Đoạn trích "Trao Duyên" được tìm hiểu trong chương trình ngữ văn lớp 11. Và được giảng dạy trong một tiết. Với số lượng kiến thức cần nắm, việc phân tích cũng cần đòi hỏi học sinh hiểu đoạn trích một cách cụ thể. Để giúp các bạn học sinh dễ dàng tiếp cận, sau đây là bài viết tham khảo. Phân tích đoạn trích "Trao Duyên" của Nguyễn Du. Bài làm Bánh xe thời gian vẫn chưa khắc nào ngừng quay và dòng chảy văn học Việt Nam vẫn đang vận hành theo cách mà nó vốn phải như vậy, ấy thế mà Truyện Kiều vẫn luôn được đánh giá là một viên ngọc toàn bích, "bám rễ sinh sôi" trong tâm tưởng của người Việt Nam qua nhiều thế hệ, phải chăng chính hai chữ "thương người" của Nguyễn Du đã làm nên tất cả? Nói như Mộc Liên Đường Chủ Nhân: "Nguyễn Du viết Kiều như có máu rỏ lên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua từng trang giấy." Quả thật vậy, câu nói ấy chẳng hề sai khi đến với đoạn trích Trao Duyên - một đoạn trích được đánh giá là đoạn trích lâm ly nhất trong tác phẩm Truyện Kiều. Bằng hết thảy sự đồng cảm, thương cảm, xót xa, khổ đau cho nỗi bất hạnh của con người, đoạn trích đã vang lên khát vọng về hạnh phúc, về tình yêu. Để từ đó thắp lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích "Trao Duyên" nằm trong phần "Gia biến và lưu lạc" từ câu 723 đến câu 756 trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khi biến cố gia đình bất chợt xảy đến - chịu oan uổng, cha và em trai bị bắt, chứng kiến cảnh người thân phải chịu hình đánh đập, Thúy Kiều đã phải hy sinh mối tình với Kim Trọng để bán mình chuộc cha. Đợi khi chuyện gia đình đã ổn thỏa, trước ngày lên kiệu hoa, Thúy Kiều thức trắng đêm nghĩ về thân phận, về tình yêu và đau đớn cho mối duyên phận vừa chớm nở đã phải lụi tàn, để rồi cuối cùng: "Hở môi ra cũng thẹn thùng Để lòng thì phụ tấm lòng với ai." Thúy Kiều đã quyết định trao mối duyên giữa mình với Kim Trọng lại cho Thúy Vân, nhờ em nối tiếp nhân duyên, trả nghĩa ân tình cho Kim Trọng. "Cậy em, em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa." Chẳng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du được gọi với danh xưng "bậc thầy sử dụng ngôn từ", bằng chất liệu ngôn từ đời thường, qua lăng kính nghệ thuật cùng bàn tay tài hoa của mình, Nguyễn Du đã chọn lọc và sử dụng những từ ngữ hết sức ý tứ. Từ "cậy", "chịu lời", "lạy- thưa" được sử dụng vô cùng đắt giá. Từ "cậy" được đưa lên đầu câu mang nét nghĩa chính là nhờ ai giúp đỡ điều gì, có sự tương đồng về nghĩa với từ "nhờ", song bên cạnh nét nghĩa chính, từ "cậy" còn mang nhiều nét nghĩa hàm ẩn. Là sự gửi gắm, tin tưởng trong từ "tin cậy", là sự trông mong hy vọng tha thiết trong từ "trông cậy". Xét về âm điệu từ "cậy" là thanh trắc tạo nên êm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, vật vã trong nội tâm Thúy Kiều. Trong khi từ "nhờ" là thanh bằng đã phần nào làm giảm đi khả năng thể hiện nội tâm đau đớn của nhân vật. Qua đó ta thấy được sự tin tưởng gần như tuyệt đối của Thúy Kiều dành cho Thúy Vân, coi Vân như người có thể nhờ cậy đến phút cuối cùng. Cũng là một trường hợp sử dụng từ ngữ đặc sắc, ta bắt gặp từ "chịu lời". Vì điều gì trong hai từ có cùng sự tương đồng về nghĩa là "nhận lời" Nguyễn Du lại chọn "chịu lời" trong câu thơ của mình? Bởi "nhận lời" tức là đồng ý với tâm thái thoải mái và tự nguyện, trong khi "chịu lời" lại mang nghĩa là nài ép, bắt buộc, không nguyện ý cũng phải nhận. Cho thấy Thúy Kiều đã rất hiểu cho tình thế, cảm xúc và nỗi lòng của Thúy Vân, hiểu nếu "chịu lời" Vân sẽ phải hứng chịu những thiệt thòi ra sao. Càng tài tình hơn là Thúy Kiều bằng lòng quỳ lạy, thưa gửi với chính em của mình. Trong xã hội phong kiến mang nhiều lễ giáo vô cùng chặt chẽ lúc bấy giờ, lạy - thưa chỉ là cử chỉ của người bề dưới đối với người bề trên, trong khi Thúy Kiều là chị lại "lạy", "thưa" với Thúy Vân - em của mình. Điều đó mang đến sự nghịch lý, trái với nguyên tắc đương thời. Nhưng từ cái phi lý ấy lại chuyển thành hợp lý khi sử dụng trong quan hệ giữa ân nhân, người ban ơn với kẻ chịu ơn. Thúy Kiều coi Thúy Vân là ân nhân của mình, điều đó thể hiện sự tôn trọng trước những điều Thúy Vân sẽ làm cho mình, nàng có lòng tin và tin chắc rằng Thúy Vân sẽ không thể từ chối. Bằng những từ ngữ hết sức tinh tế và cẩn trọng, chỉ hai câu thơ ngắn ngủi, Kiều đã đặt Vân vào một tình thế khó lòng khước từ, qua đó ta phần nào thấy được sự thông minh, suy nghĩ sâu sắc cặn kẽ của người con gái tài sắc vẹn toàn. Không để Vân có cơ hội từ chối, đến những câu thơ tiếp ta thấy sự dứt khoát, rõ ràng và vắn tắt, thể hiện qua các lý lẽ trao duyên của Thúy Kiều. "Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em!" Tình yêu luôn bắt đầu bằng nỗi tương tư, mong nhớ. Có ai từng thương, từng yêu lại chẳng từng tương tư đôi lần? Nhưng "gánh tương tư" ấy lại được nối với vế trước là "Giữa đường đứt gánh" tác giả sử dụng thành ngữ quen thuộc nói về mối tình đang chớm nở bỗng chốc phải lụi tàn, ta thấy ở trong đó ẩn chứa cả sự tiếc nuối, đau đớn cho một mối tình dở dang không trọn vẹn. Khắc họa rõ nét tình cảnh bất lực mà Kiều phải chịu. Mọi việc Kiều chỉ đánh phó thác cho em gánh, ở đây dùng chỉ nối mối tơ duyên. Có câu: "'Nguyệt lão' se tơ tình mong đợi Tơ hồng kết đôi, nối chữ 'duyên'." Tình duyên có đẹp, tình cảm có mặn nồng đến đâu thì đối với Thúy Vân có liên quan chăng? Khi tơ duyên này đã đứt, đối với Thúy Vân, Kiều hiểu rằng đó chỉ là một mối tơ thừa. Nhưng rồi, hai từ "mặc em" được cất lên, Kiều hiểu Vân phải chịu thiệt thòi là thế nhưng chỉ đành phó thác hết thảy lại cho em. Bốn câu thơ ẩn chứa trong đó là giọng thơ mang sự nài nỉ, sự ủy thác cùng trông cậy của Kiều giống như một sợi dây vô hình buộc chặt lấy Vân, đưa Vân vào tình thế khó lòng từ chối. Nếu bốn câu trên là lời mở đầu thì đến những vần thơ tiếp theo, Thúy Kiều mới thực sự nói ra lý do minh bạch: Nàng kể về mối tình giữa mình với Kim Trọng. "Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề." Nghệ thuật điệp từ được sử dụng trong cả hai câu thơ là chữ "khi" : "Khi gặp", "khi ngày", "khi đêm" thể hiện việc Kim Trọng và Thúy Kiều đã từng ước nguyện, thề hẹn nhiều lần "Quạt ước", "chén thề". Mối tình của Kim - Kiều bắt đầu từ khi gặp gỡ ở tiết thanh minh, "tình trong như đã mặt ngoài còn e." Hay khi Kim Trọng phải trở về Liêu Dương chịu tang cho chú, hai người phải xa cách suốt ba năm. Trước lời căn dặn của Kim Trọng, Kiều cũng đã chắc nịch đáp rằng: "Cùng nhau trót đã nặng lời. Dẫu thay mái tóc, dám dời lòng tơ. Quản bao tháng đợi năm chờ, Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm. Đã nguyền đôi chữ đồng tâm, Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Còn non còn nước còn dài, Còn về còn nhớ đến người hôm nay." Tình yêu sâu đậm là thế, ước hẹn trăm năm là thế nhưng có đau đớn nào bằng khi Kiều đã vi phạm lời thề mà bội ước. Bởi vì biến cố, sóng gió bất ngờ ập đến. "Sự đâu sóng gió bất kỳ Hiếu, tình khôn lẽ hai bề vẹn hai." Chính nguyên nhân ấy đã dồn Thúy Kiều vào hoàn cảnh vô cùng éo le khi phải đặt chữ tình, chữ hiếu lên cán cân mà đong đếm, lựa chọn. Đây là sự Tranh đấu gay gắt giữa lý trí và con tim, lựa chọn nào cũng là đau đớn, là giằng xé tâm can đối với Kiều. "Chữ hiếu chữ tình bên nào nặng hơn?" Cuối cùng Thúy Kiều đã chọn: "Thà rằng liều một thân con Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây." Nàng bán mình chuộc cha làm tròn chữ hiếu theo nguyên tắc, lễ giáo phong kiến, cũng là phản lại lời thề hẹn với người yêu. Kiều đã gửi gắm, bộc bạch, trần thuật hết với Vân với sự áy náy, dằn vặt, hối lỗi cùng đau khổ khôn xiết. Hơn thế nữa, Kiều là một nữ tử hiếu thảo, chuẩn mực theo lễ giáo lúc bấy giờ, chính vì vậy trong tình thế tiến thoái lưỡng nan ấy nàng làm sao có thể chỉ nghĩ cho riêng mình, gìn giữ lấy ước hẹn với Chàng Kim mà gạt tình thân - chữ hiếu sang một bên? Lý lẽ thứ hai là bởi Kiều biết rằng, Vân vẫn còn trẻ sẽ còn có tương lai, còn có cơ hội hạnh phúc. "Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ, thay lời nước non." Thế nhưng chẳng phải cả Kiều và Vân đều là "ngày xuân xấp xỉ đến tuần cập kê" hay sao? Có lẽ vào thời khắc này, Kiều coi tuổi xuân của mình như đã kết thúc. Kiều đem "tình máu mủ", chị em ruột thịt ra, nhờ Vân "thay lời nước non" - giúp Thúy Kiều trả nợ duyên cho Kim Trọng. Để rồi: "Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây." Tình duyên đứt đoạn, có lẽ Kiều đã nghĩ tới ngày rời khỏi người thân và gia đình, tương lai cuộc đời mình sẽ chẳng thể tự quyết định, càng không có quyền lựa chọn. Nàng nghĩ đến cái chết "dù thịt nát xương mòn" đây cũng là một dự cảm không tốt về tương lai sau này. Dù có chết vẫn "ngậm cười" nơi "chín suối" tức được an ủi, xoa dịu. Đây cũng chính là một điều kiện, nàng dùng cái chết, để chỉ khi Thúy Vân giúp mình trả duyên cho Kim Trọng thì mình mới có thể được an ủi. Cả ba lý lẽ trên đều hoàn toàn hợp tình hợp lý, tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ đối với Thúy Vân. Từ đó một lần nữa khẳng định tài sắc của Thúy Kiều "mười phân vẹn mười", khéo léo và luôn mang một tấm chân tình, thủy chung không hề phôi phai. Có câu: "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên", trao duyên dù đau đớn, Kiều vẫn để lý trí điều khiển cảm xúc của mình. Nàng vẫn bình tĩnh nêu lên những lý lẽ, bộc bạch nỗi lòng, cất tiếng thuyết phục Vân một cách tài tình, hợp tình hợp lý, để em thấu hiểu nỗi lòng của mình. "Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung Dù em nên vợ nên chồng Xót người bạc mệnh, ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa." Trong tình yêu, những kỉ vật trở thành minh chứng của tình cảm, là kỉ vật thiêng liêng nơi lưu giữ và cất giấu biết bao nỗi niềm nhung nhớ, biết bao kỉ niệm lứa đôi. Kỉ vật không chỉ là thứ gắn kết tình cảm mà chính nó cũng thể hiện tình cảm, nhắn gửi tâm tư, giữa Kiều và Kim Trọng cũng tồn tại những kỉ vật như thế. Đó là "phím đàn" và "mảnh hương nguyền" - minh chứng cho đêm thề nguyền. Trong khi gia đình đi vắng, Kiều đã "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" đến tìm gặp Kim Trọng để tự tình. Cả hai cùng quỳ xuống, nâng chén rượu thề, cùng hướng nhìn trời cao.. "Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng một lời song song Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương." Còn "chiếc vành" và "bức tờ mây" là những kỉ vật đính ước trong đêm thề nguyền. Từ quá khứ đến hiện tại kỉ vật thuộc quyền sở hữu của Kim - Kiều, vậy nên lần này Kiều trao lại mối duyên đã ràng buộc lấy họ là duyên là phận. "Trao" là thế, nhưng không có nghĩa là trao cả những kỉ niệm, những hồi ức đẹp đẽ kia được, có chăng cũng chỉ là những kỉ vật, những sự vật như "chiếc vành", "bức tờ mây". Thế nên mới có câu: "Duyên này thì giữ vật này của chung." Hay nói cách khác: Trao duyên chằng thể trao tình! Ở đây, ta thấy cái tài tình của Tố Như, khi không để những kỉ vật vào cùng một câu thơ mà viết ở hai câu tách rời ở vị trí cách xa nhau. Nói như Pauxtopxki: "Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm." Thật vậy, chỉ ngắn ngủi mấy dòng thơ, vài con chữ Tố Như qua những "bụi vàng" ấy đã thể hiện được nỗi đau đớn, sự luyến tiếc của Thúy Kiều khi tự tay trao từng kỉ vật cho Vân. Thế mới thấy cái tâm cái tài ở Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Trao duyên, trao kỉ vật, Kiều cất lời dặn dò Vân. Dù em nên vợ nên chồng Xót người bạc mệnh, ắt lòng chẳng quên. Qua từng câu thơ, ta như nhìn thấy trước mắt là một nàng Kiều đang ở thế giới khác, đã chẳng thể trở về, hòa nhập với thế giới đang hiện hữu nơi đây. Phải chăng những lời dặn dò ấy là những lời cuối cùng? Hẳn vậy, Kiều dặn dò như lời của người chị bạc mệnh với đứa em của mình về chuyến đi đến đây không phải xa cách về không gian mà có thể chính là sinh ly tử biệt, âm dương cách biệt. Mong Vân cũng như chàng Kim đừng quên mình "xót người bạc mệnh, ắt lòng chẳng quên". Qua đó ta bắt gặp ở Kiều một nỗi mâu thuẫn, nó như một vòng luẩn quẩn dày dò Kiều. Về mặt lý trí nàng muốn Vân có cuộc sống êm ấm "nên vợ nên chồng", song về mặt tình cảm, vào giây phút này, tiếng nói của con tim được cất lên, nàng muốn được đồng sở hữu "Duyên", "giữ", "của chung" bao gồm cả Kim, Vân và Kiều. Thấy được tình cảm đã bắt đầu lấn át lý trí của nàng. Xót thương cho chính mình, trao duyên xong, Kiều gần như đã chìm đắm trong nỗi bi thương ấy, nàng độc thoại với chính mình và dường như cũng đang đối thoại với Kim Trọng. "Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây." "Phận" ở đây là số phận, thân phận, lại được ví "bạc như vôi" đau đớn đến thế, lần này ra đi Kiều giống như con thuyền trước thác nước cuồn cuộn, dường như cũng đã phó mặc cho dòng nước kia, chẳng thể "êm đềm trướng rủ màn che" nữa. Đồng thời bước trên con đường mờ mịt ấy dường như có thứ gì đó đang ở phía trước chờ đợi nàng, là sự mờ mịt về chính số phận mà mình chẳng thể biết sẽ đi đâu, về đâu. "Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng" "Nước chảy", "hoa trôi" những hình ảnh hết sức quen thuộc, từng hiện hữu nhiều trong các tác phẩm nói về mối tình éo le, nhiều trắc trở. Với sự vùi dập, đầy cay nghiệt nơi xã hội ngoài kia đã làm đóa hoa tan vỡ, úa tan để rồi cuối cùng chỉ có thể phó mặc trong dòng nước lỡ làng.. Tiếng lòng của Kiều, cũng là tiếng than của biết bao cô gái cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến bạc bẽo không tiếc chà đạp, vùi dập ngoài kia. Cuối cùng khi trao duyên đã trọn vẹn, khi lý trí đã hoàn thành nhiệm vụ của nó, giờ đây lý trí đã lui xuống để tình cảm dâng lên, nó ồ ạt ập đến. Dường như Kiều đang mê man trong chính nỗi niềm của mình, nàng tự trách mình. Dẫu vì chữ hiếu mới phải phụ bạc tình "quân" song trái tim Kiều vẫn không ngừng quặn thắt, không ngừng đau đớn. Một câu thơ sáu chữ lại xuất hiện đến hai từ Kim Lang: "Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!" Với dấu cảm thán "!" Giữa và cuối câu ta như nghe thấy tiếng nấc nghẹn ngào, tiếng gọi thất thanh đầy thê lương và nuối tiếc của Kiều: "Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây." Yêu khắc cốt ghi tâm là thế song vì tình thế bắt buộc dồn Kiều vào bước đường cùng đầy bế tắc, nàng yêu Kim Lang, nhưng lúc này cũng chính nàng là người phụ lại Kim Lang. Nỗi chua xót, giằng xé tim can ấy phải dùng gì mới có thể đong đếm, mới có thể đo lường đây? Kiều nhận lỗi về mình, dù khổ trăm bề vẫn nghĩ đến chàng Kim, chính điều này đã khắc họa nên bức chân dung về nàng Kiều tài sắc lại mang phẩm hạnh cao đẹp, luôn biết nghĩ cho người khác. Có thể nói rằng với những dòng thơ cuối, Kiều đã tự đối thoại với chính mình, cảm xúc lên ngôi đã hoàn toàn chiếm lĩnh dày vò cả thể xác lẫn tinh thần của Kiều. Như vậy, nhìn lại chặng đường diễn biến tâm lý nhân vật từ lúc Kiều đối thoại với Thúy Vân mang sự biết ơn, chân thành, yên tâm và thanh thản vì mâu thuẫn đã dần được giải quyết, đến độc thoại với chính mình lại là tâm trạng giằng xé đầy mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm, giữa trí não và con tim, đau đớn tột cùng. Để rồi cuối cùng khi đối thoại với Kim Trọng ta thấy nỗi khát vọng tình yêu mãnh liệt với hiện thực phũ phàng, nàng tự khóc than, tự đau đớn. Điều tạo nên thành công của đoạn trích chính là ở nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đã đạt đến mức "bậc thầy" - minh chứng cho sự tài hoa của Đại thi hào dân tộc - Nguyễn Du, với ngòi bút không ngừng thôi "ai oán" cho kiếp người. Cùng nghệ thuật sử dụng điển tích điển hình để thể hiện nỗi đau đớn, xót xa của Thúy Kiều. Đoạn trích "Trao Duyên" chính là tiếng lòng thổn thức, cảm thương của Tố Như, là tiếng khóc nghẹn ngào của nàng Kiều và cuối cùng chính là lời tố cáo xã hội phong kiến đương thời mục nát lúc bấy giờ, khi mà đồng tiền lên ngôi quyết định số mệnh của cả một đời người. Song bên cạnh đó "Trao Duyên" cũng là khúc ca ca ngợi phẩm chất của Thúy Kiều một cô gái giàu lòng vị tha. Đáng ra trong thời khắc ấy thứ khiến nàng khóc than nhiều nhất phải là chính mình, khiến nàng đau đớn, bi thương cuối cùng lại là nhận ra bản thân mình đã phụ lại Kim Trọng, phụ lại lời thề nguyền "chữ Đồng song song", là cha mẹ, là em.. Nội dung HOT bị ẩn: Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem - Vui lòng ấn nút thanks để tiếp tục đọc bài.