Welcome! You have been invited by Tanghuong to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem
Bài viết: 14 Tìm chủ đề
709 29
nhung-cau-noi-status-hay-ve-ngay-that-tich-7-7-202207012320115678.jpg


Bài phân tích đến từ Vân Trang - Toiodayviban



[COLOR=rgb(0, 0, 0) ],[/COLOR]

,

穿 ,

.

,

,

小小,

[COLOR=rgb(0, 0, 0) ].
[/COLOR]

Thất tịch

Biệt phố kim triêu ám,

La duy ngọ dạ sầu.

Thước từ xuyên tuyến nguyệt,

Hoa nhập bộc y lâu.

Thiên thượng phân kim kính,

Nhân gian vọng ngọc câu.

Tiền Đường Tô Tiểu Tiểu,

Cánh trị nhất niên thu.


Dịch nghĩa

Sáng hôm nay nơi bến nước chia tay, cảnh trời u ám

(Ta ngồi) buốn bã lúc nửa đêm sau tấm rèm

Đàn quạ rời ánh trăng đang soi chiếu những sợi tơ đan áo của Chức Nữ

Hoa rơi trên lầu phơi áo

Trên tời cao, vầng trăng như chiếc gương vàng bị xẻ làm đôi

Nhân gian ngóng vọng vầng trăng ngọc hình lưỡi liềm

Nàng Tô Tiểu Tiểu ở Tiền Đường

(Nhớ thương nàng) thấy mùa thu dài như một năm.


* * *

Xưa nay khi nói đến thời Đường – giai đoạn thịnh thế của thơ ca Trung quốc, người ta không khỏi cảm khái rằng, thiên cơ thật khéo sắp đặt khi để tứ "trụ cột" được quy tụ mà chắp bút dành đời: Hậu thế chúng ta ngưỡng vọng một tâm hồn thanh cao, ẩn dật như Thi Tiên Lý Bạch; một ngòi bút trần thực, sâu cay như Thi Thánh Đỗ Phủ; rồi một Vương Duy tĩnh tại, điềm nhiên xứng danh Thi Phật; cuối cùng, một danh xưng độc nhất vô nhị đã không còn xa lạ với những tín đồ của thơ Đường, đó là Thi Quỷ Lý Hạ. Đọc thơ ông, người ta khó dứt, bởi một phần lạ lẫm, một phần hoài nghi, đau đáu về thi nhân – tâm hồn luôn nặng nề về cõi âm mờ mịt, những dâu bể vô thường – cảnh tượng kỳ quái, ý thơ lạ lùng, mặc sức cho trí tưởng tượng tung hoành.. Có khi, ta bâng khuâng tự hỏi cái thế giới kì bí kia - thế giới chỉ toàn những âm hồn lãng đãng, phiêu dật, đang vật vờ trong cõi u minh, phải chăng lại phản ảnh một mặt nào đó trong tâm hồn con người? Một trong những tác phẩm hiếm hoi bớt đi vài phần phong vị lạ lùng ấy trong thơ của Lý Hạ, đó là bài thơ "Thất Tịch" - hình tượng thơ thấm đẫm cái bẽ bàng hiu quạnh của một tâm hồn nhớ nhung, khắc khoải người yêu.

Ta biết rằng, một người nghệ sĩ khi bén duyên nợ với nghiệp viết, tư tưởng của họ ít nhiều đều không nằm ngoài tiếng nói của thời đại và thân phận mình. Không ngoại lệ, ngòi bút của Lý Hạ cũng chịu sự chi phối rất nhiều bởi chính cuộc đời và số mệnh đầy gập ghềnh, truân chuyên của nhà thơ. Sinh thời Lý Hạ (789 – 816) thuộc dòng dõi tôn thất nhà Đường, nhưng nhánh tộc ông vốn đã suy vi từ sớm, chỉ đứng ở cấp bậc thấp. Lý Hạ tự là Trường Cát. Người ở đất Phước Xương huyện Xương Cốc. Ngay từ khi còn nhỏ, thi sĩ họ Lý đã cực kỳ thông minh và khác người. Song ông bị cấm tham gia khoa cử vì phạm vào tội húy kỵ, ông chỉ giữ chức quan nhỏ "Phụng lễ tang" (trông coi về nghi lễ) trong 3 năm trước khi từ quan về quê nhà. Lý Hạ được miêu tả là một người có ngoại hình rất ốm yếu, thân hình mảnh khảnh, đôi lông mày liền nhau và để móng tay dài. Cuộc đời ông trường kì chìm đắm trong nỗi ưu phiền sầu não, thân phận nổi nênh của kẻ tài cao phận thấp, đã khiến cho "ngôi sao thơ" chưa kịp tỏa rỡ những ánh sáng kì lạ, chói chang thì đã phải tàn rụi, rụng rời khi vừa mới 27 xuân xanh.

Như đã nói, tài năng của thi nhân được bộc lộ từ rất sớm, năm lên bảy ông đã biết làm thơ. Tương truyền danh sĩ đương thời là Hàn Dũ nghe tiếng Hạ bèn cùng Hoàng Phủ Thực đến nhà. Hai người bèn bắt Hạ làm thơ để thử tài. Cậu bé Lý đã thản nhiên cầm bút viết ngay bài "Cao Hiên Quá" trình lên, bài thơ có những hình ảnh vô cùng kỳ diễm, thật khiến cho người ta thảng thốt, kinh tâm động phách không thôi:


"Điện tiền tác phú thanh ma không

Bút bổ tạo hóa thiên vô công"

(Trước nhà, làm thơ trình, thanh âm của bài thơ chạm vào bầu trời

Ngọn bút bổ sung những chỗ khiếm khuyết bất toàn của tạo hóa một cách dễ dàng, không tốn chút công sức)

Quả không sai, khi thói đời "tài hoa bạc mệnh", vì cảnh nhà khốn đốn, lại sống trong thời đại môn phiệt đang thịnh, cho nên dù có tài, ông vẫn phải chịu mọi sự đả kích và rẻ rúng. Ông ra đi, khi tài năng đương nở rộ.. Đoạn, bàn về cái chết kì dị, nhuốm màu huyền thoại của Quỷ Thi, vào canh giờ mà Lý qua đời, có một vị tiên mặc áo lụa đào, cưỡi con cù long màu đỏ ghé thăm; người này nói "Thượng đế đã cho xây xong lầu Bạch Ngọc, xin mời ông lên gấp để viết cho bài ký". Lát sau Lý Hạ mất. Người ta thấy làn khói chờn vờn qua cửa sổ, và tiếng xe đi trong réo rắt, ngân vang. Người đời, ai dám phủ nhận điều đó là hoang đường, vô thực, trong khi cõi đời tự bản chất đã là sắc sắc không không? Nếu chỉ chăm chăm câu nệ vào chữ nghĩa, để rồi chỉ thấy những hư ảo và quái đản, thì hậu thế sẽ chẳng bao giờ biết đến một Lý Hạ "quỷ thi" mà chỉ thấy được một Lý Hạ "quỷ tài" trong cái nhìn hạn hẹp mà thôi.

[HIDETHANKS=1]Sinh thời, Trường Cát ít được trọng dụng cho nên thơ ca của ông cũng thất thoát và tổn hại phần nhiều. Về sau, người đời gom góp lại được mấy trăm bài và đặt tên ban đầu là "Lý Hạ tập", sau đổi tên thành "Xương Cốc tập" . Hiện nay tập thơ ông có tên là "Lý Trường Cát ca". Mặc dù hành trang túi thơ của ông rất nhẹ so với nhiều nhà thơ cùng thời, song các sáng tác của chàng thi sĩ ấy vẫn để lại trong lòng hậu thế những ấn tượng khó phai bởi vẻ độc sáng, có một không hai của mình. Với tuyên ngôn "ngọn bút phải bù đắp những khiếm khuyết cho tạo hóa", Nhà thơ đã khơi một dòng chảy mới cho thi ca lãng mạn đời Đường. Thơ ông được xếp "đứng riêng một cõi" bởi phong cách khác người, với những hình ảnh thơ đầy u tịch, hắc ám, sự trở đi trở lại của những điềm gở là "lão" là "tử" là "huyết" là "lệ", ngay cả ánh trăng xuất hiện trong thơ ông cũng nhuốm màu, quái gở, thê lương. Thỉ như bài thơ "Thất tịch" – một đề tài rất đỗi quen thuộc, đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân xa gần. Thế nhưng ở Hạ ta vẫn thấy hiện hữu một điều gì rất riêng, rất lạ, rất mê hoặc.. Thất Tịch không thể nói là trong sáng, lãng mạn nhưng đã bớt đi vài phần chết chóc, ma rợn – thứ "quỷ khí" vốn luôn thường trực quẩn quanh trong túi thơ của một kẻ đứng bên lề cái chết mà nhìn cuộc đời như ông. Song những ẩn ức, dư âm đằng sau những vần thơ ấy vẫn không hề thay đổi, cứ mãi vờn quanh tâm trí người đọc. Bài thơ được sáng tác theo thể ngũ ngôn bát cú Đường luật, Tuy không phải những vần thơ đạt đến độ mẫu mực như trong sáng tác của Thi Thánh Đỗ Phủ, nhưng Thất Tịch cho người ta trải nghiệm nỗi trống vắng, khắc khoải, đang đay nghiến giằng xé tâm hồn của một người đang yêu, vừa muốn cố gắng chấp nhận, ghì chặt xuống, lại vừa giống như đang quẫy đạp, cồn cào, muốn phá tung mọi rào cản, để vượt thoát ra ngoài..

Mở đầu bài thơ là bức tranh ngoại cảnh tương chiếu cùng gam màu nội cảnh đầy hắc ám, cô tịch:


"Biệt phố kim triêu ám,

La duy ngọ dạ sầu."

(Ngày Thất tịch) bến sông Ngân cảnh trời u ám

(Ta ngồi) buồn bã lúc nửa đêm sau tấm rèm

Tự cổ chí kim, để thưởng thơ, người ta vẫn luôn men theo lối mòn, được dẫn dắt từ nhan đề vào đến tác phẩm. Nếu nói "Thất Tịch" là một chiếc chìa khóa, có lẽ ta đã đôi phần mường tượng được không gian của căn phòng bí mật mà nó giữ cửa. Theo tiếng Hán, "thất" là số bảy, "tịch" là đêm khuya. Nhưng "Thất Tịch" không phải là bảy đêm, mà đang muốn nói đến đêm "Mùng Bảy tháng Bảy" âm lịch – gắn liền với truyền thuyết "Ngưu Lang Chức Nữ" - một trong những chuyện tình lớn nhất của văn hóa phương Đông trong xã hội sơ khai của nền nông nghiệp: Người đàn ông chăn bò cày ruộng; người phụ nữ dệt vải nuôi tằm. Nhưng vợ chồng lại phải chịu bi kịch mỗi người một nơi, một năm chỉ được gặp mặt một lần. Tương truyền, mỗi năm vào Thất Tịch, Ngưu Lang, Chức Nữ sẽ gặp lại nhau bên "cầu Ô Thước" bắc ngang qua "dòng sông Ngân Hà". Ở đây, câu thơ đầu Lý Hạ dùng từ "biệt phố" nghĩa là bến nước li biệt, hay nói cách khác là chỉ bến sông Ngân Hà nơi hai người chia tay, ai về bên nấy. Hình ảnh này vốn đã gợi sự chia ly, tang tóc, ấy vậy mà Lý Hạ vẫn không ngại dùng thêm một chữ "ám" (ảm đạm) càng làm tăng thêm phần thê lương, quỷ dị cho khung cảnh ấy. Có thể thấy, với thanh trắc ngay ở cuối câu thơ đầu tiên (tính từ "ám"), thi nhân đã chủ động chiết vận, cố tình bỏ qua luật vần để nhấn mạnh nỗi u tịch đang lan tràn, trùm kín không gian.. Dường như cái u ám, ảm đạm ấy không còn là những tác động của ngoại cảnh, mà đang ngùn ngụt tỏa lên từ chính cõi lòng của tâm cảnh "ta". Người đọc chỉ thấy một thân ảnh hư hư thực thực ẩn hiện sau tấm rèm ( "la duy"), cô độc gặm nhấm nỗi sầu lúc nửa đêm thanh vắng..



Nếu như "Đường Minh Hoàng" và "Dương Quý Phi" trong đêm Thất Tịch lập lời thề "Trên trời cùng làm chim liền cánh, dưới đất thề làm cây liền cành". Nếu như "nàng cung phi" của "Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều" "Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên" . Thì với Lý Hạ, ông lại dùng "Thất Tịch" để bày tỏ nỗi sầu tủi và nhớ nhung người mình yêu. Một tình yêu thê lương và khắc khoải, nó thấm đẫm cái quỷ dị và u ám của tâm hồn đầm đìa huyết và lệ trong thi nhân. Rằng Ngưu Lang Chức Nữ còn có thể gặp nhau, mỗi năm một lần vào đêm Thất Tịch, mặc dù nhân sinh chẳng thể nào vẹn toàn, sau đó họ lại phải lìa xa. Nhưng còn Hạ, tự hỏi biết đến khi nào mới được gặp nhau? Cứ ôm nỗi cô đơn lẻ bóng, chờ thêm một năm nữa hay sao? Tiếc thay nhà thơ mệnh yểu đã không thể chờ đợi đến ngày tương phùng ấy thì đã vội vàng từ biệt trần thế đầy ngang trái, tàn ác, đến nơi ông vốn thuộc về..[/HIDETHANKS]

Như vậy tác phẩm không chỉ đặc sắc bởi niềm đau đáu khôn nguôi trong nội dung phản ánh, mà bài thơ đắt giá bởi cách Lý Hạ phu chữ, cách ông lựa chọn và sử dụng những hình ảnh thơ đầy lạ lẫm, bất ngờ. Mặc dù các bản dịch thơ đều khá sát nghĩa, nhưng vô hình trung lại làm mất đi tính "quỷ" – phần đặc sắc tuyệt bút của thơ ông. Khó trách Quỷ Thi Lý Hạ luôn mang vào trong thơ mình những âm điệu chán chường, u uất, bởi lẽ khi phải chứng kiến bức tranh thời đại suy vi, mục nát, lại thêm những dằn vặt về bệnh tật, về công danh không toại, nỗi niềm bất đắc chí ấy làm sao có thể như "Hạc vàng" cất cánh lên tầng trời bao la được? Làm sao hồn thơ ông không trở nên lạnh lẽo hiu quạnh cho được? Đọc thơ Lý Hạ ta vừa bất giác thấy rùng mình bởi bức tranh ghê sợ, hãi hùng được ông vén lên tấm màn che, lại vừa thấy lòng mình cuộn xoáy kinh động như đang chạm đến được thế giới thâm sâu của phần linh hồn, ác quỷ trong mỗi con người. Với tài năng và những gì Thi Quỷ Lý Hạ để lại cho nền văn học, thi nhân thật xứng đáng cùng xướng danh với những bậc đại tài như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy.. đương thời.
 
Chỉnh sửa cuối:

Những người đang xem chủ đề này

Nội dung nổi bật

Xu hướng nội dung

Back