Phân tích 5 khổ thơ đầu bài thơ Bếp Lửa - Bằng Việt

Thảo luận trong 'Cần Sửa Bài' bắt đầu bởi khanhlinh560, 22 Tháng sáu 2023.

  1. khanhlinh560 Kayurr

    Bài viết:
    6
    Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng, hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương.. nhưng sâu trong trái tim mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ảnh sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên. Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta.. Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta.. và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế. Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng. Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm, chăm sóc, che chở của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi.. có bà. Một trong những minh chứng tiêu biểu đó chính là bài thơ "Bếp lửa" được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật ở Liên Xô cũ in trong tập "Hương cây bếp lửa". Bài thơ đã gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về bà và tình bà cháu vừa gần gũi, vừa thân quen. Tiêu biểu là đoạn thơ:

    "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

    * * *

    Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng"

    Mạch cảm xúc của bài thơ như là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà. Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm. Đoạn thơ trên đây là năm khổ thơ đầu của bài thơ. Đoạn thơ tập trung thể hiện những tình cảm tuổi thơ và tình bà cháu gắn liền với bếp lửa quê hương.

    Bài thơ được bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa - một hình ảnh rất đỗi quen thuộc, bình dị ở mỗi làng quê Việt Nam:

    "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

    Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

    Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

    Ba tiếng "một bếp lửa" láy đi láy lại, trở thành điệp khúc da diết ngay từ những dòng thơ đầu tiên. Bếp lửa được nhóm lên vào buổi sáng sớm, lung linh, mờ tỏ. Hình ảnh ấy gợi cái ấm áp giữa "chờn vờn sương sớm", gợi cái thân thương với biết bao "ấp iu nồng đượm". Từ láy "chờn vờn" giúp ta hình dung được ngọn lửa bập bùng, lay động, khi tỏ khi mờ; từ láy "ấp iu" không chỉ diễn tả thật chính xác công việc nhóm lửa mà còn gợi liên tưởng tới đôi bàn tay kiên trì, khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa. Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên đã đánh thức dòng hồi tưởng của cháu về bà - người nhóm lửa mỗi sớm mai – một hình ảnh trong bài thơ lúc nào cũng chập chờn, lay động "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Hình ảnh ẩn dụ "Nắng mưa" chỉ những gian lao vất vả của cuộc đời bà. Và đây là lần thứ hai nhà thơ nhắc tới hình ảnh "nắng mưa". Cuộc đời bà đầy gian truân, vất vả nhiều lận đận, trải qua nhiều "nắng mưa" tưởng như không bao giờ dứt. Khổ thơ đầu kết thúc trong cảm xúc của người cháu. Cảm xúc ấy bật ra bằng một chữ "thương", nó lan tỏa trong câu thơ và thấm sâu vào lòng người đọc. Cả bài thơ có hai chữ "thương", Bằng Việt đã dành trọn để "thương bà". "Biết mấy nắng mưa", chỉ 4 chữ đã gợi ra hình ảnh của bà với bao lo toan, vất vả, lặng lẽ, âm thầm. Người cháu hiếu thảo cũng đôi lần nhắc lại: "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa" - nỗi vất vả nhọc nhằn của bà trở thành nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi trong lòng cháu suốt đời.

    Ký ức hiện lên từ một khoảng thời gian rất xa đó là khi cháu lên bốn tuổi. Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn ám đầy mùi khói:

    "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

    * * *

    Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay."

    Câu thơ gợi lại cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Bởi vậy, gây ấn tượng mạnh mẽ với cháu là cái đói, cái nghèo. Cái đói dai dẳng và mòn mỏi khắp chốn thôn quê. Thành ngữ "đói mòn đói mỏi" – cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy khô.. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc. Nhà thơ Chế lan Viên từng viết: "Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ". Trong túp lều tranh chỉ có bà và cháu. Hoàn cảnh sống vất vả, khó khăn nhưng cháu luôn có bà bên cạnh. Câu thơ vừa phản ánh chân thực cuộc sống, vừa gợi những xúc cảm thật sâu sắc và đậm nét của người trong cuộc. Kỷ niệm cháu nhớ nhất là mùi khói bếp: Cháu nghĩ là mùi khói bếp của nhà nghèo điều này càng nhấn mạnh thêm về cuộc sống vất vả khó khăn của hai bà cháu. "Khói hun nhèm mắt" là khói từ củi ướt cay xè từ bếp lửa nhà nghèo. Nhà thơ đã lựa chọn được một chi tiết sát thực để vừa miêu tả được chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa diễn tả được những xúc động bâng khuâng, da diết: "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay". "Còn cay" là còn nguyên nỗi xúc động. Cảm xúc hiện tại và kỉ niệm năm xưa đồng hiện, hòa lẫn vào nhau. Hai dòng thơ rất thực mà tràn ngập cảm xúc. Cái "bếp lửa" kỉ niệm của ông mới chỉ khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm bao tình nghĩa sâu nặng.

    Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm 8 tuổi gắn liền với hình ảnh người bà ùa về trong kí ức của người cháu:

    "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

    * * *

    Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa"

    Giặc đói chưa qua thì giặc ngoại xâm tràn tới. Gia đình ly tán "Mẹ cùng cha công tác bận không về", cháu lại gắn bó cùng bà. "Tám năm ròng" con số không lớn, nhưng ngày tháng sao kéo dài nặng nề, ròng rã thế! Vì "những ngày ở Huế" ấy, cuộc sống gia đình thật quạnh vắng, chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau, nhóm lửa mỗi sớm, mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu da diết. Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú gợi ra cả một không gian trống vắng, khơi sâu thêm cái cảm giác quạnh vắng, cô đơn. Trên cái nền hoang tàn vì khói lửa chiến tranh, giữa cái âm thanh khắc khoải bồn chồn của tiếng chim tu hú, hai bà cháu nương tựa vào nhau để duy trì cuộc sống. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bếp lửa. Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì tha thiết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi nhớ, gợi thương về tám năm kháng chiến chống Pháp "mẹ cùng cha công tác bận không về" bà vừa là cha, vừa là mẹ. Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Một loạt các từ ngữ "bà bảo", "bà dạy", "bà chăm" vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu, vừa thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù để bảo vệ quê hương Việt Nam. Các câu thơ ngắn, liệt kê diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng yêu thương, chăm chút, tỉ mỉ, ân cần mà bà đã dành cho cháu, nuôi cháu lớn khôn, soi sáng trí tuệ và tâm hồn của cháu. Sống trong tình yêu thương, che chở của bà, cháu ơn bà biết bao, nên những dòng thơ cứ bật ra thật tự nhiên mà cảm động: "Thương bà khó nhọc". Chỉ một mình chữ "thương" thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình. Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú. Câu hỏi tu từ "Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa" như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương bà da diết của đứa cháu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

    Tuổi thơ của cháu còn lớn lên trong cảnh hoang tàn đau thương, tang tác, trong khói lửa chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá:

    "Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

    * * *

    Cứ bảo nhà vẫn được bình yên"

    Cuộc kháng chiến diễn ra ngày càng ác liệt, vì thế cuộc sống của hai bà cháu đã vất vả cơ cực lại càng khó khăn hơn. Giặc càn quét, đốt làng, đốt xóm và gia sản cuối cùng của bà cháu bị lửa thiêu rụi. Song càng trong hoàn cảnh gian khó cháu vẫn luôn có bà là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất. Câu thơ với động từ "cháy" được lặp lại, từ ghép "tàn rụi" được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp không gian ký ức. Bà là người giàu tình yêu thương và đức hi sinh vì con cháu, vì đất nước bà nhận hết về mình phần gian khổ. Bà là người phụ nữ có nghị lực sống mạnh mẽ, phi thường. Chiến tranh đã gây ra bao đau thương, mất mát, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi của con người tất cả mọi thứ. Chính chiến tranh đã gây nên bi kịch của tình cha con trong "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng, khơi dậy những vần thơ vang tiếng căm thù của những nhà thơ cách mạng.. Nhưng với Bằng Việt, cũng từ đó mà ông mới cảm nhận được vẻ đẹp trong góc khuất của tâm hồn bà. Lời dặn của bà giản dị nhưng chất chứa biết bao tình cảm. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Gian khổ, thiếu thốn và bao nỗi nhớ thương bà đều phải nén vào trong để làm yên lòng người nơi tiền tuyến. Bà lặng lẽ hi sinh cho con, cho cháu và cho đất nước. Có thể nói thắng lợi của cuộc kháng chiến không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Vì thế, hình ảnh bà trở thành biểu tượng của những người phụ nữ Việt Nam cần cù, nhẫn nại, giàu đức hi sinh. Trong suốt cả bài thơ, chỉ có ở ba câu thơ cuối khổ bốn người đọc mới được tiếp xúc trực tiếp với bà. Với cách nói bình dị, mộc mạc "kể này, kể nọ", "cứ bảo", bà hiện lên thật gần gũi, thân thương, khiến ta có cảm giác như được nghe tiếng nói của chính bà mình vậy. Ngay cả cái cách bà gọi cháu là "mày" cũng thể hiện một sự thương yêu, trìu mến vô bờ, một cách gọi vô cùng dân dã. Qua dòng hồi tưởng của cháu về những ký ức và kỷ niệm đẹp bên bà, ta cảm nhận được nét đẹp đáng quý trong tâm hồn bà, bà là người chịu thương, chịu khó, tần tảo.

    Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

    "Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

    Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

    Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng!"

    "Rồi sớm rồi chiều" ẩn chứa cả một dòng thời gian âm ỉ, dai dẳng mang theo cả cuộc đời bà, mang theo bao tâm tình của đứa cháu phương xa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên thành "ngọn lửa" mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. "Bếp lửa" với những ấm áp, giản dị của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã bùng lên thành "ngọn lửa" của niềm tin và sức sống cho các thế hệ mai sau. Hình ảnh ấy được lặp lại hai lần trong điệp từ "một ngọn lửa" càng khẳng định đó chính là cội nguồn của bao yêu thương, của những tần tảo hy sinh nơi bà. Trong hình ảnh "lòng bà luôn ủ sẵn", người đọc cảm nhận được một ngọn lửa không bao giờ tắt qua năm tháng, một ngọn lửa bất diệt từ trong chính trái tim bà. Từ láy "dai dẳng" như càng tiếp thêm cho sự bền bỉ, lan tỏa của hình ảnh ấy. Đến nỗi tới bây giờ "ngọn lửa chứa niềm tin ấy" vẫn còn cháy trong cháu, mang theo bao cảm xúc không thể nói hết được mà phải dùng đến một dấu chấm lửng, để lại bao suy ngẫm trong lòng độc giả. Bà không để lại cho con cháu những giá trị vật chất thông thường mà là một điều quý giá hơn gấp bội: Ngọn lửa của sự sống. Khái quát lên, bà là hiện thân cho vẻ đẹp thiêng liêng của người giữ lửa, truyền lửa.

    Bằng thể thơ tự do chủ yếu là thơ 8 chữ, giọng điệu tâm tình trầm lắng, giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu suy tư triết luận, kết hợp nhuần nhuyễn biểu cảm, tự sự, miêu tả và bình luận. Sáng tạo ra hình ảnh bếp lửa khơi nguồn kỷ niệm. Sử dụng các bptt như điệp ngữ, ẩn dụ, từ láy độc đáo.

    Với "Bếp lửa", Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng "bếp lửa", thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một "bếp lửa" soi sáng trong tim..
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...