật vậy sao? – người đàn ông trả lời với vẻ ăn năn, hối lỗi. – Ta không chủ định làm thế đâu. – Vừa nói, anh ta vừa tháo cái khăn choàng màu xám ra và để lộ ra một cô bé dễ thương khoảng năm tuổi, đi đôi giày xinh xắn và mặc chiếc váy màu hồng trang nhã. Tất cả cho thấy một sự chăm chút chu đáo của người mẹ. Đứa trẻ có vẻ xanh xao và mệt mỏi nhưng đôi cánh tay và đôi chân khoẻ mạnh của cô cho thấy cô không phải chịu đựng nhiều khó khăn như người bạn đồng hành của mình.

    – Giờ thì thế nào rồi? – Người đàn ông hỏi một cách căng thẳng vì cô bé vẫn đang xoa xoa lọn tóc rối bù xù đằng sau đầu.

    – Hãy hôn vào đó và làm cho nó hết đau, – cô bé nói với một vẻ nghiêm khắc và chìa chỗ đau ra cho người đàn ông. – Đó là những gì mà mẹ vẫn thường làm. Thế mẹ đâu rồi?

    – Mẹ đi rồi. Ta nghĩ chẳng mấy chốc nữa cháu sẽ được gặp mẹ thôi.

    – Đi ư? – cô bé nói. – Thật là buồn cười. Mẹ thậm chí còn không hề nói lời tạm biệt. Mẹ luôn luôn làm như vậy khi mẹ chuẩn bị đến nhà dì dùng trà. Vậy mà bây giờ mẹ đi đã được ba ngày rồi. Chú nói xem, chú có khát không? Không có nước uống, cũng chẳng có thứ gì để ăn sao?

    – Không, chẳng có gì cả cháu yêu ạ. Cháu chỉ cần kiên nhẫn một chút thôi, và rồi mọi chuyện sẽ ổn. Hãy đặt đầu cháu vào ngực ta như thế, và rồi cháu sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Thật chẳng dễ dàng gì khi nói chuyện với đôi môi khô khốc như thế này nhưng ta nghĩ tốt hơn hết ta nên nói cho cháu biết tình hình hiện tại. Cháu có cái gì đó?

    – Những thứ rất đẹp! Những thứ rất tuyệt vời! – cô bé reo lên háo hức và giơ lên hai miếng nhựa mica lấp lánh. – Khi nào chúng ta về nhà, cháu sẽ đưa chúng cho anh Bob.

    – Rồi cháu sẽ được nhìn thấy những thứ còn đẹp hơn thế nhiều. Không lâu nữa đâu, – nguời đàn ông nói một cách tự tin. – Cháu chỉ cần đợi một chút thôi. Ta sẽ nói cho cháu biết. Cháu còn nhớ khi chúng ta rời khỏi con sông không?

    – Ồ, có chứ!

    – Vậy đấy, chúng ta cứ tưởng rằng mình sẽ nhanh chóng tìm được một con sông nữa. Nhưng có điều gì đó không ổn: Đường vòng sai, hay bản đồ, hay một cái gì đó nhưng cuối cùng chúng ta đã không tìm thấy dòng sông. Hết nước. Chỉ còn một vài giọt đủ cho cháu và.. và..

    – Và chú không thể tắm được, – người bạn đồng hành bé nhỏ của anh ta ngắt lời với vẻ hết sức nghiêm trọng, mắt nhìn chằm chằm vào khuôn mặt hốc hác của anh.

    – Không có nước tắm, cũng không có nước để uống. Và ông Bender là người đầu tiên ra đi, sau đó đến Pete, rồi sau đó đến bà McGregor, sau đó đến Hones, và sau đó, cháu yêu ạ, đến mẹ cháu.

    – Vậy là mẹ cũng đã chết, – cô bé kêu lên, vùi mặt vào áo choàng và khóc nức nở.

    – Phải, tất cả bọn họ đều chết trừ ta và cháu. Sau đó, ta nghĩ rằng có thể chúng ta sẽ tìm được nguồn nước nếu như đi theo hướng này vì thế ta đã cõng cháu trên vai và chúng ta cùng đi. Nhưng có vẻ như chúng ta chẳng thể cải thiện được tình hình. Giờ đây, chúng ta hầu như chẳng còn hy vọng gì nữa.

    – Ý chú là chúng ta cũng sắp chết phải không? – cô bé hỏi, ngừng nức nở và ngẩng khuôn mặt đẫm nước mắt lên.

    -Còn tiếp-
     
    Johanna thích bài này.
  7. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    15. Chương 1: Trên vùng đồng bằng rộng lớn của muối mặn (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    – Ta nghĩ là như vậy.

    – Tại sao chú không nói sớm hơn? – Cô bé nói và mỉm cười sung sướng. – Chú làm cho cháu sợ quá. Tất nhiên nếu chúng ta chết, chúng ta sẽ được gặp mẹ.

    – Đúng vậy, cháu sẽ được gặp mẹ, cháu yêu ạ!

    – Và chú cũng thế. Cháu sẽ nói với mẹ chú tốt với cháu đến thế nào. Cháu dám cá là mẹ sẽ đón chúng ta ở cửa thiên đường với một bình đầy nước và rất nhiều bánh kiều mạch, nóng và giòn ở hai bên giống như cháu và Bob vẫn thường thích ăn. Vậy còn bao lâu nữa thì chúng ta được tới thiên đàng?

    – Ta cũng không biết – chắc là không lâu nữa đâu. – Đôi mắt người đàn ông dán chặt vào đường chân trời phía bắc. Trên vòm trời xanh thẫm xuất hiện ba chấm đen nho nhỏ, những chấm đen đó to dần lên và tiến lại ngày càng nhanh hơn. Người đàn ông nhanh chóng nhận ra đó là ba con chim lớn màu nâu, chúng lượn vòng trên đầu hai kẻ lang thang rồi đậu xuống ba tảng đá trước mặt họ. Chúng là chim ó butêo, loài kền kền săn xác chết ở phương tây. Sự xuất hiện của chúng luôn luôn báo hiệu sẽ có người chết.

    – Gà trống và gà mái kìa, – cô bé reo lên vui sướng, chỉ vào cái bóng đáng sợ, báo trước điềm gở của những con chim và vỗ tay để xua chúng bay lên. – Chú nói xem, có phải Chúa đã tạo ra vùng đất này không?

    – Tất nhiên là Chúa đã tạo ra vùng đất này rồi, – người bạn đồng hành của cô trả lời, hơi giật mình trước câu hỏi bất ngờ này.

    – Chúa đã tạo ra vùng đất Illinois, và Chúa cũng tạo ra vùng Missouri, – cô bé tiếp tục. – Cháu đoán là ai đó khác đã tạo ra vùng đất này chứ không phải Chúa bởi vì công trình của họ không được hoàn hảo lắm. Họ quên mất nước và cây cối.

    – Cháu có nghĩ đến chuyện cầu nguyện điều gì không? – người đàn ông rụt rè hỏi.

    – Nhưng trời vẫn chưa đêm mà! – Cô bé trả lời.

    – Điều đó cũng không sao. Cầu nguyện lúc này cũng không giống như lệ thường lắm nhưng chắc chắn Chúa sẽ không phiền đâu. Cháu có tin không? Cháu có thể nói lại tất cả những gì mà cháu vẫn thường cầu nguyện hàng đêm khi chúng ta còn ở trên thảo nguyên là được.

    – Tại sao chú không tự cầu nguyện vài điều gì đó? – Cô bé nói với đôi mắt dò hỏi.

    – Ta không nhớ được những lời cầu nguyện đó, – người đàn ông trả lời. – Ta đã không còn cầu nguyện kể từ khi ta cao bằng cây súng này. Nhưng ta nghĩ cầu nguyện sẽ chẳng bao giờ là muộn cả. Cháu cứ đọc to những lời cầu nguyện của mình lên, ta sẽ đứng bên cạnh và đọc cùng cháu khi vào đoạn điệp khúc.

    – Vậy thì chú sẽ phải quỳ xuống, cả cháu cũng thế, – cô bé nói và trải chiếc khăn ra để phục vụ cho mục đích đó. – Chú phải chắp tay lại thế này. Việc đó sẽ khiến chú cảm thấy mình tốt đẹp.

    Nếu như có ai đó ngoài những con chim săn xác thối kia nhìn thấy cảnh này chắc chắn người ta sẽ phải thừa nhận rằng đây là một cảnh tượng kỳ lạ. Vai sát vai, trên tấm khăn choàng bé xíu, hai kẻ lang thang, một đứa trẻ vô tư và một người đàn ông liều lĩnh, cứng rắn, đang quỳ xuống cầu nguyện. Khuôn mặt mũm mĩm của cô bé và gương mặt góc cạnh, hốc hác của người đàn ông đều hướng về phía chân trời xanh thẳm, không một gợn mây để thành tâm cầu nguyện đấng cứu thế mà họ đang đối mặt. Hai giọng nói – một mỏng nhẹ, trong trẻo, thơ ngây, một giọng khàn, trầm, đục – cùng hòa vào nhau để cầu xin lòng nhân từ nơi Chúa. Sau khi cầu nguyện xong, họ trở lại chỗ ngồi dưới bóng tảng đá cho tới khi đứa bé thiếp ngủ, cuộn tròn trong vòm ngực rộng của người bảo trợ cô. Người đàn ông ngồi ngắm giấc ngủ của cô bé. Sau ba ngày ba đêm không nghỉ ngơi, không ngủ, mi mắt anh giờ chầm chậm trĩu xuống trên đôi mắt mệt mỏi, cái đầu cúi gập xuống ngực cho tới khi bộ râu lởm chởm của anh ta hòa vào với bím tóc màu vàng của người bạn đồng hành. Cả hai cùng thiếp vào giấc ngủ sâu và không mộng mị.

    Giá như người lữ hành kia cố thức thêm chừng nửa giờ nữa thì anh ta chắc chắn sẽ bắt gặp một cảnh tượng lạ lùng. Từ đằng xa, tít tận rìa ngoài cùng của dải đồng bằng phủ muối kiềm mặn chát, một đám bụi mỏng bốc lên. Ban đầu, đám bụi đó rất mỏng và nhẹ, hầu như khó có thể phát hiện ra từ khoảng cách xa đến vậy nhưng càng ngày, nó càng mịt mù thêm, tăng rộng thêm cho tới khi tạo thành một đám bụi dày đặc, khổng lồ, rất dễ nhận thấy. Đám bụi này tiếp tục lớn dần lên cho tới khi người ta có thể cảm nhận rõ ràng rằng nó được tạo ra bởi một số lượng cực đông những sinh vật đang di chuyển. Nếu ở một nơi nào đó màu mỡ và phì nhiêu hơn, chắc chắn người ta sẽ nghĩ rằng đám bụi khổng lồ đó sinh ra do một đàn bò rừng bizon đang đi tìm nơi cỏ tươi tốt trên thảo nguyên. Nhưng ở một nơi hoang dã, khô cằn như nơi đây thì điều này là không thể xảy ra. Khi khối bụi khổng lồ tiến gần hơn tới con dốc, nơi hai con người bơ vơ đang dừng chân, hình dáng những chiếc xe căng vải bạt, những kỵ sĩ trên lưng ngựa có trang bị vũ khí dần hiện ra trong lớp bụi. Chắc hẳn đây là đoàn người ngựa đang trên đường hành hương tới phương Tây. Nhưng đây quả là một đoàn người ngựa khổng lồ! Khi đầu đoàn người đã tới được chân núi thì phần đuôi của nó vẫn còn ở xa tít tắp cuối chân trời và người ta khó có thể nhận biết được đâu là điểm cuối cùng của đoàn người dài dằng dặc đó. Và lúc này, ngay giữa vùng sa mạc mênh mông, một hàng người ngựa, xe bò, xe thồ, những kỵ sĩ trên lưng ngựa cùng vô số những người đi bộ dài dằng dặng đang giăng hàng ngang. Vô số phụ nữ loạng choạng bước đi dưới sức nặng của những thứ đồ mang trên lưng, những đứa trẻ chập chững bước đi bên những chiếc xe thồ hay ghé mắt nhìn qua cửa sổ những cỗ xe căng bạt trắng. Rõ ràng, đây không phải là một đoàn người di cư bình thường mà có lẽ là những người du cư ở trong cảnh ngộ bị ép buộc phải ra đi tìm kiếm một vùng đất mới để sinh sống. Giữa không gian tĩnh lặng, tiếng bánh xe ngựa lách cách, tiếng bước chân người sầm sập, tiếng ngựa hý vang làm xáo động cả vùng đồng bằng hoang vu. Nhưng dù cho đoàn người có tạo ra tiếng động to đến như thế đi chăng nữa thì nó vẫn không đủ để đánh thức hai người lữ hành mệt mỏi đang dừng chân trên con dốc.

    Dẫn đầu đoàn người là một người đàn ông với gương mặt cứng rắn và dũng cảm hơn cả. Người đàn ông đó khoác trên mình một mảnh vải sợi thô tối màu và mang bên mình súng lục. Khi tiến tới chân con dốc, họ dừng lại và vài người quây lại quanh người đàn ông đó tạo thành một nhóm nhỏ.

    – Các giếng nước ở bên phía tay phải chúng ta, – một người đàn ông với đôi môi dày, không để râu và mái tóc cứng xám màu nói.

    – Ở bên phải Sierra Blanco – vậy là chúng ta sẽ tới được Rio Grande, – một người khác nói.

    – Đừng lo lắng về nước, – người thứ ba nói to. – Đấng tối cao, người có thể tạo ra nước từ những vách đá, chắc chắn sẽ không bỏ rơi chúng ta, những người mà ngài đã lựa chọn đâu.

    – Amen! Amen! – Tất cả cùng đồng thanh nói.

    Họ đang chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình thì một người trẻ tuổi nhất, có đôi mắt tinh anh nhất bỗng kêu lên một tiếng và chỉ tay về phía dốc đá lởm chởm trước mặt họ. Từ trên đỉnh dốc, một tà váy màu hồng nhạt bay phấp phới, nổi bật trên nền đá xám phía sau. Vừa nhìn thấy hình ảnh đó, tất cả nhóm người cùng ghì cương ngựa và cảnh giác đưa tay về phía khẩu súng bên hông. Trong khi đó, những người khác thúc ngựa tiến lại gần người dẫn đầu. Từ – người da đỏ – dường như đã buột ra từ tất cả những đôi môi kia.


    – Không thể có người da đỏ ở đây được, – một người trông có vẻ là người lãnh đạo nói. – Chúng ta đã qua vùng Pawnees rồi và từ đây cho tới khi nào chúng ta vượt qua được dãy núi khổng lồ này, chắc chắn không thể có bộ lạc nào sinh sống được.

    – Tôi sẽ tới đó kiểm tra được không người anh em Stangerson? – một người trong nhóm hỏi.

    – Cả tôi! – – Cả tôi nữa, – khoảng một tá người khác cùng đồng thanh.

    – Hãy để ngựa lại, chúng tôi sẽ đợi các bạn ở đây, – người đàn ông đó trả lời. Một giây sau, những người trẻ tuổi đó đã xuống ngựa, buộc dây cương vào tảng đá và bắt đầu trèo lên con dốc nơi xuất hiện cái hình ảnh kích thích sự tò mò của họ. Họ tiến lên rất nhanh và không hề gây tiếng động với sự tự tin và khéo léo của những tay trinh sát đã được rèn luyện. Những người đứng lại ở phía dưới có thể quan sát họ di chuyển nhẹ nhàng từ tảng đá này tới tảng đá khác cho tới khi hình dáng họ in lên trên nền trời. Người đàn ông trẻ, người đầu tiên để ý tới hình ảnh đó là người dẫn đầu đoàn trinh sát. Bỗng nhiên, những người phía sau thấy anh ta giơ hai tay lên trời như thể quá đỗi ngạc nhiên và như để chia sẻ cảm giác đó cùng anh ta, tất cả những người đi sau cùng thực hiện động tác đó khi họ nhìn thấy cảnh tượng bày ra trước mắt mình.

    -Còn tiếp-
     
    Johanna thích bài này.
  8. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    16. Chương 1: Trên vùng đồng bằng rộng lớn của muối mặn (3)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trên đỉnh con dốc, giữa một khoảng đất trơ trọi có một tảng đá rất lớn đứng cô độc và một người đàn ông cao, râu dài lởm chởm, nét mặt cương nghị nhưng gầy giơ xương đang tựa vào tảng đá đó. Gương mặt bình thản và hơi thở đều đặn của anh ta chứng tỏ anh ta đang ngủ rất sâu. Bên cạnh anh ta là một đứa trẻ, đôi tay trắng trẻo, tròn trịa của cô bé ôm lấy cái cổ gân guốc, cháy nắng anh, mái tóc vàng của cô bé ngả vào khuôn ngực rộng của người đàn ông. Đôi môi hồng xinh xắn của cô bé hé mở để lộ ra hai hàng răng trắng đều và một nụ cười vô tư hiển hiện trên nét mặt thơ trẻ của cô bé. Đôi chân xinh xắn, trắng mũm của cô bé lộ ra trong chiếc váy trắng và đôi giày gọn gàng hoàn toàn đối lập với vẻ bề ngoài nhàu nhĩ, làn da rám nắng, khô khốc và thân hình gầy guộc của người bạn đồng hành của cô. Trên bờ đá đối diện hai con người lạ lùng này là ba con chim ó butêo. Khi nhìn thấy những người mới đến, chúng lập tức rít lên tiếng kêu khàn đục vì thất vọng và vỗ cánh bay đi.

    Tiếng kêu của những con chim đã đánh thức hai người đang ngủ. Họ dụi mắt nhìn quanh mình. Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, nhìn xuống vùng đất bằng phẳng phía dưới, vùng đất mà khi anh ta thiếp vào giấc ngủ vẫn còn hết sức hoang vắng, không một bóng người, không một sinh vật sống, giờ đây đã giăng một hàng dài toàn người, xe và ngựa. Gương mặt anh ta ánh lên vẻ hoài nghi khi nhìn thấy cảnh tượng đó. Anh đưa tay lên dụi mắt một lần nữa rồi lẩm bẩm: – Mình chắc đây chỉ là một giấc mơ. – Đứa trẻ đã đứng bên cạnh anh, nắm chặt lấy đuôi áo anh và không nói gì cả nhưng nhìn quanh với đôi mắt ngạc nhiên, dò hỏi rất con trẻ.

    Nhóm người vừa tới nhanh chóng thuyết phục được hai người lang thang rằng sự xuất hiện của họ không phải là ảo giác. Một trong số những người đó ôm lấy cô bé và đặt cô lên vai anh ta trong khi đó hai người khác dìu người bạn đồng hành gầy guộc, hốc hác của cô đi về phía đoàn người ngựa.

    – Tên tôi là John Ferrier, – người đàn ông giải thích, – trong đoàn gồm có hai mươi người, tôi và cô bé kia là hai người duy nhất còn sống sót. Những người còn lại đã chết vì đói và khát từ khi còn ở phía nam.

    – Cô bé là con anh phải không? – Ai đó hỏi.

    – Bây giờ thì đúng là như vậy, – người đàn ông trả lời đầy vẻ thách thức, – cô bé là con tôi bởi vì tôi đã cứu nó. Không ai có thể lấy nó khỏi tôi được. Từ hôm nay trở đi, con bé sẽ tên là Lucy Ferrier. Các anh là ai? – Anh tiếp tục, đôi mắt liếc nhìn những người to cao, vạm vỡ, da cháy nắng vừa tới giải cứu mình với vẻ tò mò. – Hình như các anh đi theo đoàn rất đông.

    – Khoảng chín hay mười nghìn người, – một trong số những người trẻ tuổi nói. – Chúng tôi là những đứa con bị Chúa hắt hủi và là những đứa con được thiên thần Moroni lựa chọn.

    – Tôi chưa bao giờ được nghe nói về thiên thần Moroni, – người lữ hành nói. – Có vẻ như ông ấy chọn nhiều người quá nhỉ.

    – Đừng chế giễu những điều linh thiêng, thần thánh, – người kia nói một cách nghiêm nghị. – Chúng tôi là một trong số những người tin vào những điều linh thiêng viết trong những bức thư cổ Hy lạp được đặt trên chiếc đĩa thánh bằng vàng và dâng lên cho thần Joseph Smith ở đền Palmyra. Chúng tôi đến từ Nauvoo ở bang Illinois, nơi chúng tôi đã lập ra một đền thờ. Nhưng chúng tôi phải ra đi tìm kiếm một nơi trú ẩn mới để tránh xa khỏi những kẻ bạo lực và những kẻ vô thần, dù cho đó là giữa vùng sa mạc hoang vu này.

    Cái tên Nauvoo rõ ràng là đã gợi nhớ lại những hồi ức cho John Ferrier. Anh nói: – Tôi biết, các anh là người Mormons. – (Người Mormon là những người có thể lấy nhiều vợ – ND).

    – Phải, chúng tôi là người Mormon, – những người khác đồng thanh trả lời.

    – Vậy các anh đang định đi đâu?

    – Chúng tôi cũng chưa biết. Đấng tối cao sẽ dẫn đường cho chúng tôi thông qua một nhà tiên tri. Anh phải đến gặp ông ấy và ông ấy sẽ nói chúng tôi sẽ phải làm gì với các anh..

    Lúc đó, họ đã xuống tới chân dốc và một đám đông những người hành hương đang vây quanh họ. Đó là những người phụ nữ với gương mặt xanh xao, trông có vẻ nhu mì, những đứa trẻ mạnh khoẻ, cười đùa, và những người đàn ông với cái nhìn nghiêm nghị. Rất nhiều người đã thốt lên ngạc nhiên cũng như thương xót khi nhìn thấy hai người lạ mặt, một cô bé quá non nớt và một người đàn ông tiều tuỵ. Tuy nhiên, đám đông vẫn tiếp tục đi mà không dừng lại, đằng sau thu hút ngày càng đông những người Mormon cho tới khi họ tới chỗ một cỗ xe ngựa. Đó là một cỗ xe ngựa hết sức nổi bật bởi sự đồ sộ, dáng vẻ cầu kỳ nhưng cũng hết sức thanh nhã của nó. Sáu con ngựa to khoẻ được đóng vào cỗ xe đó trong khi những cỗ xe khác chỉ có hai hay nhiều lắm là bốn con. Bên cạnh người đánh xe ngựa là một người đàn ông, trông không quá ba mươi tuổi nhưng cái đầu to và vẻ bề ngoài quyết đoán của ông ta cho thấy đây chính là người đứng đầu đoàn người hành hương. Ông ta đang đọc một cuốn sách đóng gáy nâu nhưng khi đám đông tiến tới gần, ông đặt cuốn sách sang một bên và lắng nghe một cách chăm chú toàn bộ sự việc. Sau đó ông ta quay lại phía hai người lang thang. Ông ta nghiêm trang nói:

    – Chúng tôi chỉ có thể đưa các bạn đi cùng chúng tôi với một điều kiện duy nhất là các bạn cũng phải tin tưởng vào tín ngưỡng của chúng tôi. Chúng tôi không muốn có một con chiên ghẻ nào trong đoàn người của mình. Nếu không thể chấp nhận được điều này thì tốt hơn hết là các bạn ở lại đây, thà làm những mảnh xương trắng trên hoang mạc này còn hơn trở thành con sâu làm rầu nồi canh. Các bạn có chấp nhận điều kiện này không?

    – Tôi sẽ đi với các ngài với bất cứ điều kiện nào, – Ferrier nói với giọng nhấn mạnh đến nỗi những người đứng đầu đoàn người không thể nén nổi một nụ cười. Chỉ riêng người lãnh đạo cao nhất vẫn giữ được vẻ nghiêm nghị, cứng rắn và không biểu cảm của mình. Ông ta nói:

    – Người anh em Stangerson, hãy thu nhận anh ta, cho anh ta ăn uống. Cả đứa trẻ nữa. Anh cũng sẽ có nhiệm vụ dạy anh ta tín ngưỡng thần thánh của chúng ta. Thôi, chúng ta dừng lại đây như thế là quá lâu rồi. Tiến lên! Tiếp tục hướng tới thiên đường.

    – Tiếp tục hướng tới thiên đường! – cả đám đông người Mormon đồng thanh kêu to, tiếng kêu đó lan dần xuống đoàn người đằng sau, truyền từ miệng người này sang miệng người khác cho tới khi chúng mờ dần thành những tiếng rầm rì ở tít phía cuối chân trời.

    Tiếng vút của roi da và tiếng lách cách của những cỗ xe ngựa bắt đầu khởi hành nhà chẳng mấy chốc, đoàn người ngựa lại chầm chậm tiến về phía trước. Người được giao nhiệm vụ chăm lo cho hai kẻ lang thang vừa gia nhập đã đưa họ tới xe của mình, nơi một bữa ăn đầy đủ đang đợi họ. Ông ta nói:

    – Anh sẽ ở lại đây. Vài ngày nữa anh sẽ lại sức. Trong thời gian đó, hãy nhớ rằng từ giờ trở đi, anh đã là một người theo tín ngưỡng của chúng tôi. Brigham Young đã truyền đạt điều đó và ông ấy đã truyền đạt lại lời của Joseph Smith, đó là lời của Chúa trời.
     
    Johanna thích bài này.
  9. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    17. Chương 2: Đóa hoa của vùng Utah (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây không phải là lúc để hồi tưởng lại những khó khăn thử thách, những thiếu thốn mà những người di cư Mormon phải chịu đựng trước khi họ tới được thiên đường cuối cùng của mình. Từ bờ sông Mississippi cho tới những dốc núi miền Tây của vùng Rocky Mountáin, họ luôn luôn phải đấu tranh với một sự kiên trì không gì sánh nổi. Những kẻ thù nghịch, thú dữ, đói khát, mệt mỏi đến kiệt sức và bệnh tật – tất cả những khó khăn, trở ngại mà thiên nhiên có thể tạo ra trên đường đi, những người Anglo Saxon ngoan cường này đều đã vượt qua được. Tuy vậy, cuộc hành trình dài dằng dặc cùng với những nỗi kinh hoàng nối tiếp kinh hoàng ngày một nhân lên khiến cho những người dũng cảm nhất trong số họ cũng phải nản lòng. Vì vậy, khi họ nhìn thấy những thung lũng rộng lớn của vùng Utah trải dài dưới ánh mặt trời hiện ra trước mặt cũng như khi họ nghe được lời nói tối cao từ người lãnh đạo của mình rằng đây chính là vùng đất hứa, rằng những đồng cỏ nguyên sơ trải rộng dưới kia chính là điểm đến cuối cùng và mãi mãi của họ thì không một ai không quỳ sụp xuống đất và thốt lên những lời cầu nguyện, tạ ơn thành tâm nhất từ đáy lòng mình.

    Young đã nhanh chóng chứng tỏ mình là một nhà tổ chức có kỹ năng cũng như một nhà lãnh đạo quyết đoán. Ngay lập tức, ông ta cho vẽ bản đồ, dựng mô hình và một thành phố trong tương lai chẳng mấy chốc đã được phác thảo. Những vùng đất xung quanh được chia lô và phân cho từng người. Những nhà lái thương bắt đầu vận hành công việc buôn bán, thợ thủ công cũng bắt đầu vào việc. Đường xá và các khu phố cũng dần hiện lên, nhanh như một phép màu. Ở vùng nông thôn, người ta làm đường ống dẫn nước, rào vườn tược, trồng cấy, phát quang và mùa hè năm sau, khắp vùng đã nhuộm một màu vàng óng của những cánh đồng lúa mì đến vụ gặp. Mọi việc đều diễn ra suôn sẻ đến lạ lùng. Cuối cùng, một đền thờ lớn được dựng lên giữa trung tâm thành phố, ngày càng cao hơn và vĩ đại hơn. Từ khi ánh bình minh đầu tiên báo hiệu một ngày mới cho tới khi tia sáng cuối cùng của buổi hoàng hôn báo hiệu đêm về, tiếng búa gõ, tiếng xẻ gỗ không bao giờ dứt ở nơi mà những người di cư đang dựng lên một điện thờ cho đấng tối cao, người đã dẫn dắt họ an toàn vượt qua bao thử thách và hiểm nguy.

    Hai người lữ khách lang thang, John Ferrier và cô gái nhỏ, người đã cùng sẻ chia vận may cùng ông và giờ đây đã trở thành con gái ông, cũng cùng với những người Mormon vượt qua gian khó để đi tới tận cùng của cuộc hành hương vĩ đại của họ. Cô bé Lucy Ferrier khá vui vẻ khi ở trong cỗ xe ngựa của Stangerson cùng với ba bà vợ và cậu con trai cứng đầu mười hai tuổi của ông ta. Với sự bốc đồng và dễ quên của con trẻ, cô bé đã vượt qua được cơn sốc sau cái chết của người mẹ và nhanh chóng làm quen với những người phụ nữ đồng thời hòa nhập với cuộc sống mới của cô trong ngôi nhà di động có mái che này. Trong khi đó, Ferrier đã hồi phục lại sau những khó khăn phải trải qua. Giờ đây, ông đã chứng tỏ mình là một người dẫn đường hữu dụng và một thợ săn không biết mệt mỏi. Ông nhanh chóng nhận được sự kính mến và quý trọng của những người bạn đồng hành mới đến nỗi khi tới đích của cuộc hành trình này, tất cả đều nhất trí rằng ông xứng đáng được nhận một phần đất rộng lớn và màu mỡ giống như bất cứ ai trong đoàn người hành hương này ngoại trừ Young, Stangerson, Kemball, Johnston và Drebber, nhà lãnh đạo cao nhất và bốn người đứng đầu chủ chốt.

    Và thế là trên mảnh đất được phân chia, John Ferrier đã xây dựng cho mình một ngôi nhà lớn, và sau nhiều năm làm ăn thành công, ngôi nhà đó đã biến thành một biệt thự rộng rãi. Ông là một người có đầu óc thực tế, quyết đoán trong hành động và có tay nghề thành thạo. Cơ thể rắn chắc, dẻo dai như sắt như đồng cho phép ông làm việc từ sáng tới tối để khai thác và cày bừa trên đất đai của mình. Vì thế, tiếng tăm về trang trại của ông ngày một lan xa và tất cả những gì thuộc về ông ngày một phát triển thịnh vượng. Trong ba năm, ông đã vượt xa những người hàng xóm của mình, sau sáu năm ông đủ ăn đủ mặc, sau chín năm, ông trở nên giàu có và sau mười hai năm, khắp thành phố Salt Lake, chưa có đến nửa tá người có thể sánh được với ông. Từ hải đảo rộng lớn giữa biển khơi cho tới vùng núi Wasatch xa xôi, không có cái tên nào nổi tiếng hơn cái tên của John Ferrier.

    Nhưng chỉ có một điều ông khiến cho những người đồng đạo của mình phải phật lòng. Đó là không ai có thể thuyết phục được ông lập gia đình. Ông không bao giờ đưa ra lý do cho sự từ chối hết sức cương quyết của mình mà chỉ thể hiện sự cứng rắn, kiên định trong quyết định của mình. Có một số người quy kết cho ông là thờ ơ đối với tôn giáo mà ông đã chấp nhận, số còn lại cho rằng vì ông quá tham lam, không muốn phải chia sẻ sự giàu có và tài sản của mình cho một người khác. Cũng có những người tưởng tượng rằng ông đã từng có một cuộc tình trước đó với một cô gái tóc vàng, người đã bỏ ông đi trên bờ biển Đại Tây Dương. Nhưng dù người ta có đồn đại lý do là gì đi chăng nữa thì Ferrier vẫn nhất quyết sống độc thân. Ngoài việc này ra, ông luôn tuân theo mọi văn hóa của tín ngưỡng mới và được coi là một con chiên mẫu mực.

    Lucy Ferrier lớn lên trong ngôi nhà lớn và giúp đỡ cha nuôi trong công việc kinh doanh của ông. Không khí khắc nghiệt vùng núi và hương thơm của nhựa thông vừa là thuốc thang, vừa là người mẹ nuôi nấng cô gái trẻ. Năm tháng qua đi, cô lớn hơn lên, mạnh khoẻ hơn, gò má cô đỏ hồng và những bước chân của cô uyển chuyển hơn. Rất nhiều khách du lịch đi qua con đường vắt ngang trang trại của nhà Ferrier đều khó có thể quên được cảm giác sống động trong lòng mình khi nhìn thấy dáng vẻ yểu điệu, thướt tha, mềm mại, xinh xắn của cô thiếu nữ đang bước đi giữa cánh đồng lúa mạch, hay gặp cô trèo lên lưng con ngựa của cha mình và điều khiển nó một cách thuần thục như một đứa trẻ miền Tây đích thực. Năm tháng qua, nụ hoa đã hé nở thành một bông hoa rực rỡ, và vào những năm trang trại của cha cô trở thành trang trại giàu có nhất, thịnh vượng nhất vùng thì cô cũng trở thành một cô gái xinh đẹp nhất vùng.

    Tuy nhiên, người cha không phải là người đầu tiên nhận ra con gái mình đã trở thành một người phụ nữ. Những thay đổi bí ẩn đó quá mơ hồ và tinh vi, nó biến đổi từng chút một qua thời gian và được đo đếm bằng từng ngày. Vì vậy, trong những trường hợp như thế này, hiếm khi người cha có thể nhận ra những biến đổi đó. Ngay chính bản thân cô thiếu nữ cũng khó có thể nhận ra được điều đó cho tới khi một giọng nói, một âm thanh chạm tới cô, làm trái tim cô run rẩy, khi đó, với một cảm xúc tự hào xen lẫn lo ngại, cô mới nhận ra rằng một bản thể mới, lớn hơn đang trỗi dậy trong cô. Cũng rất hiếm người có thể nhớ được cái ngày hôm đó và nhớ được cái sự kiện nho nhỏ xảy đến báo trước bình minh của một cuộc đời mới. Nhưng trong trường hợp cả Lucy Ferrier, ngay bản chính bản thân sự kiện đó đã đủ quan trọng để cô phải nhớ tới nó chứ chưa nói tới những tác động trong tương lai của nó tới vận mệnh của cả cuộc đời cô và của cả rất nhiều những người khác xung quanh cô.

    Hôm đó là một buổi sáng tháng sáu ấm áp, một ngày bận rộn của những chú ong xây tổ. Trên những cánh đồng cũng như trên đường phố, từng nhóm người đang chăm chỉ làm việc. Dưới con đường bụi bặm, từng hàng dài những con la chất nặng hàng hóa đang trên đường hướng về phương tây vì dịch sốt vàng da đang bùng nổ ở California và con đường bộ tới phương tây nằm ngang qua thành phố này. Ngoài ra còn có những đàn cừu, đàn bò đông đúc trên đường trở về từ những đồng cỏ ngoài thành phố và những đoàn người di cư kiệt sức, những người đàn ông cùng những con ngựa cùng mệt mỏi như nhau sau một cuộc hành trình dài vô tận. Giữa tập hợp hỗn độn đó, Lucy Ferrier đang điều khiển ngựa phi nước kiệu một cách khéo léo như bất kỳ một kỵ sĩ điêu luyện nào. Khuôn mặt xinh xắn của cô ửng đỏ vì nỗ lực, bím tóc dài bay bay sau lưng. Cô được cha giao một nhiệm vụ và như nhiều lần trước, cô vui vẻ đảm nhận nhiệm vụ đó với tất cả lòng hăng hái của tuổi trẻ, chỉ chú tâm nghĩ về công việc của mình và làm thế nào để thực hiện được công việc đó. Những người khách lữ hành, trên mình còn nhuốm bụi đường, nhìn theo cô sững sờ, ngay cả những người Ấn Độ vốn được coi là lãnh đạm với phụ nữ cũng nuông chiều mình, buông lỏng chủ nghĩa khắc kỷ mà họ vẫn ép mình tuân theo và ngắm nhìn khuôn mặt xinh đẹp của cô thiếu nữ.

    -Còn tiếp-​
     
  10. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    18. Chương 2: Đóa hoa của vùng Utah (2)



    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vừa ra tới rìa thành phố thì cô gái nhận thấy con đường bị tắc lại bởi một đoàn gia sức khổng lồ được điều khiển bởi khoảng nửa tá những người chăn gia súc đang trên đường trở về từ đồng cỏ. Cô gái nóng lòng cố gắng vượt qua trở ngại này bằng cách thúc ngựa đi vào bất cứ chỗ nào cô thấy có khoảng trống. Nhưng cô hầu như không thể tiến lên thêm được chút nào, và chẳng mấy chốc, những con vật càng xiết chặt hơn sau lưng cô khiến cho cô hoàn toàn bị vây giữa những con bò với đôi mắt dữ tợn và cái sừng dài, nhọn. Vì đã quen với những gia súc trong trang trại của cha mình, cô không hề lo lắng về tình huống mình đang gặp phải. Dù vậy, cô vẫn không thể thúc ngựa tiến lên với hy vọng mở được một con đường vượt qua đám đông những con vật đang vây quanh mình. Thật không may, không biết là do vô tình hay cố ý, một con bò đực húc mạnh sừng mình vào sườn con ngựa cô gái đang cưỡi và làm cho nó nổi điên lên. Ngay lập tức, nó dựng đứng hai chân trước và chồm lên trong cơn thịnh nộ. Nếu không phải là một kỵ sĩ lão luyện và can trường thì chắc chắn với cú chồm người dựng đứng lên của con ngựa, bất cứ ai ngồi sau yên ngựa cũng sẽ bị hất thẳng xuống đất. Tình thế đúng là ngàn cân treo sợi tóc. Nhưng mọi cử động của con ngựa đang bị kích động đều khiến cho nó bị đâm mạnh hơn vào sừng những con bò và càng kích thích hơn nữa cơn điên của con ngựa hoang dã. Tất cả những gì cô gái có thể làm là giữ cho mình còn ngồi lại được trên yên ngựa vì chỉ cần trượt đi một chút thôi cũng có nghĩa là cô sẽ bị hất xuống đất và chết dưới hàng ngàn móng guốc của những con vật hoang dã. Vì không quen với những tình huống nguy hiểm như thế này, tâm trí cô bắt đầu luống cuống và nắm tay cầm dây cương bắt đầu lỏng dần. Chán nản, tuyệt vọng khi nhìn thấy đám bụi mù mịt bay bốc lên vì những con vật điên cuồng, cô suýt nữa đã từ bỏ mọi nỗ lực trong tuyệt vọng nếu như không nghe thấy một giọng nói nhẹ nhàng vang lên bên cạnh. Cô biết rằng mình đã được giúp đỡ. Cùng lúc đó, một bàn tay rám nắng, gân guốc tóm lấy dây cằm con ngựa đang hết sức hoảng sợ và dẫn nó ra khỏi vòng vây của đàn gia súc đồng thời nhanh chóng đưa cô ra tới vùng ngoại ô.

    – Tôi hy vọng là cô không bị thương, thưa cô, – người vừa cứu cô nói một cách lịch sự.

    Cô nhìn lên gương mặt rắn rỏi, rám nắng của anh và mỉm cười vui vẻ. Cô ngây thơ nói:

    – Tôi sợ kinh khủng. Ai mà biết được rằng Poncho lại sợ đàn bò này đến thế.

    – Ơn Chúa vì cô đã giữ được mình ngồi yên trên ngựa, – người đàn ông nói với vẻ sốt sắng, tha thiết.

    Đó là một chàng trai trẻ, cao, có vẻ ngoài hoang dã, cưỡi trên lưng một con ngựa lang to khoẻ và mặc một bộ đồ thô của những người thợ săn, một khẩu súng trường dài khoác trên vai. Anh nói:

    – Tôi đoán cô là con gái của ngài John Ferrier. Tôi nhìn thấy cô cưỡi ngựa đi ra từ nhà ông ấy. Khi nào gặp lại ông ấy, nhờ cô hỏi xem ông ấy có còn nhớ Jefferson Hopes ở St. Louis không nhé. Nếu như ông ấy đúng là ngài Ferrier đó thì cha tôi và ông ấy trước đây rất thân với nhau đấy.

    – Anh tự mình đến và hỏi không tốt hơn sao? – cô gái e dè hỏi.

    Chàng trai trẻ có vẻ sung sướng với lời gợi ý vừa rồi, đôi mắt sẫm màu của anh ánh lên vẻ hài lòng. Anh nói: – Tôi sẽ làm như vậy. Chúng tôi đã tới vùng này được hai tháng rồi mà chưa có cơ hội đi thăm ai cả.

    – Cha tôi chắc chắn sẽ rất biết ơn anh, và tôi cũng vậy, – cô gái đáp lại. – Cha tôi rất yêu tôi. Nếu như những con bò kia giết chết tôi, chắc chắn cha tôi sẽ không thể chịu đựng được đâu.

    – Tôi cũng vậy! – Người thanh niên trả lời.

    – Anh ư? Ồ, tôi không cho rằng điều đó có ảnh hưởng gì đến anh đâu. Anh thậm chí đâu đã phải là bạn của chúng tôi.

    Gương mặt rám nắng của chàng trai trẻ tỏ ra rầu rĩ trước câu nói này của Lucy đến nỗi cô phải bật cười.

    – Thôi nào, tôi không hề có ý đó đâu, – cô nói. – Tất nhiên, giờ đây anh đã là một người bạn rồi. Anh phải đến chơi với chúng tôi đấy nhé. Còn bây giờ tôi phải đi ngay đây nếu không cha tôi sẽ không bao giờ còn tin tưởng mà giao việc cho tôi nữa đâu. Tạm biệt.

    – Tạm biệt, – chàng trai trả lời, nâng chiếc mũ rộng vành lên chào và cúi mình xuống bàn tay xinh xắn của cô. Cô gái điều khiển ngựa quay người lại, thúc ngựa và lao vào con đường rộng rãi, khuất dần trong đám bụi mịt mù.

    Young Jefferson Hope thúc ngựa lại chỗ những người bạn đồng hành của mình với gương mặt trầm tư. Anh và bạn bè mình đã ở vùng núi Nevada Mountain với hy vọng tìm được mỏ bạc và đang trở về Salt Lake City với hy vọng gia tăng số tiền đang có để khai thác được những mỏ bạc mà họ đã phát hiện được. Anh cũng tha thiết với công việc này như bất kỳ ai trong bọn họ cho tới khi sự kiện bất ngờ này xảy ra khiến cho những suy nghĩ của anh đột ngột xoay theo một chiều hướng khác. Khi nhìn thấy cô thiếu nữ trẻ tuổi, xinh đẹp, chân thật, trong trẻo và ngây thơ như cơn gió vùng Sierra, ngọn lửa mãnh liệt vốn chìm sâu trong tim anh giờ được thổi bùng lên. Khi nhìn thấy cô biến mất trước mắt mình, anh nhận ra rằng cuộc đời mình đã diễn ra một bước ngoặt mới và rằng những cuộc săn tìm vàng bạc hay bất kỳ điều gì khác cũng không bao giờ có thể quan trọng bằng việc này. Tình yêu vừa mới nảy nở trong lòng anh không phải là tình yêu bồng bột của một cậu bé mới lớn mà là một niềm đam mê mãnh liệt, hoang dã của một chàng trai có ý chí mạnh mẽ và tính tình quyết đoán. Anh đã quen với việc phải thành công trong bất kỳ điều gì anh muốn. Anh thề với lòng mình rằng lần này anh cũng sẽ không thất bại và sự bền chí sẽ đem lại cho anh thành công.

    Ngay tối hôm đó, anh đã đến thăm nhà John Ferrier và nhiều lần sau đó nữa cho tới khi anh đã quá quen mặt ở ngôi nhà này. Trong suốt mười hai năm qua John chỉ giam mình trong thung lũng, tập trung tuyệt đối vào công việc của mình nên hầu như không có thời gian để theo dõi tin tức ở thế giới bên ngoài. Jefferson Hope lại có thể kể cho ông tất cả những điều mà ông muốn và theo cái cách khiến cả Lucy và cha cô đều thấy hấp dẫn. Anh là một trong những người tiên phong tới California và có thể kể lại rất nhiều những câu chuyện kỳ lạ về những vận may và những thất bại trong những ngày khởi đầu đó. Anh cũng là một người dũng cảm, một thợ săn, một người khám phá những mỏ bạc và là một chủ trang trại. Bất cứ nơi nào chuẩn bị có những cuộc thám hiểm, Jefferson Hope đều có mặt. Anh nhanh chóng chiếm được cảm tình của vị chủ trang trại già và được ông tâm sự về quá khứ của mình. Trong những lúc như vậy, Lucy chỉ ngồi yên lặng, nhưng đôi gò má ửng hồng và đôi mắt bừng sáng lên niềm hạnh phúc của cô là minh chứng hùng hồn cho thấy trái tim cô không còn thuộc về cô nữa. Người cha trung thực của cô có thể không nhận ra được những biểu hiện đó nhưng chúng không thể thoát khỏi đôi mắt của người đã chiếm được cảm tình của cô.

    Một buổi tối mùa hè, anh cưỡi ngựa tới nhà Ferrier và dừng lại trước cổng. Cô đang đứng ở đó và bước xuống gặp anh. Anh buộc dây cương vào hàng rào và bước lên lối mòn có cô gái đang bước tới.

    – Anh sắp phải đi, Lucy ạ, – anh nói và cầm lấy hai tay cô trong tay mình, tha thiết nhìn vào mặt cô. – Anh sẽ không yêu cầu em đi cùng anh ngay lúc này, nhưng em sẽ sẵn sàng đi cùng anh khi anh quay trở lại chứ?

    – Nhưng khi nào thì anh sẽ quay trở lại? – cô hỏi, đỏ bừng mặt và cười lớn.

    – Chỉ khoảng hai tháng thôi. Anh sẽ trở lại và sẽ gặp em, người yêu của anh. Và khi đó không ai có thể đứng chắn đường chúng ta được nữa.

    – Còn cha em thì sao? – cô hỏi.

    – Cha em sẽ đồng ý miễn là chúng ta có những mỏ bạc hoạt động tốt. Anh tin chắc điều đó.

    – Ồ, tất nhiên, nếu cha và anh đã cùng sắp xếp như vậy rồi thì chẳng còn gì phải nói nữa, – cô thì thầm, má cô áp sát vào khuôn ngực rộng của chàng trai.

    – Ơn Chúa! – Anh khàn giọng nói và cúi xuống hôn cô. – Vậy là mọi việc đã được sắp xếp. Anh ở lại đây lâu thêm bao lâu thì ngày đó càng xa bấy nhiêu. Họ đang đợi anh ở hẻm núi. Tạm biệt em yêu, tạm biệt. Hai tháng nữa, chúng ta sẽ gặp lại nhau.

    Anh gỡ mình khỏi cô khi anh nói và nhảy lên ngựa, phóng đi, không hề nhìn lại như thể sợ rằng nếu anh quay lại một lần nữa để nhìn người con gái anh để lại đằng sau thì quyết tâm của anh sẽ bị lung lay và sụp đổ. Cô gái đứng đó, trước cửa nhà, nhìn theo anh cho tới khi anh hoàn toàn khuất khỏi tầm nhìn của cô. Sau đó, cô quay vào nhà, cảm thấy mình là cô gái hạnh phúc nhất vùng Utah này.
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...