Phân tích đoạn trích: Bây giờ Mị cũng không nói... đau đứt từng mảnh thịt - Vợ chồng A Phủ

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 2 Tháng ba 2023.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    "Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:

    - Mày muốn đi chơi à?

    Mị không nói. A Sử cũng không thèm hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay hai Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.

    Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi." Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào.. ". Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa".

    Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.

    Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sửa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

    Mị bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm sâm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mị. Mị không thể biết. Ðời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.


    Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12 - Tập hai, NXB GD

    Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật của Tô Hoài.

    Dàn ý chi tiết:

    I. MỞ BÀI

    - Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
    Tk mở bài chung

    - Nêu vấn đề cần nghị luận: Sức hấp dẫn của thiên truyện chủ yếu từ nghệ thuật khắc họa nhân vật Mị, nhất là khi nhà văn đi sâu và nội tâm nhân vật ở đoạn trích: "Trong bóng tối, Mị đứng im lặng [..] . Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt."

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát:

    Vợ chồng A Phủ
    chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi. Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả chân vách buồng. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làm dâu, có đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Đây có thể xem là sự phản kháng của Mị trước thần quyền và cường quyền, không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi vì cha mà cô không đành lòng chết. Từ đây, Mị chấp nhận cuộc sống "không bằng con trâu con ngựa", "đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc", chấp nhận bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói.. Sự đày đọa về thể xác dẫn đến sự tê liệt trong tinh thần nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, cứ lùi lũi như con rùa nới xó cửa. Trong đầu của Mị chỉ còn các các việc lặp đi lặp lại nối nhau vẽ ra trước mắt. Chi tiết về ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị nằm đã thể hiện một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, cho thấy Mị đã tê liệt đến mức không còn ý niệm về thời gian và không gian quanh mình.

    "Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp". (Ai ma tôp). Nhà văn Tô Hoài quả thực đã làm được điều đó khi thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Và chính sức sống tiềm ẩn bên trong một khi sống dậy thì rất mãnh liệt ấy đã giúp Mị từng bước tháo cũi sổ lồng, tìm được hạnh phúc cho cuộc đời mình.

    Ở đoạn văn trước đó, rượu và tiếng sáo là chất men say đánh thức phần đời đã mất, khơi dậy sức sống tiềm tàng vốn bị vùi chôn ở nơi sâu kín nhất trong tâm hồn của Mị. Đoạn văn này miêu tả nhân vật Mị khi bị trói và cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật một khi đã sống dậy thì khó có thể dập tắt.

    2. Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích

    2.1. Mị muốn đi chơi

    Khi tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc biến thành tinh thần phản kháng mạnh mẽ, hóa thành hành động cụ thể: Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Hành động ngỡ như đột ngột, nhưng nó là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tâm lí nhân vật. Không phải bỗng dưng mà Tô Hoài chọn hành động thắp đèn làm hành động đầu tiên sau khi người con gái lặng câm ấy thức tỉnh, bởi trong hoàn cảnh này ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. Mị hành động thản nhiên, dù A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Điều đó cho thấy Mị không còn sợ, bóng ma thần quyền đã không thể làm gì Mị bởi sức sống trong con Mị đang trỗi dậy mạnh mẽ. Mị muốn đi chơi và Mị chuẩn bị đi chơi.

    Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi mà ở đây đại diện là A Sử đã dập tắt đi khát vọng vừa trỗi dậy của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Chi tiết này bộc lộ rõ sự đè nén, áp chế đến tàn nhẫn của bọn thống trị với người dân miền núi.

    2.2. Diễn biến tâm trạng Mị khi bị trói

    * Quên thực tại đau đớn, say sưa với tiếng sáo

    Nhưng lúc này, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống với tâm hồn. A Sử trói được thể xác nhưng không thể nào trói được tâm hồn Mị. Thậm chí sự áp bức về thể xác càng lớn thì sự trỗi dậy của tinh thần càng mạnh mẽ bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình mùa xuân. Thể xác Mị đang ở giữa bốn bức tường câm lặng, đang bị đau đớn nhưng hồn Mị đang "đi theo những cuộc chơi những đám chơi" . Mị thả hồn theo những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo không chỉ vang vọng trong không gian mà đang hiện hữu trong tâm hồn Mị. Mị còn nhẩm thuộc lòng trong đầu lời bài hát của người thổi sáo mà có lẽ đó cũng là bài hát và khúc nhạc sáo mà Mị thổi năm nào: «Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào? » . Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, tiếng sáo gợi nhắc cả một quá khứ tươi đẹp, tiếng sáo là biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Âm thanh của tiếng sáo như ma lực làm bùng cháy trong Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống. Khiến Mị quên mình đang bị trói và "Mị vùng bước đi". Hành động này cho thấy sức sống của tâm hồn Mị lớn hơn nỗi đau thể xác.

    * Mị trở về với thực tại

    Nhưng rồi việc "tay chân đau không cựa được" đã đưa Mị về với hiện thực cay đắng là Mị đang bị trói. Mị rời khỏi thế giới mộng tưởng, không nghe tiếng sáo nữa chỉ còn nghe thấy tiếng ngựa đạp vách, ngựa vẫn đứng yên gãi chân, nhai cỏ. Mị chợt nhận ra và ý thức sâu sắc về nỗi bất hạnh của mình "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa" . Hình ảnh so sánh con người với con vật cứ day dứt, trở đi trở lại trong tác phẩm. Mị không chỉ khổ như trâu ngựa mà thậm chí còn khổ hơn cả kiếp trâu kiếp ngựa bởi vì trâu, ngựa còn có lúc nó được gặm cỏ, gãi chân còn Mị và những người đàn bà làm dâu nhà thống lí cả đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng và làm việc quần quật suốt ngày đêm. Các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà và dịp Tết họ có được đi chơi hay cũng phải trói như Mị. Mị nhận ra rằng cuộc đời người đàn bà sa vào nhà quan là khốn khổ, là bị chà đạp, bị trói và tính mạng bị xem thường.

    * Hai tâm trạng đan xen

    Tiếng chó sủa xa xa, đêm chừng đã khuya, Mị lại hồi nhớ lúc này là lúc trai đến bên vách làm hiệu rủ người yêu vào rừng chơi. Thế nên dù có trở về thực tại đau đớn, tủi nhục nhưng rồi «Mị lại bồi hồi ». Cứ thế suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa" cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình "nồng nàn tha thiết nhớ". Lúc tỉnh thì cảm nhận sự đau đớn vì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Rất tài tình thì nhà văn mới có thể miêu tả được tâm trạng của nhân vật lúc này bởi nhân vật không sống với cái xác mà sống với hồn cốt và sống với hoài niệm trong tâm trí của mình, một trạng thái chập chờn giữa cơn tỉnh, cơn mơ. Có một chi tiết lại xuất hiện như một dấu hiệu thức tỉnh của nhân vật. Đó là hình ảnh giọt nước mắt của Mị. Mị đã khóc ròng rã hàng tháng trời khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí. Nhưng cũng đã bao ngày tháng Mị không khóc, cũng không còn buồn nữa. Và cho đến tận bây giờ giọt nước mắt ấy lại chảy ra, phải chăng đó là dấu hiệu một tâm hồn, một sức sống đã hồi sinh thực sự. Chi tiết này có lẽ Tô Hoài đã bắt gặp Nam Cao, bởi các nhân vật của Nam Cao cũng có những giọt nước mắt của sự bừng tỉnh: Hộ khóc, Chí Phèo khóc, Thứ khóc.. Mị khóc, Mị đã hồi sinh để nhận ra bi kịch của cuộc đời mình.

    Đoạn văn đồng thời đan xen cả hiện tại và quá khứ, giữa tỉnh và say, giữa thực và mơ. Cả đêm hôm đó Mị sống trong trạng thái như thế cho tận đến sáng, có lẽ đó là lúc hơi rượu đã nhạt, tiếng sáo đã ngừng và đêm tình mùa xuân cũng tàn thì Mị mới choàng tỉnh.

    * Mị sợ chết

    Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm bị trói. Đó là chi tiết Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết" . Cô Mị của ngày xưa - một người vô cảm, sống như đang chết, sống trong cảm giác chờ đợi sự giải thoát từ cái chết, giờ đây lại biết xót thương cho người khác, biết sợ hãi trước cái chết. Sợ chết chính là biểu hiện của lòng ham sống. Chính tiếng sáo, tiếng gọi tình yêu đã giúp Mị nhận ra sự sống là đáng quý, phải sống để được yêu, được đón nhận hạnh phúc tuổi trẻ.. Như vậy rõ ràng là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh phúc, tình yêu của Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công nhưng nó đã cho người đọc thấy sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người Mị. Sức sống trong Mị vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm trong lòng đại dương. Nói như nhà văn Lỗ Tấn "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Để rồi những đợt sóng ngầm ấy cuối cùng trở thành bão táp, tia lửa ấy rồi đã hóa thành đám cháy lớn vào đêm Mị cắt dây trói cho A Phủ rồi chạy trốn.

    3. Đánh giá

    3.1. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật

    Bằng việc lựa chọn chi tiết đặc sắc, sử dụng hình ảnh giàu sức biểu tượng, giọng điệu trần thuật linh hoạt nhà văn đã diễn tả một cách tinh tế, hấp dẫn diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, nhất là khi bị trói rất tinh tế, sâu sắc. Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Mị được thể hiện: Miêu tả theo quá trình chuyển hóa tâm lí từ suy nghĩ tuyệt vọng đến tâm lý hồi sinh sức sống; Miêu tả tâm lý qua hành động; sự phân thân trạng thái tinh thần ở Mị. Giọng kể của nhà văn nhập vào dòng tâm tư nhân vật, làm nổi bật ‎ý nghĩ, tâm trạng và những trạng thái chập chờn của tiềm thức nhân vật..

    Diễn biến tâm lí của Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của nhân vật. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, như tiếng sáo gọi bạn tình, tiếng chó sủa xa xa, tiếng chân ngựa đạp vách.. Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, câu văn giàu tính tạo hình, biểu cảm cùng với tấm lòng nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm, gấp khúc, tuần tự và đột biến trong tâm trạng Mị.

    Tâm lí, tính cách nhân vật Mị rất phù hợp với hướng vận động của tâm lí, tính cách nhân vật trong văn học Việt Nam 1945 – 1975: Thường vận động theo chiều hướng tích cực, gắn với sự "thức tỉnh", "trưởng thành", "hồi sinh". Nhân vật có khả năng vượt lên hoàn cảnh, thậm chí thay đổi hoàn cảnh sống.

    3.2. Nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài (nhân đạo)

    Nhà văn nhìn người nông dân Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi đã bị chà đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần. Nhưng trong chiều sâu tâm hồn của họ vẫn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình yêu và khát vọng tự do. Tuy sống trong thân phận trâu ngựa, bị đọa đày giữa địa ngục trần gian nhưng họ không bao giờ chịu đầu hàng số phận, mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần, tâm hồn được hồi sinh. Đó còn là cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân trong tư tưởng tiến bộ của nhà văn cách mạng Tô Hoài.

    Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt khả năng diễn tả quá trình phát triển tính cách nhân vật hợp lí, tự nhiên, phong phú, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn-người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc.

    3.3. Ý nghĩa của đoạn trích

    Đoạn trích góp phần hoàn thiện chân dung nhân vật Mị. Dù nghèo khó, bị áp bức nhưng trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Qua đó, nhà văn bày tỏ sự cảm thông; khám phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu, hạnh phúc của con người, thể hiện niềm tin vào sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên cuộc sống con người. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị trong đoạn trích cũng như tác phẩm đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc một ấn tượng khó phai mờ, đã góp phần nêu bật giá trị nhân đạo của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của nhà văn Tô Hoài.

    Bài làm tham khảo:

    Mở đầu bài thơ "Tiếng hát con tàu", nhà thơ Chế Lan Viên hạ bút:

    "Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

    Khi lòng ta đã hóa những con tàu

    Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

    Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?"

    Tây Bắc – mảnh hồn thiêng của núi sông, miền đất hứa nâng giấc cho biết bao câu bút gạo cội. Nếu Nguyễn Tuân đến đây vì "thứ vàng mười đã qua thử lửa" qua tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập "Truyện Tây Bắc" mà linh hồn của nó là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ". Thưởng thức từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng với "nàng dâu gạt nợ" của nhà thống lí Pá Tra – Mị. Đặc biệt, đoạn trích trên đã cho ta thấy rõ hơn về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng của những con người luôn khát khao tìm đến tự do, hạnh phúc:

    "Bây giờ Mĩ cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.. Cho tới lúc trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ"

    Người yêu văn chương hẳn không còn xa lạ với tên tuổi nhà văn Tô Hoài - cây đại thụ tỏa bóng xuống cánh rừng văn học Việt Nam hiện đại. Đó là cuộc đời sáng tạo và bền bỉ không ngừng với số lượng tác phẩm đạt tới mức kỉ lục: Gần 200 đầu sách. Với vốn hiểu biết phong phú, ngôn ngữ trong sáng, gần gũi, tác phẩm của Tô Hoài đã thu hút được nhiều thế hệ độc giả.

    "Vợ chồng A Phủ" được sáng tác năm 1952, in trong tập "Truyện Tây Bắc" cùng "Mường Giơn" và "Cứu đất cứu Mường". Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc của nhà văn. Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.

    Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, cho ta thấy rõ hơn về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng của những con người luôn khát khao tìm đến tự do, hạnh phúc.

    Tô Hoài đã từng quan niệm rằng: "Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm" . Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.

    Trong tác phẩm "Vợ Chồng A Phủ" Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài "thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống "không bằng con trâu con ngựa"; và bị hủy diệt về tinh thần "mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết Mị lại nhớ mình hồi còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử chồng của Mị trói đứng vào cột nhà. Để từ đây, ta thấy được sống sức tiềm tàng của nhân vật Mị

    Khát vọng của Mị không chỉ tồn tại trong suy nghĩ, trong tâm trạng, trong cảm xúc mà nó còn tồn tại trong cả hành động của Mị.

    "Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị lại quấn tóc, Mị với lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", "Mị rút thêm cái áo" chuẩn bị đi chơi. Ở đây tác giả đã sử dụng một loạt các động từ như "đến," xắn "," bỏ "." Đi chơi "," cuốn "," lấy "và" rút ", những hạnh động đó đã thể hiện cái khát vọng trào sôi, khát vọng được tự do hạnh phúc của Mị. Những động từ đó đã làm cho hành động của Mị trở nên mạnh mẽ và cương quyết, táo bạo hơn, đó là lúc mà ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, cái khao khát được hòa mình với cuộc sống tươi sáng, mới mẻ hơn. Vừa là những hạnh động đấu tranh lặng lẽ, âm thầm, tự phát nhưng thật quyết liệt với số phận của Mị. Bất chấp sự hiện diện của A Sử - cái bóng đêm của cường quyền bạo ngược của thần quyền giờ đây không thể vùi dập Mị bởi khát vọng tự do của Mị lúc này lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.

    Một lần nữa cái sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị tiếp tục được bùng cháy ngay cả trong hoàn cảnh bị vùi dập thật độc ác. Khi bị A Sử trói, Mị cũng không biết mình đang bị trói, Mị vẫn sống trong cái ảo giác của hạnh phúc – thứ ảo giác do men tình và men rượu mang lại. Hiện thực và ảo giác hòa trộn, Mị lúc mê lúc tỉnh, Mị mông di, Mị ảo giác. Cũng chính lúc này đây thì sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong con người lao động được bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt nhất. Chính sức sống ấy đã làm cho Mị quên đi cái nỗi đọa đày, khổ nhục, quên cả đớn đau về thể xác. Câu văn mở ra một hình ảnh tội nghiệp của Mị " Trong bóng tối. Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói ". Cái sự im lặng như không biết mình đang bị trói ấy không phải là sự vô cảm, sự nhẫn nhục thường thấy ở người đàn bà này mà đây chính là lúc mà thể xác của Mị đã không còn cảm nhận được nỗi đau. Bởi thể xác của Mị nằm đây giữa bốn cái bức tường lạnh lẽo nhưng tâm hồn của Mị thì vẫn đang ở ngoài kia – ngoài thế giới của thiên đường mênh mông tiếng sáo gọi bạn tình và men rượu còn chưa tan. Men rượu còn nồng nàn còn trong Mị cho nên hương rượu đã quyện hòa trong hương thơm của men tình dặt dìu theo tiếng sáo. Nếu trước đó, tiếng sáo là tác nhân đã phá tan cái lớp băng vô cảm đã mở toang cái cánh cửa trải tim của Mị để đón nhận hương đời thì nay tiếng sáo lại trao cho Mị chiếc chìa khóa vàng để khát khao sống khát khao yêu của Mị được dịp bùng cháy. Đây là lúc trong cơn say tiếng sáo lại một lần nữa đến bên Mị, cứu rỗi linh hồn Mị, dìu Mị đi trong những cuộc chơi những đám chơi, tình yêu của Mị dành cho tuổi trẻ trong cuộc đời vẫn còn nồng nàn, lại được tiếng sáo nâng đỡ dìu dắt khiến cho tình yêu ấy càng trở nên đắm say ngày ngất. Tiếng sáo đã không còn lửng lơ bay ngoài đường nữa mà còn nhập vào hồn Mị, tâm hồn Mị như cùng rung lên cũng nhịp sáo " Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nàa, em bắt pao nào.. " . Có thể nói tiếng sáo chính là chi tiết hay nhất trong đêm tình mùa xuân, và đây cũng chính là" hạt bụi vàng "của tác phẩm. Nhờ có chi tiết đó mà người đọc chúng ta có thể nhìn thấy được cái cảm xúc, cái tâm trạng cũng như cái sự hồi sinh mạnh mẽ mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo là biểu tượng cho thế giới tự do; là hiện thân tài năng của tuổi trẻ kí ức tươi đẹp của Mị. Chính vì thế mà tiếng sáo là âm thanh hay nhất, lay động nhất tới sự hồi sinh của nhân vật

    Sức mạnh tiếng sáo và giấc mơ tự do khiến Mị quên đi cái thực tại ê chề, lúc mê thì Mị sống trong hơi rượu tỏa, còn lúc tỉnh thì lại nồng nàn tha thiết nhớ, lúc mê lại đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình và đúng như Tô Hoài từng nhận định: " Tiếng sáo kia quá tha thiết quá mạnh mẽ, nó dìu dắt hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, đó là biểu tượng niềm khát sống khát khao yêu. Ở đây là lòng khát khao tự do nữa và tâm hồn Mị như đang thăng hoa cùng với tiếng sáo gọi bạn tình, và đó chính là cái thế giới nội tâm là cái ảo giác hạnh phúc và cơn mộng du đẹp đẽ của Mị ". Nhưng cũng chính tiếng sáo chính là cái tác nhân khắc sâu thêm cái bi kịch của Mị. Bởi khi tiếng sáo đã nhập hồn Mị, nó đã làm cho Mị quên đi cái thực tại đau buồn, khi nghe tiếng sáo thì " Mị vùng bước đi ". Bốn chữ " Mị vùng bước đi " thật ngắn gọn nhưng nó hàm chứa trong đó là cái sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Câu văn quả thật được viết rất tinh tế và sâu sắc, nó gợi cho ta ra biết bao nhiều suy tưởng về Mị, làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đang bị trói bằng cả thúng sợi đay? Nhưng ở đây Mị đã vùng bước đi thật, Mị không có ý thức được hoàn cảnh thực tại bởi Mị là kẻ mộng du đang lang thang với giấc mơ tự do của mình.

    Chi tiết Mị vùng bước đi nó đã mình chứng cho ta thấy cái sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị, đó không còn là một cô Mị cúi mặt buồn rười rượu mà đó là một cô Mị giàu năng lượng sống. Mị vùng bước đi nghĩa là Mị không sống trong thực tại, Mị đang sống trong men trong những giai âm tiếng sáo gọi bạn yêu. Tâm hồn ấy đang đến với tự do đang tràn trề nỗi yêu đương cửa tuổi trẻ, chỉ khi tay chân đau không cựa quậy được Mị mới thoát khỏi cơn mộng du của mình. Lúc này, chỉ còn nghe thấy tiếng chân ngựa, tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là những âm thanh của thực tại, đưa Mị trở lại với sự liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống không bằng con ngựa của mình.

    Vậy mà, dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy, quá khứ vẫn nồng nàn tha thiết trong nỗi nhớ của Mị với hơi rượu tỏa, tiếng sáo rập rờn, tiếng chó sủa xa xa.. Mị phải sống trong giằng xé đau đớn giữa những khát khao cháy bỏng vừa hồi sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu ngay trong sợi day trói và căn buồng giam đầy bóng tối. Sức sống cũng những khát vọng đã trở lại và cũng bị vùi dập tàn nhẫn, nhưng sau đêm hội mùa xuân ấy, có lẽ nó sẽ mãi còn ám ảnh, thao thức trong lòng Mị, dù chỉ là mơ hồ, xa thoảng. Sau bao nhiều năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của mình, đã thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Khi nhận ra sự khổ ải, cảm nhận sự khổ ải sẽ càng thấm thía. Từ nay, có lẽ Mị không thể yến ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình để tiếp tục sống cảnh trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu trong tuổi tre đã hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi bùng lên lần thứ hai.

    Như vậy rõ ràng là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh phúc, tình yêu nơi Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công những nó đã cho người đọc thấy sức mãnh liệt trong những người nông dân tưởng chừng như nhỏ bé, khốn nhổ nhất.

    Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế, cách dẫn dắt tình tiết khéo léo tự nhiên. Giọng văn trần thuật của tác giả hòa vào những cuộc độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp nửa đặc sắc. Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt là khả năng diễn tả quá trình phát triển tình cách nhân vật hợp lí, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn – người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc. Tô Hoài đã dựng lên sức sống hình tượng của nhân vật Mị một cách thuyết phục khiến đọc giả không nào quên được.

    Nhà văn Sê-khốp từng khẳng định: Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy. Quả đúng như vậy, văn là người, cho nên con người như nào thì văn chương cũng sẽ như vậy. Nhà chân chính phải đứng trong lao khổ cuộc đời để đón những vang vọng cuộc đời. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Văn chương phải giúp ta người hơn. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Tô Hoài đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo.

    " Vợ Chồng A Phủ "đã lên án tố cáo các thế lực tàn bạo cướp đoạt quyền sống quyền làm người của người dân miền núi Tây Bắc. Nhà căn đã cho ta thấy rõ được sự tủi nhục của nhân dân ta, và điển hình như nhân vật Mị, sống là người nhưng bị đày đọa, bóc lột như" kiếp trâu ngựa ", khốn khổ, nhục nhã ê chề. Hiện thực rõ về số phận người nông dân khi bị bọn thực dân phong kiến đọa đầy.

    " Văn học là cuộc đời.. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học ", mỗi người nghệ sĩ lớn đều ý thức được đucợ mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và đời sống. Đời sống là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy nảy nở, bước đi trên từng nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình thành.

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
    Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách Mạng, gắn tình yêu thương với đấu tranh, gắn niềm tin vào tưởng lai đầy triển vọng của con người. Đó chính là sự diễn tả hợp lí những nghịch cảnh, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Mị, giúp nhà văn phần nào đạt đến cái gọi là" phép biện chứng tâm hồn. Cùng với cốt truyện sáng tạo, tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện giản dị, "Vợ chồng A Phủ" vẫn giữ nguyên vẹn sức hấp dẫn của mình qua hàng nghìn thế kỉ.

    "Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" (Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng "Vợ chồng A Phủ" là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.

    "Ta bây giờ như chồi non mọc lại

    Rón rén xanh, khe khẽ tự vươn mình

    Đã bao lần tưởng úa tàn hoang dại

    Nhưng rồi lại cựa quậy đón bình minh."
     
    Last edited by a moderator: 11 Tháng ba 2023
Trả lời qua Facebook
Đang tải...