Phân tích đoạn trích: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu... không bằng con ngựa Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 22 Tháng sáu 2023.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau: "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ ực uống ực từng bát.. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Từ đó, nhận xét về giá trị nhân đạo của đoạn trích.

    [​IMG]

    Bài làm

    Nhà văn Goóc-ki từng nhận xét: "Văn học là nhân học". Có thứ văn chương bất tử, sống mãi với muôn đời, có thứ văn chương rẻ tiền sẽ bị quên lãng với thời gian. Chủ nghĩa nhân đạo, lòng yêu thương tôn trọng con người là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học chân chính. Những tác phẩm chân chính diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, ghê tởm.. Nó đề cập đến những nhân vật ác để con người phải biết loại bỏ, căm ghét và chống lại cái xấu, những con người bình thường dù có bị chà đạp thì trong lòng họ vẫn luôn có khát vọng được sống. Phải chăng chính vì lẽ đó, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài đã nhấn mạnh và đặc tả diến biến tâm trạng của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân để thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm? Qua đoạn trích "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ ực uống ực từng bát.. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa".

    Tô Hoài là nhà văn đạt kỉ luc về số lượng tác phẩm trong văn hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng giàu có. Nếu trước cách mạng tháng Tám, ông nổi tiếng với đồng thoại "Dế mèn phiêu lưu kí", những năm gần đây ông làm rúng động làng văn với hồi kí 'Cát bụi chân ai ", thì trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông được biết đến nhiều với tập" Truyện Tây bắc "trong đó linh hồn của tập truyện là" Vợ chồng A Phủ ".

    Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài 8 tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn. Chuyến đi này đã để lại ấn tượng sâu sắc và những tình cảm tốt đẹo của nhà văn với con người miền Tây Bắc. Truyện ngắn" Vợ chồng A Phủ "được sáng tác năm 1952, in trong tập" Truyện Tây Bắc "(1953) được tặng giải Nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm là kỉ niệm, là tấm lòng của Tô Hoài dành cho những người Tây Bắc. Qua câu truyện về cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài thể hiện một cách xúc động nỗi khổ của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất và thực dân, đồng thời khẳng định vẻ đẹp, vùng lên tự giải phóng của họ.

    Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, nhưng lại sinh ra trong một gia đình nghèo khó, bố mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền cưới, phải vay tiền của nhà thống lí Pá Tra. Vì món nợ truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Tuổi xuân của Mị bị gia đình thống lí cướp đoạt, lúc đầu về làm dâu, đêm nào Mị cũng khóc. Mị khổ như con trâu con ngựa, Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị không đành lòng chết. Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm vô hồn " càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa " . Xuân qua rồi xuân lại trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến.

    Cảnh đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài tràn đầy màu sắc, âm thanh làm say lòng người, đậm màu văn hóa miền núi Tây Bắc. Cảnh được tả từ xa đến gần, màu sắc rực rỡ, tươi sáng, đẹp nhất là vẻ đẹp trang phục của các cô gái Tây Bắc:" những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ [..] . Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà ". Âm thanh dân dã mà có sức lay động trái tim con người" Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi "," tiếng chó sủa xa xa ". Cảnh sinh hoạt mùa xuân thể hiện nét đẹp phong tục, văn hóa của dân tộc Mèo:" Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy "," bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng ". Đặc biệt là phong tục tìm bạn tình của trai gái miền núi qua tiếng sáo đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, nồng nàn, rạo rực tình yêu, tràn trề sức sống.

    Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị " Những mình nào biết có xuân là gì? ". Nhưng thật bất ngờ, đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động. Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát? Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Tiếng sáo đã dẫn đến hành động" nổi loạn "." Mị lén lấy hủ rượu, uống ực từng bát ", uống như nuốt cay đắng, phẩn uất vào lòng, không có gì để hi vọng. Cách uống rượu của Mị chứa đựng sự phản kháng, nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh, giống như thi sĩ Hồ Xuân Hương:

    Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

    Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

    Uống rượu để giải sầu, mong quên đi, nhưng rượu uống vào rồi thì" say lại tỉnh "vì thực tế vẫn vậy. Hai lần lấy chồng, hai lần làm lẽ, hai lần trở thành góa phụ. Còn Mị tỉnh, bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đốn mạt ấy dành cho cô. Nhưng rượu cúng giúp cho Mị hồi sinh, Mị vẫn nghe tiếng sáo vẫy gọi giục giã, men rượu đã nâng tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi, đám chơi trong của quá khứ. Còn thể xác vẫn ở lại nhà thống lí" nhìn mọi người nhảy đồng, người hát "khi mọi người về hết" Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà ". Từ những chất xúc tác bên ngoài, cùng bản chất mạnh mẽ tràn đầy sức sống. Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân, nghe tiếng sáo" Mị thiết tha bồi hồi ". Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ - một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hy vọng có thể sống lại ngày ấy lần nữa. Ngày ấy," Mị thổi sáo giỏi "," Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị ". Tiếng sáo đã làm thức tỉnh con người tâm linh trong Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.

    Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy," Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước ". Thật kì lạ người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình" trẻ lắm ". Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua ngày, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình" vẫn còn trẻ ", mình vẫn đang còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính" Mị muốn đi chơi ". Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, MỊ đều không được đi chơi xuân, mặc dù" Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau ! ". MỊ muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít chỉ có một" cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng "hàng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh" sống không ra người "này đây. Sao Mị có thể? Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và.. cô sẽ tự do tâm hồn, và.. lá ngón một lần nữa xuất hiện" Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa ". Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ, thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu. Và" lá ngón "lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là" sự tự ý thức ". Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã" chết đi trong cõi sống ". Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn. Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong" Đoạn trường tân thanh "đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ" tiết ", không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễn ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái" bắt đầu "đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng" sinh bất phùng thời ". Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mị không thể lùi sâu vào mãi góc chết. Ngọn sóng tủi hờn, bi lụy đang khóc than trong lòng cô gái thì sóng tình yêu và khát vọng của tiếng sáo lại dội lên," lửng lơ bay ngoài đường:

    Anh ném pao, em không bắt

    Em không yêu, quả pao rơi rồi "

    Đấy là lời của tiếng sáo, lời của bài tình ca, lời của các bạn trai, gái đang yêu nhau, tâm tình bên nhau và cũng là những tiếng lòng da diết, mãnh liệt từng bao năm bị chôn vùi, kìm nén trong trái tim, trí tuệ của Mị. Giờ đây, MỊ đã có nhận thức sâu sắc về quá khứ, hiện tại, tương lai.

    Tiếng sáo như ngọn gió thổi bùng lên, thôi thúc Mị có những hành động gấp gáp chạy đua với thời gian. Mị vào buồng lần này không phải để nhìn qua cái lỗ vuông để nghĩ đến cái chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện bất ngờ trong buồng. Hắn sửa soạn để đi chơi" A Sử thay áo mới, khoác thêm hai cái vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắn lên đầu.. Nó còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ ". Như thách thức, Mị đã hành động" lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng ". Mị cũng" muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi ", Mị sửa soạn để đi chơi với khát khao mãnh liệt của tuổi trẻ, với sự náo nức của người đã tìm ra ánh sáng sau đêm dài." Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách "," rút thêm cái áo ", bao rạo rực mê say trong tâm hồn người con gái trẻ gửi trong những hành động ấy. Hành động ngỡ như đột ngột, nhưng nó là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tâm lí nhân vật. Thắp đèn là niềm mong ước sống cuộc sống tươi sáng, mới mẻ và đẹp đẽ, đoạn văn này tác giả sử dụng tiết tấu nhanh, câu văn ngắn, Mị đứng đầu câu cho thấy một cô MỊ chủ động, rất khao khát đi chơi xuân. Điều này có nghĩa, Mị thật sự hồi sinh từ cô gái có lòng ham sống yêu đời khao khát tự do. Lời văn không còn đượm buồn hiu hắt mà như được sưởi ấm bằng chính tấm lòng đồng cảm mà nhà văn dành cho nhân vật của mình.

    Sự phản kháng của Mị phải trả giá nặng nề. Chỉ sau một câu hỏi:" Mày muốn đi chơi à? ", thằng A Sử độc ác" Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiên được đầu nữa ". A Sử độc tàn, vũ phu ngăn cấm Mị đi chơi, đây không khác gì một gáo nước lạnh để dập tắt ngọn lửa của lòng ham sống yêu đời trong lòng Mị." Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn "như nâng đỡ tâm hồn Mị. Quên đau khổ, đau đớn thực tại" Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vùng bước đi, lòng bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào.. ". Khúc tình ca Tây Bắc cứ dìu Mị đi, đưa Mị đến cõi không cùng của mơ vọng mà quên đi sự thực cay đắng đang vây thít" tay chân đầu không cựa được ". Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí, đau xót thay. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.

    Sự nổi loạn của Mị cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị mà máu và sự dã man không thể nào vùi dập được! Đêm tình mùa xuân thấm đẫm tính nhân văn. Nó đã góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Nó đã thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ.

    Sức sống tiềm tàng hồi sinh, lòng ham sống yêu đời trỗi dậy thì không có một thế lực nào có thể dập tắt. Những diễn biến và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, MỊ là cô gái có sức tiềm tàng sống mãnh liệt qua bao nhiêu năm tháng đầy đọa, bóc lột dã man nhưng lòng ham sống yêu đời của Mị chưa bao giờ bị dập tắt, như hòn than bị bao phủ bởi lớp tro tàn nguội lạnh, chờ cơ hội là bùng cháy lên mạnh mẽ. Qua đây, nhà văn Tô Hoài khẳng định: Người dân miền núi dù có bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, bị vùi sâu dưới đáy xã hội nhưng trong lòng họ vẫn luôn âm ỉ ngọn lửa của lòng ham sống, khát khao tự do, hạnh phúc tạo nên giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    Nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị và A Phủ với những tính cách, tâm lí phức tạp.. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt: Kể đan xen tả; ngòi bút miêu tả thiên nhiên, những sinh hoạt gắn với phong tục, tập quán rất chân thật góp phần giải thích tính cách, tâm hồn nhân vật. Ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu tính tạo hình, biểu cảm. Tác phẩm xứng đáng là một trong những sáng tác văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

    Nhà văn Sê – khốp từng khẳng định: Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy. Quả đúng như vậy, văn là người, cho nên con người như thế nào thì văn chương cũng vậy. Nhà văn chân chính phải đứng trong lao khổ để đón những vang vọng cuộc đời. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm, nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Tô Hoài đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo.

    Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản nhất của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người; đồng thời tác phẩm cũng đã đứng hẳn về phía những nạn nhân mà lên án các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống và phẩm giá của con người. Với tác phẩm văn học hiện thực sau 1945, giá trị nhân đạo mới mẻ được thể hiện qua việc tác giả mở ra hướng đi cho nhân vật của mình về một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn. Nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông, thương xót trước số phận đau khổ, bất hạnh của những con người lao động nghèo khổ ở vùng núi Tây Bắc, thể hiện qua cuộc đời bất hạnh của Mị. Nhà văn lên tiếng tố cáo, phê phán bọn chúa đất phong kiến miền núi đã dùng cường quyền, thần quyền và lợi dụng những tập tục cổ hủ của người Mèo để áp bức, bóc lột người dân. Nhà văn cũng phát hiện, trân trọng, khẳng định và ngợi ca những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Đó là sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân và sự phản kháng trong đêm cứu A Phủ. Nhà văn cũng thể hiện niềm tin sâu sắc và chỉ ra cho nhân vật của nhân vật con đường đến với tự do, hạnh phúc: Phản kháng và hướng đến ánh sáng cách mạng.

    Qua đoạn văn trên, nhà văn đã khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ. Từ đó, Tô Hoài làm nổi bật lên số phận nhân vật Mị cũng là đại diện cho đồng bào miền núi dưới áp bức của bọn thực dân và chúa đất, trong cuộc sống tăm tối, họ vùng lên phản kháng để tìm tự do, đã được Tô Hoài nghiên cứu và ghi chép thật tỉ mỉ thể hiện tấm lòng gắn bó và yêu thương sâu sắc của ông đối với mảnh đất miền cao này. Tây bắc đã trở thành một phần tâm hồn của Tô Hoài, giống như Chế Lan Viên từng viết:

    " Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

    Khi lòng ta đã hóa những con tàu

    Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

    Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu".
     
    Admin, MikeMikeLieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...