Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Đặng Trần Côn

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Chang Đàm, 6 Tháng tư 2023.

  1. Chang Đàm

    Bài viết:
    252
    Đề bài: Phân tích đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" Đặng Trần Côn

    Bài làm​

    Văn học thế kỷ XVIII, XIX là văn học cảm thông, cảm thương cho số phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngoài kiệt tác truyện Kiều của Nguyễn Du ca ngợi tài sắc người phụ nữ thì trong thời kì này Đặng Trần Côn cũng có "Chinh phụ ngâm khúc". Tác phẩm hẳn là "viên ngọc sáng" mới mẻ khi đã đề cao tình yêu hạnh phúc lứa đôi đặt trong tình cảnh xã hội bất ổn mà vốn thơ văn thời trước ít nhắc tới. Tác phẩm vốn được viết nguyên mẫu theo chữ hán bản dịch hiện hành chưa rõ tác giả có thể là của Đoàn Thị Điểm hoặc Phan Huy Ích. Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phục" theo bản dịch hiện hành đã cho thấy những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn buồn tủi của người chinh phụ khao khát được sống trong tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.

    Tám câu đầu là nỗi bồn chồn, ngóng trông của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi cô đơn:

    "Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

    Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

    Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

    Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

    Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

    Buồn rầu nói chẳng nên lời,

    Hoa đèn kia với bóng người khá thương."​

    Tác giả đã miêu tả ngoại cảnh với không gian "hiên vắng" nhỏ hẹp tù túng. Hành động của người chinh phụ bước đi "thầm gieo từng bước" bước chân nặng nề đi dạo trên hiên vắng. "Rủ thác đòi phen" người chinh phụ vào trong phòng cuốn rèm lên rối lại hạ rèm xuống cho thấy tâm trạng rối bời, nóng lòng, sốt ruột. Người chinh phụ đã mượn ngoại cảnh để giãi bày tâm trạng. "Ngoài rèm thước chẳng mách tin", "thước" ở câu thơ miêu tả con chim thước một loài chim thường báo hiệu điều tốt. Nhưng thước chẳng mách tin tức là vẫn chưa có tin tức người chồng trở về. "Vắng", "thưa" không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn gợi nỗi vắng lặng trong lòng người chinh phủ.

    Người phụ nữ luôn ngày đêm thao thức ngóng trông tin chồng. Ban ngày thì gửi lời mong ước vào chim thước loài chim khách báo tin lành. Nhưng thực tế thước chẳng báo tin tức người chồng vẫn chưa trở về. Ban đêm người chinh phụ gửi niềm hy vọng vào cây đèn mong đèn biết tin về chồng san sẻ nỗi lòng của nàng. Nhưng "đèn biết chăng", "lòng thiếp riêng bi thiếp" câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi phủ định ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là một vật vô tri vô giác không thể san sẻ nỗi lòng của người chinh phụ. Trong nhiều bài ca dao ngọn đèn thường là vật tri âm tri kỉ giãi bày tâm trạng của người phụ nữ thì ngọn đèn trong câu thơ lảy nay lại như cứa sâu thêm nỗi đau lòng người. Câu nói trực tiếp "buồn rầu nói chẳng nên lời" càng nhấn mạnh hơn như một lời khẳng định chắc nịch về dáng vẻ tâm trạng buồn rầu, ủ rũ không nói lên lời của người chinh phủ. Câu thơ cuối là một hình ảnh so sánh đặc biệt giữa "hoa đèn" và "bóng người". "Hoa đèn" đầu bấc ngọn đèn thực tế là than đèn sau khi đã cháy hết rồi chỉ còn lại hoa đèn tàn lụi. Cũng như người phụ nữ luôn đau đáu nhớ chồng rồi chị nhân lại sự cô đơn trống trải. Phản ánh trực tiếp tâm trạng cô đơn, buồn rầu, sầu não, bi thiết của người chinh phụ.

    Để miêu tả tâm trạng của người chinh phục tác giả đã sử dụng những hình ảnh vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Đặc biệt thành công xuất sắc của nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Sử dụng điệp từ, câu hỏi tu từ, từ ngữ giàu giá trị biểu cảm. Vần điệu bài thơ như những nốt nhạc thăng trầm càng tô đậm làm nổi bật lên tình cảnh lẻ loi đơn chiếc cùng nỗi buồn tủi sầu não của người chinh phụ.

    Nỗi đau, nỗi nhớ thương buồn tủi của người chinh phụ cũng là nỗi đau của bao người phụ nữ khác khi chồng phải đi chinh chiến không rõ ngày trở về trong những cuộc chiến tranh phong kiến. Tác giả đã thể hiện sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra cảnh gia đình ly tán. Thể hiện lòng cảm thông trước số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời ca ngợi khát khao tình yêu chân chính của con người hạnh phúc lứa đôi mà thơ ca thời đại trước ít nhắc tới. Đây là một điểm mới thể hiện chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Đặng Trần Côn.

    Tám câu thơ giữa là tâm trạng người chinh phụ trong thời gian chờ đợi mòn mỏi gồm những hành động gắng gượng:

    "Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

    Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

    Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

    Gương gượng soi lệ lại châu chan.

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

    Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng"​

    Cảm nhận của người chinh phu về ngoại cảnh không gian "tiếng cả eo óc" gáy canh năm càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng, não nề, ai oán. Hình ảnh bóng hòe rủ bóng bốn phương nhưng khi nhìn lại chỉ có một mình cô độc gợi cảm giác buồn bã. "Gà gáy", "sương", "hòe" vốn là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, êm ả. Nhưng từ "eo óc", "phất phơ" lại cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật. Bởi lẽ dưới con mắt cô đơn trống trải của người chinh phụ những cảnh vật vốn gắn liền với làng quê bình dị êm ả nay lại trở nên khác thường hoang vu ớn lạnh. Tả giả đã vận dụng khéo léo biện pháp tả cảnh ngụ tình. Cảm nhận thời gian chờ đợi được so sánh như niên với từ láy "đằng đẵng" diễn tả thời gian kéo dài lặng lẽ, đeo đẳng. Từ láy "dằng dặc" đã diễn tả mối sầu kéo dài theo không gian vô cùng, vô tận. "Khắc giờ đằng đẵng", "mối sầu dằng dặc" thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt. Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị biểu cảm "đằng đẳng", "dằng dặc" miêu tả cảm nhận khác thường về thời gian của người chinh phụ. Từng giờ, từng phút trôi qua kéo dài lặng lẽ, đeo đẳng nhiêu lần mối sầu trải dài theo thời gian tưởng như vô cùng, vô tận. Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng trong lòng người chinh phụ. Trước cảnh ngộ đó người phụ nữ cũng có những hành động gắng gượng. "Gượng đốt hương" mong tìm được sự thanh thản cho tâm hồn nhưng lại càng rơi vào rối loạn, mê man. "Gượng soi gương" nhưng khi nhìn vào gương thấy phản chiếu hình ảnh cô độc lại của mình thì không cầm được nước mắt. "Gượng gảy đàn" nhưng dây đàn lại đứt khiến cho người chinh phụ thấy sợ hãi vì theo quan niệm xưa dây đàn đứt báo hiệu điểm gở. Điệp từ "gượng" lặp đi lặp lại diễn tả những mong muốn cố gắng của người chinh phụ để thoát khỏi vòng vây cô đơn, lẻ loi nhưng lại càng rơi vào cảnh trớ trêu vô vọng. Tác giả đã vận dụng rất thành công biện pháp miêu tả nội tâm nhân vật, các từ láy, điệp từ ngoại cảnh thể hiện tâm trạng nhân vật. Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, sâu lắng. Đoạn trích đã khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ ẩn sâu đó là thái độ cảm thông chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người. Diễn tả nỗi sầu luôn liên miên, chán chường cùng nỗi lo sợ chia lìa hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

    Tám câu thơ cuối là niềm mơ ước gửi tấm lòng thương nhớ của người chinh phụ đến người chồng:

    "Lòng này gửi gió đông có tiện?

    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

    Non Yên dù chẳng tới miền,

    Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

    Cảnh buồn người thiết tha lòng,

    Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun."​

    Hai câu thơ đầu bộc lộ ước muốn của người chinh phụ. "Gió đông" là gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống. "Non Yên" điển tích chỉ nơi biên ải xa xôi. "Nghìn vàng" hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng người chinh phụ buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng hy vọng rồi lại thất vọng. Mong muốn gửi gắm ước muốn của người chinh phụ vào ngọn gió xuân đến được nơi người chồng đang sinh sống dù không gian vô tận mênh mông ngăn cách hai vợ chồng nhưng nỗi nhớ không nguôi ngoai. Bốn câu tiếp là nỗi nhớ của người chinh phụ nghệ thuật điệp liên hoàn "non Yên-non Yên", "trời-trời" nhấn mạnh khoảng cách xa xôi trùng điệp cách trở kết hợp với so sánh "đường lên bằng trời" càng tô đậm thêm sự xa xôi, cách trở. Từ láy "thăm thẳm", "đau đáu" diễn tả cung bậc của nỗi nhớ da diết, triền mien, sâu thẳm nhưng lại gắn liền với nỗi đau, nỗi sầu. Đặc biệt, nỗi nhớ được miêu tả bằng không gian tạo nên sự khắc khoải dằng dặc. Các từ láy "chẳng tới miền", "khôn thấu", "nào xong" làm cho nỗi nhớ thương của người phụ nữ không được gửi đến người chồng không được đền đáp nên về sau càng dồn nén tăng dần trở thành nỗi đau xót xa. Sự tinh tế nhạy cảm đồng điệu. Hai câu cuối là mối quan hệ giữa tâm cảnh và ngoại cảnh. "Cảnh buồn", "người thiết tha lòng" cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau. Cảnh vốn là vật vô tri những tâm trạng của con người đã nhuốm sắc cảnh quan. Tác giả đã sử dụng thủ pháp tả cảnh ngụ tình người chinh phụ hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh và khiến nó trở lên não nề. "Cành cây xương đượm" sự buốt giá trong tâm hồn với phụ nữ. Trong các tác phẩm văn học tiếng mưa thường gợi cảnh buồn thảm, thê lương càng làm gợi lên tâm trạng ảo não, tan nát cõi lòng. Tác giả đã sử dụng thành thục thủ pháp tả cảnh ngụ tình miêu tả nội tâm nhân vật giọng thơ tha thiết buồn thương. Hình ảnh ước lệ tượng trưng, điệp từ và từ láy.

    Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã để lại trong tâm người đọc nhiều dư âm thâm thúy về nỗi buồn đau, thương nhớ da diết, tình cảnh cô độc, lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi lính. Thông qua đó, người đọc hiểu những tâm tư tình cảm và suy nghĩ của tác giả về con người, xã hội đương thời. Ông lên án cơ chế phong kiến mục nát với những trận đấu tranh phi nghĩa kéo dãn dài và ngợi ca tình yêu cao đẹp, khát khao yêu thương đôi lứa.
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...