Bài viết: 255 

9. Chương 5: Mẩu quảng cáo của chúng tôi đưa tới một vị khách
Những công việc đòi hỏi sự tập trung suy nghĩ và gắng sức có vẻ hơi nhiều đối với sức khoẻ vẫn còn yếu ớt của tôi vì vậy, đến buổi chiều, tôi cảm thấy kiệt sức. Sau khi Holmes rời nhà đi xem hát, tôi ngả người trên ghế sofa và cố gắng chợp mắt một hai giờ. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Tâm trí tôi đã bị kích thích quá mạnh bởi tất cả những điều đã xảy ra cùng những tưởng tượng và phỏng đoán kỳ cục xung quanh sự việc đó. Cứ khi nào nhắm mắt lại, trước mắt tôi đều hiện ra khuôn mặt méo mó như một con khỉ đầu chó của người đàn ông bị giết. Ấn tượng về hình ảnh đó trong tâm trí tôi kinh hoàng và khủng khiếp đến nỗi tôi thật khó có thể cảm thấy điều gì khác ngoài việc cảm ơn người đã góp phần đẩy chủ nhân của cái đầu khủng khiếp đó ra khỏi thế giới này. Nếu như có những nét nào đó trên khuôn mặt một con người có thể hiển hiện trên đó tất cả sự xấu xa, đồi bại của những kẻ hiểm ác và xảo quyệt nhất thì chắc chắn chúng phải thuộc về người có tên Enoch J. Drebber đến từ Cleveland. Tuy nhiên, tôi vẫn ý thức được rằng công lý cần phải được thực thi và trong con mắt của luật pháp thì sự đồi bại và xấu xa của nạn nhân cũng không thể được coi là cái cớ của việc phạm tội.
Càng nghĩ về điều đó, tôi càng nhận thấy giả thuyết là người đàn ông này đã bị đầu độc của người bạn đồng hành của tôi càng kỳ lạ. Tôi nhớ lại việc anh đã ngửi môi nạn nhân như thế nào và tin chắc rằng hẳn là anh phải phát hiện ra điều gì đó thì ý nghĩ đó mới nảy ra trong đầu anh. Nếu không phải là bị đầu độc thì tại sao người đàn ông đó lại chết bởi vì trên người nạn nhân không hề có thương tích cũng như không hề có dấu hiệu bị bóp cổ. Vậy thì máu của ai đã dây đầy trên sàn nhà? Không hề có dấu hiệu của sự vật lộn, nạn nhân cũng không hề có bất cứ thứ vũ khí nào trên người có thể làm cho địch thủ bị thương. Chừng nào mà những vấn đề này chưa được giải đáp thì tôi còn cảm thấy giấc ngủ là một tiện nghi quá xa xỉ đối với Holmes và cả tôi nữa. Phong thái tự tin và lặng lẽ của anh khiến tôi tin rằng anh đã có được một giả thuyết có thể giải thích được tất cả những sự kiện mà mọi người còn đặt câu hỏi mặc dù giả thuyết đó là gì thì tôi không thể nào đoán được.
Hôm đó, anh trở về rất muộn, đến nỗi tôi tin chắc rằng không phải anh đã giành toàn bộ thời gian đó cho buổi hòa nhạc. Bữa tối đã được chuẩn bị sẵn chờ anh.
– Thật tuyệt vời, – anh nói khi ngồi vào bàn. – Anh có nhớ Darwin đã nói gì về âm nhạc không? Ông ấy nói rằng khả năng sáng tạo và thưởng thức âm nhạc trong loài người đã tồn tại từ rất lâu trước cả khi con người biết tới ngôn ngữ. Có lẽ đó là lý do tại sao âm nhạc luôn tác động tới tất cả chúng ta một cách rất tinh tế và huyền diệu. Trong tâm hồn chúng ta luôn tồn tại những ký ức mơ hồ về những thế kỷ mù sương, khi thế giới này còn ở thuở sơ khai.
– Đó là một ý tưởng khá rộng và bao quát, – tôi nhận xét.
– Ý tưởng của một con người chắc chắn cũng sẽ rộng lớn và bao trùm như tự nhiên nếu như chúng được sử dụng để giải thích về tự nhiên, – anh trả lời. – Có vấn đề gì vậy? Anh trông khác quá. Có phải vụ ở đường Brixton đã khiến anh không được thoải mái không?
– Phải thành thực mà nói là đúng vậy, – tôi trả lời. – Tôi đã từng trải và cứng rắn hơn sau những năm tháng ở Afghanistan. Tôi đã từng chứng kiến những đồng đội của mình bị thương, mất từng phần thân thể ở Maiwand mà không hề run sợ.
– Tôi có thể hiểu được điều này. Trong vụ này, còn có một bí ẩn bao trùm toàn bộ sự việc. Chính nó đã kích thích trí tưởng tượng. Nếu không có sự tưởng tượng, sẽ chẳng bao giờ có nỗi sợ hãi. Anh đã đọc tờ báo buổi tối chưa?
– Chưa.
– Tờ báo đưa khá nhiều tin bài về vụ việc này. Nhưng không bài báo nào đề cập đến việc khi người đàn ông được khiêng đi thì một chiếc nhẫn của phụ nữ rơi xuống. Cũng thật may là chúng không đề cập tới chi tiết này.
– Tại sao?
– Hãy đọc mẩu quảng cáo này xem, – anh trả lời. – Tôi đã gửi một mẩu tin cho tất cả các tờ báo vào buổi sáng hôm nay ngay sau khi chúng ta rời khỏi hiện trường.
Anh ném tờ báo qua bàn cho tôi và ngay lập tức, tôi nhìn vào chỗ anh vừa chỉ. Mẩu tin được đăng đầu tiên trong cột – Tìm thấy – ở mục quảng cáo. Mẩu tin đó như sau: – Sáng nay, trên đường Brixton, tôi có nhặt được một chiếc nhẫn vàng trơn trên phố ở góc giữa đường White Hart Tavern và Holland Grove. Liên hệ: Bác sĩ Watson, số 21B, phố Baker từ tám đến chín giờ tối.
– Thứ lỗi vì tôi đã mượn tên anh, – anh nói. – Nếu tôi đề tên tôi, vài kẻ ngu ngốc sẽ nhận ra và muốn can thiệp vào vụ này.
– Không sao, – tôi trả lời. – Nhưng nếu như có ai đó tới theo mẩu quảng cáo này thì tôi cũng chẳng có chiếc nhẫn nào cả.
– Ồ, có, anh có chứ, – anh nói và trao cho tôi một chiếc nhẫn. – Chiếc nhẫn này khá ổn đấy. Nó gần như một bản sao của chiếc nhẫn thật.
– Vậy anh nghĩ là ai sẽ đáp lại mẩu quảng cáo này?
– Ai ư? Người đàn ông mặc chiếc áo choàng màu nâu – anh bạn mặt đỏ với những ngón chân vuông của chúng ta. Nếu như không phải chính hắn ta đến thì chắc chắn hắn ta sẽ phái một đồng bọn đến.
– Hắn ta sẽ không nghĩ rằng việc đó quá nguy hiểm sao?
– Không hề. Nếu những nhìn nhận của tôi về vấn đề này là đúng, và tôi có đầy đủ lý do để tin rằng nhìn nhận của tôi đúng, thì người đàn ông này có thể chấp nhận bất kỳ nguy hiểm nào ngoại trừ việc mất chiếc nhẫn. Theo như tôi nghĩ, hắn ta đã làm rơi chiếc nhẫn khi cúi xuống bên xác Drebber. Ngay lúc đó, hắn ta đã không biết điều đó. Nhưng sau khi rời khỏi ngôi nhà, hắn ta đã phát hiện ra bị mất chiếc nhẫn và vội vàng quay trở lại nhưng cảnh sát đã xuất hiện ở đó bởi việc làm ngu ngốc của hắn là để lại ngọn nến còn cháy trong phòng. Hắn ta đành phải giả vờ là kẻ đang say khướt nhằm dập tắt sự nghi ngờ của cảnh sát về việc hắn đột nhiên xuất hiện ở ngay cánh cổng ngôi nhà vừa xảy ra án mạng. Bây giờ, hãy thử đặt mình vào vị trí của người đàn ông đó. Hãy suy nghĩ thật kỹ toàn bộ vấn đề. Hoàn toàn có khả năng hắn sẽ nghĩ rằng có thể mình đánh rơi chiếc nhẫn ở trên đường, sau khi rời khỏi ngôi nhà, chứ không phải là ở hiện trường. Vậy thì hắn ta sẽ làm gì sau đó? Hắn ta sẽ vội vã tìm trong mục quảng cáo trên các tờ báo buổi tối với hy vọng có thể tìm thấy vật mà hắn cần giữa những vật người ta tìm thấy và rao trên báo. Và tất nhiên, mắt hắn sẽ không thể bỏ qua được mẩu tin này. Hắn ta sẽ quá sung sướng. Tại sao hắn ta lại phải lo lắng về một cái bẫy nhỉ? Sẽ chẳng có lý do gì khiến hắn có thể nghi ngờ rằng việc tìm thấy chiếc nhẫn sẽ có mối liên quan tới vụ giết người. Hắn ta sẽ đến. Hắn ta sẽ đến. Trong vòng một giờ nữa, chúng ta sẽ gặp hắn.
– Và sau đó thì sao? – tôi hỏi.
– Ồ, sau đó anh có thể để mặc tôi đối phó với hắn ta. Anh có vũ khí gì không?
– Tôi vẫn còn khẩu súng từ khi phục vụ trong quân đội và vài băng đạn.
– Anh nên lau chùi lại nó và nạp đạn đi. Hắn ta có thể là một gã hết sức liều lĩnh. Và mặc dù tôi sẽ cố gắng để hắn không nghi ngờ gì nhưng tốt hơn hết là chúng ta vẫn nên chuẩn bị tinh thần cho mọi trường hợp.
Tôi về phòng mình và tuân theo lời khuyên của anh. Khi tôi trở lại với khẩu súng lục, bàn ăn đã được dọn sạch và Holmes đang chú tâm vào công việc ưa thích của mình là dạo một bản nhạc với cây đàn violon của mình. Khi tôi bước vào anh nói:
– Các tình tiết đã dần khít lại. Tôi vừa mới nhận được câu trả lời cho bức điện tôi mới gửi tới Mỹ. Nhận định của tôi về vụ này hoàn toàn đúng.
– Và đó là.. – tôi vội vã hỏi.
– Cây đàn của tôi cần phải thay dây mới rồi, – anh nói. – Hãy cất súng của anh vào túi đi. Khi nào gã đó đến, hãy nói chuyện với hắn ta một cách bình thường. Phần còn lại cứ để tôi. Đừng nhìn vào hắn chằm chằm khiến cho hắn hoảng sợ.
– Giờ đã là tám giờ rồi, – tôi nhìn vào đồng hồ và nói.
– Phải. Có lẽ hắn ta sẽ tới đây trong vài phút nữa thôi. Mở hé cửa ra. Thế. Giờ hãy tra chìa khóa vào phía bên trong. Cám ơn anh! Đây là cuốn sách cũ rất lạ mà hôm qua tôi vừa mới mua được ở hiệu sách – De Jure inter Gentes – được xuất bản bằng tiếng La tinh ở Liége, Hà Lan và năm 1642. Cái đầu của Charles vẫn yên vị trên vai ông ta trong khi cuốn sách này đã bị xóa sổ.
– Của nhà xuất bản nào vậy?
– Philippe de Croy. Chẳng biết là ai nữa. Trên trang giấy trắng đầu cuốn sách có một dòng chữ viết bằng mực nhưng đã khá mờ "Ex libris Guliolmi Whyte". Tôi tự hỏi không biết William Whyte là ai. Có lẽ là một luật sư thực dụng nào đó ở thế kỷ mười bảy. A, tôi nghĩ là vị khách của chúng ta đến rồi đấy.
Anh nói khi vừa nghe thấy tiếng chuông cửa vang lên. Sherlock Holmes nhẹ nhàng bật dậy và dịch cái ghế của anh quay lại theo hướng cửa ra vào. Chúng tôi nghe thấy tiếng chân người phục vụ đi qua sảnh và tiếng khóa lách cách khi bà mở cửa.
– Bác sĩ Watson sống ở đây phải không? – một giọng nói rõ ràng nhưng hơi khàn khàn cất lên. Chúng tôi không nghe thấy tiếng người phục vụ trả lời nhưng cửa đóng lại và ai đó bắt đầu leo lên cầu thang. Tiếng bước chân có vẻ không chắc chắn và khá ngập ngừng, run rẩy. Một thoáng ngạc nhiên lướt trên gương mặt Holmes khi anh nghe thấy tiếng chân đó. Tiếng chân chậm rãi đi trên hành lang và một tiếng gõ yếu ớt vang lên ngoài cửa phòng chúng tôi.
– Xin mời vào, – tôi nói.
Vừa dứt lời, thay vì một người đàn ông mạnh khoẻ như chúng tôi chờ đợi, một người phụ nữ rất già nua, da nhăn nheo tập tễnh bước vào căn phòng. Dường như bà ta hơi bị chói mắt vì ánh sáng tràn ngập trong căn phòng bất ngờ ập vào mắt. Sau khi cúi chào, bà ta đứng đó, hấp háy nhìn chúng tôi bằng con mắt mờ đục, tay sờ soạng trong túi một cách căng thẳng, những ngón tay run rẩy. Tôi đưa mắt nhìn Holmes. Gương mặt anh lộ rõ một vẻ thất vọng đến nỗi cố gắng lắm tôi mới giữ được nét mặt bình thường.
Bà già rút ra một tờ báo và chỉ vào mục quảng cáo. – Đây chính là thứ đã đưa tôi đến đây thưa các quý ngài tốt bụng, – bà ta nói và lại cúi chào một lần nữa, – chiếc nhẫn cưới vàng trơn trên đường Brixton. Đó là chiếc nhẫn của con gái tôi Sally. Nó kết hôn cách đây mười hai tháng và chồng nó là một bồi bàn trên tàu viễn dương. Tôi thật không dám nghĩ con rể tôi sẽ nói gì nếu khi quay trở về mà không thấy chiếc nhẫn cưới trên tay con gái tôi. Nó là kẻ cục cằn, thô lỗ nhất là khi rượu vào. Nếu các ngài muốn biết thì đêm qua, nó đã đi xem hát với..
– Có phải chiếc nhẫn này là của cô ấy không? – tôi hỏi.
– Ôi, tạ ơn Chúa! – bà già kêu lên. – Sally chắc hẳn sẽ là người phụ nữ cảm thấy sung sướng nhất tối nay. Đúng là chiếc nhẫn đó rồi.
– Và địa chỉ của bà là? – tôi hỏi và cầm lấy chiếc bút chì trên bàn.
– Số 13 phố Duncan, Houndsditch. Cách đây rất xa.
– Nhưng đường Brixton không nằm giữa Houndsditch và bất cứ rạp hát nào, – Sherlock Holmes tinh ranh nói.
Bà già quay ngoắt lại và nhìn xăm xoi vào Holmes với đôi mắt ti hí, viền mắt đỏ lựng. – Quý ngài đây hỏi địa chỉ của tôi. – Bà ta nói. – Còn Sally ở số 3, Mayfield Place, Peckham.
– Và tên bà là gì?
– Tên tôi là Sawyer, tên của nó là Dennis kể từ khi nó kết hôn với Tom Dennis – một chàng trai thông minh, sạch sẽ, bóng bẩy khi ở trên tàu, một bồi bàn tuyệt vời. Nhưng khi lên bờ, với đàn bà và với những chai rượu..
– Nhẫn của bà đây bà Sawyer, – tôi ngắt lời khi nhận được tín hiệu đồng tình từ Holmes. – Rõ ràng nó là của con gái bà, và tôi cảm thấy rất vui khi trả được nó về cho đúng chủ nhân của mình.
Sau khi lẩm bẩm vài lời cầu nguyện và cảm ơn chúng tôi, bà già nhét chiếc nhẫn vào túi và rồi lê bước xuống cầu thang. Ngay khi bà ta vừa ra khỏi cửa, Sherlock Holmes lập tức bật dậy. Hai phút sau, anh đã quay trở lại, trên người là chiếc áo choàng và đã kịp thắt caravat. – Tôi sẽ bám theo bà ta, – anh nói và vội vã ra đi. – Bà ta chắc chắn là một đồng bọn và sẽ dẫn tôi tới chỗ hắn ta. Đợi tôi nhé. – Cánh cửa dưới nhà vừa đóng lại thì Sherlock Holmes cũng bắt đầu bước xuống cầu thang. Nhìn qua khung cửa sổ, tôi thấy bà già run rẩy đi dọc theo một bên phố còn Holmes đi cách bà ta một đoạn không đổi và bám theo. – Hoặc là toàn bộ giả thuyết của anh ấy là sai lầm, nếu không thì anh ấy sắp khám phá được chân tướng sự việc rồi, – tôi nghĩ thầm.
Thực ra Holmes không cần nhắc tôi phải thức đợi anh bởi vì tôi cảm thấy mình sẽ chưa thể ngủ được chừng nào chưa được biết về kết quả chuyến đi của anh.
Lúc anh rời khỏi nhà đã là gần chín giờ tối. Tôi không biết anh đã ra ngoài hết bao lâu nhưng tôi đăm đăm với cái tẩu thuốc trên môi và đọc lướt qua từng trang cuốn Cuộc sống của người Bô hê miêng của tác giả Henri Murger. Hơn mười giờ, tôi nghe thấy tiếng chân người hầu gái hướng tới buồng ngủ. Mười một giờ, tiếng bước chân của bà chủ nhà cũng vang lên trên hành lang ngoài phòng tôi để về phòng. Gần mười hai giờ, tôi mới nghe thấy tiếng Holmes mở chốt cửa. Ngay khi anh vừa bước vào phòng, nhìn vẻ mặt anh, tôi đã biết anh không thành công. Buồn cười và thất vọng, chán nản dường như đang đấu tranh để được làm chủ và rồi cuối cùng anh bật lên một tràng cười ngặt nghẽo.
– Tôi sẽ không bao giờ để cho những thanh tra của sở cảnh sát Scotland Yard biết được chuyện này đâu, – anh kêu lên và buông mình xuống ghế. – Tôi đã chế giễu và bỡn cợt họ quá nhiều đến nỗi họ sẽ không bao giờ từ bỏ cơ hội này để thêm mắm thêm muối bôi nhọ tôi. Tôi có thể cười bởi vì tôi biết rằng tôi sẽ còn sát cánh cùng họ trong một thời gian dài nữa.
– Vậy đã xảy ra chuyện gì?
– Ồ, tôi cũng không ngại kể lại chuyện chẳng mấy hay ho cho tôi đâu. Cái bà già đó đi bộ được một quãng thì bắt đầu khập khiễng và chắc hẳn đã bị sưng chân. Lập tức, bà ta dừng lại và vẫy một chiếc xe ngựa vừa chạy ngang qua. Tôi cố gắng đi gần lại để nghe được địa chỉ mà bà ta nói, nhưng thực ra tôi cũng chẳng cần phải bận tâm về điều đó bởi vì bà ta hét to đến nỗi đủ để người đứng tận bên kia đường cũng nghe thấy được. – Số 11 Phố Duncan, Houndsditch, – bà ta hét lên. Vậy là đã đến lúc chúng ta tìm được thủ phạm rồi, tôi thầm nghĩ như vậy và yên tâm vì chiếc xe của bà già vẫn nằm trong tầm ngắm còn tôi thì bám theo sau. Bám theo đối tượng là một nghệ thuật mà bất cứ một thám tử nào cũng phải trở thành một chuyên gia. Vậy là chúng tôi chạy xe và không nới lỏng cương ngựa cho tới khi chúng tôi tới con phố mà bà ta yêu cầu. Tôi xuống xe trước khi chúng tôi tới cửa ngôi nhà đó rồi thư thả đi bộ xuống con phố. Tôi nhìn thấy cỗ xe ngựa dừng lại. Người lái xe nhảy xuống và tôi thấy anh ta mở cửa xe và đứng chờ đợi một cách hy vọng. Nhưng chẳng có ai bước ra khỏi xe cả. Khi tôi đến gần anh ta, anh ta đang điên cuồng lục soát thùng xe trống không và văng ra hỗn hợp những câu chửi thề mà trong đời mình tôi chưa từng nghe thấy. Không có bất kỳ một dấu vết nào của vị khách lúc trước vẫy xe để lại. Sau khi hỏi thăm những người sống ở số nhà 13, chúng tôi được biết rằng ngôi nhà này thuộc về một người thợ dán giấy tường đáng kính tên là Keswick và chưa ai từng nghe thấy ai có cái tên Sawyer hay Dennis sống ở đó cả.
– Không phải anh định nói rằng cái bà già yếu ớt, bước đi còn không vững đó có thể biến mất khỏi cỗ xe ngựa trong khi nó vẫn đang chạy đều đều trên đường mà cả người đánh xe lẫn anh đều không hề hay biết sao? – tôi kêu lên sửng sốt.
– Bà già cái chết tiệt gì! – Sherlock Holmes điên tiết nói. – Chính chúng ta mới là những bà già chậm chạp và ngu ngốc khi để bị lừa dễ dàng đến thế. Chắc chắn đó là một gã trai tráng, khoẻ mạnh và rất hoạt bát nữa. Ngoài ra, hắn ta còn là một diễn viên kiệt xuất. Hắn ta đã hết sức sáng tạo. Chắc chắn là hắn ta đã phát hiện ra mình bị theo dõi và sử dụng cách này để cắt đuôi. Tôi có thể nhận thấy rằng người đàn ông mà chúng ta đang theo dõi không hành động một mình như tôi vẫn tưởng mà hắn ta phải có đồng bọn, những kẻ sẵn sàng liều mình vì hắn ta. Ồ, bác sĩ, trông anh mệt mỏi quá. Hãy nghe lời tôi, đi nghỉ một chút đi.
Quả thực là tôi cảm thấy toàn thân đang rệu rã, vì vậy tôi nghe theo lời khuyên của anh ngay lập tức. Tôi để Holmes ngồi đó, trước lò sưởi vẫn đang âm ỉ cháy và rất lâu sau, khi đồng hồ đã điểm rất muộn rồi, tôi vẫn còn nghe thấy tiếng đàn violon nho nhỏ vang lên buồn bã và tôi biết rằng anh vẫn còn đang ngẫm nghĩ về sự việc kỳ lạ mà anh quyết tâm khám phá bằng được.
Càng nghĩ về điều đó, tôi càng nhận thấy giả thuyết là người đàn ông này đã bị đầu độc của người bạn đồng hành của tôi càng kỳ lạ. Tôi nhớ lại việc anh đã ngửi môi nạn nhân như thế nào và tin chắc rằng hẳn là anh phải phát hiện ra điều gì đó thì ý nghĩ đó mới nảy ra trong đầu anh. Nếu không phải là bị đầu độc thì tại sao người đàn ông đó lại chết bởi vì trên người nạn nhân không hề có thương tích cũng như không hề có dấu hiệu bị bóp cổ. Vậy thì máu của ai đã dây đầy trên sàn nhà? Không hề có dấu hiệu của sự vật lộn, nạn nhân cũng không hề có bất cứ thứ vũ khí nào trên người có thể làm cho địch thủ bị thương. Chừng nào mà những vấn đề này chưa được giải đáp thì tôi còn cảm thấy giấc ngủ là một tiện nghi quá xa xỉ đối với Holmes và cả tôi nữa. Phong thái tự tin và lặng lẽ của anh khiến tôi tin rằng anh đã có được một giả thuyết có thể giải thích được tất cả những sự kiện mà mọi người còn đặt câu hỏi mặc dù giả thuyết đó là gì thì tôi không thể nào đoán được.
Hôm đó, anh trở về rất muộn, đến nỗi tôi tin chắc rằng không phải anh đã giành toàn bộ thời gian đó cho buổi hòa nhạc. Bữa tối đã được chuẩn bị sẵn chờ anh.
– Thật tuyệt vời, – anh nói khi ngồi vào bàn. – Anh có nhớ Darwin đã nói gì về âm nhạc không? Ông ấy nói rằng khả năng sáng tạo và thưởng thức âm nhạc trong loài người đã tồn tại từ rất lâu trước cả khi con người biết tới ngôn ngữ. Có lẽ đó là lý do tại sao âm nhạc luôn tác động tới tất cả chúng ta một cách rất tinh tế và huyền diệu. Trong tâm hồn chúng ta luôn tồn tại những ký ức mơ hồ về những thế kỷ mù sương, khi thế giới này còn ở thuở sơ khai.
– Đó là một ý tưởng khá rộng và bao quát, – tôi nhận xét.
– Ý tưởng của một con người chắc chắn cũng sẽ rộng lớn và bao trùm như tự nhiên nếu như chúng được sử dụng để giải thích về tự nhiên, – anh trả lời. – Có vấn đề gì vậy? Anh trông khác quá. Có phải vụ ở đường Brixton đã khiến anh không được thoải mái không?
– Phải thành thực mà nói là đúng vậy, – tôi trả lời. – Tôi đã từng trải và cứng rắn hơn sau những năm tháng ở Afghanistan. Tôi đã từng chứng kiến những đồng đội của mình bị thương, mất từng phần thân thể ở Maiwand mà không hề run sợ.
– Tôi có thể hiểu được điều này. Trong vụ này, còn có một bí ẩn bao trùm toàn bộ sự việc. Chính nó đã kích thích trí tưởng tượng. Nếu không có sự tưởng tượng, sẽ chẳng bao giờ có nỗi sợ hãi. Anh đã đọc tờ báo buổi tối chưa?
– Chưa.
– Tờ báo đưa khá nhiều tin bài về vụ việc này. Nhưng không bài báo nào đề cập đến việc khi người đàn ông được khiêng đi thì một chiếc nhẫn của phụ nữ rơi xuống. Cũng thật may là chúng không đề cập tới chi tiết này.
– Tại sao?
– Hãy đọc mẩu quảng cáo này xem, – anh trả lời. – Tôi đã gửi một mẩu tin cho tất cả các tờ báo vào buổi sáng hôm nay ngay sau khi chúng ta rời khỏi hiện trường.
Anh ném tờ báo qua bàn cho tôi và ngay lập tức, tôi nhìn vào chỗ anh vừa chỉ. Mẩu tin được đăng đầu tiên trong cột – Tìm thấy – ở mục quảng cáo. Mẩu tin đó như sau: – Sáng nay, trên đường Brixton, tôi có nhặt được một chiếc nhẫn vàng trơn trên phố ở góc giữa đường White Hart Tavern và Holland Grove. Liên hệ: Bác sĩ Watson, số 21B, phố Baker từ tám đến chín giờ tối.
– Thứ lỗi vì tôi đã mượn tên anh, – anh nói. – Nếu tôi đề tên tôi, vài kẻ ngu ngốc sẽ nhận ra và muốn can thiệp vào vụ này.
– Không sao, – tôi trả lời. – Nhưng nếu như có ai đó tới theo mẩu quảng cáo này thì tôi cũng chẳng có chiếc nhẫn nào cả.
– Ồ, có, anh có chứ, – anh nói và trao cho tôi một chiếc nhẫn. – Chiếc nhẫn này khá ổn đấy. Nó gần như một bản sao của chiếc nhẫn thật.
– Vậy anh nghĩ là ai sẽ đáp lại mẩu quảng cáo này?
– Ai ư? Người đàn ông mặc chiếc áo choàng màu nâu – anh bạn mặt đỏ với những ngón chân vuông của chúng ta. Nếu như không phải chính hắn ta đến thì chắc chắn hắn ta sẽ phái một đồng bọn đến.
– Hắn ta sẽ không nghĩ rằng việc đó quá nguy hiểm sao?
– Không hề. Nếu những nhìn nhận của tôi về vấn đề này là đúng, và tôi có đầy đủ lý do để tin rằng nhìn nhận của tôi đúng, thì người đàn ông này có thể chấp nhận bất kỳ nguy hiểm nào ngoại trừ việc mất chiếc nhẫn. Theo như tôi nghĩ, hắn ta đã làm rơi chiếc nhẫn khi cúi xuống bên xác Drebber. Ngay lúc đó, hắn ta đã không biết điều đó. Nhưng sau khi rời khỏi ngôi nhà, hắn ta đã phát hiện ra bị mất chiếc nhẫn và vội vàng quay trở lại nhưng cảnh sát đã xuất hiện ở đó bởi việc làm ngu ngốc của hắn là để lại ngọn nến còn cháy trong phòng. Hắn ta đành phải giả vờ là kẻ đang say khướt nhằm dập tắt sự nghi ngờ của cảnh sát về việc hắn đột nhiên xuất hiện ở ngay cánh cổng ngôi nhà vừa xảy ra án mạng. Bây giờ, hãy thử đặt mình vào vị trí của người đàn ông đó. Hãy suy nghĩ thật kỹ toàn bộ vấn đề. Hoàn toàn có khả năng hắn sẽ nghĩ rằng có thể mình đánh rơi chiếc nhẫn ở trên đường, sau khi rời khỏi ngôi nhà, chứ không phải là ở hiện trường. Vậy thì hắn ta sẽ làm gì sau đó? Hắn ta sẽ vội vã tìm trong mục quảng cáo trên các tờ báo buổi tối với hy vọng có thể tìm thấy vật mà hắn cần giữa những vật người ta tìm thấy và rao trên báo. Và tất nhiên, mắt hắn sẽ không thể bỏ qua được mẩu tin này. Hắn ta sẽ quá sung sướng. Tại sao hắn ta lại phải lo lắng về một cái bẫy nhỉ? Sẽ chẳng có lý do gì khiến hắn có thể nghi ngờ rằng việc tìm thấy chiếc nhẫn sẽ có mối liên quan tới vụ giết người. Hắn ta sẽ đến. Hắn ta sẽ đến. Trong vòng một giờ nữa, chúng ta sẽ gặp hắn.
– Và sau đó thì sao? – tôi hỏi.
– Ồ, sau đó anh có thể để mặc tôi đối phó với hắn ta. Anh có vũ khí gì không?
– Tôi vẫn còn khẩu súng từ khi phục vụ trong quân đội và vài băng đạn.
– Anh nên lau chùi lại nó và nạp đạn đi. Hắn ta có thể là một gã hết sức liều lĩnh. Và mặc dù tôi sẽ cố gắng để hắn không nghi ngờ gì nhưng tốt hơn hết là chúng ta vẫn nên chuẩn bị tinh thần cho mọi trường hợp.
Tôi về phòng mình và tuân theo lời khuyên của anh. Khi tôi trở lại với khẩu súng lục, bàn ăn đã được dọn sạch và Holmes đang chú tâm vào công việc ưa thích của mình là dạo một bản nhạc với cây đàn violon của mình. Khi tôi bước vào anh nói:
– Các tình tiết đã dần khít lại. Tôi vừa mới nhận được câu trả lời cho bức điện tôi mới gửi tới Mỹ. Nhận định của tôi về vụ này hoàn toàn đúng.
– Và đó là.. – tôi vội vã hỏi.
– Cây đàn của tôi cần phải thay dây mới rồi, – anh nói. – Hãy cất súng của anh vào túi đi. Khi nào gã đó đến, hãy nói chuyện với hắn ta một cách bình thường. Phần còn lại cứ để tôi. Đừng nhìn vào hắn chằm chằm khiến cho hắn hoảng sợ.
– Giờ đã là tám giờ rồi, – tôi nhìn vào đồng hồ và nói.
– Phải. Có lẽ hắn ta sẽ tới đây trong vài phút nữa thôi. Mở hé cửa ra. Thế. Giờ hãy tra chìa khóa vào phía bên trong. Cám ơn anh! Đây là cuốn sách cũ rất lạ mà hôm qua tôi vừa mới mua được ở hiệu sách – De Jure inter Gentes – được xuất bản bằng tiếng La tinh ở Liége, Hà Lan và năm 1642. Cái đầu của Charles vẫn yên vị trên vai ông ta trong khi cuốn sách này đã bị xóa sổ.
– Của nhà xuất bản nào vậy?
– Philippe de Croy. Chẳng biết là ai nữa. Trên trang giấy trắng đầu cuốn sách có một dòng chữ viết bằng mực nhưng đã khá mờ "Ex libris Guliolmi Whyte". Tôi tự hỏi không biết William Whyte là ai. Có lẽ là một luật sư thực dụng nào đó ở thế kỷ mười bảy. A, tôi nghĩ là vị khách của chúng ta đến rồi đấy.
Anh nói khi vừa nghe thấy tiếng chuông cửa vang lên. Sherlock Holmes nhẹ nhàng bật dậy và dịch cái ghế của anh quay lại theo hướng cửa ra vào. Chúng tôi nghe thấy tiếng chân người phục vụ đi qua sảnh và tiếng khóa lách cách khi bà mở cửa.
– Bác sĩ Watson sống ở đây phải không? – một giọng nói rõ ràng nhưng hơi khàn khàn cất lên. Chúng tôi không nghe thấy tiếng người phục vụ trả lời nhưng cửa đóng lại và ai đó bắt đầu leo lên cầu thang. Tiếng bước chân có vẻ không chắc chắn và khá ngập ngừng, run rẩy. Một thoáng ngạc nhiên lướt trên gương mặt Holmes khi anh nghe thấy tiếng chân đó. Tiếng chân chậm rãi đi trên hành lang và một tiếng gõ yếu ớt vang lên ngoài cửa phòng chúng tôi.
– Xin mời vào, – tôi nói.
Vừa dứt lời, thay vì một người đàn ông mạnh khoẻ như chúng tôi chờ đợi, một người phụ nữ rất già nua, da nhăn nheo tập tễnh bước vào căn phòng. Dường như bà ta hơi bị chói mắt vì ánh sáng tràn ngập trong căn phòng bất ngờ ập vào mắt. Sau khi cúi chào, bà ta đứng đó, hấp háy nhìn chúng tôi bằng con mắt mờ đục, tay sờ soạng trong túi một cách căng thẳng, những ngón tay run rẩy. Tôi đưa mắt nhìn Holmes. Gương mặt anh lộ rõ một vẻ thất vọng đến nỗi cố gắng lắm tôi mới giữ được nét mặt bình thường.
Bà già rút ra một tờ báo và chỉ vào mục quảng cáo. – Đây chính là thứ đã đưa tôi đến đây thưa các quý ngài tốt bụng, – bà ta nói và lại cúi chào một lần nữa, – chiếc nhẫn cưới vàng trơn trên đường Brixton. Đó là chiếc nhẫn của con gái tôi Sally. Nó kết hôn cách đây mười hai tháng và chồng nó là một bồi bàn trên tàu viễn dương. Tôi thật không dám nghĩ con rể tôi sẽ nói gì nếu khi quay trở về mà không thấy chiếc nhẫn cưới trên tay con gái tôi. Nó là kẻ cục cằn, thô lỗ nhất là khi rượu vào. Nếu các ngài muốn biết thì đêm qua, nó đã đi xem hát với..
– Có phải chiếc nhẫn này là của cô ấy không? – tôi hỏi.
– Ôi, tạ ơn Chúa! – bà già kêu lên. – Sally chắc hẳn sẽ là người phụ nữ cảm thấy sung sướng nhất tối nay. Đúng là chiếc nhẫn đó rồi.
– Và địa chỉ của bà là? – tôi hỏi và cầm lấy chiếc bút chì trên bàn.
– Số 13 phố Duncan, Houndsditch. Cách đây rất xa.
– Nhưng đường Brixton không nằm giữa Houndsditch và bất cứ rạp hát nào, – Sherlock Holmes tinh ranh nói.
Bà già quay ngoắt lại và nhìn xăm xoi vào Holmes với đôi mắt ti hí, viền mắt đỏ lựng. – Quý ngài đây hỏi địa chỉ của tôi. – Bà ta nói. – Còn Sally ở số 3, Mayfield Place, Peckham.
– Và tên bà là gì?
– Tên tôi là Sawyer, tên của nó là Dennis kể từ khi nó kết hôn với Tom Dennis – một chàng trai thông minh, sạch sẽ, bóng bẩy khi ở trên tàu, một bồi bàn tuyệt vời. Nhưng khi lên bờ, với đàn bà và với những chai rượu..
– Nhẫn của bà đây bà Sawyer, – tôi ngắt lời khi nhận được tín hiệu đồng tình từ Holmes. – Rõ ràng nó là của con gái bà, và tôi cảm thấy rất vui khi trả được nó về cho đúng chủ nhân của mình.
Sau khi lẩm bẩm vài lời cầu nguyện và cảm ơn chúng tôi, bà già nhét chiếc nhẫn vào túi và rồi lê bước xuống cầu thang. Ngay khi bà ta vừa ra khỏi cửa, Sherlock Holmes lập tức bật dậy. Hai phút sau, anh đã quay trở lại, trên người là chiếc áo choàng và đã kịp thắt caravat. – Tôi sẽ bám theo bà ta, – anh nói và vội vã ra đi. – Bà ta chắc chắn là một đồng bọn và sẽ dẫn tôi tới chỗ hắn ta. Đợi tôi nhé. – Cánh cửa dưới nhà vừa đóng lại thì Sherlock Holmes cũng bắt đầu bước xuống cầu thang. Nhìn qua khung cửa sổ, tôi thấy bà già run rẩy đi dọc theo một bên phố còn Holmes đi cách bà ta một đoạn không đổi và bám theo. – Hoặc là toàn bộ giả thuyết của anh ấy là sai lầm, nếu không thì anh ấy sắp khám phá được chân tướng sự việc rồi, – tôi nghĩ thầm.
Thực ra Holmes không cần nhắc tôi phải thức đợi anh bởi vì tôi cảm thấy mình sẽ chưa thể ngủ được chừng nào chưa được biết về kết quả chuyến đi của anh.
Lúc anh rời khỏi nhà đã là gần chín giờ tối. Tôi không biết anh đã ra ngoài hết bao lâu nhưng tôi đăm đăm với cái tẩu thuốc trên môi và đọc lướt qua từng trang cuốn Cuộc sống của người Bô hê miêng của tác giả Henri Murger. Hơn mười giờ, tôi nghe thấy tiếng chân người hầu gái hướng tới buồng ngủ. Mười một giờ, tiếng bước chân của bà chủ nhà cũng vang lên trên hành lang ngoài phòng tôi để về phòng. Gần mười hai giờ, tôi mới nghe thấy tiếng Holmes mở chốt cửa. Ngay khi anh vừa bước vào phòng, nhìn vẻ mặt anh, tôi đã biết anh không thành công. Buồn cười và thất vọng, chán nản dường như đang đấu tranh để được làm chủ và rồi cuối cùng anh bật lên một tràng cười ngặt nghẽo.
– Tôi sẽ không bao giờ để cho những thanh tra của sở cảnh sát Scotland Yard biết được chuyện này đâu, – anh kêu lên và buông mình xuống ghế. – Tôi đã chế giễu và bỡn cợt họ quá nhiều đến nỗi họ sẽ không bao giờ từ bỏ cơ hội này để thêm mắm thêm muối bôi nhọ tôi. Tôi có thể cười bởi vì tôi biết rằng tôi sẽ còn sát cánh cùng họ trong một thời gian dài nữa.
– Vậy đã xảy ra chuyện gì?
– Ồ, tôi cũng không ngại kể lại chuyện chẳng mấy hay ho cho tôi đâu. Cái bà già đó đi bộ được một quãng thì bắt đầu khập khiễng và chắc hẳn đã bị sưng chân. Lập tức, bà ta dừng lại và vẫy một chiếc xe ngựa vừa chạy ngang qua. Tôi cố gắng đi gần lại để nghe được địa chỉ mà bà ta nói, nhưng thực ra tôi cũng chẳng cần phải bận tâm về điều đó bởi vì bà ta hét to đến nỗi đủ để người đứng tận bên kia đường cũng nghe thấy được. – Số 11 Phố Duncan, Houndsditch, – bà ta hét lên. Vậy là đã đến lúc chúng ta tìm được thủ phạm rồi, tôi thầm nghĩ như vậy và yên tâm vì chiếc xe của bà già vẫn nằm trong tầm ngắm còn tôi thì bám theo sau. Bám theo đối tượng là một nghệ thuật mà bất cứ một thám tử nào cũng phải trở thành một chuyên gia. Vậy là chúng tôi chạy xe và không nới lỏng cương ngựa cho tới khi chúng tôi tới con phố mà bà ta yêu cầu. Tôi xuống xe trước khi chúng tôi tới cửa ngôi nhà đó rồi thư thả đi bộ xuống con phố. Tôi nhìn thấy cỗ xe ngựa dừng lại. Người lái xe nhảy xuống và tôi thấy anh ta mở cửa xe và đứng chờ đợi một cách hy vọng. Nhưng chẳng có ai bước ra khỏi xe cả. Khi tôi đến gần anh ta, anh ta đang điên cuồng lục soát thùng xe trống không và văng ra hỗn hợp những câu chửi thề mà trong đời mình tôi chưa từng nghe thấy. Không có bất kỳ một dấu vết nào của vị khách lúc trước vẫy xe để lại. Sau khi hỏi thăm những người sống ở số nhà 13, chúng tôi được biết rằng ngôi nhà này thuộc về một người thợ dán giấy tường đáng kính tên là Keswick và chưa ai từng nghe thấy ai có cái tên Sawyer hay Dennis sống ở đó cả.
– Không phải anh định nói rằng cái bà già yếu ớt, bước đi còn không vững đó có thể biến mất khỏi cỗ xe ngựa trong khi nó vẫn đang chạy đều đều trên đường mà cả người đánh xe lẫn anh đều không hề hay biết sao? – tôi kêu lên sửng sốt.
– Bà già cái chết tiệt gì! – Sherlock Holmes điên tiết nói. – Chính chúng ta mới là những bà già chậm chạp và ngu ngốc khi để bị lừa dễ dàng đến thế. Chắc chắn đó là một gã trai tráng, khoẻ mạnh và rất hoạt bát nữa. Ngoài ra, hắn ta còn là một diễn viên kiệt xuất. Hắn ta đã hết sức sáng tạo. Chắc chắn là hắn ta đã phát hiện ra mình bị theo dõi và sử dụng cách này để cắt đuôi. Tôi có thể nhận thấy rằng người đàn ông mà chúng ta đang theo dõi không hành động một mình như tôi vẫn tưởng mà hắn ta phải có đồng bọn, những kẻ sẵn sàng liều mình vì hắn ta. Ồ, bác sĩ, trông anh mệt mỏi quá. Hãy nghe lời tôi, đi nghỉ một chút đi.
Quả thực là tôi cảm thấy toàn thân đang rệu rã, vì vậy tôi nghe theo lời khuyên của anh ngay lập tức. Tôi để Holmes ngồi đó, trước lò sưởi vẫn đang âm ỉ cháy và rất lâu sau, khi đồng hồ đã điểm rất muộn rồi, tôi vẫn còn nghe thấy tiếng đàn violon nho nhỏ vang lên buồn bã và tôi biết rằng anh vẫn còn đang ngẫm nghĩ về sự việc kỳ lạ mà anh quyết tâm khám phá bằng được.
Chỉnh sửa cuối: