Sherlock Holmes (Quyển 1) - Arthur Conan Doyle

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Tống Tử Hân, 2 Tháng mười hai 2021.

  1. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    Sherlock Holmes

    Tác giả: Sir Arthur Conan Doyle

    Mục sách: Văn học nước ngoài, Văn học kinh điển, Trinh thám

    Tình trạng: Hoàn (full)


    (Quyển 1)

    [​IMG]

    Giới thiệu​

    Sherlock Holmes là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay.

    Sherlock Holmes đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của nhà văn Conan Doyle. Hầu như tất cả các tác phẩm đều được viết dưới dạng ghi chép của bác sĩ John H. Watson, người bạn thân thiết và người ghi chép tiểu sử của Holmes, chỉ có 2 tác phẩm được viết dưới dạng ghi chép của Holmes và 2 tác phẩm khác dưới dạng ghi chép của người thứ ba..

    Nhiều người cho rằng Sherlock Homes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới.

    Đến với bộ sách Sherlock Holmes toàn tập, quý độc giả sẽ hiểu vì sao tác phẩm này lại được bạn đọc khắp thế giới yêu thích đến như thế.
     
    Last edited by a moderator: 2 Tháng mười hai 2021
  2. Đăng ký Binance
  3. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    Đôi lời về tác giả Arthur Conan Doyle

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Arthur Conan Doyle sinh năm 1859 tại Edinburgh, Scotland. Ông nghiên cứu y khoa tại trường Đại học Edinburgh và định cư tại London, song việc hành nghề không mấy thành đạt tạo cho ông nhiều thời gian rảnh rỗi. Đó cũng chính là thời điểm ông bắt đầu viết những câu chuyện nổi tiếng về Sherlock Holmes. Tác phẩm đầu tiên là "Sự nghiên cứu màu đỏ", ra mắt công chúng tại Triển lãm sách thường niên tại Beeton năm 1887. Sau khi phát hành cuốn "Bốn vết tích" vào năm 1890, Conan Doyle rời bỏ nghề y để toàn tâm toàn ý với công việc sáng tác văn học. Chính hình ảnh của thám tử siêu việt Sherlock Holmes mang lại tiếng tăm lừng lẫy cho nhà văn. Khi Doyle đã nhàm chán Holmes và "cho" Holmes chết bằng "Cú đấm cuối cùng" được xuất bản vào năm 1893, thì công chúng đã buộc ông phải tái sinh Sherlock Holmes một cách tài tình.

    Arthur Conan Doyle có một cuộc sống nhiều màu sắc và ưa mạo hiểm. Ông là một sử gia, một người săn cá voi, một vận động viên, một phóng viên báo chí thời chiến và là một người theo thuyết duy linh. Đích thân ông đã bênh vực cho hai trường hợp bất công, vận dụng tác phẩm trinh thám của ông để chứng minh sự vô tội của những người đàn ông bị kết án. Conan Doyle đã được phong tước hầu vì những cống hiến của ông tại một bệnh viện ở Nam Phi trong cuộc chiến tranh của người Phi gốc Hà Lan. Ông mất năm 1930.
     
    Last edited by a moderator: 2 Tháng mười hai 2021
  4. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    Phần I: Tái bản từ sự hồi tưởng của bác sĩ John H. Watson

    Chương 1: Ngài Sherlock Holmes (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Năm 1878, tôi lĩnh bằng tốt nghiệp y khoa tại trường Đại học London, tới Netley để tham gia khóa học bắt buộc cho bác sĩ trong quân đội. Đúng lúc kết thúc việc học tập ở đó, tôi được chỉ định về đơn vị bộ binh Northumberland số 5 làm một anh trợ lý bác sĩ. Cuộc chiến Afganistan nổ ra ngay trước khi tôi gia nhập trung đoàn, khi đó còn đóng ở Ấn Độ. Đặt chân tới Bombay, tôi mới biết quân đoàn đã tiến tới vị trí cửa ngõ và đã lún sâu trong vòng vây quân thù. Dù sao, tôi vẫn cùng nhiều anh em có chung hoàn cảnh tiến theo sau và an toàn tiến tới Candahar. Tại đây, tôi gặp lại trung đoàn của mình và ngay lập tức nhận nhiệm vụ mới.

    Chiến dịch mang lại vinh quang và sự thăng tiến cho nhiều người, nhưng riêng với tôi, nó chỉ là sự đen đủi và tai họa. Tôi phải chuyển khỏi lữ đoàn và biệt phái đến Berkshires, tham gia vào trận quyết chiến ở Maiwand. Ở đó, tôi lĩnh một phát súng trường làm vỡ cả xương vai và sượt qua động mạch dưới xương đòn. Thiếu chút nữa tôi đã rơi vào tay tên sát nhân người Islam, nếu như không có sự tận tâm và dũng cảm của Murray, anh hộ lý của tôi, người đã ném tôi lên lưng một chú ngựa thồ và đưa tôi tới phòng tuyến quân Anh một cách an toàn.

    Kiệt sức vì vết thương cộng với sự suy nhược do những vất vả kéo dài mà tôi đã trải qua, tôi được giải ngũ. Tôi đáp chuyến tàu chở đầy thương binh trở về bệnh viện cũ ở Peshawar. Ở đó tôi đã bình phục, đã có thể bước đi quanh khu bệnh nhân, thậm chí phơi nắng một chút ở thềm nhà, thì lại bị đánh gục bởi một trận thương hàn do dân Ấn Độ lây cho. Tôi đã sống nhiều tháng trong sự tuyệt vọng. Tôi yếu o và hốc hác đến mức một ngày kia bệnh viện quyết định gửi trả tôi về Anh quốc. Vì thế tôi có mặt trên tàu chở lính Orontes, cập cảng Portsmouth với một tình trạng sức khoẻ không thể cứu vãn và chín tháng nghỉ phép để gắng sức phục hồi.

    Vốn chẳng có họ hàng thân thích gì ở Anh nên tôi là một người đàn ông tự do với khoản thu nhập mười một siling và sáu xu. Trong hoàn cảnh như vậy tôi lần mò tới London, nơi mà tất cả những kẻ lang thang trong nước đều đổ dồn về. Tôi đã sống một khoảng thời gian thiếu thốn, vô nghĩa, chỉ tiêu pha số tiền ít ỏi mà mình có được tại một khách sạn tư ở Strand. Song tình trạng tài chính của tôi cũng báo động đến mức tôi nhanh chóng nhận ra rằng hoặc phải rời bỏ thủ đô để vui thú điền viên tại quê nhà, hoặc phải thay đổi hoàn toàn phong cách sống của chính mình. Lựa chọn phương án hai, tôi bắt đầu lên kế hoạch rời khách sạn, tìm một nơi ẩn cư đỡ tốn kém hơn.

    Vào chính cái ngày quyết định ấy, khi đang đứng ở quán bar Criterion thì ai đó vỗ nhẹ vào vai tôi. Tôi quay lại và nhận ra anh chàng trẻ tuổi Stamford, người phụ mổ của tôi hồi ở Bart. Với một kẻ cô đơn như tôi thì một khuôn mặt thân quen thật sự là một niềm vui giữa thủ đô London rộng lớn. Trước đây Stamford chưa từng là bạn chí cốt với tôi, nhưng giờ tôi nhiệt tình nghênh tiếp, và anh chàng cũng tỏ ra rất phấn khởi khi gặp tôi. Tôi hồ hởi mời Stamford dùng bữa trưa tại Holborn và cả hai chúng tôi cùng lên xe ngựa.

    – Watson, cậu đang làm trò quái gì với thân hình của cậu vậy? – Stamford thành thật hỏi khi chúng tôi cùng len lỏi giữa đám đông ngoài phố – Cậu gầy như cái que và đen như hòn than ấy.

    Tôi kể sơ qua cho anh ta về cuộc phiêu lưu của tôi và chấm dứt câu chuyện ngay khi tới nhà hàng.

    – Kinh khủng quá! – Stamford xót xa sau khi biết những rủi ro của tôi. – Thế bây giờ cậu định làm gì?

    – Tìm kiếm chỗ ở, – tôi trả lời. – Mình đang cố gắng dàn xếp để có được một phòng ở tiện nghi với giá hợp lý.

    – Lạ nhỉ! Trong ngày hôm nay, cậu là người thứ hai phát ngôn câu này.

    – Thế ai là người tiên phong? – Tôi hỏi.

    – Một gã đang làm việc tại phòng thí nghiệm của bệnh viện. Anh ta than phiền rằng không thể tìm được ai để chia xẻ chín phòng ở với chi phí vượt quá túi tiền.

    – Trời đất! – Tôi kêu lên. – Nếu anh ta thực sự muốn có người sống chung nhà và giảm chi phí, thì tôi chính là người anh ta cần. Tôi muốn có bạn sống cùng hơn là phải sống độc thân.

    Anh bạn Stamford hiếu kỳ nhìn tôi qua cốc rượu vang.

    – Cậu vẫn chưa từng biết Sherlock Holmes mà. – Anh ta thủng thẳng. – Có lẽ cậu sẽ không muốn làm bạn với gã đó dài lâu đâu.

    – Sao vậy? Anh ấy có gì khác thường sao?

    – À không, tôi không nói là anh ấy có gì khác thường cả. Anh ấy chỉ hơi kỳ quặc trong ý tưởng thôi, một anh chàng say mê khoa học. Theo những gì tôi biết thì anh ta là một người khá tử tế.

    – Một sinh viên y khoa phải không? – Tôi tò mò.

    – Không. Tôi cũng chẳng biết anh ta say mê cái gì nữa. Tôi tin anh ấy khá thạo về giải phẫu và là dược sĩ có hạng, nhưng theo như tôi biết thì anh ấy chưa bao giờ tham gia một khóa chính quy nào về y thuật. Tuy việc học hành thì rất lộn xộn và lập dị, nhưng anh ta đã tích luỹ được vô số kiến thức đủ gây sửng sốt cho các giáo sư của anh ta.

    – Cậu chưa bao giờ hỏi xem anh ấy đang theo đuổi cái gì à? – Tôi hỏi.

    – Không. Anh ta không phải là một người dễ dàng để lộ mình, dẫu rằng anh ấy có đủ xã giao khi ai đó quan tâm đến.

    – Tôi muốn gặp anh ta xem. – Tôi háo hức. – Nếu tôi phải trọ cùng với ai đó, tôi thích họ chăm chỉ và có những sở thích lặng lẽ hơn. Tôi vẫn chưa khoẻ hẳn để có thể chịu đựng tiếng ồn hay sự kích động. Tôi đã có đủ cả hai thứ ấy hồi ở Afganistan cho phần đời còn lại rồi. Làm thế nào tôi có thể gặp được anh bạn của cậu nhỉ?

    – Chắc chắn là anh ta ở phòng thí nghiệm rồi. – Anh bạn tôi quay lại nói. – Hoặc là anh ấy mất mặt tới hàng tuần lễ, hoặc là anh ấy ở lì trong đó từ sáng đến đêm. Nếu cậu thích, chúng ta sẽ cùng tới đó sau bữa trưa.

    – Tất nhiên. – Tôi đáp, rồi cuộc trò chuyện của chúng tôi lái sang hướng khác.

    Trên đường từ nhà hàng Holborn tới bệnh viện, Stamford kể thêm cho tôi một số điều về người mà tôi sắp thuê nhà trọ cùng.

    – Cậu không được đổ lỗi cho tôi nếu cậu không hợp với anh ta đấy nhé. – Stamford mặc cả. – Tôi không biết nhiều về anh ta vì thỉnh thoảng mới gặp gỡ ở phòng thí nghiệm thôi. Cậu đã đề nghị tôi dàn xếp việc này nhưng đừng bắt tôi chịu trách nhiệm.

    – Nếu chúng tôi không hợp nhau thì cũng dễ tách ra thôi. – Tôi khẳng định.

    Nhìn chăm chăm vào anh bạn Stamford, tôi hỏi:

    – Này Stamford, dường như cậu có lý do nào đó để phủi tay vụ này. Tính khí của gã này kinh khủng lắm à? Đừng có quanh co nữa.

    Stamford bật cười:

    – Khó mà diễn đạt lắm. Theo tôi Holmes là một người của khoa học – tới mức máu lạnh. Tôi có thể hình dung việc anh ấy cấu cho bạn mình một cái nhưng không có ác ý, cậu hiểu chứ, chỉ để có được một ý tưởng chính xác về hiệu quả. Công bằng mà nói, tôi nghĩ anh ấy sẽ luôn sẵn lòng. Dường như anh ấy đam mê với những kiến thức chính xác và rõ ràng.

    – Rất đúng đấy.

    – Ừ, nhưng đam mê đó thái quá. Khi anh ấy cầm gậy vụt vào những xác chết trong nhà xác, việc đó thật kỳ cục.

    – Đánh người ư!

    – Phải. Để tìm hiểu sự hình thành các vết thâm tím trên tử thi. Chính mắt tôi đã trông thấy anh ta làm vậy.

    – Cậu đã nói anh ấy không phải là sinh viên y khoa đúng không?

    – Không. Có Chúa mới biết anh ta nghiên cứu môn gì. Nhưng cậu phải tạo ra những ấn tượng của chính cậu về anh ta chứ.

    Chúng tôi rẽ vào một con đường chật chội và đi qua cửa phụ của bệnh viện. Đây là chốn quen thuộc với tôi, thế nên tôi không cần Stamford dẫn lối nữa. Chúng tôi tiến tới một cầu thang bằng đá, men theo hành lang dài trong khung cảnh ảm đạm của những bức tường sơn trắng cùng cửa ra vào nâu xám. Gần cuối hành lang có một lối đi nhỏ dẫn tới phòng thí nghiệm.


    -Còn tiếp-
     
  5. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    Chương 1: Ngài Sherlock Holmes (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây là một căn phòng với vô số chai lọ. Những chiếc bàn rộng, thấp trải ra với đầy rẫy ống nghiệm, đèn cồn với ánh sáng xanh lập loè. Chỉ có mỗi một sinh viên trong phòng. Anh ta đang cúi gập người bên bàn, bị hút vào công việc. Khi nghe tiếng bước chân của chúng tôi lại gần, anh ta liếc quanh và dậm chân, kêu lên sung sướng. "Tìm ra rồi! Tôi tìm ra rồi!". Anh ta hét lên với Stamford, chạy vụt về phía chúng tôi với một ống nghiệm trên tay:

    – Tôi đã tìm ra một loại thuốc thử kết tủa của hemoglobin, và cái gì đó nữa ".

    Có lẽ có phát hiện ra cả một mỏ vàng, anh ta cũng không phấn khích hơn thế được.

    Stamford giới thiệu chúng tôi với nhau:

    – Đây là bác sĩ Watson, thưa ông Sherlock Holmes.

    – Chào anh! – Sherlock Holmes thân mật nắm chặt tay tôi. – Anh mới vừa từ Afganistan về, tôi biết.

    – Làm thế quái nào anh biết điều đó nhỉ? – Tôi sửng sốt hỏi lại.

    – Đừng bận tâm. – Anh ta nén cười, đáp lại. – Vấn đề lúc này là hemoglobin. Anh đã thấy ý nghĩ về sự khám phá của tôi chưa?

    – Rất thú vị, về phương diện hóa học, không còn nghi ngờ gì nữa. – Tôi đáp. – Nhưng về mặt thực tiễn thì..

    – Sao cơ, anh bạn, đây là phát hiện về pháp y có tính thực tiễn nhất trong nhiều năm. Anh không thấy nó đã mang lại cho chúng ta một thử nghiệm không thể sai lầm được cho các vết máu sao? Lại đây nào!

    Sherlock Holmes hăm hở giật lấy ống tay áo tôi và kéo tôi lại gần cái bàn anh đang làm việc.

    – Hãy để chúng tôi lấy vài giọt máu tươi – Holmes nói trong lúc xuyên cây kim dài vào ngón tay mình và nặn ra vài giọt máu tươi vào một cái đĩa thí nghiệm. – Nào, bây giờ tôi cho một lượng nhỏ máu này vào một lít nước. Anh quan sát thấy hỗn hợp sẽ có sự xuất hiện của nước nguyên chất. Tỷ lệ máu không thể lớn hơn được một phần triệu. Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta sẽ có thể thu được phản ứng đặc trưng.

    Vừa nói, Sherlock Holmes vừa ném một vài tinh thể màu trắng vào bình, rồi thêm mấy giọt dung dịch trong suốt vào. Thoáng một cái, toàn bộ các chất đã chuyển sang màu nâu gụ, và một chất bụi nâu nâu đã kết tủa ở đáy của bình thí nghiệm.

    – Ha, ha, ha.. – Holmes vừa cười vừa vỗ tay, hân hoan như một đứa trẻ được cho đồ chơi mới. – Anh bạn nghĩ thế nào?

    – Đây dường như là một thử nghiệm rất tinh tế. – Tôi nhận xét.

    – Tuyệt! Tuyệt lắm! Cuộc thí nghiệm trước còn rất vụng về và không rõ ràng. Khám nghiệm trên kính hiển vi về huyết cầu cũng thế. Khám nghiệm về huyết cầu sẽ vô giá trị nếu máu đã khô được vài giờ đồng hồ. Bây giờ, thử nghiệm này hoạt động tốt cho dù vết máu là cũ hay mới. Nếu thử nghiệm nay được phát minh, hàng trăm kẻ đang sống nhởn nhơ trên trái đất sẽ phải hứng chịu sự trừng phạt vì tội lỗi của họ.

    – Thật ư. – Tôi lẩm bẩm.

    – Các vụ phạm tội liên tục xoay quanh một điểm này thôi. Một kẻ bị nghi ngờ phạm tội có lẽ hàng tháng sau khi đã phạm tội. Đồ lót hoặc quần áo được khám xét và người ta phát hiện ra các dấu vết màu nâu. Vậy chúng là vết máu, vết bùn, vết gỉ sắt, vết hoa quả, hay là vết gì nữa? Đây là câu hỏi xóc óc biết bao chuyên gia, và tại sao nhỉ? Bởi vì chẳng có thử nghiệm để nhận biết chúng. Bây giờ thì chúng ta đã có thử nghiệm của Sherlock Holmes, và sẽ không còn khó khăn gì nữa.

    Mắt Holmes sáng lấp lánh. Anh đặt tay lên trái tim và cúi chào như thể đang đứng trước đám đông mà anh tưởng tượng ra.

    – Chúc mừng anh! – Tôi vui vẻ nói dù hơi ngạc nhiên trước nhiệt huyết của anh.

    – Có một trường hợp của Von Bischoff ở Frankfort năm ngoái. Nếu thí nghiệm này hiện hữu, dĩ nhiên là hắn ta đã bị treo cổ. Rồi đến vụ Mason ở Bradford và tên trùm khét tiếng Muller, rồi Lefevre ở Montpellier, Samsom ở New Orleans. Tôi có thể kể tên một loạt những trường hợp mà thí nghiệm sẽ ra phán quyết. Tôi có thể kể tên một loạt những trường hợp mà thí nghiệm sẽ ra phán quyết.

    – Anh làm như mình là một từ điển sống về tội phạm vậy. – Stamford cười phá lên. – Anh có thể ra một tờ báo chuyên về đề tài này. Hãy gọi nó là tờ" Tin tức của Cảnh sát".

    – Cũng có thể là một tờ báo rất thú vị đấy. – Vừa dán mẩu băng dính rịt lên vết thương trên ngón tay, Sherlock Holmes vừa nhận định.

    Rồi anh quay sang tôi với một nụ cười và tiếp tục:

    – Tôi phải cẩn thận vì đã tiếp xúc với chất độc khá nhiều.

    Vừa nói anh vừa chìa bàn tay ra, và tôi nhận thấy có nhiều vết lốm đốm được phủ cùng một loại băng dính và biến màu vì a xít mạnh.

    – Chúng tôi đến đây vì có chút việc. – Stamford nói và ngồi xuống một cái đôn có ba chân, rồi dùng chân đẩy một cái khác về phía tôi. – Anh bạn tôi đây muốn tìm nhà, mà anh thì đang kêu ca rằng chẳng có ai cùng chia phòng với mình, nên tôi cho rằng các anh cần hợp tác.

    Sherlock Holmes dường như phấn khích với ý tưởng sống chung phòng với tôi.

    – Tôi phải trông coi một căn hộ ở phố Baker, có lẽ cũng hợp với chúng ta đó. Nhưng tôi hy vọng anh không phiền mùi thuốc lá nồng nặc trong phòng đấy chứ?

    – Tôi cũng là một kẻ nghiện thuốc lá mà. – Tôi thành thật.

    – Thế là ổn. Nói chung là tôi còn một số hóa chất, và đôi khi còn làm thí nghiệm. Điều đó có phiền anh không nhỉ?

    – Không có gì.

    – Để tôi xem nào.. Tôi còn những nhược điểm gì nữa nhỉ? Đôi lúc tôi rơi vào buồn chán và cả ngày không mở mồm một câu. Anh phải nhớ là khi tôi làm vậy cũng không phải vì giận dỗi gì cả đâu. Hãy cứ mặc xác tôi, và tôi sẽ trở lại bình thường ngay ấy mà. Anh có cần thổ lộ điều gì không? Tốt nhất là hai chúng ta nên biết những điều tồi tệ nhất về người kia trước khi đến ở chung dưới một mái nhà.

    Tôi bật cười vì sự kiểm tra chéo. Tôi nói:

    – Tôi nuôi một con chó. Tôi phản đối việc cãi cọ vì đầu óc tôi đang mệt mỏi, tôi tự quản tất cả các giờ giấc phiền phức và tôi đặc biệt lười nhác. Tôi cũng có đủ loại tật xấu khi khoẻ mạnh, nhưng đó là những cái chính tại thời điểm này.

    – Anh có tính cả việc chơi đàn viôlông vào sự to tiếng không đấy? – Holmes phấp phỏng hỏi.

    – Cũng tuỳ vào nhạc công. – Tôi đáp. – Một nhạc công cừ khôi là một khoản đãi của thượng đế.

    – Ồ, thế thì được. – Holmes reo lên. – Tôi nghĩ chúng ta có thể coi như đã thỏa thuận xong, nếu anh chấp nhận phòng ở.

    – Khi nào thì chúng ta sẽ đi xem nhà nhỉ?

    – Anh hãy tới gặp tôi vào chiều mai nhé, rồi chúng ta sẽ cùng đi xem nhà và định đoạt mọi thứ. – Sherlock Holmes bảo.

    – Đồng ý, đúng trưa mai nhé! – Tôi khẳng định lại và bắt tay Holmes.

    Chúng tôi bỏ Holmes lại với những hóa chất ngổn ngang, cùng nhau trở về khách sạn của tôi. Bỗng nhiên tôi dừng lại và quay sang phía Stamford, hỏi:

    – Này, làm thế nào mà anh ta biết tôi vừa từ Afganistan trở về nhỉ?

    Anh bạn tôi nở một nụ cười bí ẩn:

    – Đấy chỉ là một chút tài mọn của anh ấy thôi. Có hàng đống người muốn biết làm cách nào mà anh ấy khám phá ra mọi việc.

    – Ôi, bí mật chứ gì? – Tôi xoa hai tay. – Có vẻ hấp dẫn đây! Rất cám ơn cậu đã giúp chúng tôi gặp nhau. Cậu biết đấy, tri thức do con người tạo nên mà.

    – Cậu phải tìm hiểu anh ta đấy. – Stamford bảo khi giơ tay chào tôi. – Cậu sẽ thấy anh ta là một vấn đề nan giải cho mà xem. Tôi cá rằng Holmes sẽ biết nhiều điều về cậu hơn là những gì cậu khám phá được từ anh ấy. Chào nhé!

    – Chào cậu! – Tôi đáp lại rồi rảo bước về khách sạn, trong lòng thấy vui vì có thêm mối quan hệ.
     
  6. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    Chương 2: Lý luận khoa học (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chúng tôi gặp nhau theo kế hoạch đã định, cùng nhau xem xét căn nhà số 221B phố Baker mà Sherlock Holmes đã đề cập tới trong buổi gặp trước. Đó là một ngôi nhà gồm có hai phòng ngủ tiện nghi và một phòng khách thoáng khí, có hai cửa sổ rộng. Các căn hộ quá hợp lý cho sự dàn xếp giữa hai chúng tôi đến mức chúng tôi ngay lập tức chiếm lĩnh phần lãnh địa của mình. Ngay tối hôm đó, tôi chuyển luôn đồ đạc từ khách sạn về. Còn sáng hôm sau thì Holmes trở lại với lỉnh kỉnh hòm và va li. Chỉ nội việc mở thùng, xếp dọn tư trang sao cho thuận lợi nhất cũng lấy trọn của chúng tôi một vài ngày. Xong việc, chúng tôi dần làm quen với hàng xóm quanh đó.

    Holmes không hẳn là một người mà bạn thấy khó chung sống cùng. Anh ấy có cái trầm lặng của riêng mình, và sở thích của anh cũng không có gì đặc biệt. Hiếm khi thấy anh ấy còn thức sau mười giờ đêm, lúc nào cũng ăn điểm tâm và rời khỏi nhà trước khi tôi mở mắt chào bình minh. Khi thì anh ấy ém mình cả ngày trong phòng thí nghiệm, lúc ở trong nhà xác. Thỉnh thoảng anh ấy lang thang xuống tận những khu khốn khổ nhất trong thành phố. Chẳng có việc gì khiến anh phải lao tâm khổ tứ, nhưng đôi lần tôi thấy anh ngồi lỳ trên trường kỷ, không nhếch mép nói nửa lời hoặc động chân động tay từ sáng tới đêm. Vào những dịp ấy, tôi cảm nhận sự mơ màng, trống trải trong đôi mắt Holmes khiến tôi đồ chừng anh bạn cùng phòng nghiện ma tuý. Song sự điều độ và sạch sẽ trong sinh hoạt của anh ấy đã gạt phăng cái ý nghĩ mơ hồ của tôi đi.

    Vài tuần lễ đã trôi qua. Mối quan tâm cùng sự tò mò về mục đích sống của anh bạn cùng phòng ngày càng sâu đậm trong tôi. Người thờ ơ nhất dường như cũng phải chú ý tới nội tâm và diện mạo của Holmes. Vì gầy gò nên trông Holmes có cao hơn chiều cao thực tế của thân hình. Đôi mắt anh lanh lợi và sắc nét, khác xa với đôi mắt mà tôi đã ám chỉ trên đây. Cái mũi diều hâu mang lại cho anh một vẻ hoạt bát và quả quyết. Một cái cằm vuông vức nhô ra khẳng định vẻ quyết đoán của Holmes. Hai bàn tay lúc nào cũng lốm đốm mực và vết hóa chất của anh thật mềm mại khi thao tác trên những dụng cụ thí nghiệm dễ vỡ.

    Bạn đọc có thể coi tôi như một kẻ vô công rồi nghề, khi tôi cứ lải nhải mãi những điều đã kích thích trí tò mò. Để rồi tôi luôn gắng sức phá vỡ sự trầm lặng vốn có của anh bạn cùng phòng. Trước khi đưa ra lời đánh giá, bạn hãy lưu ý tới cuộc sống vô đích của tôi, tới mối quan tâm nhỏ bé của tôi. Sức khoẻ của tôi chẳng cho phép tôi rời ổ, trừ khi thời tiết thật ấm áp. Tôi cũng chẳng có bạn bè tới thăm thú và phá vỡ sự đơn điệu của cuộc sống thường nhật. Thế nên tôi chỉ có thể quanh quẩn bên chân và tha hồ thời gian để tìm hiểu về anh bạn tôi.

    Anh ấy không nghiên cứu y khoa. Tự bản thân anh ấy đã làm sáng tỏ nhận định của Stamford. Dường như anh ấy chưa từng theo một khóa học nào để có một tấm bằng khoa học cũng như không có một cánh cửa nào dẫn anh vào thế giới của những người có học thức. Nhưng tâm huyết của anh với từng môn học cụ thể thật đáng nể. Trong sự lập dị giới hạn, kiến thức sâu rộng và óc quan sát kịp thời của anh làm tôi vô cùng sửng sốt. Bảo đảm không có một người nào làm việc quá siêng năng hoặc thu lượm được những thông tin chính xác nhường ấy, trừ phi họ có tầm nhìn vô hạn định. Những người nghiên cứu không hệ thống hiếm khi có được kiến thức chính xác lắm. Chẳng ai lại đi chất vào óc mình những vấn đề cỏn con, trừ khi anh ta có lý do chính đáng để làm điều đó.

    Sự ngu ngơ của anh cũng đáng bàn như kiến thức của anh vậy. Anh hầu như chẳng biết chút gì về văn học, triết học và chính trị hiện thời cả. Khi tôi trích dẫn Thomas Carlyle, anh ấy khờ khạo hỏi ông ta là ai, đã làm được những gì. Sự ngạc nhiên của tôi lên đến tột đỉnh, khi tôi tình cờ thấy anh ấy không biết đến cả học thuyết Copernic lẫn kết cấu của hệ mặt trời. Việc một người sống ở thế kỷ mười chín không biết rằng trái đất quay quanh mặt trời là một sự kỳ lạ mà tôi khó mà chấp nhận được.

    – Anh có vẻ sốc à? – Holmes cười vào vẻ mặt kinh ngạc của tôi. – Bởi thế tôi biết rằng tôi phải cố quên đi điều ấy.

    – Quên đi ư!

    – Anh thấy đấy, – Holmes lý giải – Tôi cho rằng bộ óc con người giống như một căn nhà rỗng, trong đó anh có thể chứa những đồ đạc mình lựa chọn. Kẻ ngốc chứa một mớ kiến thức lộn xộn làm hắn khó mà có thể thu xếp yên ổn được. Một công nhân lành nghề rất cẩn thận khi nạp những gì vào óc mình. Anh ta sẽ không tiếp nhận cái gì ngoài các dụng cụ có thể giúp anh thao tác công việc. Những dụng cụ đó rất đa dạng và tất cả được sắp xếp theo trật tự hoàn hảo. Sẽ sai lầm khi nghĩ rằng căn phòng đó có các bức tường đàn hồi và có thể ních đủ mọi thứ. Có những thời điểm khi anh nạp kiến thức mới cũng là lúc anh quên những điều mà mình đã từng biết đi. Bởi thế, điều quan trọng nhất là không để những thực tiễn vô dụng chèn ép những sự thực hữu ích.

    – Nhưng hệ mặt trời cơ mà! – Tôi phản đối.

    – Nó là quái gì với tôi nào? – Holmes nóng nảy ngắt lời tôi. – Anh nói rằng chúng ta xoay quanh mặt trời. Nếu chúng ta có quay quanh mặt trăng thì tôi hoặc công việc của tôi cũng chẳng mảy may thay đổi.

    Tôi đang định chất vấn thêm một vài điều nữa, nhưng thái độ của anh nhắc nhở rằng có lẽ câu hỏi của tôi không được hoan nghênh. Tôi cân nhắc lại cuộc hội thoại ngắn ngủi và cố gắng đưa ra suy luận của mình. Holmes bảo anh ấy không thu nạp những kiến thức không thuộc mục tiêu. Thế thì, đối với anh ấy, tất cả những hiểu biết là hữu ích. Tôi liệt kê trong đầu tất cả những điểm anh ấy đã thể hiện. Cuối cùng tôi rút ra một cây bút chì và bắt đầu viết. Tôi không thể nhịn cười khi đọc lại những dòng mà tôi đã ghi:


    Sherlock Holmes – những hạn chế

    1. Kiến thức về văn học. Số không
    2. Kiến thức về triết học. Số không
    3. Kiến thức về thiên văn học. Số không
    4. Kiến thức về chính trị. Lờ mờ
    5. Kiến thức về thực vật học. Không ổn định. Rất siêu về cây cà dược, thuốc phiện và các thực vật có độc tính nói chung. Chả biết gì về cây trồng trong vườn cả.
    6. Kiến thức về địa lý. Thực dụng, nhưng hạn chế. Chỉ liếc qua là phân biệt được các loại đất khác nhau. Sau khi đi thực địa về với những vết bùn bắn trên quần, có thể xác định màu và độ chắc của vùng đất ấy.
    7. Kiến thức về hóa học. Sâu sắc
    8. Kiến thức về giải phẫu. Chính xác, nhưng thiếu hệ thống.
    9. Kiến thức về văn học giật gân. Rộng lớn. Anh ấy dường như biết mọi chi tiết về từng vụ án kinh hoàng trong thế kỷ.
    10. Chơi viôlông rất cừ.
    11. Là một chuyên gia côn thuật, đấm bốc, kiếm thủ.
    12. Có một kiến thức uyên bác về luật pháp nước Anh.

    Viết đến đây, tôi thấy lòng đầy thất vọng, vội quăng tọt tờ giấy vào lò. Tôi thầm nhủ: "Nếu mình chỉ tìm thấy mục đích của gã này qua việc đánh giá những tài năng ấy, và khám phá ra một nghề cần tất cả những thứ đó thì mình sẽ dừng lại ngay lập tức".

    Tôi thấy mình đã đụng tới tài chơi viôlông của Holmes. Khả năng đó thật đáng kể, nhưng cũng thật kỳ cục như tất cả những kỳ tài của anh ấy. Anh ấy có thể chơi được rất nhiều bản nhạc, thậm chí cả những bản khó nhằn. Tôi biết rõ điều này, vì theo yêu cầu của tôi, Holmes đã thể hiện cho tôi nghe một phần của bản Lieder của Mendelssohn và những bản nhạc yêu thích khác. Khi có một mình, anh ấy cũng rất ít khi tự sáng tác hoặc thử sức với những bản nhạc đã được thừa nhận. Tựa lưng vào ghế bành, Holmes nhắm hờ mắt và cẩu thả kéo một khúc nhạc. Khi thì âm thanh nghe rền rĩ và u sầu, khi lại rất hào hứng và vui vẻ. Những khúc nhạc đó thể hiện rất rõ ý nghĩ trong đầu Holmes, dù cho anh chơi nhạc vô thức hay say mê. Tôi phát bực vì anh ấy thường kết thúc những khúc ca êm dịu như là phần thưởng cho sự kiên nhẫn của tôi một cách nhanh chóng.

    Trong tuần lễ đầu tiên, chúng tôi không có khách khứa gì, và tôi bắt đầu có ý nghĩ rằng Holmes cũng chẳng có bạn bè gì giống như cái thân tôi vậy. Nhưng gần đây, tôi phát hiện ra anh ấy có rất nhiều mối quan hệ với đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Có một gã mặt chuột kẹp, mắt sẫm, nước da tai tái, tự giới thiệu với tôi là Lestrade, đã qua lại đây ba, bốn lần trong tuần. Một buổi sáng, một cô gái trẻ ăn vận hợp mốt có ghé vào và ngồi lại nửa giờ gì đó. Buổi chiều cùng ngày, một vị khách tóc xám, tiều tuỵ trông như ma cô người Do Thái tới nhà, theo sát gót là một phụ nữ lớn tuổi ăn mặc cẩu thả. Dịp khác, khách tới chơi lại là một quý ông tóc bạc trắng. Có khi khách của Holmes là nhân viên xe lửa mặc đồng phục vải nhung. Khi có bất cứ vị khách nào xuất hiện, Sherlock Holmes thường sử dụng phòng khách, còn tôi thì ẩn mình trong phòng ngủ. Anh ấy luôn mồm xin lỗi vì đã đưa tôi vào hoàn cảnh bất tiện này:

    – Tôi buộc phải sử dụng phòng này như là nhiệm sở, còn những vị đó là khách hàng của tôi.

    Đổi lại tôi có cơ hội hỏi anh thẳng anh nhiều vấn đề, nhưng một lần nữa sự lịch thiệp của tôi lại không cho phép tôi buộc người khác phải thổ lộ với mình. Khi đó tôi đã hình dung rằng Holmes có một vài lý do xác đáng để không bóng gió việc ấy, nhưng anh đã mau chóng gạt bỏ ý định tiếp cận những chủ đề của riêng anh.

    Tôi có rất nhiều lý do để nhớ rõ ràng rằng hôm đó là ngày mùng bốn tháng ba, tôi trở dậy sớm hơn thường lệ và nhận thấy Sherlock Holmes vẫn còn chưa dùng xong bữa sáng. Bà chủ nhà đã quá quen với thói dậy trễ của tôi rồi cho nên bữa sáng của tôi vẫn chưa được dọn lên và cà phê của tôi cũng chưa hề được chuẩn bị. Nhưng với một sự nóng nảy khá vô lý, tôi rung chuông và thông báo tôi đang chờ bữa sáng của mình một cách cộc cằn. Sau đó, tôi cầm lấy tờ báo trên bàn và cố gắng đọc nó trong lúc chờ đợi. Trong khi đó, người bạn đồng hành của tôi vẫn lặng lẽ nhai tóp tép miếng bánh mì nướng của mình. Một bài báo được đánh dấu bằng bút chì ở phần tiêu đề và một cách tự nhiên, ánh mắt tôi hướng vào bài báo đó và chăm chú đọc.

    Tựa đề của bài báo đó khá kêu "Cuốn sách cuộc đời" và nội dung bài báo nhằm vào việc chứng minh rằng một người biết quan sát một cách hệ thống và chính xác bất kỳ thứ gì mình gặp sẽ có thể nhận biết được rất nhiều điều từ sự quan sát đó. Bài báo đó khiến tôi cảm thấy ấn tượng bởi sự kết hợp hết sức xuất sắc giữa một trí tuệ thông minh và những lập luận nghe hết sức vô lý. Lý lẽ đưa ra trong bài báo rất chặt chẽ, sâu sắc nhưng đối với tôi những điều được suy ra từ lý lẽ đó hết sức gượng gạo, cường điệu và thái quá. Tác giả bài viết đó khẳng định rằng qua một cách thể hiện nhất thời, qua một sự co giật của cơ bắp hay qua một ánh nhìn của đôi mắt, người ta có thể khám phá được những suy nghĩ thầm kín nhất của người đối diện. Vì thế, theo tác giả bài báo, đối với những người được đào tạo tốt trong việc quan sát và phân tích, bị lừa dối là điều không bao giờ có thể xảy ra. Những kết luận của anh ta cũng có vẻ chặt chẽ, tưởng chừng như không thể sai lầm giống như những tiên đề của Euclid vậy. Nhưng đối với những người không chuyên nghiệp, những kết luận mà anh ta đưa ra quá bất ngờ, quá giật gân đến nỗi chắc chắn họ sẽ coi anh ta chỉ như một gã thầy đồng cốt nói năng vô căn cứ trừ khi chính bản thân họ trực tiếp chứng thực được kết quả của quá trình mà anh ta đã nêu trong bài báo.


    -Còn tiếp-
     
  7. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    Chương 2: Lý luận khoa học (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tác giả của bài báo viết: "Từ một giọt nước, một người có đầu óc logic có thể suy luận ra được giọt nước đó có nguồn gốc từ Đại Tây Dương hay từ thác Niagara dù chưa từng nhìn thấy hay nghe nói về một trong hai nơi đó. Bởi vì cuộc sống là một chuỗi khổng lồ những điều có liên quan tới nhau nên bất cứ khi nào chúng ta nhìn thấy được một mắt xích nhỏ trong chuỗi mắt xích khổng lồ đó, chúng ta đều có thể biết được bản chất của chúng. Cũng giống như các bộ môn nghệ thuật khác, Khoa học Suy luận và Phân tích là một trong những nghệ thuật mà con người chỉ có thể đạt được thông qua một quá trình nghiên cứu, học tập lâu dài và kiên nhẫn. Và cuộc sống thì không đủ dài để một con người trần tục có thể đạt được cấp độ hoàn hảo đỉnh cao của khoa học này. Trước khi chuyển sang những khía cạnh đạo đức và tinh thần của vấn đề này, vấn đề mà chắc chắn sẽ bao hàm trong nó rất nhiều khó khăn to lớn, hãy cho phép người viết bài này được thử giải quyết những vấn đề cơ bản, sơ đẳng hơn. Chẳng hạn như khi vừa mới gặp một người bình thường, anh ta sẽ sử dụng phương pháp quan sát và phân tích để biết được về quá khứ của người đó, về nghề nghiệp chuyên môn hay nghề nghiệp mà người đó đang dựa vào để kiếm sống. Điều này nghe có vẻ đơn giản như một bài tập thể dục bình thường, nhưng nó giúp mài sắc những khả năng quan sát và dạy cho người ta biết cách quan sát và biết mình phải tìm kiếm điều gì để đạt được mục đích. Qua móng tay của anh ta, qua cái cổ áo mà anh ta mặc, qua đôi giày mà anh ta mang, qua đầu gối ống quần anh ta mặc, qua những vết chai trên ngón trỏ và ngón cái, qua cách anh ta thể hiện mình, qua tay áo sơ mi, nghề nghiệp của người đó sẽ dần được tiết lộ. Tất cả những điều đó có thể giúp cho một người có đầu óc quan sát làm sáng tỏ được những điều tưởng chừng không thể hiểu được.

    – Bài viết nhảm nhí không thể tả được! – Tôi thốt lên, đập mạnh tờ báo xuống bàn. – Tôi chưa từng đọc thứ gì vớ vẩn như thế này.

    – Gì vậy? – Sherlock Holmes hỏi.

    – Gì ư? Bài báo này chứ còn gì! – Tôi nói, chỉ cái thìa ăn trên tay vào tờ báo và ngồi xuống chuẩn bị dùng bữa. – Tôi nhận thấy là anh đã đọc bài báo đó rồi bởi vì tôi thấy có vết bút chì anh đánh dấu. Tôi không phủ nhận rằng bài báo đó được viết khá sắc sảo. Nhưng dù vậy, tôi vẫn cảm thấy bực mình. Rõ ràng đó chỉ là sản phẩm lý thuyết của một gã mọt sách, chỉ biết ngồi trong thư viện và rút ra những kết luận ngược đời này. Chẳng thực tế chút nào cả. Tôi rất muốn trông thấy anh ta bước xuống ga tàu điện ngầm để hỏi anh ta xem anh ta có thể đoán ra được nghề nghiệp của tất cả những người anh ta gặp ở đó qua cái thứ khoa học quan sát và phân tích của anh ta hay không. Tôi dám cược một nghìn ăn một rằng anh ta không thể.

    – Vậy thì chắc chắn anh sẽ thua cuộc, – Holmes nhận xét với một vẻ bình tĩnh. – Bởi vì tôi chính là tác giả của bài báo đó."

    – Anh ư?

    – Phải. Tôi có cả khả năng quan sát lẫn khả năng phán đoán. Những giả thuyết mà tôi đưa ra trong bài báo đó, những giả thuyết mà anh cho là ảo tưởng và hão huyền đó, thực ra hết sức thực tế. Thực tế, đáng tin cậy đến mức mà từ trước tới giờ đó chính là cái cần câu cơm của tôi đấy.

    – Như thế nào? – tôi buột miệng hỏi.

    – Ồ, tôi cũng có nghề nghiệp riêng của mình. Tôi cho rằng tôi là người duy nhất trên thế giới này làm nghề đó. Tôi là một thám tử chuyên đưa ra những lời tư vấn, nếu như anh có thể hiểu được nghề đó là như thế nào. Ở thành phố London này, chúng ta có vô khối thanh tra của chính phủ và cũng chẳng thiếu những thám tử tư. Khi những người đó mắc sai lầm và thất bại, họ tìm tới tôi và tôi cố gắng chỉ ra cho họ những hướng đi đúng đắn. Họ trao cho tôi tất cả những bằng chứng mà họ thu thập được và tôi có thể giúp họ tìm được manh mối từ đó, tất nhiên là phải nhờ tới cả kiến thức của tôi về lịch sử tội phạm. Có thể phân nhóm những hành động xấu xa, phi pháp thông qua sự giống nhau, sự tương đồng giữa chúng. Và nếu như anh đã có trong tay những tình tiết cụ thể của khoảng một nghìn vụ phạm tội thì anh không thể nào không giải quyết được một trong một nghìn vụ đó. Lestrade là một thanh tra cảnh sát nổi tiếng. Gần đây ông ta mới vướng vào một vụ giả mạo giấy tờ khá phức tạp và đó chính là lý do khiến cho ông ta tìm tới đây.

    – Còn những người khác thì sao?

    – Hầu hết bọn họ đều được một thân chủ nào đó cử đến. Tất cả bọn họ đều là những người đang gặp rắc rối về một vấn đề gì đó và họ muốn vấn đề của mình được làm sáng tỏ. Tôi lắng nghe câu chuyện của họ, họ lắng nghe những lời khuyên của tôi và sau đó, tôi được quyền nhét tiền thù lao vào túi.

    – Có nghĩa là dù không cần phải rời khỏi căn phòng này, anh vẫn có thể tháo gỡ được những nút thắt mà những người khác không thể nào giải quyết nổi mặc dù tự họ đã nắm được tất cả những tình tiết của vụ việc? – Tôi hỏi.

    – Đúng vậy. Về vấn đề này, tôi có một giác quan thứ sáu. Nhưng đôi lúc, những vụ việc họ nhờ tới tôi cũng phức tạp hơn một chút. Khi đó, tôi buộc phải ra ngoài và tận mắt quan sát hiện trường. Anh cũng thấy là tôi cũng phải áp dụng những hiểu biết đặc biệt của mình trong việc giải quyết những vụ án và chúng giúp cho vấn đề được giải quyết một cách hoàn hảo. Những phương pháp suy luận mà tôi trình bày trong bài báo đó, những phương pháp khiến cho anh dè bỉu và khinh miệt lại là những điều vô giá đối với tôi trong công việc thực tế của mình. Đối với tôi, khả năng quan sát là một bản năng thứ hai. Khi chúng ta gặp nhau lần đầu tiên, anh đã rất ngạc nhiên khi tôi khẳng định rằng anh từ Afghanistan tới đúng không?

    – Chắc chắn là ai đó đã nói cho anh biết trước đó.

    – Không hề. Tự tôi đoán ra được anh từ Afghanistan tới. Với thói quen được hình thành trong một thời gian dài, một chuỗi những suy nghĩ ngay lập tức thoáng qua trong đầu tôi và tôi đi tới kết luận mà không cần phải thông qua những bước trung gian khác. Tuy nhiên, thực tế là những bước trung gian vẫn tồn tại. Dòng suy nghĩ của tôi diễn ra như sau: Tôi nghĩ rằng "đây là một quý ông có phong thái của một người làm ngành y, nhưng tác phong lại là của một quân nhân trong quân đội. Vậy thì chắc chắn, đây là một bác sĩ quân y. Anh ta vừa mới trở về từ một đất nước ở miền nhiệt đới bởi vì gương mặt của anh ta sạm nắng và đó rõ ràng không phải là màu da tự nhiên của anh ta bởi vì lớp da ở cổ tay anh ta sáng màu hơn những chỗ khác. Anh ta đã sống trong tình trạng khá kham khổ và bị đau ốm. Khuôn mặt hốc hác của anh ta đã cho thấy rõ ràng điều đó. Cánh tay trái của anh ta bị thương vì anh ta cử động nó không được mềm mại và tự nhiên. Vậy thì ở đất nước nào thuộc vùng nhiệt đới, một bác sĩ quân đội người Anh lại phải trải qua một cuộc sống gian khổ đến vậy và lại bị thương? Rõ ràng là chỉ có ở Afghanistan." Và toàn bộ chuỗi những suy luận này chỉ gói gọn trong vòng một giây. Vậy là tôi khẳng định anh từ Afghanistan tới và điều đó đã khiến anh đã hết sức ngạc nhiên.

    – Vì anh đã giải thích cặn kẽ nên mọi việc nghe có vẻ khá đơn giản, – tôi nói và mỉm cười. – Anh khiến cho tôi nhớ tới nhân vật thám tử Dupin của Edgar Allan Poe. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một người như vậy lại có thể xuất hiện bên ngoài những câu chuyện viễn tưởng.

    Sherlock Holmes đứng dậy và châm tẩu thuốc.

    – Chắc chắn là anh đã nghĩ rằng anh đang tán dương tôi khi so sánh tôi với Dupin, – anh nói. – Nhưng theo ý kiến của riêng tôi thì Dupin chỉ là một gã hết sức tầm thường. Cái trò chen ngang vào dòng suy nghĩ của bạn mình với những lời nhận xét đúng lúc sau khoảng mười lăm phút yên lặng quan sát thực sự hết sức phô trương, hời hợt và nông cạn. Tất nhiên là ông ta cũng có khả năng phân tích nhưng ông ta hoàn toàn không phải là một hiện tượng phi thường như Poe tưởng.

    – Anh đã bao giờ đọc các tác phẩm của Gaboriau chưa? – tôi hỏi. – Liệu Lecoq có xứng đáng là một thám tử theo tiêu chuẩn đánh giá của anh không?

    Sherlock Holmes khịt mũi một cách mỉa mai, miệt thị. Anh nói với một giọng tức giận:

    – Lecoq chỉ là một kẻ vụng về đáng thương mà thôi. Ông ta chỉ có một điểm duy nhất đáng quý, đó chính là năng lượng trong con người ông ta. Cuốn sách đó khiến cho tôi cảm thấy phát ốm. Vấn đề là làm thế nào để nhận dạng được một kẻ giết người vô danh. Tôi có thể làm được việc đó trong vòng hai mươi tư giờ. Nhưng Lecoq cần tới sáu tháng hoặc hơn thế. Cuốn sách đó có thể được sử dụng như là một cuốn sách giáo khoa giành cho các thám tử để khuyên họ tránh lặp lại những sai lầm như thế.

    Tôi cảm thấy phẫn nộ vì hai nhân vật mà tôi hết sức ngưỡng mộ đã bị Holmes nhận xét một cách mỉa mai như vậy. Tôi bước đến bên cửa sổ và nhìn xuống con phố đông đúc bên dưới. Tôi tự nhủ:

    – Anh chàng này có thể là người rất thông minh nhưng rõ ràng là hết sức tự phụ.

    – Những ngày này chẳng thấy vụ phạm tội nào xảy ra cả, – anh càu nhàu nói. – Trong nghề nghiệp của chúng ta, có một bộ não để làm gì kia chứ? Tôi biết chắc chắn rằng trong đầu tôi có một bộ óc thông minh, bộ óc đã tạo nên tiếng tăm của tôi. Không ai trên thế gian này đem tất cả từng đó kiến thức và tất cả tài năng của mình vào việc điều tra những vụ phạm tội giống như tôi đang làm. Và kết quả là gì? Chẳng có vụ phạm tội nào để điều tra cả, hay nhiều lắm thì cũng chỉ có vài tên tội phạm vụng về tới mức đến một viên cảnh sát bình thường cũng có thể phát hiện ra được âm mưu quá lộ liễu của hắn.

    Tôi vẫn còn cảm thấy bực mình vì vẻ tự phụ, tự mãn của anh trong đoạn đối thoại vừa rồi. Tôi nghĩ tốt hơn hết là nên thay đổi đề tài.

    – Tôi đang tự hỏi không biết người đàn ông kia đang tìm gì nhỉ? – tôi nói và chỉ vào một người trông có vẻ to lớn, vạm vỡ, ăn mặc đơn giản, đang chậm rãi bước đi phía vỉa hè bên kia, chăm chú nhìn từng số nhà một. Anh ta cầm trên tay một chiếc phong bì khổ lớn màu xanh và rõ ràng trong đó có chứa đựng một tài liệu nào đó.

    – Anh muốn nói đến viên trung sĩ hải quan đã xuất ngũ kia sao? – Sherlock Holmes nói.

    – Đúng là quá tự phụ! – Tôi nghĩ thầm. – Anh ta biết mình không thể kiểm chứng lại những gì anh ta vừa nói mà.

    Ý nghĩ đó vừa vụt qua trong đầu tôi thì người đàn ông mà chúng tôi đang quan sát nhìn thấy số nhà ghi trên cửa nhà chúng tôi và vội vã băng qua đường. Chúng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa rất mạnh, một giọng nói trầm, sâu và tiếng những bước chân nặng nề bước lên cầu thang.

    – Gửi ngài Sherlock Holmes.

    Anh ta nói và bước vào trong phòng, trao cho anh bạn tôi chiếc phong bì.

    Đây đúng là một cơ hội để tôi có thể dập tắt tính tự cao tự đại, kiêu ngạo của Holmes. Anh ấy chắc chắn đã không hề nghĩ gì về điều tôi đang suy tính khi trả tiền cho người đưa thư.

    – Cho tôi hỏi anh làm nghề gì vậy? – tôi nói với một giọng nhẹ nhàng nhất.

    – Gác cửa thưa ngài, – anh ta nói cộc lốc. – Đồng phục đang được mang đi sửa.

    – Vậy anh là? – tôi hỏi và đưa mắt nhìn anh bạn tôi, hơi cảm thấy hả hê, đắc thắng.

    – Trung sĩ thưa ngài. Binh chủng nhẹ Hải quân Hoàng gia, thưa ngài. Không còn câu hỏi gì nữa chứ ạ?

    Anh ta dập hai gót giày vào nhau, giơ tay chào và rời khỏi nhà chúng tôi.

     
  8. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    5. Chương 3: Vụ án ở phố Lauriston Garden (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi phải thú thật rằng tôi đã giật mình bởi bằng chứng hết sức xác thực về tính thực tế của lý thuyết của anh bạn tôi. Sự kính trọng của tôi đối với khả năng phân tích của anh tăng lên trông thấy. Tuy nhiên, trong tâm trí tôi vẫn còn một chút nghi ngờ mơ hồ rằng có thể tất cả chuyện này chỉ là những sự kiện đã được dàn dựng sẵn nhằm làm cho tôi choáng váng và bất ngờ mặc dù anh ta muốn lừa tôi vì mục đích quái quỷ gì tôi cũng không thể nào đoán được. Khi tôi nhìn lên Holmes, anh đã đọc xong lá thư và mắt anh bắt đầu trở lại trạng thái lờ đờ, mơ màng, cho thấy tâm trí anh đang hết sức tập trung.

    – Làm thế quái nào mà anh có thể suy ra được điều đó? – tôi hỏi.

    – Suy ra được điều gì? – Anh xẵng giọng.

    – Rằng người vừa đem thư đến là một trung sĩ hải quân về hưu đó?

    – Tôi chẳng có thời gian quan tâm tới những chuyện lặt vặt đó, – anh trả lời một cách cộc cằn, lỗ mãng. Nhưng sau đó anh mỉm cười:

    – Thứ lỗi cho sự thô lỗ của tôi. Anh vừa mới cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi nhưng có lẽ nó cũng đã bị đứt đoạn rồi. Vậy là anh thực sự không thể nhận thấy người đàn ông đó là một trung sĩ hải quan sao?

    – Đúng là tôi không nhận ra.

    – Thực ra, nhận biết được điều đó dễ dàng hơn khi phải giải thích tại sao tôi nhận ra được điều đó nhiều. Nếu như ai đó yêu cầu anh chứng minh hai cộng hai bằng bốn, có lẽ anh sẽ thấy không hề đơn giản, tuy nhiên, anh vẫn có thể khẳng định chắc chắn rằng điều đó là đúng. Ngay từ lúc anh ta băng qua con phố, tôi đã nhìn thấy hình một chiếc mỏ neo màu xanh được xăm ngay trên mu bàn tay của anh ta. Dấu hiệu đó mang đậm hương vị của biển cả. Tuy nhiên, anh ta lại đi trên một cỗ xe của quân đội và có kiểu râu quai nón chỉ để ở hai bên mai. Vậy là chúng ta có thể khẳng định anh ta là một người làm việc trong hải quân. Chúng ta cũng có thể nhận thấy anh ta có vẻ tự cho mình là quan trọng và một cung cách của người thường chỉ huy, ra lệnh. Anh chắc hẳn cũng đã nhận thấy cái cách anh ta nghiêng đầu và vung cây can của mình. Đó cũng lại là một người đàn ông trung tuổi, cứng cỏi và đáng kính, ồ, cái khuôn mặt đó cùng tất cả những dáng điệu, tác phong của anh ta đều khiến tôi khẳng định chắc chắn hơn rằng anh ta là một trung sĩ.

    – Tuyệt vời! – Tôi buột miệng thốt lên.

    – Bình thường thôi, – Holmes nói, mặc dù nghe trong giọng điệu của anh, tôi nghĩ rằng anh có vẻ khá hài lòng với vẻ ngạc nhiên và ngưỡng mộ của tôi. – Tôi vừa mới nói rằng chẳng có lấy một vụ phạm tội nào. Nhưng hóa ra là tôi đã lầm. Nhìn này!

    Anh ném cho tôi bức thư mà viên sĩ quan vừa đưa tới.

    – Ôi, thật là kinh khủng! – tôi kêu lên sau khi đưa mắt đọc lướt qua bức thư.

    – Có vẻ như có chút gì đó hơi không bình thường, – anh bình tĩnh nhận xét. – Anh có thể đọc to nó lên cho tôi nghe được không? "

    Và bức thư đó như sau:


    " Sherlock Holmes thân mến

    Đêm qua, vào lúc ba giờ, ở Lauriston Gardens trên đường Brixton đã xảy ra một vụ việc kỳ lạ. Một nhân viên cảnh sát của chúng tôi trong lúc đang đi tuần đã nhìn thấy ánh đèn hắt ra từ một căn nhà vào khoảng hai giờ sáng và bởi vì đó là căn nhà không có người ở cho nên anh ta nghi ngờ có điều gì đó không bình thường đã xảy ra. Anh ta thấy cửa trước mở và trong sảnh chính, không có đồ đạc gì, anh ta đã phát hiện ra xác của một người đàn ông, ăn mặc khá sang trọng. Trong túi nạn nhân có vài tấm danh thiếp đề tên "Enoch J. Drebber, Cleveland, bang Ohio, Mỹ." Căn nhà không bị cướp bóc gì cũng như không có bằng chứng gì giúp chúng ta làm sáng tỏ được cái chết của người đàn ông này đã xảy ra như thế nào. Vài dấu máu được để lại trong căn phòng nhưng thi thể của người đàn ông này không hề có thương tích. Chúng tôi cũng chưa tìm hiểu được ông ta vào trong căn nhà không người ở này bằng cách nào. Và sự thật là đây quả là một vụ rất khó giải quyết. Nếu như anh có thể ghé qua đây trước mười hai giờ trưa thì sẽ gặp được tôi. Tôi sẽ vẫn giữ nguyên trạng mọi thứ cho tới khi nào nhận được câu trả lời của anh. Nếu như anh không thể đến, tôi sẽ kể lại chi tiết hơn cho anh nghe, và chúng tôi sẽ rất biết ơn nếu như anh cho chúng tôi một vài ý kiến, gợi ý của anh.


    Trântrọng,

    Tobias Gregson "

    – Gregson là thanh tra giỏi nhất trong số những nhân viên của sở cảnh sát London Scotland Yard, – bạn tôi nói. – Anh ta và Lestrade là hai đỉnh của hai thái cực. Cả hai người bọn họ đều nhanh nhẹn, đầy năng lực và khoẻ mạnh, nhưng ngầm ganh tị nhau – đáng tiếc là như vậy. Cả hai người bọn họ đều không bỏ lỡ cơ hội nào để được chĩa mũi dùi vào nhau. Hai người bọn họ ghen tị và kình nhau như hai vị chúa sơn lâm trong một khu rừng. Chắc chắn vụ này sẽ có nhiều điều thú vị nếu như cả hai bọn họ đều nhúng tay vào điều tra.

    Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy anh cứ đủng đỉnh, thản nhiên nói chuyện. Tôi kêu lên:

    – Chúng ta không nên để lỡ một giây nào cả. Tôi sẽ đi gọi xe cho anh nhé?

    – Tôi chưa biết mình có cần phải đi hay không. Tôi là một kẻ cực kỳ lười biếng. Nhưng tôi sẽ nhanh nhẹn và hoạt bát đúng lúc cần thiết.

    – Sao cơ? Chẳng phải đây là cơ hội mà anh đang mong mỏi sao?

    – Anh bạn thân mến của tôi, việc này thì có ý nghĩa gì với tôi cơ chứ? Cứ giả sử như tôi sẽ vén được tấm màn bí mật bao phủ lên toàn bộ sự việc này đi chăng nữa thì chắc chắn Gregson và Lestrade cùng các đồng nghiệp của họ sẽ vơ hết thành quả về mình. Đó là điều chắc chắn sẽ xảy ra đối với một thám tử tư.

    – Nhưng ông ta đã khẩn thiết nhờ anh giúp ông ta.

    – Đúng thế. Ông ta biết rằng tôi giỏi hơn ông ta và thừa nhận điều đó ở tôi. Nhưng nếu như ông ta đã phải nhờ tới sự giúp đỡ của bên thứ ba chắc chắn ông ta đã rơi vào thế rất bí. Tuy nhiên, chúng ta vẫn nên đến đó xem sao. Một mình tôi sẽ khám phá ra sự thật vụ án này. Sau đó, tôi có thể cười vào mũi họ. Đi nào!

    Anh vội vã khoác chiếc áo choàng ngoài vào. Anh lanh lẹ đi lại, sắp xếp mọi việc khiến cho ai cũng có thể nhận thấy rằng vẻ thờ ơ, lãnh đạm lúc trước giờ đã được thay thế một nguồn năng lượng trẻ trung, năng động.

    – Đội mũ của anh vào đi! – anh nói.

    – Anh muốn tôi cùng đi sao?

    – Tất nhiên, nếu như anh không có việc gì quan trọng hơn phải làm.

    Và một phút sau cả hai chúng tôi đã ngồi trong một cỗ xe ngựa và lao như điên xuống đường Brixton. Đó là một buổi sáng u ám, nhiều mây và sương mù tạo thành một chiếc khăn voan màu xám mỏng phủ trên mái những ngôi nhà dọc hai bên đường, trông giống như màu lớp bùn nhầy nhụa, bẩn thỉu phủ trên những con phố. Người bạn đồng hành của tôi có vẻ đang ở trong trạng thái hết sức hưng phấn và huyên thuyên nói về loại dây đàn Cremona cũng như sự khác biệt giữa một cây đàn kiểu Stradivarius và cây đàn kiểu Amati. Về phần tôi, tôi ngồi yên lặng bởi vì thời tiết u ám và cái vụ việc ảm đạm mà chúng tôi chuẩn bị tham gia vẫn đang đè nặng lên tâm trí tôi.

    – Có vẻ như anh không suy nghĩ nhiều lắm tới vấn đề chúng ta sắp phải giải quyết, – cuối cùng tôi cũng lên tiếng, cắt ngang bài giảng giải dài lê thê về âm nhạc của Holmes.

    – Chúng ta vẫn chưa có dữ liệu gì cả, – anh trả lời. – Việc đưa ra một giả thiết trước khi anh có được toàn bộ bằng chứng là một sai lầm hết sức to lớn. Nó sẽ làm sai lệch những phán đoán của anh.

    – Chẳng bao lâu nữa anh sẽ có được những dữ liệu mình cần thôi, – tôi nói và giơ tay chỉ về phía trước, – Nếu như tôi không nhầm thì đây chính là đường Brixton và đó là căn nhà mà chúng ta cần tới.

    – Đúng vậy. Dừng lại, bác đánh xe, dừng lại!

    Chúng tôi vẫn còn cách ngôi nhà đó khoảng một trăm thước hoặc hơn thế một chút nhưng Holmes vẫn khăng khăng đòi xuống xe và chúng tôi phải đi bộ nốt cuộc hành trình của mình.

    Căn nhà số 3, Lauriston Gardens trông có vẻ ảm đạm, đáng sợ và như muốn báo trước những điềm gở. Đó là một trong bốn ngôi nhà nằm hơi sâu một chút so với mặt phố. Hai ngôi nhà có người ở, còn hai ngôi nhà bỏ không. Hai ngôi nhà bỏ không hướng ra ngoài với ba dãy cửa sổ trống rỗng, tồi tàn, vô hồn và u ám, đáng sợ. Đây đó, trên những tấm cửa kính bụi bặm, lờ mờ có treo tấm biển" Cho thuê". Một khu vườn nhỏ điểm lác đác những cây con ốm yếu đang rời rạc nhú lên. Khu vườn này ngăn cách ngôi nhà với con phố. Dọc khu vườn có một lối mòn hẹp, màu vàng, lẫn lộn đất sét với sỏi. Cả khu này trông nhếch nhác, ướt át và bẩn thỉu sau cơn mưa rả rích suốt đêm hôm trước. Khu vườn được bao quanh bằng một bức tường gạch cao khoảng ba feet, trên cùng là một lớp rào gỗ. Một viên cảnh sát to cao đang đứng vịn cả người vào bức tường, súng giắt bên hông, cổ đang gắng sức nghển lên, mắt căng ra để theo dõi những gì đang diễn ra bên trong.

    Tôi đã tưởng rằng Sherlock Holmes ngay lập tức sẽ phải vội vàng lao vào trong ngôi nhà, chạy tới chạy lui để tìm hiểu bí ẩn của vụ việc. Nhưng có vẻ như anh không hề có ý định làm như vậy. Với một vẻ thờ ơ mà trong hoàn cảnh này tôi cảm thấy như đó là một kiểu điệu bộ màu mè, anh tha thẩn đi lên đi xuống quanh vỉa hè, lơ đãng nhìn xuống mặt đất, nhìn lên bầu trời, quan sát những ngôi nhà đối diện và hàng rào xung quanh. Sau khi đã quan sát một cách kỹ lưỡng, anh chậm rãi bước xuống lối mòn hay nói đúng hơn là bước xuống bãi cỏ mọc bên rìa lối mòn, mắt dán chặt xuống đất. Hai lần, anh dừng hẳn lại và một lần tôi nhìn thấy anh mỉm cười. Tôi nghe thấy anh thốt lên những tiếng kêu tỏ vẻ hài lòng. Có rất nhiều dấu chân còn để lại trên nền đất sét ẩm ướt, nhưng bởi vì cảnh sát đã đi qua đi lại trên lối mòn đó nhiều lần nên tôi cũng không thể hiểu nổi anh bạn đồng hành của tôi sẽ có thể tìm được gì từ những dấu chân đó. Tuy nhiên, bởi vì tôi đã được chứng kiến những điều hết sức đặc biệt về độ nhanh nhạy trong khả năng mẫn cảm của anh nên tôi không hề nghi ngờ rằng anh có thể nhìn ra được rất nhiều điều mà tôi không nhận thấy.

    Ngay trước cửa lâu đài, chúng tôi gặp một người đàn ông cao, khuôn mặt trắng bệch và có mái tóc màu nâu vàng cùng một cuốn sổ trong tay. Ông ta lao tới, bắt chặt tay người bạn đồng hành của tôi đầy tình cảm.

    – Anh thật tốt vì đã đồng ý tới đây, – ông ta nói. – Tôi vẫn để nguyên trạng mọi thứ, chưa ai làm xáo trộn bất cứ thứ gì.

    – Trừ nơi đó phải không? – bạn tôi trả lời và chỉ tay về phía con đường mòn ngoài vườn. – Nếu như một đàn trâu đã đi ngang qua đó thì chắc chắn chẳng có gì có thể lộn xộn hơn. Tuy nhiên, tôi tin chắc là anh đã có được kết luận của riêng mình trước khi anh cho phép người ta tự do đi lại qua lối mòn chứ?

    – Trong nhà, tôi đã có quá nhiều thứ phải quan tâm rồi, – viên thanh tra nói có vẻ lảng tránh. – Đồng nghiệp của tôi, ông Lestrade, lo ở đó. Tôi hoàn toàn tin tưởng khi ông ta bảo vệ chỗ đó.

    Holmes đưa mắt nhìn tôi và nhướn mày lên với vẻ mỉa mai.

    – Khi đã có hai thanh tra như ông và Lestrade ở đây thì chẳng còn gì để cho người thứ ba có thể tìm kiếm nữa, – anh nói.

    Gregson xoa hai tay vào nhau với một vẻ khá tự mãn.

    – Tôi nghĩ chúng tôi đang làm tất cả những gì chúng tôi có thể, – ông ta trả lời. – Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn nghĩ rằng đây là một vụ án hết sức kỳ lạ và tôi biết sở thích của anh là điều tra những vụ như thế này.

    – Ông không đến đây bằng xe ngựa đúng không?

    – Vâng.

    – Lestrade cũng không chứ?

    – Vâng.

    – Nào, giờ hãy đưa chúng tôi tới xem căn phòng một chút.

    Với lời đề nghị có vẻ chẳng mấy ăn nhập với hai câu hỏi trước, anh bước vào căn phòng nơi xảy ra thảm kịch. Gregson theo sau với nét mặt đầy vẻ ngạc nhiên.

    Một hành lang trống không, với sàn nhà không có ván lát phủ đầy bụi bặm, dẫn chúng tôi tới bếp và văn phòng làm việc. Hai cánh cửa được trổ ra, một cánh ở bên trái, còn một cánh ở bên phải. Một trong hai cánh cửa này chắc hẳn là đã bị đóng chặt trong nhiều tuần. Cánh cửa kia là của phòng ăn. Chính trong phòng ăn, bi kịch bí ẩn đã xảy ra. Holmes bước vào và tôi bước vào theo anh. Trong tâm trí tôi dường như có một cảm nhận mơ hồ rằng cái chết vẫn còn đang ngự trị trong căn phòng đó.

    Đó là một căn phòng rộng, hình vuông. Trông toàn cục có vẻ còn rộng hơn nữa bởi trong phòng không hề có đồ đạc. Một tấm giấy dán tường lòe loẹt, hoa mỹ, được sử dụng nhằm trang hoàng thêm cho căn phòng. Nhưng đôi chỗ, giấy dán tường bị ố bẩn vì nấm mốc và đôi chỗ, từng mảng giấy dán tường bong ra lủng lẳng, để lộ lớp vữa vàng vọt ố vàng ở đằng sau. Ngay đối diện cửa vào là một chiếc lò sưởi trông hết sức phô trương, bao quanh là bệ lò sưởi lát đá giả cẩm thạch trắng. Một góc trên bệ lò sưởi có một đống sáp nến màu đỏ đã cháy hết chảy xuống thành đụn. Cánh cửa sổ cô độc phủ đầy bụi bẩn đến nỗi ánh sáng trông như mờ ảo và chập chờn hơn, đồng thời khiến cho mọi vật trong căn phòng đều bị phủ lên bởi một thứ ánh sáng tối tăm, leo lét. Ánh sáng đó chỉ làm cho lớp bụi phủ dày đặc lên toàn bộ căn phòng như càng dày hơn.


    -Còn tiếp-

     
    Chỉnh sửa cuối: 19 Tháng mười hai 2021
  9. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    6. Chương 3: Vụ án ở phố Lauriston Garden (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thực ra tôi không quan sát thấy ngay lập tức tất cả những điều vừa được mô tả ở trên. Lúc mới bước vào căn phòng, sự chú ý của tôi lập tức hút chặt vào thân hình đang nằm cô độc, tím tái và bất động sóng xoài trên nền nhà với đôi mắt trống rỗng, vô hồn nhìn trừng trừng lên trần nhà đã bạc màu. Đó là cái xác của một người đàn ông khoảng bốn ba, bốn tư tuổi, người tầm thước, vai rộng, mái tóc màu nâu đen cứng, dựng đứng và loăn xoăn cùng một bộ râu quai nón ngắn mọc lởm chởm. Ông ta mặc chiếc áo khoác dài vải dạ đen, một chiếc áo chẽn, chiếc quần âu sáng màu, cổ áo và tay áo sơ mi trắng phau. Chiếc mũ đội đầu được chải chuốt cẩn thận nằm trên sàn nhà, ngay bên cạnh ông ta. Hai bàn tay ông ta nắm chặt, cánh tay khuỳnh ra trong khi hai chân đan vào nhau như thể trước khi chết ông ta phải vật lộn với một cơn đau ghê gớm, dữ dội. Trên gương mặt cứng rắn của ông ta hằn lên một nỗi kinh hoàng, và như tôi nhận thấy, cả một sự căm thù, một sự căm thù sâu sắc tới độ tôi chưa bao giờ nhận thấy ở một con người. Vẻ hiểm ác và cả sự biến dạng, méo mó đến khủng khiếp cùng với vầng trán thấp, cái mũi tẹt và quai hàm nhô ra khiến cho vẻ mặt người đàn ông này giống như một con khỉ, xấu xí một cách kỳ lạ. Cái tư thế nằm co quắp, thiếu tự nhiên càng khiến cho cái xác của ông ta trông kinh khủng hơn. Tôi đã từng nhìn thấy nhiều người chết, dưới nhiều kiểu dáng khác nhau, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy đáng sợ như cái xác chết trong căn phòng tối tăm, u ám này, căn phòng nhìn ra một trong những con đường huyết mạch của vùng ngoại ô London.

    Lestrade, gầy gò và yếu ớt như thường lệ, đang đứng ngay trước cửa và chào đón tôi cùng người bạn đồng hành của tôi.

    – Vụ này chắc chắn sẽ tạo nên một cú sốc đấy thưa ngài, – ông ta nhận xét. – Nó khác hẳn những vụ tôi từng biết, và tất nhiên, tôi cũng chẳng còn non nớt nữa khi đưa ra nhận định này.

    – Không có manh mối gì sao? – Gregson hỏi.

    – Không hề, – Lestrade trả lời.

    Sherlock Holmes tiến gần tới cái xác và quỳ xuống quan sát một cách cẩn thận.

    – Ông có chắc là không có vết thương nào trên người nạn nhân không? – anh hỏi, tay chỉ vào rất nhiều vết máu bắn xung quanh.

    – Chắc chắn là không! – cả hai vị thanh tra cảnh sát cùng đồng thanh.

    – Vậy thì, chắc chắn những vết máu này là của một người thứ hai – giả sử như đó là kẻ giết người, nếu như thật sự đây là một vụ giết người. Tôi chợt nhớ lại vụ án về cái chết của Van Jansen ở Utrecht vào khoảng năm 34. Ông có nhớ vụ này không Gregson?

    – Không thưa ngài.

    – Hãy đọc đi – tôi nghĩ là anh nên đọc nhiều hơn đấy. Trên trái đất này, chẳng có điều gì là mới mẻ cả. Tất cả mọi sự việc xảy ra đều tương đồng với sự việc nào đó đã từng xảy ra trước đó.

    Khi anh nói, những ngón tay linh lợi của anh lần từ nơi này qua nơi khác, tới mọi chỗ, sờ nắn, ấn thử, mở khuy, kiểm tra trong khi đôi mắt anh vẫn có vẻ mơ màng cố hữu mà trước đó tôi đã rất chú ý. Nhưng công việc kiểm tra của anh nhanh đến nỗi mà ai không tinh ý chắc chưa kịp nhận ra việc làm của anh thì công việc đã kết thúc rồi. Cuối cùng, anh ngửi môi người chết và liếc qua đế đôi giày bằng da thuộc của nạn nhân.

    – Tư thế của nạn nhân vẫn chưa bị suy chuyển đúng không? – Anh hỏi.

    – Cũng không di chuyển gì nhiều ngoài việc phục vụ cho mục đích điều tra của chúng tôi.

    – Giờ thì các ông có thể đưa anh ta xuống nhà xác được rồi đấy, - anh nói. – Chẳng còn gì để tìm hiểu thêm nữa.

    Gregson đã chuẩn bị một cái cáng và bốn người đàn ông mạnh khoẻ chờ sẵn. Ngay khi ông ta cho gọi, những người này lập tức bước vào phòng và cái xác người đàn ông xấu số được nâng lên và đưa đi. Khi bọn họ nâng ông ta lên, một chiếc nhẫn rớt xuống sàn nhà và lăn một vòng trên sàn trước khi Lestrade nhặt nó lên và chằm chằm nhìn vào nó với ánh mắt bí ẩn.

    – Vụ việc này có dính dáng tới một người phụ nữ, – ông ta kêu lên. – Đây là chiếc nhẫn cưới của một phụ nữ.

    Ông ta đặt chiếc nhẫn trong lòng bàn tay, giơ nó lên trước mặt trong khi nói. Tất cả chúng tôi đều đã đến bên ông ta để quan sát nó. Chắc chắn là chiếc nhẫn vàng trơn đó đã từng là đồ trang điểm trên bàn tay của một cô dâu.

    – Điều này khiến cho vụ việc càng phức tạp hơn, - Gregson nói. – Có Chúa chứng giám, trước khi xuất hiện chiếc nhẫn, toàn bộ sự việc này đã đủ phức tạp lắm rồi.

    – Ông có chắc là chiếc nhẫn này không khiến cho sự việc đơn giản hơn không? – Holmes quan sát chiếc nhẫn và nói tiếp: – Nhìn chằm chằm vào nó thế cũng chẳng có ích gì đâu. Ông tìm thấy gì trong túi nạn nhân không?

    – Chúng tôi vẫn để tất cả mọi thứ ở đây, – Gregson nói và chỉ vào một đống nhỏ đầy những đồ lặt vặt chất ở bậc thang cuối cùng. – Một chiếc đồng hồ bằng vàng, mã số 97163 hiệu Barraud ở London. Một chiếc nhẫn vàng mang biểu tượng của hội tam hoàng. Một đồng xu, đầu bò với đôi mắt gắn bằng hai viên đá rubi đỏ. Hộp đựng thiếp bằng da của Nga với những tấm thiệp đề tên D. J. D. Trên nền lanh. Không có ví nhưng trong túi có bảy bảng ba mươi xu. Một cuốn sách bỏ túi của nhà xuất bản Boccaccios' Decameron có ghi tên Josep Stangerson trên tờ giấy để trống đầu sách. Có hai bức thư, một đề địa chỉ gửi tới E. J. Drebber và một là gửi tới Joseph Stangerson.

    – Địa chỉ ở đâu?

    – American Exchange, Strand. Cả hai đều được gửi từ Công ty Guion Steamship và đề cập tới chuyến đi của con tàu của họ từ Liverpool. Rõ ràng là người đàn ông bất hạnh này đang định trở về New York.

    – Các ông đã điều tra gì về người đàn ông tên là Stangerson chưa?

    – Tôi đã điều tra ngay lập tức rồi, – Gregson nói. – Tôi đã gửi một mẩu quảng cáo tới tất cả các tờ báo và một nhân viên của tôi cũng đã tới American Exchange, nhưng tới lúc này anh ta vẫn chưa quay trở lại.

    – Ông có cử ai tới Cleveland không?

    – Chúng tôi đã gửi điện tới đó vào sáng nay.

    – Ông viết bức điện với nội dung như thế nào?

    – Chúng tôi chỉ mô tả sơ lược tình hình và nói rằng chúng tôi sẽ rất vui nếu có thông tin nào hữu ích cho cuộc điều tra.

    – Ông có đề nghị cung cấp thông tin chi tiết liên quan tới vấn đề nào ông cho là cốt lõi trong cuộc điều tra không?

    – Tôi hỏi về Stangerson.

    – Thế thôi sao? Ông không đề cập tới tình huống nào ông cho rằng vụ việc này có thể có liên quan sao? Ông sẽ không định gửi thêm bức điện nào nữa chứ?

    – Tôi đã nói tất cả những gì mình cần phải nói rồi, – Gregson trả lời với giọng có vẻ bị xúc phạm.

    Sherlock Holmes mỉm cười và đang định nhận xét vài lời thì Lestrade, nãy giờ vẫn ở trong phòng khách trong khi chúng tôi nói chuyện, quay trở lại, xoa hai tay vào nhau với một vẻ khoa trương và tự mãn.

    – Anh Gregson, – ông ta nói, – tôi vừa mới phát hiện ra một điều cực kỳ quan trọng, một điều có lẽ sẽ bị chúng ta bỏ qua nếu như tôi không kiểm tra kỹ lưỡng các bức tường.

    Đôi mắt của người đàn ông nhỏ bé này lấp lánh sáng khi ông ta nói và rõ ràng là ông ta đang phải cố nén niềm hân hoan đang trào lên trong lòng vì đã ghi điểm so với đồng nghiệp.

    – Lại đây, - ông ta nói và quay trở vào trong phòng. Không khí trong căn phòng này đã trở nên nhẹ nhõm hơn sau khi cái xác đã được đưa đi. – Giờ hãy đứng ở đó.

    Ông ta quẹt một que diêm vào đế giày, rồi đưa que diêm đã thắp sáng lên.

    – Nhìn xem! - Ông ta nói một cách chiến thắng.

    Lúc trước tôi đã mô tả rằng trên tường có vài chỗ giấy dán đã rách từng mảng. Trong một góc phòng, một tấm giấy lớn bị xé toang để lại một mảng tường trát vữa thô màu vàng nhạt. Trên đó có ghi nguệch ngoạc một chữ duy nhất: RACHE.

    – Các ngài nghĩ sao? – Viên thanh tra kêu lên như một ông bầu đang giới thiệu show diễn của mình. – Dấu vết này bị bỏ qua bởi vì nó nằm trong góc tối nhất của căn phòng và không có ai nghĩ tới việc kiểm tra nơi đó cả. Kẻ giết người đã viết chữ này lên đó bằng máu của chính mình. Hãy nhìn dấu máu rỏ giọt trên tường đây này. Điều đó chứng tỏ người này có ý định tự tử. Nhưng tại sao người đó lại chọn cái góc này để viết từ đó? Tôi sẽ nói cho các ngài biết. Hãy nhìn cây nến trên bệ lò sưởi mà xem. Chắc chắn, lúc đó cây nến đang cháy và nếu đúng như vậy thì đây sẽ là góc sáng nhất chứ không phải là góc tối nhất trong căn phòng.

    – Giờ anh đã tìm ra chữ đó rồi. Nhưng điều đó thì có nghĩa lý gì cơ chứ? – Gregson hỏi một cách giễu cợt.

    – Nghĩa lý gì ư? Điều đó có nghĩa là người viết đang định viết tên của một người phụ nữ tên là Rachel, nhưng đã bị cắt ngang trước khi anh ta, hoặc là cô ta, kịp hoàn thành nốt từ đó. Hãy nhớ lấy lời tôi, khi vụ này được giải quyết, chắc chắn các ngài sẽ nhận thấy rằng có một người phụ nữ lên là Rachel liên quan tới vụ này. Ngài có thể cười nhạo tuỳ ngài, ngài Sherlock Holmes. Có thể ngài thông minh, sắc sảo, nhưng khi nào mọi sự đã rõ rằng ngài sẽ thấy rằng con chó săn già giàu kinh nghiệm bao giờ cũng là con đứng đầu.

    – Tôi thành thật xin lỗi ngài! – người bạn đồng hành của tôi nói sau khi đã làm mếch lòng vị thanh tra bé nhỏ kia bằng một tràng cười lớn. – Chắc chắn chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng ngài sẽ là người đầu tiên làm sáng tỏ vụ này, và, như ngài vừa nói, mọi dấu vết ở đây đều cho thấy rằng chữ đó là do một người thứ ba viết vào đêm qua. Tôi vẫn chưa có thời gian để kiểm tra căn phòng này, nhưng nếu ngài cho phép, tôi sẽ làm ngay bây giờ.

    Vừa nói, anh vừa lôi ra từ trong túi một chiếc thước dây và một chiếc kính lúp to. Với hai dụng cụ này, anh bước đi nhẹ nhàng quanh căn phòng, đôi lúc dừng lại, thỉnh thoảng quỳ xuống, và một lần anh nằm úp mặt xuống sàn nhà. Anh mê mải tập trung vào công việc của mình đến nỗi anh dường như quên mất sự có mặt của chúng tôi bởi vì trong suốt thời gian đó, anh không ngớt lẩm bẩm một mình, liên tục thốt lên những câu cảm thán, huýt gió, kêu lên nho nhỏ cho thấy sự phấn khích và hy vọng. Khi tôi quan sát anh làm việc, tôi không thể ngăn mình liên tưởng tới một chú chó săn thuần chủng, được huấn luyện bài bản, kỹ càng đang lao tới lao lui quanh hang ổ của con mồi, rên ư ử một cách nóng ruột cho tới khi nó đánh hơi thấy con mồi. Trong khoảng hai mươi phút hay hơn một chút, anh tiếp tục cuộc nghiên cứu của mình, đo đạc một cách chính xác khoảng cách giữa các dấu vết dường như vô hình đối với tôi và thỉnh thoảng áp chiếc thước dây vào những bức tường một cách khó hiểu. Ở một chỗ, anh cẩn thận hớt lên một lớp bụi nhỏ màu xám vương trên sàn và bỏ vào trong một chiếc phong bì. Cuối cùng anh dùng chiếc kính lúp quan sát từ viết trên tường, đi lần lượt từng chữ một chính xác tới từng chi tiết. Xong việc, trông anh có vẻ hết sức hài lòng bởi vì anh đã cất chiếc thước dây và kính lúp vào lại trong túi áo.

    – Người ta nói rằng thiên tài là những người có khả năng làm việc vô tận, – anh nhận xét với một nụ cười. – Đó quả là một định nghĩa tồi về thiên tài, nhưng nó lại áp dụng được một cách hoàn hảo trong công việc của một thám tử.

    Gregson và Lestrade quan sát màn trình diễn của ông bạn thám tử nghiệp dư với vẻ tò mò tột độ cùng một chút thái độ coi thường. Rõ ràng là họ đã không đánh giá đúng mức tầm quan trọng của một sự thật, một sự thật mà tôi đã bắt đầu nhận ra, rằng ngay cả những hành động nhỏ nhặt nhất của Sherlock Holmes cũng là nhằm vào vào một cái đích chính xác và thiết thực.

    – Ngài nghĩ sao về dấu vết đó? - cả hai cùng đồng thanh hỏi.

    – Nếu như tôi giúp các ngài thì chắc chắn các ngài sẽ bị cướp trắng công lao trong vụ này đấy, – bạn tôi nói. – Cho tới thời điểm này các ngài đã làm rất tốt rồi. Cho nên, thật đáng tiếc nếu như có ai đó chen ngang vào thời điểm này. – Những lời anh nói chứa đầy sự chế nhạo và châm chọc. Rồi anh tiếp: – Nếu như các ngài cho tôi biết tiến triển của cuộc điều tra của các ngài tôi sẽ rất vui nếu có thể giúp đỡ được các ngài điều gì đó. Trong khi chờ đợi, tôi muốn nói chuyện với viên cảnh sát đã phát hiện ra cái xác. Các ngài có thể cho tôi biết tên và địa chỉ anh ta ở không?

    Lestrade đưa mắt nhìn vào cuốn sổ tay. – John Rance, – ông ta trả lời. – Giờ anh ta đã hết ca trực và chắc đã về nhà nghỉ ngơi rồi. Ngài có thể tìm anh ta ở số 46, Audley Court, Kennington Park Gate.

    Holmes ghi lại địa chỉ vào cuốn sổ ghi chép của anh.

    – Đi thôi bác sĩ, – anh nói. – Chúng tôi sẽ tới thăm anh ta. Tôi sẽ nói cho các ngài một điều có thể giúp các ngài trong vụ này, – anh quay sang hai viên thanh tra nói tiếp. – Chắc chắn ở đây đã xảy ra một vụ giết người và thủ phạm là một người đàn ông. Anh ta cao khoảng hơn sáu feet, đang ở độ tuổi sung sức, có đôi chân hơi nhỏ so với chiều cao, mặc đồ cẩu thả, đi giày mũi vuông và hút thuốc lá hiệu Trichinopoly. Anh ta đã đến đây cùng với nạn nhân trên một cỗ xe bốn bánh và được kéo bởi một con ngựa đóng ba móng cũ và một móng sắt mới ở chân trước. Rất có khả năng kẻ giết người có khuôn mặt hồng hào và bàn tay phải để móng khá dài. Những điều tôi nói có lẽ chưa phải là nhiều nhưng cũng có thể giúp các ngài được phần nào.

    Lestrade và Gregson nhìn nhau với một nụ cười hoài nghi.

    – Nếu như người đàn ông này bị giết thì ông ta đã bị giết như thế nào? - Gregson hỏi.

    – Đầu độc, – Sherlock Holmes nói cộc lốc và rảo chân bước đi. Khi tới cửa, anh quay lại và nói thêm: – Và còn một điều này nữa, Lestrade, từ "Rache" trong tiếng Đức có nghĩa là trả thù, vì vậy đừng tốn công vô ích vào việc tìm kiếm một người phụ nữ có tên là Rachel.

    Với cú đập cuối cùng này, anh quay lưng bước đi để lại hai vị thanh tra thù nghịch nhau đứng há hốc mồm vì kinh ngạc.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19 Tháng mười hai 2021
  10. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    7. Chương 4: Lời kể của John Rance (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lúc chúng tôi rời khỏi nhà số 3, Lauriston Gardens, thì đã là một giờ chiều. Sherlock Holmes đưa tôi tới bưu điện gần nhất. Ở đó, anh đã gửi đi một bức điện tín dài. Sau đó, anh vẫy một chiếc xe ngựa và yêu cầu người đánh xe đưa chúng tôi đến địa chỉ mà Lestrade vừa cho.

    – Không có gì hữu ích bằng những chứng cứ mới toanh, – anh nói. – Tất nhiên, tôi đã có hướng khá chắc chắn để điều tra ra vụ này rồi nhưng chúng ta vẫn phải biết tất cả những gì cần biết.

    – Anh làm tôi sửng sốt đấy, Holmes, - tôi nói. – Hóa ra là anh cũng không mấy chắc chắn về những chi tiết mà anh vừa đưa ra cho các vị thanh tra. Vậy mà tôi cứ nghĩ rằng anh phải chắc chắn mười mươi về những gì anh nói.

    – Trong công việc này không có chỗ cho sai lầm, – anh trả lời. – Điều đầu tiên tôi để ý tới ngay khi vừa tới ngôi nhà đó là một chiếc xe ngựa đã tạo ra hai vết lún sâu khi ngựa bị ghìm cương rất chặt. Và thực tế là trước đêm hôm qua trời không hề có mưa trong vòng một tuần liền vì thế cỗ xe để lại một vết lún sâu đến như vậy chỉ có thể là đã tới đó sau trận mưa đêm hôm qua mà thôi. Có những dấu vết mà móng sắt của con ngựa kéo xe đã để lại, và có một vết để lại rõ nét hơn hẳn so với ba vết chân còn lại. Điều đó chứng tỏ móng ngựa mới được thay. Bởi vì cỗ xe đã ở đó sau khi trời mưa nhưng lại không hề có cỗ xe nào tới đó trong suốt buổi sáng – vì Gregson đã khẳng định điều này – nên có thể khẳng định rằng cỗ xe ngựa này đã tới đó vào ban đêm, và vì vậy, có thể khẳng định rằng đó chính là chiếc xe ngựa đã đưa hai người đó đến ngôi nhà.

    – Nghe có vẻ rất đơn giản, – tôi nói. – Thế làm sao anh đoán được về chiều cao của người đàn ông còn lại?

    – Tại sao ư? Người ta có thể khẳng định rõ mười mươi chiều cao của người đàn ông thông qua độ dài bước sải chân của ông ta. Đó chỉ là một phép tính đơn giản thôi mặc dù cũng chẳng ích gì khi tôi làm phiền anh với những con số. Tôi có được độ dài bước sải chân của người đàn ông này trên nền đất sét ẩm ướt ngoài vườn và cả trên lớp bụi trong phòng, và tôi có cách để kiểm tra việc tính toán của tôi. Khi một người viết chữ lên một bức tường, bản năng tự nhiên sẽ khiến anh ta viết trên tầm mắt mình một chút. Và tôi đã đo được độ cao từ đất tới nơi anh ta viết chữ là 6 feet. Đây chỉ là một trò trẻ con mà thôi.

    – Thế còn tuổi của anh ta? – tôi hỏi.

    – Ồ, nếu một người đàn ông có thể bước một bước chân dài bốn feet rưỡi mà không gặp một chút khó khăn nào thì chắc chắn anh ta phải là một người trung niên khoẻ mạnh và cường tráng. Đó cũng chính là độ rộng của vũng nước trên lối đi trong vườn mà chắc chắn là anh ta phải đi ngang qua. Người đi đôi giày da thuộc đã đi vòng qua vũng nước đó, nhưng người đàn ông đi đôi giày mũi vuông thì nhảy qua nó. Điều này chẳng có gì là bí ẩn cả. Tôi chỉ làm một việc đơn giản là áp dụng vào cuộc sống đời thường một số ít những quy tắc của khoa học quan sát và suy luận mà tôi đã viết trong bài báo đó. Còn điều gì khiến anh không hiểu nữa không?

    – Chuyện về móng tay của ông ta và thuốc lá hiệu Trichinopoly mà anh ta hút, – tôi nói.

    – Chữ viết trên tường được viết bằng cách nhúng ngón tay chỏ vào trong máu. Chiếc kính lúp của tôi cho phép tôi quan sát thấy là lớp vữa trên tường hơi bị cào xước. Điều này sẽ không thể xảy ra nếu như móng tay anh ta được cắt bằng. Tôi cũng đã lượm được một chút tàn thuốc trên sàn nhà. Tàn thuốc xám màu và dễ tan như bông tuyết. Tàn thuốc kiểu như thế chỉ có thể là từ điếu xì gà hiệu Trichinopoly. Tôi đã từng nghiên cứu về các loại tàn thuốc lá và thực tế là tôi còn viết cả một bài chuyên khảo về vấn đề này. Tôi cảm thấy tự hào rằng tôi có thể phân biệt được tàn của bất kỳ loại thuốc hay loại xì gà nào tồn tại trên thế giới này khi chỉ mới nhìn thoáng qua. Đó chính là những chi tiết khiến cho một thám tử lão luyện khác hẳn với những thám tử kiểu như Lestrade và Gregson.

    – Thế còn về gương mặt hồng hào? - tôi hỏi.

    – A, đó là một phán đoán liều lĩnh mặc dù tôi chắc chắn rằng tôi đúng. Anh không nên hỏi tôi điều đó khi vấn đề vẫn còn ở trong tình trạng hiện tại.

    Tôi phác một cử chỉ qua trán và nhận xét: – Đầu óc tôi đang quay mòng mòng lên rồi. Càng nghĩ về vụ này, người ta càng cảm thấy nhiều điều bí ẩn. Làm thế nào mà hai người đàn ông có thể vào được trong căn nhà trống đó – nếu đúng là có hai người đàn ông thật? Người đánh xe đưa họ tới đó là ai? Làm thế nào mà thủ phạm giết người bắt ép được nạn nhân uống chất độc? Máu rớt trên sàn và máu viết trên tường từ đâu ra? Mục đích của vụ giết người này là gì, bởi vì tất cả đều khẳng định sự việc này không liên quan tới việc cướp của? Tại sao lại xuất hiện chiếc nhẫn của một người phụ nữ ở đó? Và trên hết là tại sao kẻ giết người lại phải viết từ Rache bằng tiếng Đức trước khi tẩu thoát? Tôi phải thừa nhận rằng tôi không biết làm cách nào để xâu chuỗi những sự kiện này lại với nhau.

    Người bạn đồng hành của tôi mỉm cười với vẻ đồng tình và nói:

    – Anh đã tóm tắt rất súc tích và rất thành công những khó khăn mà hiện giờ chúng ta cần phải giải quyết. Hiện tại vẫn còn rất nhiều điều mơ hồ mặc dù tôi đã định hình được một cách cơ bản vụ việc này. Còn về phát hiện của ông bạn Lestrade tội nghiệp, thật là sai lầm khi hướng cuộc điều tra của cảnh sát tới chủ nghĩa cộng sản và những tổ chức bí mật. Sự việc này không phải do một người Đức gây ra. Nếu như anh để ý, chữ A được viết phỏng theo kiểu viết chữ in của người Đức. Nhưng một người Đức thực sự bao giờ cũng viết chữ latin theo kiểu chữ latin vì thế chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng đây không phải là chữ viết của một người Đức mà là của một kẻ mạo danh vụng về. Hắn ta đã làm hơi quá tay trong phần việc của mình. Việc viết chữ như vậy chỉ đơn giản là nhằm mục đích đưa cuộc điều tra của cảnh sát đi chệch hướng. Tôi sẽ không nói thêm gì nữa cho anh về vụ này đâu, bác sĩ ạ. Anh cũng biết là một nhà ảo thuật sẽ chẳng được lợi lộc gì khi đem phơi bày hết những kỹ thuật của mình ra trước thiên hạ. Và nếu như tôi giải thích cho anh quá cặn kẽ phương pháp làm việc của tôi thì chắc chắn anh sẽ đi tới một kết luận rằng cuối cùng thì tôi cũng chỉ là một kẻ hết sức bình thường như bao người khác mà thôi.

    – Tôi sẽ không bao giờ nghĩ như vậy, – tôi trả lời. – Anh đã biến công việc điều tra của mình thành một khoa học của sự chính xác, một khoa học chưa từng ai trên thế giới này biết đến.

    Người bạn đồng hành của tôi đỏ mặt vì hài lòng với những lời tôi vừa nói cùng cái cách hết sức chân thành mà tôi thốt ra những từ đó. Tôi đã nhận thấy rằng Holmes hết sức nhạy cảm với những lời người khác tán dương tài năng của anh giống như tình cảm của bất cứ một cô gái nào đối với sắc đẹp của mình.

    – Tôi sẽ nói với anh một điều nữa, – anh nói. – Người đi đôi giày da thuộc và người đi đôi giày mũi vuông đến ngôi nhà đó trên cùng một chiếc xe ngựa và họ cùng bước trên lối đi trong vườn như hai người bạn thân thiết, rất có thể là tay trong tay. Khi họ bước vào trong nhà, họ còn đi lên đi xuống xăm xoi căn phòng – hay nói đúng hơn là người đi giày da thuộc đứng yên trong khi người đi giày mũi vuông đi lên đi xuống. Tôi biết được tất cả những điều đó thông qua lớp bụi trên sàn nhà và tôi còn có thể nhận thấy rằng càng bước đi, anh ta càng trở nên kích động. Điều này thể hiện rõ qua việc độ dài những bước chân của anh ta ngày càng tăng. Suốt thời gian đó, anh ta không ngừng nói và chắc chắn là cuối cùng anh ta bùng nổ trong một cơn giận dữ. Sau đó, thảm kịch đã xảy ra. Tôi đã nói cho anh tất cả những gì tôi biết bởi vì những điều còn lại chỉ là những ước đoán và giả định. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã có một cơ sở khá vững chắc để bắt đầu rồi. Chúng ta cần phải nhanh lên vì tôi rất muốn chúng ta có kịp giờ để tới rạp hát Halle để nghe Norman Neruda biểu diễn tối nay.

    -Còn tiếp-
     
    JohannaẤn Nguyệt Phù Dung thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 19 Tháng mười hai 2021
  11. Tống Tử Hân

    Bài viết:
    255
    8. Chương 4: Lời kể của John Rance (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuộc nói chuyện vừa rồi của chúng tôi diễn ra trong khi cỗ xe của chúng tôi băng qua những con phố bẩn thỉu, dơ dáy và những đường tắt tối tăm. Trên một con phố bẩn thỉu nhất, tối tăm nhất, người đánh xe bất chợt dừng lại. – Bên trong kia là Audley Court, – anh ta nói và chỉ vào một con đường nhỏ xíu, hẹp như một khe hở giữa hai hàng gạch xỉn màu. – Tôi sẽ đợi các ngài ở đây.

    Audley Court không phải là một nơi hấp dẫn gì cho lắm. Con đường nhỏ hẹp dẫn chúng tôi tới một cái sân bên trong, hai bên là những lá cờ và hàng dài những ngôi nhà tồi tàn, nhớp nhúa. Chúng tôi băng qua những đám trẻ con bẩn thỉu đang chơi đùa và những hàng dây nghênh ngang chăng đầy quần áo để tới căn hộ số 46. Cánh cửa căn hộ đó được trang trí bằng một tấm biển nhỏ bằng đồng thau khắc tên Rance. Khi hỏi thăm, chúng tôi được biết, viên cảnh sát đang ngủ và chúng tôi được dẫn vào một phòng khách nhỏ ngồi chờ anh ta.

    Một lát sau, anh ta xuất hiện, trông có vẻ hơi bực mình vì giấc ngủ ngon bị phá vỡ. – Tôi đã báo cáo hết mọi việc ở sở cảnh sát rồi, – anh ta nói.

    Holmes lôi ra một đồng nửa bảng từ trong túi và trầm ngâm mân mê đồng tiền. – Chúng tôi cho rằng, chúng tôi muốn được nghe lời khai từ chính miệng anh cơ, – anh nói.

    – Tôi sẽ rất vui nếu như tôi có thể cung cấp cho các ngài thông tin gì đó, – viên cảnh sát trả lời, hai mắt dán chặt vào đồng tiền vàng nhỏ xíu trên tay Holmes.

    – Chỉ cần kể cho chúng tôi nghe tất cả những gì anh đã chứng kiến theo cách của riêng anh thôi.

    Rance ngồi xuống chiếc ghế sofa bọc bằng vải lông ngựa, lông mày nhíu lại như thể cố gắng nhớ để không bỏ sót bất cứ điều gì khi kể lại câu chuyện.

    – Tôi sẽ kể lại từ đầu cho các ngài. Ca trực của tôi bắt đầu từ đêm cho tới sáu giờ sáng. Vào lúc mười một giờ, một cuộc ẩu đả xảy ra ở White Hart nhưng các quán bar ở khu vực tôi tuần tra đều yên ổn. Lúc một giờ, trời bắt đầu đổ mưa và tôi gặp Harry Murcher – khu vực tuần tra của anh ấy là ở Holland Grove – và chúng tôi đã đứng tán gẫu với nhau ở góc phố Henrietta. Sau đó, khoảng hai giờ hay hơn một chút, tôi nghĩ là mình cần phải đi một vòng xem ở đường Brixton có ổn không. Toàn bộ con đường bẩn thỉu, lầy lội và không một bóng người. Tôi không nhìn thấy bất cứ ai trên đường phố mặc dù có một hay hai chiếc xe ngựa có đi ngang qua tôi. Tôi đang rảo bước xuống phố và đang mải mê suy nghĩ rằng nếu lúc này có vài ly rượu gin vào người chắc chắn sẽ rất ấm áp thì bỗng nhiên tôi nhìn thấy một tia sáng phát ra từ ngôi nhà đó. Tôi đã biết rằng hai ngôi nhà ở Lauriston Gardens không có người ở bởi vì người chủ của một trong hai ngôi nhà đó không có họ hàng còn người sống ở ngôi nhà kia cũng đã chết vị bệnh thương hàn. Vì thế, tôi chợt chột dạ khi nhìn thấy ánh đèn phát ra từ cửa sổ và tôi e rằng có điều gì đó không ổn. Khi tôi tới gần cánh cửa chính..

    – Anh đã dừng lại và sau đó quay trở lại chỗ cổng vườn, - người bạn đồng hành của tôi ngắt lời. – Tại sao anh lại làm như vậy?

    Rance nhảy dựng lên và nhìn chằm chằm vào Sherlock Holmes với sự ngạc nhiên tột độ. Anh ta nói: – Đúng là như vậy thưa ngài, mặc dù tôi không biết làm thế quái nào mà ngài biết được điều đó. Chỉ có Chúa mới biết được. Ngài thấy đấy, khi tôi bước tới cánh cửa, mọi vật hoàn toàn yên tĩnh, lặng như tờ đến nỗi tôi đã nghĩ rằng thật là tệ vì tôi chỉ có một mình. Không phải là tôi không can đảm, nhưng tôi nghĩ rằng có thể đó chính là người nhà người đã chết vì bệnh thương hàn đang quay lại để tìm hiểu kiểm tra đồ đạc trong nhà. Cái ý nghĩ đó khiến cho chút gì thuộc về bản năng trong tôi trỗi dậy và tôi bước lại phía cánh cổng xem có nhìn thấy ánh đèn lồng của Murcher hay không. Nhưng không hề thấy anh ta, cũng như không thấy bóng một ai quanh đó cả.

    – Không có ai trên phố sao?

    – Không một ai thưa ngài cũng như không có lấy một con chó hoang. Sau đó, tôi định thần lại và quay trở lại căn nhà, đẩy cửa chính. Bên trong, tất cả đều tĩnh lặng vì vậy tôi bước vào trong căn phòng phát ra ánh sáng. Có một cây nến đang chập chờn cháy trên bệ lò sưởi, một cây nến màu đỏ, và dưới ánh sáng của nó, tôi nhìn thấy..

    – Phải, tôi biết tất cả những gì anh nhìn thấy. Anh đi lại quanh căn phòng vài lần và anh quỳ xuống bên cái xác và sau đó anh đi kiểm tra khắp nơi, thử mở cửa phòng bếp. Tiếp theo..

    John Rance nhảy dựng lên với gương mặt giận dữ và ánh mắt nghi hoặc. Anh ta kêu lên: – Lúc đó ngài ở đâu mà có thể nhìn thấy tất cả những chuyện đó? Tôi có cảm giác như ngài đã biết nhiều hơn rất nhiều so với những gì lẽ ra ngài nên biết rồi đấy.

    Holmes cười lớn và ném một tấm danh thiếp lên bàn, đẩy về phía viên cảnh sát. Anh nói: – Anh không có ý định bắt tôi vì tội giết người đấy chứ? Tôi là một trong số những người săn mồi chứ không phải là con mồi. Ngài Gregson hay ngài Lestrade đều có thể chứng minh điều đó. Nào, tiếp tục đi. Sau đó anh làm gì tiếp?

    Rance ngồi trở lại chỗ của mình nhưng vẫn còn chưa hết ngạc nhiên. – Tôi quay lại chỗ cổng vườn và thổi còi. Tiếng còi của tôi đã gọi Murcher và hai người khác nữa tới hiện trường.

    – Lúc đó đường phố có còn vắng vẻ nữa không?

    – Ồ, đường phố hoàn toàn vắng vẻ ngoại trừ một gã đến đứng còn không nổi.

    – Ý anh là sao?

    Gương mặt viên cảnh sát ngay lập tức giãn ra với nụ cười ngoác tới tận mang tai. – Trong những ca trực của mình, tôi đã gặp rất nhiều gã say rượu nhưng chưa bao giờ tôi gặp một gã say rượu hò hét ác như thằng cha đó. Lúc tôi ra tới ngoài cửa thì thấy hắn ta đang đứng tựa người vào hàng rào và hát đến vỡ phổi bài hát về Ngọn cờ mới ở Colombia hay những thứ đại loại như thế. Anh ta thậm chí còn không đứng vững chứ đừng nói tới chuyện giúp đỡ.

    – Trông anh ta thế nào? – Sherlock Holmes hỏi.

    John Rance tỏ ra có vẻ tức tối vì sự cắt ngang này của Holmes. – Anh ta là một gã say rượu kỳ quặc. Chắc chắn khi tỉnh dậy anh ta sẽ thấy mình đang nằm ở nhà ga nếu như chúng tôi không giúp đỡ anh ta.

    – Mặt mũi anh ta, quần áo anh ta như thế nào? Anh không để ý đến chúng sao? – Holmes mất kiên nhẫn cắt ngang.

    – Tôi có để ý thấy chứ vì ngài biết đấy, tôi đã vực anh ta dậy cơ mà. Tôi và Murcher, cùng xốc anh ta dậy. Anh ta là một gã cao, ặơng mặt đỏ au. Phần thân dưới được cuốn quanh..

    – Chắc chắn là như thế rồi, – Holmes kêu lên. – Rồi anh ta đi đâu?

    – Chúng tôi đã có đủ việc phải làm rồi, đâu còn thì giờ mà quan tâm tới anh ta, – viên cảnh sát nói, giọng có vẻ bực mình. – Tôi có thể khẳng định là từ đó anh ta có thể tìm đường về nhà một cách ổn thỏa.

    – Anh ta ăn mặc như thế nào?

    – Một chiếc áo choàng màu nâu.

    – Anh ta có cầm một chiếc roi da trong tay không?

    – Một chiếc roi da ư? Không!

    – Chắc hẳn là anh ta đã bỏ lại chiếc roi ngựa, – anh bạn tôi lẩm bẩm. – Sau đó anh không tình cờ trông thấy hay nghe thấy tiếng một cỗ xe ngựa đi qua sao?

    – Không.

    – Đây là đồng nửa bảng dành cho anh, – bạn tôi nói, đứng lên và với mũ. – Rance, tôi e rằng anh sẽ không bao giờ mọc mũi sủi tăm lên được trong lực lượng cảnh sát đâu. Cái đầu của anh chỉ có thể được sử dụng như một thứ đồ trang sức mà thôi. Lẽ ra đêm hôm qua anh đã có thể lập công để ghi thêm một vạch sao trên ve áo rồi đấy. Người đàn ông mà anh dìu trong tay mình chính là người đàn ông nắm đầu mối của vụ việc này và cũng là người mà chúng tôi đang tìm kiếm. Giờ có tranh cãi về vấn đề này cũng chẳng ích gì. Anh chỉ cần nhớ điều tôi vừa nói với anh mà thôi. Đi thôi, bác sĩ.

    Chúng tôi cùng nhau rời khỏi khu nhà đó, để lại đằng sau viên cảnh sát đứng đó hoài nghi nhưng rõ ràng là chẳng mấy thoải mái về những gì vừa được nghe.

    – Đúng là một thằng ngốc vụng về, ngớ ngẩn! – Holmes nói một cách cay đắng khi chúng tôi trên đường trở về nhà. – Hãy thử nghĩ mà xem, anh ta đã có được cái may mắn nghìn năm có một như vậy mà không biết nắm bắt lấy nó.

    Tôi vẫn còn cảm thấy rất mờ mịt. Rõ ràng là mô tả nhận dạng của người đàn ông đó trùng khớp với những gì anh nói về một người thứ hai trong vụ này. Nhưng tại sao anh ta lại quay trở lại ngôi nhà sau khi đã trốn khỏi đó rồi? Đó không phải là cách mà những tên tội phạm thường làm.

    – Chiếc nhẫn, anh bạn ạ, vì chiếc nhẫn mà anh ta phải quay trở lại. Nếu như chúng ta không còn cách nào khác để tóm được anh ta thì chúng ta sẽ phải dùng chiếc nhẫn như miếng mồi nhử. Tôi sẽ tóm được hắn ta bác sĩ ạ. Tôi dám cá một gấp đôi với anh rằng tôi sẽ tóm được hắn ta. Tôi cần phải cảm ơn anh vì tất cả những điều này. Tôi đã không bao giờ tham gia vụ này nếu như không phải là vì anh. Và nếu thế, tôi sẽ bỏ lỡ mất một vụ án hoàn hảo nhất mà tôi từng gặp: Vụ án màu đỏ được không? Tại sao chúng ta lại không thể dùng một thuật ngữ nghệ thuật để đặt tên cho nó nhỉ? Có một sợi dây giết người nhuộm máu đỏ xuyên suốt một cuộn chỉ rối rắm không màu sắc, đó là cuộc đời và nhiệm vụ của chúng ta là phải tháo gỡ cuộn chỉ đó, chia tách thành sợi nhỏ và bóc trần từng milimét trong cái cuộn chỉ đó. Còn bây giờ, chúng ta sẽ đi ăn trưa, sau đó sẽ tới xem buổi biểu diễn của Norman Neruda. Phong cách biểu diễn và màn cúi chào của cô ấy thật tuyệt vời. Đoạn nhạc đó của Sô panh cô ấy chơi mới tuyệt vời làm sao: Tra-la-la-lira-lira-lay.

    Ngả người vào sâu trong xe, vị thám tử lừng danh hát líu lo như một con chim chiền chiện trong khi tôi ngồi đó, chìm vào suy ngẫm về những phần còn tiềm ẩn của tâm trí con người.
     
    JohannaẤn Nguyệt Phù Dung thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 19 Tháng mười hai 2021
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...