Nhận định đúng sai môn Triết học Mác - Lênin (đề mở)

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi annryhouse, 14 Tháng năm 2022.

  1. annryhouse

    Bài viết:
    22
    Nhận định đúng sai môn Triết học Mác-lênin (đề mở)

    Câu 1: Vì sao nói mối quan hệ quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học?

    Trả lời:

    Giải quyết giữa mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trở thành tiền đề, xuất phát điểm của bất kì trường phái học thuyết nào, tri thức triết học nào.

    Bất kì một học thuyết nào, một trường phái triết học nào dù muốn hay không, bằng cách này hay cách khác đều phải giải quyết được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

    Ăngghen đã chứng minh và khẳng định rằng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đã trở thành vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại.

    • Vấn đề cơ bản triết học bao gồm 2 mặt tạo thành một chỉnh thế, không thể tách biệt nhau được.

    – Mặt thứ nhất là vấn đề xác định giữa quan hệ vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào.

    – Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi là con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không.


    Câu 2: Cơ sở nào để phân biệt chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm

    Trả lời: Dựa vào việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học

    Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức thì cái nào là cái có trước, cái nào có sau cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào.

    Trên cơ sở giải quyết mặt thứ nhất chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất (tồn tại, tự nhiên) có trước, ý thức (tư duy, tinh thần) có sau, vật chất quyết định ý thức.

    Chủ nghĩa duy tâm cho rằng rằng ý thức (tư duy, tinh thần) có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất.

    Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản:

    CNDT khách quan cho rằng có một lực lượng siêu nhiên có trước, sinh ra và quyết định thế giới vật chất.

    CNDT chủ quan thì cho rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào cảm giác, ý thức.


    Câu 3: Quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cái gì cảm giác được thì gọi là vật chất đúng hay sai? Vì Sao?

    Sai vì theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, theo định nghĩa của Lê-Nin vật chất là cái đem lại cảm giác cho con người dưới hình thức trực tiếp hoặc là gián tiếp. Cái gì cảm giác được thì gọi là vật chất thuộc trường phái triết học nào?

    (thuộc chủ nghĩa duy tâm chủ quan)


    Câu 4: Hiểu thế nào về bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan? Cho ví dụ?

    Ý thức chẳng qua là hình ảnh vật chất tức là hình ảnh của hiện thực khách quan hoặc là thế giới khách quan được di chuyển vào trong bộ não người và cải biến đi ở trong đó dưới dạng hình ảnh tinh thần (hình ảnh tinh thần tức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan).

    Ví dụ:

    - Sau khi đọc một quyển sách thì hình thành được kiến thức mới

    - Đại dịch covid những đợt dịch bùng nổ, tốc độ lây lan nhanh, số người chết tăng nhiều, hình thành nên cảm giác lo sợ (ý thức)

    - Chính quyền Đà Nẵng thực hiện cuộc phòng chống đại dịch covid tốt hình thành nên niềm tin chính quyền


    Câu 5: Có một danh y cho rằng "Tất cả thuốc, tất cả đều là thuốc độc, tất cả đều là thuốc tiên vấn đề là liều lượng" câu nói này đề cập đến phạm trù nào? Giải thích

    Nói đến khái niệm Độ, vấn đề là liều lượng, chúng ta dùng thuốc trong một mức độ cho phép thì đó là khoảng độ để đảm bảo sức khỏe của mình tức là thuốc tiên, nhưng nếu cũng thuốc đó nhưng vượt độ thì nó trở thành thuốc độc

    Phạm trù

    Phạm trù, có 3 phạm trù, nguyên nhân- kết quả, nội dung- hình thức, cái chung cái riêng

    Câu hỏi về cái chung cái riêng: Vì sao khi áp dụng cái chung vào cái riêng thì phải căn cứ vào đặc điểm riêng của cái riêng

    Khi áp dụng cái chung vào cái riêng thì phải linh hoạt mềm dẻo, phải căn cứ vào tính đặc thù của cái riêng vì bởi vì trong cái riêng ngoài cái chung còn có cái đơn nhất. Mà cái đơn nhất ở mỗi cái riêng thì nó sẽ không giống nhau

    Vd:

    Vì sao phải tạo đk để cái chung và cái đơn nhất chuyển hóa cho nhau? (đặc điểm thứ 4 về đặc điểm giữa cái chung và riêng để gth). Lấy vd

    Vd: Sự chuyển hóa giữa lao động thủ công và máy móc

    Trong giai đoạn đầu của sx xh thì lao động thủ công là cái chung, dần dần bị lao động bằng máy móc thay thế ⇒ phải vẽ chuỗi cc chi đó :)

    Phạm trù nhân quả

    Câu hỏi: Một kq có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, vd

    Or có thể hỏi: Mọi sự vật hiện tượng trên thế giới này xh kết quả mà không cần có nguyên nhâ. Đúng hay sai, gth, vd

    Để gth câu này thì quay về tính phổ biến về liênn hệ nhân quả phạm trù nd- hình thức (cuối cùng cũng quay về trong cặp đấy mà chép nếu mà ra đề đó thôi mà mình phải đi vài vòng đã- cô said :))

    Các bạn hiểu thế nào về sự thống nhất về nd và hình thức của sự vật sự việc, tìm câu ca dao tục ngữ để phản ánh về sự thống nhất đó

    Trả lời:

    Trong mqh giữa nd và hình thức có 3 vấn đề

    Sự thống nhất giữa nd-hình thức thể hiện ở chỗ một nd có nhiều hình thức thể hiện, một hình thức cũng chứa nhiều nd (vì hỏi về sự thống nhất nên chỉ cần tl sự thống nhất)

    Vai trò quyết định của nd đối với hình thức: Nd quyết định hình thức nhưng hình thức có thể tác động lại nội dung

    Sự tác động của hình thức đến nd: Nd- hình thưc gắn bó với nhau

    Tìm câu ca dao- tục ngữ


    Câu 6: Mâu thuẫn biểu hiện trong đời sống xã hội như thế nào? Cách giải quyết

    Mâu thuẫn biểu hiện trong đời sống xã hội có 4 loại mâu thuẫn:

    1.

    Mâu thuẫn bên trong-mâu thuẫn bên ngoài

    2.

    3.

    Mâu thuẫn cơ bản-mâu thuẫn không cơ bản

    4.

    5.

    Mâu thuẫn chủ yếu-mâu thuẫn thứ yếu

    6.

    7.

    Mâu thuẫn đối kháng- mâu thuẫn không đối kháng

    8.

    Trong đó nổi bật nhất là mâu thuẫn đối kháng- mâu thuẫn không đối kháng

    Mâu thuẫn đối kháng là: Là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội.. có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị..

    Mâu thuẫn không đối kháng là: Là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội.. có lợi ích cơ bản không đối lập nhau nên là mâu thuẫn cục bộ, tạm thời.

    Cách giải quyết: Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng giải quyết bằng con đường đấu tranh, tuy nhiên trong trường hợp bất khả kháng thì đấu tranh bằng bạo lực cách mạng còn đối với mâu thuẫn không đối kháng thì đấu tranh bằng phương pháp hòa bình không sử dụng bạo lực cách mạng.


    Câu 7: Có những sự vật hiện tượng trên thế giới xuất hiện kết quả mà không có nguyên nhân? Đúng hay sai?

    Sai vì theo tính chất phổ biến của phạm trù nhân quả:

    Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều được gây ra bởi những nguyên nhân nhất định.

    Không có sự vật, hiện tượng nào không có nguyên nhân của nó. Vấn đề là chúng ta đã phát hiện, tìm ra được nguyên nhân hay chưa.

    Hiểu thế nào về tính vượt trước của ý thức xã hội?

    Trên cơ sở hiện thực của tồn tại xã hội tư tưởng khoa học tiên tiến đưa ra những giả thuyết, học thuyết dự báo về tồn tại xã hội trong tương lai

    Ví dụ khoa học kĩ thuật phát triển, cho con người dự báo về hiện tượng thiên nhiên, xu hướng già hóa dân số của Việt Nam


    Câu 8: Vì sao ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội?

    CÓ 2 CÁCH TRẢ LỜI:

    CÁCH 1:

    +) TTXH là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất của YTXH, nó làm hình thành và phát triển YTXH, còn YTXH chỉ là sự phản ánh TTXH.

    +) Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những thay đổi của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập quán và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.. tiếp tục tồn tại sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ lâu; do lợi ích nên không chịu thay đổi.

    +) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật và có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích nhất định.

    +) Ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa có tính tất yếu khách quan; có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của suy tàn của nền kinh tế.

    CÁCH 2

    ·

    Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội

    ·

    Do sức mạnh của thói quen, truyền thống tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội

    ·

    Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ. Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.


    ĐỀ 1

    Câu 1. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện như thế nào, vì sao? Cho ví dụ minh họa

    "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác". (V. I. Lênin, Toàn tập, Tập 18, tr. 151)

    Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

    Vai trò của vật chất đối với ý thức

    Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất; điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức phải như thế ấy; điều kiện vật chất biến đổi thì ý thức phản ánh cũng biến đổi theo.

    Vì:

    Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.

    Vật chất "sinh" ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính bộ phận của con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.

    Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.

    Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức.

    Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh. "Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức". Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.

    Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.

    Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc là "phản ánh tâm lý" như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.

    Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.

    Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.

    Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thuỷ. Trong nền sản xuất tưbản, tính chất xã hội hóa của sản xuất phát triển là cơ sở để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển không ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.

    Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.

    Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V. I. Lênin, rằng "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: Trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối" [1] . Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và thuộc tính của chính nó.

    VÍ DỤ: Trong ĐỜI SỐNG XÃ HỘI có câu: Thực túc, binh cường, có thực mới vực được đạo


    Câu 2. Cái chung có bao giờ tách rời khỏi cái riêng không, vì sao, cho 1 ví dụ minh họa

    – Cái riêng và cái chung không thể tách rời nhau.

    - Vì không có cái chung tồn tại độc lập đứng ngoài cái riêng và cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Ví dụ, thuộc tính chung là trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa của cả một quốc gia, dân tộc, của thủ đô chỉ tồn tại thông qua từng thủ đô cụ thể như Hà Nội, Mátxcơva, Viêng Chăn, Phnôm Pênh..

    – Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, vì bất cứ cái riêng nào cũng cũng tồn tại trong mối liên hệ với những cái riêng khác. Giữa cái riêng ấy bao giờ cũng có những cái chung giống nhau. Ví dụ, trong một lớp học có 30 sinh viên, mỗi sinh viên coi như "một cái riêng"; 30 sinh viên này (30 cái riêng) liên hệ với nhau và sẽ đưa đến những điểm chung: Đồng hương (cùng quê), đồng niên (cùng năm sinh), đồng môn (cùng học một thầy/cô), đều là con người, đều là sinh viên, v. V.

    – Cái chung là một bộ phận của cái riêng, cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Do đó, cái riêng phong phú hơn cái chung. Tuy nhiên, cái chung sâu sắc hơn cái riêng. Ví dụ, cái chung của thủ đô là thuộc tính "trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một quốc gia". Nhưng, từng thủ đô cụ thể còn có nhiều nét riêng khác về diện tích, dân số, vị trí địa lý, v. V.

    – Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Bởi lẽ, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay mà ban đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Dần dần cái chung ra đời thay thế cái đơn nhất. Ngược lại, cái cũ ban đầu thường là cái chung, nhưng do những yếu tố không còn phù hợp nữa nên trong điều kiện mới mất dần và trở thành cái đơn nhất.

    Ví dụ: Cùi dày, nhiều múi, rất nhiều tép là cái chung giữa các quả bưởi. Rõ ràng, cùi, múi, tép ở đây (cái chung) chỉ và phải tồn tại trong một quả bưởi nhất định (cái riêng).


    Câu 3. Nguồn gốc của sự vận động, phát triển là gì? Vì Sao?

    Khái niệm "Vận động" và "phát triển"

    * Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: Đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu.

    Nói cách khác, vận động là biến đổi nói chung, bao gồm hai khuynh hướng:

    - Sự vật, hiện tượng cụ thể đều có bước khởi đầu và sự diệt vong.

    - Xem xét trong tính hệ thống, thì đó là sự kế thừa ngày càng hoàn thiện hơn và có tính hệ thống hơn.

    * Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

    Như vậy, phát triển không phải là bản thân sự vận động, phát triển chỉ là khuynh hướng tất yếu của vận động, phát triển nó chỉ khái quát những sự vận động đi lên, đó là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết cấu phức tạo của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định cao hơn về chất.

    Nói cách khác phát triển là quá trình làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu.

    Theo chủ nghĩa Mác – Lenin thì nguồn gốc của sự phát triển xuất phát từ "Mâu thuẫn".

    VÌ:

    Quá trình để dẫn đến phát triển là sự vận động của các sự vật, hiện tượng, mà mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động.

    Từ xưa đến nay, mỗi mâu thuẫn bao hàm sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, làm cho sự vật hiện tượng không thể giữ nguyên trạng thái cũ. Đến một thời điểm nhất định, những mâu thuẫn cũ mất đi thì những mâu thuẫn mới sẽ được hình thành, những sự vật và hiện tượng cũ cũng từ đó mà được thay thế bằng những sự vật, hiện tượng mới.

    Từ mâu thuẫn dẫn đến đấu tranh, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập chính là nguồn gốc vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng trong xã hội.


    Câu 4. Giữa lượng và chất, yếu tố nào thường xuyên biến đổi? Vì sao?

    Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt luôn biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới được hình thành với lượng mới, lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến một giới hạn nhất định nó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt chất và lượng tạo nên con đường vận động liên tục, từ biến đổi dần dần tới nhảy vọt rồi lại biến đổi dần dần để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo, cứ thế làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển



    ·

    Chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng; nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêngLượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.


    Câu 5. Bộ phận nào quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, vì sao?

    Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao động mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là sức lao động.

    [​IMG]

    Vì sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.

    [​IMG]

    Trong quá trình sản xuất cần có công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao.

    Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là một yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất.

    Khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hóa được tự động hóa thì vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất.

    Trình độ phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Như vậy có thể nói yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người.

    Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.

    ĐỀ 2


    Câu 1. Vật chất tồn tại khách quan hay chủ quan? Vì sao?

    Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản ánh.

    Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức.

    Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, với cảm giác của con người và loài người nói chung, mặc dù người ta có thể chưa biết đến chúng. Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V. I. Lênin viết: "Chủ nghĩa duy vật nói chung thừa nhận rằng tồn tại thực tại khách quan (vật chất) là không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác, kinh nghiệm, v. V, của loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận rằng tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của loài người. Trong hai trường hợp đó, ý thức chỉ là phản ánh của tồn tại, nhiều lắm cũng chỉ là một phản ánh gần đúng (ăn khớp, chính xác một cách lý tưởng)" [1] .

    Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không phụ thuộc vào cảm giác ".

    + Vật chất là cái khách quan, tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức hay chưa.

    + Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan của con người.

    + Cảm giác, tư duy, ý thức là sự phản ánh của vật chất.


    Câu 2. Hiểu thế nào: Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?

    Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, bởi vì ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn.

    Câu 3. Thế nào là nội dung và hình thức phù hợp với nhau? Ví dụ trong tục ngữ, ca dao để minh họa

    Nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng tồn tại thống nhất chặt chẽ trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, nhưng nội dung giữ vai trò quyết định. Hình thức xuất hiện trong sự quy định của nội dung và sau khi xuất hiện, hình thức tồn tại tương đối độc lập và có ảnh hưởng tới nội dung, gây ra các hệ quả nhất định. Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó là động cơ thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không phù hợp, hình thức cản trở sự phát triển đó của nội dung. Cùng một nội dung, trong quá trình phát triển, có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể biểu hiện cho một số nội dung khác nhau. Sự vật, hiện tượng phát triển thông qua sự đổi mới không ngừng của nội dung và sự thay đổi theo chu kỳ của hình thức. Lúc đầu, sự biến đổi diễn ra trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hình thức, nhưng khi sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra tới giới hạn nhất định, nội dung mới xuất hiện thì hình thức ban đầu trở nên chật hẹp, kìm hãm sự phát triển của nội dung. Nội dung mới phá bỏ hình thức cũ và trong vỏ bao bọc của hình thức mới đó, thì nội dung mới sẽ tiếp tục phát triển.

    Ví dụ:" Có công mài sắt, có ngày nên kim "


    Câu 4. Trong xã hội khi diễn ra mâu thuẫn đối kháng, cách thức giải quyết mâu thuẫn như thế nào? Vì sao?

    Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội.. có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị giải quyết bằng con đường đấu tranh, tuy nhiên trong trường hợp bất khả kháng thì đấu tranh bằng bạo lực cách mạng còn đối với mâu thuẫn không đối kháng thì đấu tranh bằng phương pháp hòa bình không sử dụng bạo lực cách mạng.

    Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng; còn đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng. Tính tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của sự vật, hiện tượng. Về vấn đề này C. Mác viết:" Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới "[1] . Còn V. I. Lênin, chú ý nhiều hơn đến tính tuyệt đối của" đấu tranh "đã viết:" Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập "[2] .


    Câu 5. Tại sao: Kiến trúc thượng tầng lại ra sức bảo vệ lấy cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó? Cho ví dụ minh họa.

    Xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.

    Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.

    Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.

    Đề 3

    Câu 1. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ntn? Vì sao? Cho ví dụ minh họa.

    Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.

    Vì chúng không tồn tại tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Với mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất & đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động & phát triển, làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Ở đây là vật chất quyết định ý thức.

    Ví dụ, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần: Khi giàu có thì ta có đời sống tinh thần vui vẻ, hạnh phúc. Không ai hạnh phúc, vui vẻ khi họ không nhà không cửa, không tiền tài, địa vị. Tuy nhiên cũng chỉ mang tính tương đối.


    Câu 2. Mâu thuẫn biểu hiện trong xã hội như thế nào? Cách giải quyết?

    - Với mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất & đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động & phát triển, làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời.

    - Mâu thuẫn biểu hiện trong đời sống xã hội có các loại:

    + Mâu thuẫn bên trong & bên ngoài

    + Mâu thuẫn chủ yếu & không chủ yếu

    + Mâu thuẫn cơ bản & không cơ bản

    + Mâu thuẫn đối kháng & không đối kháng

    Trong đó nổi bật nhất là: Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.

    - Mâu thuẫn đối kháng là

    - Mâu thuẫn không đối kháng: .

    Cách giải quyết mâu thuẫn

    Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.


    Câu 3. Nguồn gốc của sự vận động, phát triển là gì? Vì sao? Cho ví dụ minh họa

    Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: Đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu

    Ph. Ăngghen viết:" Vận động, đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biến hóa nói chung ". (Tập 20, tr. 742). " Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy "(Tập 20, tr. 519).

    * Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

    Như vậy, phát triển không phải là bản thân sự vận động, phát triển chỉ là khuynh hướng tất yếu của vận động, phát triển nó chỉ khái quát những sự vận động đi lên, đó là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết cấu phức tạo của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định cao hơn về chất.

    Nói cách khách phát triển là quá trình làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu.

    Mâu thuẫn là nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

    Vì:

    ·

    Giải quyết mâu thuẫn là kết quả đấu tranh giữa các mặt đối lập, là mâu thuẫn củ mất đi mâu thuẫn mới được hình thành, sự vật hiện tượng cũ được thay thế bằng sự vật hiện tượng mới. Quá trình này tạo nên sự vận động và phát triển vô tận của thế giới khách quan.

    ·

    ·

    Do đó sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng

    ·

    Ví dụ: Lấy vd của Thượng

    Thượng:

    Mâu thuẫn là nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng

    Vì đó là sự tác động (theo hướng phủ định, thống nhất) lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng. Có hai loại tác động dẫn đến vận động là tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng (bên ngoài) và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập của cùng một sự vật, hiện tượng (bên trong) ; nhưng chỉ có sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong) mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.

    Ví dụ: Sự phát triển qua các thời kì của xã hội


    câu 2 nguồn gốc nào của ý thức nói lên: Một hiện tượng mang bản chất của xã hội, vì sao, cho ví dụ minh họa?

    Ý thức là một hiện tượng xã hội mang bản chất xã hội: Ý thức ra đời và tồn tại gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên, xã hội và được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

    Vd: Trước khi lên tàu vũ trụ bay lên mặt trăng, con người đã có rất nhiều thông tin về mặt trăng. Sau khi đặt chân lên mặt trăng, con người sẽ khám phá những thông tin mới và loại bỏ những thông tin sai lầm về mặt trăng.


    câu 3: Trong các bộ phận kiến trúc thượng tầng, bộ phận nào tác động lớn nhất tới cơ sở hạ tầng? Vì sao? Cho ví dụ minh họa.

    + Cơ sở hạ tầng: Là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.

    + Kiến trúc thượng tầng: Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v. V.. cùng với các thiết chế xã hội như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội.. hình thành trên một cơ sở xã hội nhất định. (cấu trúc kiến trúc thượng từng)

    Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết:" Bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế ". Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật

    Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.

    Thượng:

    Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là nhà nước - công cụ quyền lực chính trị đặc biệt của giai cấp thống trị. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành một sức mạnh thống trị toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng, cùng những thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần xã hội và cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng.

    Ví dụ:

    Chính phủ quy định việc phát triển cơ cấu của nền kinh tế.


    ĐỀ THI Nhóm 1:

    Câu 1: Cơ sở nào để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm? Theo anh chị chủ nghĩa duy vật nhận thức và cải tạo thế giới dựa trên cơ sở nào? Cho ví dụ?

    • Chủ nghĩa duy vật coi vật chất là quan trọng hàng đầu trong khi thực tế là những gì tâm trí chúng ta nói với chúng ta là quan điểm của những người duy tâm.

    • Chủ nghĩa duy vật bảo chúng ta phải tìm kiếm sự thỏa mãn tức thì cho những ham muốn của mình trong khi những người theo chủ nghĩa duy tâm cố gắng đánh giá cao tầm quan trọng của việc hướng tới một tương lai gần hoàn hảo.

    • Chủ nghĩa duy tâm nói rằng chính trạng thái tâm trí của chúng ta sẽ hướng dẫn hành vi và cảm xúc của chúng ta, và chúng ta nhận thức thực tế dựa trên những gì tâm trí nói với chúng ta.

    • Chủ nghĩa duy vật quy mọi hành động và hành vi là vật chất hoặc nguyên tử mà tất cả chúng ta được tạo thành.

    Khó quá

    Dựa trên cơ sở nhận thức khoa học

    Ví dụ: Con người là loài tiến hóa từ vượn


    Câu 2: Quan điểm toàn diện được rút ra từ Nguyên lý nào của phép biện chứng duy vật. Cho ví dụ và giải thích

    ·

    Quan điểm toàn diện được rút ra từ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Bởi phải có quan điểm toàn diện vì bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại sự vật, sự việc; không có bất cứ sự vật nào tồn tại một cách riêng biệt, cô lập, độc lập với các sự vật khác.

    ·

    ·

    Ví dụ, khi phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận dụng lý thuyết hệ thống, tức là: Xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, bộ phận nào với những mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào, từ đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố (thuộc tính" trời ") ; mặt khác, cũng cần phải xem xét sự vật ấy trong tính mở của nó, tức là xem xét nó trong mối quan hệ với các hệ thống khác, với các yếu tố tạo thành môi trường vận động, phát triển của nó..

    ·

    ·

    Ví dụ 2: Quan điểm toàn diện: Khi bạn nhận xét về một người nào đó thì không thể có cái nhìn phiến diện ở vẻ bên ngoài. Cần chú ý đến các yếu tố khác như bản chất con người, các mối quan hệ của người này với người khác, cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Chỉ khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét.

    ·


    Câu 3: Trong các nội dung định nghĩa vật chất của Lênin, nội dung nào là quan trọng nhất? Vì sao?

    – Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

    Định nghĩa vật chất của Lê-nin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây.

    ·

    Vì nó đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.

    ·

    Đề thi nhóm 3:


    Câu 1: Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa vận động và và phát triển? Cho ví dụ phát triển từ đơn giản đến phức tạp

    - Giống nhau: Đều là sự biến đổi, biến hóa của sự vật, hiện tượng

    - Khác nhau:

    +Vận động: Là sự biến đổi nói chung của các sự vật và hiện tượng trong giới tự nhiên và đời sống xã hội ; là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của các sự vật và hiện tượng

    + Phát triển là khái niệm dùng để khái quát những vận động theo hướng tiến lên từ thấp - cao, đốn giản _ phức tạp, kém hoàn thiện _ hoàn thiện, cái cũ _ cái mới ;sự pt diễn ra phổ biến ở tất cả các lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy

    Ví dụ: Sự phát triển của các giống loài từ bậc thấp lên đến bậc cao; Sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ chức xã hội loài người: Từ hình thức tổ chức xã hội Thị tộc, bộ lạc so khai đến những tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức xã hội là Bộ tộc, dân tộc. Quá trình thay thế của các tổ chức xã hội được diễn ra với mức độ ngày càng cao hơn.


    Câu 3: Yếu tố nào trong lực lượng sản xuất là quan trọng nhất? Vì sao? Theo anh chị để phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay cần phải làm gì?

    Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao động mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là sức lao động.

    Vì sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.

    – Định hướng mô hình phát triển kinh tế dựa trên cơ sở tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới sẽ là một trong những yếu tố quyết định phương hướng và nội cải cách giáo dục.

    – Cải cách căn bản chương trình giáo dục, đào tạo. Chương trình giáo dục mới phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri thức để thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, hợp với yêu cầu của thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Phổ cập ngoại ngữ và tri thức tin học cơ bản phải là tiêu chuẩn trong hệ tiêu chuẩn phổ cập giáo dục.

    – Có chương trình ưu tiên thiết lập rộng khắp cơ sở hạ tầng phù hợp cho hệ thống giáo dục, đào tạo với chi phí tiếp cận rẻ, trên những nguyên tắc và nội dung mới.

    – Cách dạy và học cần chuyển mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận, xử lý thông tin và tri thức, phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề.

    – Mối liên hệ cần thiết giữa việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân lực sẽ được thiết lập thông qua việc phát triển thị trường lao động và thị trường sản phẩm khoa học, công nghệ.

    – Nhà nước đóng vai trò chủ lực trong việc củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước, giúp đông đảo người nghèo có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản.

    – Tích cực thực hiện chủ trương" xã hội hóa công tác giáo dục, đào tạo ". Vai trò của trường bán công, dân lập và các cách thức truyền tải giáo dục khác nhau cần được tiếp tục phát huy. Việc lôi cuốn khu vực doanh nghiệp tham gia vào việc phát triển hệ thống đào tạo nghề cần dược khuyến khích.

    (lưu ý: Hai dòng dưới tóm tắt chưa hết các ý ở dưới)

    ·

    Nâng cao tay nghề của người lao động, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp. Mở rộng sản xuât ở các vùng nông thông

    ·

    ·

    Phát triển công cụ lao động giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau.

    ·

    Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này còn thô sơ, lạc hậu. Là một nước nông nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu là cày, cuốc, theo hình thức" con trâu đi trước, cái cày theo sau ", sử dụng sức người là chủ yếu, trong công nghiệp máy móc thiết bị còn ít và rất lạc hậu. Phát triển công cụ lao động giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau.

    Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt nam thấp kém, lạc hậu và phát triển không đồng đều.

    Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

    Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân định tách bạch thuần khiết chế độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa vau trò của chế độ công hữu, dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.

    Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò" tích cực "của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Có những nơi nông dân bị bắt ép đi vào các hợp tác xã, mở rộng nông trường quóc doanh mà không tính đến lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu. Người lao động không

    Được chú trọng về cả trình độ và thái độn lao động, đáng ra là chủ thể của sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp. Nước ta quá nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với đối tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị kìm hãm, đời sông nhân dân đi xuống nhanh chóng. Đến cuối năm 1985 (12/1985, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845.3%), năng suất lao động quá thấp, kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

    Đề thi nhóm 4


    Câu 1: Trong 2 nguồn gốc tạo ra ý thức, nguồn gốc nào giữ vai trò quyết định? Giải thích?

    Ý thức ra đời từ 2 nguồn gốc cơ bản là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

    - Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua sự hình thành của bộ óc người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.

    - Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa là nguồn gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.

    ·

    Ý thức ra đời từ 2 nguồn gốc cơ bản là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

    ·

    - Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua sự hình thành của bộ óc người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.

    Về bộ óc người: Bộ óc người là một tổ chức vật chất sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng 14 -15 tỷ tế bào thần kinh.

    Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.

    Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo

    : Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.

    Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.

    Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: Phản ánh vật lý, hóa học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức). Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.

    - Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa là nguồn gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.

    Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não.. của con người.

    Riêng và ý thức nói chung.

    Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Ngôn ngữ xuất hiện mang chức năng: + Phương tiện giao tiếp.

    + Công cụ tư duy.

    Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.


    Câu 2: Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa chủ nghĩa chất phác (ngây thơ) và chủ nghĩa duy vật biện chứng

    Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và cấu trúc vật chất, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến Thần linh, Thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên.

    Câu 3: Nói: Thực tại chủ quan là ý thức. Đúng hay sai? Giải thích?

    Sai

    - Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động và sáng tạo. Điều này được thể hiện ở:

    + Ý thức cũng là" hiện thực ", nhưng đó là hiện thực trong tư tưởng. Đó là sự thống nhất giữa vật chất và ý thức. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức là cái phản ánh.

    + Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, bởi vì ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn.

    + Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, đó là sự sáng tạo dựa trên sự phản ánh.

    - Quá trình ý thức được thống nhất bởi các mặt sau:

    + Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.

    + Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.

    + Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.

    + Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người.


    Câu 4: Bộ phận nào quan trọng nhất trong ý thức? Giải thích?

    Nguồn gốc xã hội đóng vai trò quyết định

    Đề 10 câu


    Câu 1: Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan

    - Sự giống nhau:

    + Chủ nghĩa duy tâm khách quan hay chủ quan khi giải quyết mặt thứ nhất (trả lời câu hỏi: Trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào) của vấn đền cơ bản của Triết học thì chúng đền khẳng định rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và hoàn toàn quyết định vật chất, quyết định giới tự nhiên.

    - Sự khác nhau:

    + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể (của con người). Ví dụ quan niệm của Béccơli.

    + Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó thường được mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới. Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen.


    Câu 2: Thuộc tính nào của vật chất liên quan đến sự ra đời của ý thức? Vì sao?

    Vận động xã hội liên quan đến sự ra đời của ý thức vì

    Khái niệm:

    Tồn tại xã hội: Là toàn bộ những điều kiện vật chất cùng với những quan hệ vật chất được đặt trong phạm vi hoạt động thực tiễn của con người trong một gia đoạn lịch sử nhất định.

    Ý thức xã hội: Là khái niệm chỉ các hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

    Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

    Vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH:

    TTXH là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất của YTXH, nó làm hình thành và phát triển YTXH, còn YTXH chỉ là sự phản ánh TTXH.

    Khi TTXH thay đổi thì sớm hay muộn YTXH cũng phải thay đổi theo.

    Khi muốn thay đổi YTXH, muốn xây dựng YTXH mới thì sự thay đổi và xây dựng đó phải dựa trên sự thay đổi của tồn tại vật chất hay thay đổi bởi những điều kiện vật chất.

    Sự tác động trở lại của YTXH đối với TTXH: Sự tác động trở lại này rất lớn, tuy nhiên hiệu quả của sự tác động còn phụ thuộc vào những điều kiện: Lực lượng xã hội, giai cấp đề ra những quan điểm, tư tưởng cho xã hội; mức độ phù hợp ít hay nhiều của tư tưởng đó đối với hiện thực; mức độ thâm nhập của những tư tưởng đó đối với nhu cầu phát triển XH và mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.

    Câu 3: Tiếng nói là vật chất hay ý thức? Giải thích

    ·

    Tiếng nói là phương tiện vật chất để truyền tải thông tin mà người nói muốn truyền đạt ra để nói lên suy nghĩ của con người

    ·

    ·

    Tiếng nói là một trong những hình thức của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là..

    ·

    Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy.


    Câu 4: Nói cái chung là cái riêng đúng hay sai? Giải thích?

    Sai:

    Vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là một trong những vấn đề quan trọng nhất, khó khăn nhất của triết học nói riêng của sự nhận thức nhân loại nói chung. Trong quá trình tìm lời giải cho vấn đề này, trong lịch sử triết học đã hình thành hai phái rõ rệt đó là: Phái duy thực và duy danh.

    - Phái duy thực cho rằng, cái chung tồn tại độc lập không phụ thuộc vào cái riêng còn cái riêng hoặc không tồn tại, hoặc nếu có tồn tại cũng là do cái chung nảy sinh ra và chỉ là tạm thời trong một thời gian nhất định rồi sau đó mất đi, trong khi đó cái chung tồn tại vĩnh viễn, không trải qua một biến đổi nào cả.

    - Phái duy danh lại phát triển một quan điểm ngược lại. Họ cho rằng, cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung chỉ là những tên gọi do lý trí đặt ra chứ không phản ánh một cái gì trong hiện thực.

    - Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cái riêng, cái chung đều tồn tại và khẳng định:

    + Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình. Điều này có nghĩa là không có cái chung trừu tượng, thuần tuý tồn tại độc lập ở bên ngoài cái riêng.

    + Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung. Điều này có nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất cứ một cái riêng nào bao giờ cũng tham gia vào các mối quan hệ, liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật hiện tượng khác xung quanh mình. Không có cái riêng nào là tồn tại vĩnh viễn.

    + Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ phận nhưng là cái sâu sắc hơn cái riêng (ta nói cái chung là bộ phận của cái riêng nhưng đây là bộ phận có tính chất bản chất chứ không phải là bộ phận hợp thành của cái riêng, nó được xác định trong mối quan hệ cụ thể).


    Câu 5: Nói cái bàn là vật chất hay đã đúng và đủ chưa? Giải thích

    Nói bàn là vật chất là không đúng Vì:

    " Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác "

    Vật thể là một bộ phận được sinh ra, hợp thành từ chất. Vậy tất cả những gì thấy được (kể cả cơ thể người) là vật thể.

    Có thể hiểu vật thể là những thứ cụ thể tồn tại khách quan, Vật thể là một phần của vật chất, nhưng vật chất không phải vật thể tương tự cái bàn là vật thể cũng như vật chất, nhưng vật chất không phải là vật thể.

    => Bàn không phải là vật chất mà chỉ là vật thể.


    Câu 6: Tồn tại là vật chất hay ý thức. Giải thích?

    1. Chủ nghĩa duy vật cho rằng tồn tại (vật chất) có trước tư duy (ý thức) và quyết định tư duy (ý thức). Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức.

    [​IMG]

    2.

    3. Chủ nghĩa duy tâm, ngược lại, cho rằng tư duy (ý thức) có trước tồn tại (vật chất) và quyết định tồn tại (vật chất). Theo cách khác, chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất

    4.


    Câu 7: Quan điểm lịch sử cụ thể được rút ra từ nguyên lý nào của phép biện chứng duy vật. Giải thích?

    Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin:

    + Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.

    + Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản

    Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện.

    - Quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ các mối liên hệ của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải nhận thức được không gian, thời gian, điều kiện cụ thể của sự tồn tại và xuất hiện các mối liên hệ, trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của các sự vật, hiện tượng.


    Câu 9: Tính chất cá thể của lực lượng sản xuất là gì? Tính chất này bắt đầu xuất hiện khi nào trong lịch sử?

    Với tinh thần là:" Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ trình độ thủ công, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân.

    Lực lượng sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình động chinh phục tự nhiên của con người.

    Về mặt kết cấu, lực lượng sản xuất gồm hai thành tố là Người lao động và Tư liệu sản xuất:

    * Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa "lao động sống" với "lao động vật hóa" tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.

    Người lao độnglà con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.

    Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất "trung gian", "truyền dẫn" giữa người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính là "khí quan" của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển, công cụ lao động được tin học hóa, tự động hóa và trí tuệ hóa càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử; là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, C. Mác khẳng định: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào" [1] .

    [1] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 269.


    Câu 10: Ý thức xã hội có tính kế thừa theo chiều dọc và chiều ngang của lịch sử. Cho ví dụ minh chứng

    Ví dụ:

    ·

    Nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh.

    ·

    ·

    So với Anh, Pháp thì nước Đức ở nửa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.

    ·

    – Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó.

    Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.


    Ví dụ:

    ·

    Khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại.

    ·

    Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trước.


    Ví dụ:

    ·

    Giai cấp phong kiến các nước Tây Âu trung cổ ở thời kỳ suy thoái đã ra sức khai thác triết học của Platôn và những yếu tố duy tâm trong hệ thống triết học của Arixtốt thời kỳ cổ đại Hy Lạp, biến chúng thành cơ sở triết học của các giáo lý đạo Thiên chúa.

    ·

    ·

    Hoặc vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX các thế lực tư sản phản động đã phục hồi và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Kant mới, chủ nghĩa Tôma mới.. để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và hệ tư tưởng của nó là chủ nghĩa Mác.

    ·

    Câu hỏi dự phòng


    Câu 1: Sự khác nhau tương đối và sự thống nhất giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin?

    Lời giải:

    Chủ nghĩa Mác-Lênin là:

    Hệ thống quan điểm và học thuyết "khoa học, gồm triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen, V. I. Lênin bảo vệ, vận dụng và phát triển;

    Được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng những giá trị lịch sử tư tưởng nhân loại để giải thích, nhận thức thực tiễn thời đại;

    Là thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng;

    Là khoa học về sự nghiệp tự giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người, về những quy luật chung nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản;

    Là hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

    Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin: Chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú bao quát nhiều lĩnh vực, với những giá trị lịch sử, thời đại và khoa học to lớn; nhưng triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học là những bộ phận lý luận quan trọng nhất.

    Triết học Mác-Lênin là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.

    Kinh tế chính trị Mác-Lênin là hệ thống tri thức về những quy luật chi phối quá trình sản xuất và trao đổi tư liệu sinh hoạt vật chất trong đời sống xã hội mà trọng tâm của nó là những quy luật kinh tế của quá trình vận động, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa cũng như sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.

    Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ thống tri thức chung nhất về cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa; về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng hình thái kinh tế-xã hội đó.


    Câu 2: Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác?

    Lời giải:

    Điều kiện kinh tế-xã hội

    Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và lan rộng ra các nước tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.

    Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội.

    Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị-xã hội độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản.

    Tiền đề lý luận

    C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.

    Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các quy luật khách quan của đời sống kinh tế xã hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống kinh tế và rằng, do đó chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu.

    Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất hiện các giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều kiện vật chất cho cuộc sống v. V là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.

    Tiền đề khoa học tự nhiên:

    Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.

    Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hóa những hình thức vận động của chúng.

    Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.

    Thuyết tiến hóa đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.

    Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác" cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại "và Đảng Cộng sản Việt Nam" kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ".

    Câu 3: Sự khác nhau tương đối và sự thống nhất giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin?

    Lời giải:

    Sự khác nhau tương đối giữa triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học với tư cách là ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện ở chỗ chủ nghĩa xã hội khoa học không nghiên cứu những quy luật xã hội tác động trong tất cả hoặc trong nhiều hình thái kinh tế-xã hội như chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà chỉ nghiên cứu các quy luật đặc thù của sự hình thành, phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng không nghiên cứu các quan hệ kinh tế như kinh tế chính trị, mà chỉ nghiên cứu các quan hệ chính trị-xã hội của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

    Sự thống nhất tương đối giữa triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học với tư cách là ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện ở quan niệm duy vật về lịch sử mà tư tưởng chính của nó là do sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất nên từ một hình thái kinh tế-xã hội này nảy sinh ra một hình thái kinh tế-xã hội khác tiến bộ hơn và chính quan niệm như thế đã thay thế sự lộn xộn, tùy tiện trong các quan niệm về xã hội trong các học thuyết triết học trước đó; thể hiện ở việc C. Mác và Ph. Ăngghen vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu kinh tế, từ đó sáng tạo ra học thuyết giá trị thặng dư để nhận thức chính xác sự xuất hiện, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Đến lượt mình, học thuyết giá trị thặng dư cùng với quan niệm duy vật về lịch sử đã đưa sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học.


    Câu 4: Tại sao chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin?

    Lời giải:

    Sau khi C. Mác và Ph. Ăngghen qua đời, V. I. Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

    Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.

    Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng tinh vi, tàn bạo hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

    Những năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, có những phát minh vật lý mang tính vạch thời đại, làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây là cơ hội để chủ nghĩa duy tâm tấn công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động của phong trào cách mạng.

    Chủ nghĩa Mác đã được truyền bá vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v. V đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó.

    Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận triết học cho các khoa học chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tư tưởng phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của V. I. Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó.

    Quá trình V. I. Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác được chia thành ba thời kỳ, tương ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga.

    Trong thời kỳ 1893-1907, V. I. Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái" dân túy "về những vấn đề lịch sử-xã hội và chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác. V. I. Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn đề về đấu tranh kinh tế, chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; ông cũng phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn đề như phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân dân; của các đảng chính trị trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

    Trong thời kỳ 1907-1917, V. I. Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909) - tác phẩm khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để bảo vệ và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bản của triết học và phạm trù vật chất có ý nghĩa hệ tư tưởng và phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về nhận thức, V. I. Lênin cũng chỉ ra sự thống nhất bên trong, không tách rời của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội, về con người và tư duy của nó. Trong tác phẩm Bút ký triết học (1914-1916), V. I. Lênin tiếp tục khai thác hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Năm 1917, V. I. Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng bàn về vấn đề nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng và vai trò của đảng công nhân và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đưa ra tư tưởng về nhà nước Xôviết, coi đó là hình thức của chuyên chính vô sản; vạch ra những nhiệm vụ chính trị và kinh tế mà nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã hội được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

    Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917 mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những nhu cầu mới về lý luận mà sinh thời C. Mác và Ph. Ăngghen chưa thể hiện; V. I. Lênin tiếp tục tổng kết thực tiễn để đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩm mà các nội dung chính của chúng cho rằng việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những điều kiện cần thiết để chuyển sang xây dựng" chủ nghĩa xã hội kế hoạch ". V. I. Lênin cũng chỉ ra rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của công cuộc xây dựng kinh tế; xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải đi qua những nấc thang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. V. I. Lênin khẳng định vai trò kinh tế hàng hóa trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa nhỏ đang chiếm ưu thế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông non trẻ, ông đề nghị những người cộng sản cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu ngạo, ít học và tham nhũng. V. I. Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống.

    Di sản kinh điển của V. I. Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về lý luận và thực tiễn của V. I. Lênin trong việc kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chỏ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mac-Lênin.


    Câu 5: Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào cách mạng thế giới?

    Lời giải:

    Chủ nghĩa Mác-Lênin có những ảnh to lớn lên thực tiễn phong trào công nhân và nhân dân lao động thế giới. Cách mạng tháng 3 năm 1871 ở Pháp được coi là sự kiểm nghiệm thực tế đầu tiên đối với chủ nghĩa Mác-Lênin; nhà nước kiểu mới- nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại (Công xã Pari) được thành lập, là kinh nghiệm thực tiễn đầu tiên được rút ra từ lý luận cách mạng. Tháng 8 năm 1903, đảng Bônsêvích Nga được thành lập theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác; là đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng 1905 ở Nga. Chỉ sau 14 năm (năm 1917), đảng đó đã làm nên Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) vĩ đại, mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho nhân loại; chứng minh tính hiện thực của chủ nghĩa Mác-Lênin trong lịch sử. Năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập; năm 1922, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xôviết (gọi tắt là Liênxô) ra đời, đánh dấu sự liên minh giai cấp vô sản của 12 quốc gia và năm 1940, Liênxô đã gồm 15 nước hợp thành. Với sức mạnh của liên minh giai cấp vô sản đó, trong chiến tranh thế giới thứ II, Liênxô đã không những bảo vệ được mình, mà còn giải phóng các nước đông Âu ra khỏi sự xâm lược của phátxít Đức. Hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập gồm Anbani, BaLan, Bungari, CuBa, Cộng hòa dân chủ Đức, Hung gari, Nam Tư, Liênxô, Rumani, Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều tiên, Trung Quốc, Việt Nam. Sự kiện này đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là hệ thống chính trị xã hội duy nhất mà nhân loại hướng tới; vai trò định hướng xây dựng xã hội mới của chủ nghĩa Mác-Lênin đã cổ vũ phong trào công nhân, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc vì hòa bình, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tháng 12 năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liênxô và đông Âu sụp đổ; nhiều đảng Cộng sản ở tây Âu từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa; thất bại của kiểu nhà nước phúc lợi ở các nước tư bản đòi hỏi những người cộng sản không chỉ có lập trường vững vàng, kiên định, mà còn phải hết sức tỉnh táo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin một cách khoa học.

    Thời đại ngày nay là thời đại của những biến động sâu sắc. Quá trình tạo ra những tiền đề cho chủ nghĩa xã hội đang diễn ra trong xã hội tư bản phát triển là một xu hướng khách quan. Thời đại ngày nay cho thấy vai trò hết sức to lớn của lý luận, của khoa học trong sự phát triển của xã hội. Những điều đó tất yếu đòi hỏi chủ nghĩa Mác-Lênin phải được bổ sung, phát triển và có những khái quát mới. Chỉ có như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin mới giữ được vai trò thế giới quan, phương pháp luận trong quan hệ với khoa học cụ thể và trong sự định hướng phát triển của xã hội loài người.

    C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin không để lại cho những người cộng sản nói chung, những người cộng sản Việt Nam nói riêng những chỉ dẫn cụ thể về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Các quốc gia, dân tộc khác nhau có những con đường đi khác nhau lên chủ nghĩa xã hội, bởi lẽ mỗi quốc gia, dân tộc đều có những đặc thù riêng và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa riêng và con đường riêng đó" đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước-dân tộc ". Trên cơ sở kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuất phát từ những bài học cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội từ thực trạng kinh tếxã hội đất nước, Đảng ta đề ra đường lối đưa đất nước ta từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

    Thực tiễn của quá trình đổi mới đang đặt ra hàng loạt vấn đề mới mẻ và phức tạp về kinh tế, chính trị, văn hóa; những vấn đề đó không thể giải quyết chỉ bằng lý luận, nhưng chắc chắn không thể giải quyết được nếu không có tư duy lý luận Mác-Lênin.


    Câu 6: Tại sao nói siêu hình và biện chứng là hai mặt đối lập của phương pháp tư duy?

    Lời giải:

    Thuật ngữ" Siêu hình "có gốc từ tiếng Hy Lạp metaphysica, với nghĩa là" những gì sau vật lý học ". Vào thế kỷ XVI-XVII, phương pháp siêu hình giữ vai trò quan trọng trong việc tích luỹ tri thức, đem lại cho con người nhiều tri thức mới, nhất là về toán học và cơ học; nhưng chỉ từ khi Bêcơn (1561-1626) và về sau là Lốccơ (1632-1704) chuyển phương pháp nhận thức siêu hình từ khoa học tự nhiên sang triết học, thì siêu hình trở thành phương pháp chủ yếu của nhận thức. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình không có khả năng khái quát sự vận động, phát triển của thế giới vào những quy luật chung nhất; không tạo khả năng nhận thức thế giới trong chỉnh thể thống nhất nên bị phương pháp biện chứng duy tâm triết học cổ điển Đức phủ định. Hêghen (1770-1831) là nhà triết học phê phán phép siêu hình kịch liệt nhất thời bấy giờ và là người đầu tiên khái quát hệ thống quy luật của phép biện chứng duy tâm, đem nó đối lập với phép siêu hình. Trong triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, siêu hình được hiểu theo nghĩa là phương pháp xem xét sự tồn tại của sự vật, hiện tượng và sự phản ánh chúng vào tư duy con người trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và không biến đổi. Đặc thù của siêu hình là tính một chiều, tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia; phủ nhận các khâu trung gian, chuyển hóa; do đó kết quả nghiên cứu chỉ đi tới kết luận" hoặc là, hoặc là.. ", phiến diện; coi thế giới thống nhất là bức tranh không vận động, phát triển. Các nhà siêu hình chỉ dựa vào những phản đề tuyệt đối không thể dung hòa để khẳng định có là có, không là không; hoặc tồn tại hoặc không tồn tại; sự vật, hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó; cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau.

    Thuật ngữ" Biện chứng "có gốc từ tiếng Hy Lạp dialektica (với nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận của mình. Đến Hêghen, thuật ngữ biện chứng được phát triển khá toàn diện và đã khái quát được một số phạm trù, quy luật cơ bản; nhưng chúng chưa phải là những quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy, mà mới chỉ là một số quy luật riêng trong lĩnh vực tinh thần. C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã kế thừa, phát triển trên tinh thần phê phán và sáng tạo những giá trị trong lịch sử tư tưởng biện chứng nhân loại làm cho phép biện chứng trở thành phép biện chứng duy vật; thành khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất về mối liên hệ và sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Phương pháp biện chứng duy vật mềm dẻo, linh hoạt; thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên cạnh cái" hoặc là.. hoặc là.. ", còn có cả cái" vừa là.. vừa là.. ". Do vậy, đó là phương pháp khoa học, vừa khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng cổ đại, đẩy lùi phương pháp siêu hình vừa cải tạo phép biện chứng duy tâm để trở thành phương pháp luận chung nhất của nhận thức và thực tiễn.


    Câu 7: Khái lược về phép biện chứng duy vật?

    Lời giải:

    Trong lịch sử phát triển của triết học từ thời cổ đại đến nay, vấn đề tồn tại của các sự vật, hiện tượng luôn được quan tâm và cần làm sáng tỏ. Các sự vật, hiện tượng xung quanh ta và ngay cả bản thân chúng ta tồn tại trong mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau hay tồn tại tách rời, biệt lập nhau? Các sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển hay tồn tại trong trạng thái đứng im, không vận động? Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng suy đến cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là siêu hình và biện chứng.

    Định nghĩa

    Theo Ph. Ăngghen," Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến "," () là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy ". Theo V. I. Lênin," Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng ". Hồ Chí Minh đánh giá" Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng". Có thể hiểu phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến; về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.

    Nội dung của phép biện chứng duy vật hết sức phong phú, phù hợp với đối tượng nghiên cứu là:

    Sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy và từ trong những lĩnh vực ấy rút ra được những quy luật của mình. Nội dung của phép biện chứng duy vật gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Sự phân biệt giữa các nguyên lý với các cặp phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật càng làm rõ ý nghĩa cụ thể của chúng. Hai nguyên lý khái quát tính biện chứng chung nhất của thế giới; các cặp phạm trù phản ánh sự tác động biện chứng giữa các mặt của sự vật, hiện tượng, chúng là những mối liên hệ có tính quy luật trong từng cặp; còn các quy luật là lý luận nghiên cứu các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới sự vật, hiện tượng để chỉ ra nguồn gốc, cách thức, xu hướng của sự vận động, phát triển. Điều này nói lên những khía cạnh phong phú của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

    Phép biện chứng có vai trò phương pháp và phương pháp luận đối với hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng của con người.


    Câu 8: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nội dung nguyên lý này?

    Lời giải:

    Khái niệm:

    Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Cơ sở lý luận của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới; theo đó các sự vật, hiện tượng dù có đa dạng, khác nhau đến thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.

    Tính chất của các mối liên hệ phổ biến

    Tính khách quan. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động của bản thân thế giới vật chất. Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng và cái tinh thần. Có cái liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động đó, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.

    Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và tách biệt nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.

    Tính đa dạng, phong phú. Có nhiều mối liên hệ. Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên hệ chỉ đóng vai trò phụ thuộc (không bản chất). Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu v. V chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.

    Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

    Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng:

    A) Trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng.

    B) Trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.

    C) Trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.

    D) Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung.


    Câu 9: Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật?

    Lời giải:

    Trong phép biện chứng duy vật, phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở những mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng.

    Tính chất của sự phát triển:

    Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng.

    Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

    Tính kế thừa. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ, chuyển sang sự vật, hiện tượng mới, gạt bỏ những mặt tiêu đã lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ cản trở sự phát triển.

    Tính đa dạng, phong phú. Tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.

    Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển. Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát triển trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng, muốn nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó. Nguyên tắc phát triển yêu cầu:

    Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát hiện được các xu hướng biến đổi, phát triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.

    Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.

    Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v. V bởi nhiều khi cái mới thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.


    Câu 10: Cặp phạm trù cái riêng, cái chung của phép biện chứng duy vật?

    Lời giải:

    Câu trả lời gồm ba ý lớn là định nghĩa các phạm trù; nêu mối quan hệ biện chứng giữa các phạm trù và ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ đó.

    Định nghĩa.

    Cái riêng (cái đặc thù) là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng khác. Cái chung (cái phổ biến) là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định mà chúng còn được lặp lại trong nhiều sự vật, nhiều hiện tượng khác nữa

    Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, tồn tại trong mối liên hệ với cái chung cho nên để giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề riêng thì không thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, nghĩa là phải giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề riêng đó để tránh sa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa. Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện mình nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, trong các sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ, cụ thể chứ không phải tìm trong ý muốn chủ quan của con người.

    Vì cái chung tồn tại trong cái riêng như một bộ phận của cái riêng, bộ phận này tác động qua lại với những mặt còn lại của cái riêng, tức là với những mặt không gia nhập vào cái chung, nên bất cứ cái chung nào cũng tồn tại trong cái riêng dưới dạng đã bị cải biến. Vì cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối mọi cái riêng, nên phải biết phát hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để tạo ra cái riêng. Từ điều này rút ra kết luận là bất kỳ một cái chung nào khi được áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hóa. Trong việc vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, nếu không chú ý đến sự cá biệt đó mà áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào bệnh tả khuynh, giáo điều. Ngược lại, nếu bỏ quên, xem thường cái chung, chỉ tuyết đối hóa cái riêng, cái đơn nhất thì sẽ rơi vào bệnh hữu khuynh, tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa.

    Vì trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất cho nên trong hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn, nếu cái đơn nhất là cái có lợi thì tạo điều kiện thuận lợi để nó chuyển hóa thành cái chung và ngược lại, nếu cái chung không còn là cái phù hợp thì tác động để cái chung chuyển hóa thành cái riêng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng năm 2022
  2. annryhouse

    Bài viết:
    22
    Nhận định đúng sai môn Triết học Mác - Lênin (đề mở)

    Phần 2: C10-19


    Câu 11: Nội dung định nghĩa vật chất của V. I. Lênin, ý nghĩa khoa học của nó?

    - Nội dung định nghĩa vật chất của V. I. Lênin

    (Lịch sử quan điểm triết học về vật chất)

    + Vật chất là một phạm trù triết học:

    "Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác'"

    (Định nghĩa vật chất của Lênin phân biệt 2 vấn đề quan trọng)

    + Một là, cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau.

    Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể đều có giới hạn, sinh ra và mất đi, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.

    Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.

    + Hai là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan (cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người).

    Vật chất chỉ thực tại khách quan (tồn tại KQ, ở ngoài và độc lập với ý thức con người), tồn tại không phục thuộc vào cảm giác, vào ý thức của con người và loài người, bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.

    Vật chất chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác (trong ý thức) ; được cảm giác (ý thức) của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh. (cả trực tiếp và gián tiếp)

    Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất

    Ý nghĩa khoa học

    - Giải quyết trọn vẹn vấn đề cơ bản của triết học (cả 2 mặt), nhưng lưu ý rằng mặt thứ nhất, việc đối lập giữa vật chất và ý thức vừa có ý nghĩa tuyệt đối vừa có ý nghĩa tương đối.

    - Khắc phục được những thiếu sót của CNDV trước Mác về vật chất.

    - Làm cho CNDV triệt để cả trong lĩnh vực xã hội (vận dụng vào phân tích các hiện tượng xã hội), từ đó liên kết chặt chẽ giữa CNDV và phép biện chứng.

    - Định hướng cho các KH cụ thể trong việc tìm kiếm những dạng hay những hình thức mới của thế giới vật chất.


    Câu 12: Nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức, ý nghĩa của nó?

    Nguồn gốc của ý thức:

    Tự nhiên: Bộ óc con người; thế giới bên ngoài (thế giới xung quanh) tác động lên bộ óc con người để bộ óc con người phản ánh.

    Xã hội: Lao động; ngôn ngữ.

    Bản chất của ý thức:

    Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, là tồn tại được ý thức, là cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người, là phản ánh thế giới bên ngoài.

    Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh một cách sáng tạo, tích cực, chủ động (được chế biến đi ở trong đó).

    Sự phản ánh của ý thức là mang tính chất xã hội. Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý, mà ngay từ đầu nó đã là một sản phẩm của xã hội, bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội, và vẫn là như vậy, chừng nào con người còn tồn tại.

    Vai trò của ý thức:

    Nó tác động trở lại (làm biến đổi theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực tuỳ vào sự phản ánh đứng sai của nó) thế giới vật chất thông quan hoạt động thực tiễn của con người (tự bản thân nó không làm biến đổi được hiện thực).

    Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; hình thành nên những mục tiêu, kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của họ; nó có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện KQ nhất định.

    Vai trò của ý thức ngày càng lớn khi xã hội càng phát triển, nhất là trong thời đại hiện nay, thời đại của KHKT, KHCN, kinh tế tri thức.

    Ý nghĩa:

    Chống CNDV tầm thường, CNDV trước Mác không thấy được vai trò của ý thức con người, từ đó dẫn đến chủ nghĩa khách quan, chủ nghĩa duy vật nhân bản.

    Sức mạnh của ý thức không phải ở chỗ tác rời điều kiện vật chất, hiện thực KQ, mà phải dựa vào điều kiện vật chất, hiện thực KQ đó, phản ánh đúng qui luật KQ để cải tạo thế giới một cách chủ động, sáng tạo, với ý chí, nhiệt tình cao. Con người phản ánh càng đầy đủ, chính xác thế giới KQ thì càng cải tạo nó có hiệu quả; bởi vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới, hội nhập hiện nay.


    Câu 13: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến? Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ này?

    Nội dung của nguyên lý:

    Khái niệm: Liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc, qui định, tác động qua lại lẫn nhau (Siêu hình thừa nhận liên hệ, nhưng phủ nhận khả năng chuyển hóa giữa các mối liên hệ).

    Cơ sở của mối liên hệ: Tính thống nhất vật chất của thế giới (chủ nghĩa duy tâm tìm cơ sở của mối liên hệ ở lực lượng siêu nhiên bên ngoài hay trong cảm giác, ý thức).

    Tính chất của mối liên hệ: Khách quan; phổ biến; vô cùng phong phú, đa dạng (bên trong- bên ngoài, bản chất- không bản chất, tất nhiên- ngẫu nhiên).

    Yêu cầu của quan điểm toàn diện:

    Để nhận thức đúng sự vật hiện tượng phải xem xét:

    Trong mối liên hệ qua lại giữa nó với các sự vật hiện tượng khác; trong mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của nó.

    Không chỉ chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ mà còn làm nổi bật những mối liên hệ cơ bản quan trọng nhất của sự vật hiện tượng đó, tức không xem xét một cách bình quân, dàn trải, đồng đều mà có trọng tâm, trọng điểm;

    Chống chủ nghĩa chiết chung (kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những cái hết sức khác nhau mà về khách quan là không thể kết hợp được thành một hình ảnh không đúng về sự vật; hoặc coi các mối liên hệ là ngang bằng nhau), thuật nguỵ biện (lối tư duy đánh tráo một cách có chủ đích về vị trí, vai trò của các mối liên hệ (các khái niệm), xem cái không cơ bản là cái cơ bản, cái không bản chất là cái bản

    Chất), quan điểm phiến diện (một chiều, chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này mà không thấy mặt khác, mối liên hệ khác, giải quyết công việc thiếu tính đồng bộ).

    Ý nghĩa và sự vận dụng quan điểm này của Đảng ta

    Để cải tạo sự vật, chúng ta phải bằng hoạt động thực tiễn làm biến đổi những mối liên hệ nội tại của chính sự vật cũng như mối liên hệ của nó với những sự vật khác, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau;

    Phải phân loại các mối liên hệ, nhận thức được những mối liên hệ cơ bản qui định bản chất sự vật và giải quyết mối liên hệ đó.

    Vận dụng của Đảng ta. Chẳng hạn, quan điểm đổi mới của ĐCS Việt Nam: "Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế hoạch, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội".


    Câu 14: Nguyên lý về sự phát triển? Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ này?

    Sự liện hệ, tác động qua lại làm cho sự vật vận động, phát triển.

    Khái niệm về sự phát triển

    Quan điểm siêu hình cho phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng, không có sự thay đổi về chất; phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp.

    Theo quan điểm BC, phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

    (Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động, vận động theo hướng tiến lên)

    Tính chất của sự phát triển.

    Tính khách quan của sự phát triển. Phát triển là một quá trình khách quan độc lập với ý thức của con người, bởi lẽ nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuân bên trong của sự vật qui định; phát triển là quá trình tự thân của sự vật hiện tượng (trái với quan điểm DT, tôn giáo về nguồn gốc của sự phát triển).

    Tính phổ biến của sự phát triển thể hiện ở chỗ nó diễn ra trong tất cả mọi lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội đến tư duy.

    Tính phức tạp của sự phất triển thể hiện ở tính quanh co, thận chí có sự thụt lùi tương đối, chứ không phải lúc nào cũng đi theo con đường thẳng tắp (quan điển SH cho nó là quá trình tiến lên liên tục không có những bước quanh co phức tạp).

    Tính đa dạng của sự phát triển thể hiện ở sự phong phú của nó diễn ra trong mọi lĩnh vực: TN, XH, TD.

    "Hai quan điểm cơ bản về sự phát trien: Sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khóa của" sự tự vận động "của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những" bước nhảy vọt "của sự" gián đoạn của tính tiệm tiến ", của sự" chuyển hóa thành mặt đối lập ", của sự tiêu diệt cái cũ và nảy sinh cái mới" (Lênin).

    Ý nghĩa phương pháp luận

    Phải xem xét sự vận hiện tượng trong sự vận động, phát triển; phải phát hiện ra xu hướng phát triển của nó.

    Phải thấy được tính quanh co phức tạp của quá trình phát triển (phương thức của sự phát triển là từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất; nguồn gốc, động lực của sự phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập; xu hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định). Thấy được tính phức tạp, quanh co của sự phát triển người ta sẽ không giao động khi gặp khó khăn, trắc trở; tránh tình trạng chủ quan, giản đơn (xóa bỏ các thành phần kinh tế khác; đấu tranh giữa cái mới và cái cũ).

    Tư duy phải mêm dẻo, phải luôn luôn được sửa đổi, bổ xung, phát triển cho phù hợp với sự biến đổi của bản thân sự vật hiện tượng cũng như sự phát triển của tư duy nhân loại.

    Quan điểm phát triển hoàn toàn đổi lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến, tuyệt đổi hóa một nhận thức nào đó về sự vật.

    Đảng ta luôn đặt cho mình nhiệm vụ góp phần phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.


    Câu 15: Phạm trù cái chung và cái riêng, ý nghĩa phương pháp luận?

    Khái niệm cái chung, cái riêng:

    Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ 1 sự vật, 1 hiện tượng, 1 quá trình riêng lẻ tồn tại với tư cách là 1 chỉnh thể trong mối quan hệ độc lập tương đối với những cái khác. Với tư cách là 1 sự vật, cái riêng là cái không lặp lại.

    (Cái đơn nhất là chỉ những yếu tố, đặc điểm, thuộc tính chỉ có ở 1 cái riêng mà không được lặp lại ở bất kỳ cái riêng nào khác; nó là tiêu chí tạo nên sự khác biệt giữa cái riêng này với cái riêng khác)

    Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những bộ phận, những thuộc tính giống nhau được lặp đi lặp lại ở các sự vật hiện tượng, quá trình riêng lẻ khác nhau

    (chia ra làm cái phổ biến - cái đặc thù)

    (cái chung bản chất - cái chung không bản chất)

    Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.

    Cái chung và cái riêng nằm trong mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng (không tồn tại biệt lập, lơ lửng ở đâu đó bên cạnh hoặc nằm ngoài cái riêng). Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung.

    Cái chung là một bộ phận của cái riêng, cái riêng không tham gia hết vào cái chung. Cái riêng là cái toàn thể, cái chung không bao quát hết cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung, cái chung nghèo nàn hơn cái riêng. Nếu là cái chung bản chất mang tính qui luật thì nó lại là cái sâu sắc hơn cái riêng, qui định sự tồn tại, vận động, phát triển của cái riêng.

    Cái chung cái riêng có thể chuyển hóa cho nhau diễn ra dưới 2 hình thức: Trong mối quan hệ này là cái chung, nhưng trong mối quan hệ khác lại là cái riêng; chuyển hóa giữa cái đơn nhất thành cái phổ biến và ngược lại.

    Ý nghĩa phương pháp luận:

    Muốn phát hiện cái chung cần xuất phát từ những cái riêng.

    Nắm cái chung là chìa khóa để giải quyết những vấn đề riêng.

    Tuyệt đối hóa cái chung (không tính đến cái riêng) dễ rơi vào giáo điều; ngược lại, xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái riêng dễ dẫn đến kinh nghiệm, vô nguyên tắc, mò mẫm, tuỳ tiện.

    Tạo điều kiện cho những cái đơn nhất, tiêu biểu, tiến bộ trở thành cái phổ biến; ngược lại biến cái phổ biến thành cái đơn nhất nếu cái phổ biến đó không còn hợp qui luật, tỏ ra lỗi thời.

    Cần kết hợp hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.


    Câu 16: Những hình thức lịch sử của phép biên chứng? Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và những yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi?

    Trả lời:

    Phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ về sự vận động và phát triển. (là sự hiểu biết của con người về sự vận động và phát triển).

    Căn cứ vào sự vận động và phát triển phép biện chứng hay căn cứ vào sự hiểu biết của con người, người ta chia phép biện chứng thành 3 hình thức cơ bản:

    - Phép biện chứng chất phát thể hiện rõ nét ở thời cổ đại. Tiêu biểu cho phép biện chứng chất phác thời cổ đại ở phương Đông là quan điểm về Dich, về Âm Dương ngũ hành ở Trung Quốc, ở phương Tây là quan điểm của Hêraclit ở Hy Lạp. Những đặc trưng cơ bản là tính chất phác, thuần phác tự nhiên. Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu sự vận động, phát triển của đối tượng trong bức tranh chung, tổng thể về thế giới. Do trình độ khoa học chưa phát triển, nên phép biện chứng cổ đại mởi chỉ là những quan điểm biện chứng mộc mạc, mang tính phỏng đoán trên cơ sở kinh nghiệm trực quan.

    - Phép biện chứng duy tâm (học thuyết này nói về các mối liên hệ, sự vận động và phát triển của các nhà triết học duy tâm) đạt đỉnh cao ở thế kỉ XIX đặc biệt là trong triết học của Hegel. Đặc trưng cơ bản của nó là tính chất duy tâm. Công lao lơn nhất của Hegel là lần đầu tiên trong lịch sử ông đã trình bày các nội dung cơ bản của phép biện chứng một cách cụ thể và chặt chẻ thông qua các nguyên lý, các quy luật, các phạm trù và phép biện chứng Hegel đã trở thành một trong ly luận để hình thành phép biện chứng duy vật. Hạn chế của Hegel chính là duy tâm.

    - Phép biện chứng duy vật do Mác và Angghen xây dựng dựa trên những nội dung hợp lý của phép biện chứng Hegel. Đặc trưng của cơ bản của phép biện chứng duy vật là: Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học, phép biện chứng duy vật không chỉ giải thích các mối liên hệ, trạng thái vận động và phát triển của thế giới mà nó còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.

    Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật được khái quát thành 2 nguyên lý:

    - Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

    - Nguyên lý về sự phát triển

    Nội dung của 2 nguyên lý của phép biện chứng duy vật:

    - Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời những sự vật, hiện tượng khác mà chúng nằm trong mối liên hệ với nhau.

    Mối liên hệ đây chính là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nhau, góp phần quy định sự tồn tại của nhau, chuyển hóa nhau của các sự vật, hiện tượng. Bất kì mối liên hệ nào thì đều có 3 tính chất cơ bản là:

    Tính khách quan: Các mối liên hệ tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức của con người.

    Tính phổ biến: Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ, ở đâu (về không gian) cũng có mối liên hệ, lúc nào (về thời gian) cũng có mối liên hệ.

    Tính đa dạng phong phú: Sự vật khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì mối liên hệ khác nhau.

    - Nguyên lý về sự phát triển: Mọi sự vật ở trạng thái vận động thì nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Nguồn gốc của sự vận động và phát triển là mâu thuẫn của sự vật, cách thức của sự vận động và phát triển là lượng sự vật đổi dẫn đến chất biến đổi và ngược lại. Khuynh hướng của sự vận động và phát triển là một quá trình quanh co, phức tạp được biểu diễn bằng đường xoáy ốc đi lên, đây là quá trình phủ định của phủ định mà hết mỗi chu kì sự vật lập lại dường như cái ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.

    Vận động ở đây được hiểu là moi sự biến đổi, đây là sự biến đổi chưa xác định về hương. Phát triển cũng đề cập đến sự biến đổi nhưng sự biến đổi đã được xác định hướng đó là từ chưa hoàn thiện đến sự hoàn thiện, từ trình độ thấp đến trình độ cao. Vận động và phát triển cũng có 3 tính chất cơ bản là: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng và phong phú.

    Hai nguyên lý này được cụ thể hóa qua các quy luật, các quy luật này được chia làm 2 loại:

    Các quy luật không cơ bản (các cặp phạm trù cơ bản), có 6 quy luật không cơ bản:

    - Cái riêng và cái chung

    - Nguyên nhân và kết quả

    - Tất nhiên và ngẫu nhiên

    - Nội dung và hình thức

    - Bản chất và hiện tượng

    - Khả năng và hiện thưc

    Tất cả các cặp phạm trù cho ta hiểu tính đa dạng giữa các mối liên hệ.

    Các quy luật cơ bản bao gồm 3 quy luật:

    - Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. (quy luật lượng - chất). Đây là quy luật về cách thức của sự vận động và phát triển.

    Tóm tắt nội dung: Mọi sự vật, hiện tượng đều có lượng và chất. Chất tương đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi đến một mức nhất định và trong những điều kiện nhất định thì chất sẽ thay đổi, khi đó sự vật, hiện tượng sẽ chuyển hóa. Sự vật mới ra đời có chất mới, lượng mơi. Lượng vẫn thường xuyên biến đối nhưng sự biến đổi của lượng mới khác sự biến đổi của lượng củ. Sự khác nhau này do chất quy định. Như vậy, từ những thay đổi về lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.

    Chất là khái niệm dùng để chỉ quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, làm cho nó phân biệt được với những cái khác.

    Lượng là khái niệm để chỉ tính khách quan vốn có về số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, tốc độ nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp, v. V. Của sự vật hiện tượng song lượng chưa là cơ sở để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.

    Từ những thay đổi về lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất, từ những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến sự thay đổi về lượng đây chính là cách thức của sự vận động và phát triển.

    - Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) Cho chúng ta hiều về nguồn gốc của sự vận động và phát triển.


    Câu 17: Tại sao phải thống nhất giữa lý luận với thực tiễn lại là một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng hay triết học thực tiễn?

    Trả lời:

    Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là lý luận và thực tiễn phải gắn bó với nhau, trong sự gắn bó này thì thực tiễn phải có lý luận dẫn đường, lý luận phải lấy thực tiễn làm cơ sở, động lực, mục đích và là nơi để kiểm tra lý luận là đúng hay sai.

    Thực tiễn và những hình thức cơ bản của thực tiễn:

    Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất mang tính lịch sử, xã hội của con người nhằm cải tạo hiện thực.

    Thực tiễn rất đa dạng nhưng được biểu hiện dưới 3 hình thức cơ bản:

    - Hoạt động sản xuất vật chất

    - Hoạt động chính trị xã hội (là hoạt động cải tạo xã hội của các tổ chức người, hoạt động cao nhất đó chính là đấu tranh giai cấp)

    - Thực nghiệm khoa học (con người sử dụng những công cụ vật chất để kiểm tra tính đúng sai)

    Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất. 3 hoạt động trên tuy khác nhau nhưng lại thống nhất với nhau, ảnh hưởng nhau và hổ trợ nhau.

    (Quá trình hình thành lý luận trong hoạt động nhận thưc: Kết quả của quá trình nhận thức là tri thức. Tri thức có thể chia làm 2 cấp độ: Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.

    Tri thức kinh nghiệm là những tri thức có được do sự quan sát các hiện tượng, vật chất chất xảy ra xung quanh cuộc sống của họ hoặc thực hiện 1 công việc lặp đi lặp lại nhiều lần. Tri thức kinh nghiệm có mặt tích cưc là hình thành ở diện rất rộng từ trẻ con đến người gia, từ người mu muội đến nhà khoa học, nó đem lại cho con người hiệu quả cao khi điều kiện chưa thay đổi)

    Tri thức lý luận (lý luận)

    Lý luận là hệ thống tri thức được rút ra từ quá trình đúc kết kinh nghiệm, tổng kết của quá trình học tập, nghiên cứu một cách nghiêm túc trên nền tảng của một vốn kiến thức nhất định và có một năng lực tư duy nhất định.

    Mặt tích cực và hạn chế của lý luận:

    - Mặt tích cực:

    + Đây là một loại kiến thức sâu sắc, nó giúp định hướng cho hoạt động của con người.

    + Cho phép con người thành công ngay cả khi điều kiện đã hoàn toàn thay đổi

    - Hạn chế:

    + Giữa tri thức lý luận và hiện thực bao giờ cũng có một khoảng cách.

    + Khi lý luận vừa được hình thành thì nó tự mang trong mình 2 khả năng là có thể đúng hoặc có thể là không đúng.

    Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:

    - Thực tiễn

    + Là cơ sở của lý luận.

    + Là động lực của lý luận.

    + Là mục đích của lý luận.

    + Là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

    Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:

    Lý luận đóng vai trò định hướng, dẫn đường cho thực tiễn

    Nó định hướng mục tiêu, xác định chiến lược, sách lược, đường lối, chủ trương, chính sách. Xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Dự báo (thành quả, hậu quả, rủi ro, v. V) để con người chuẩn bị ứng phó.

    Nếu con người tách lý luận và thực tiễn thì lý luận mất đi tính cơ sở, động lực, mục địch, tiêu chuẩn kiểm tra..

    Nếu con người hoạt động của thực tiễn tách ra khỏi lý luận thì thực tiễn không biết đi về đâu, không định hướng, vu vơ. Theo HCM gọi là thực tiễn mù quán.

    Nếu con người hoạt động theo nguyên tắc lý luận và thực tiễn thì khi hoạt động con người sẽ được dẫn đường định hướng dựa trên cơ sở động lực mục tiêu của thực tiễn và được kiểm tra đúng hay sai.


    Câu 18: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ý nghĩa phương pháp luận?

    Khái niệm: Hạ tầng cơ sở hay cơ sở hạ tầng là tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Nó bao gồm các quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho phương thức sản xuất, các quan hệ sản xuất đan xen cũng như các quan hệ sản xuất tàn dư và các quan hệ sản xuất tương lại dưới dạng mầm mống đang tồn tại trong xã hội đó. Cơ sở hạ tầng ở phương Đông rất phức tạp, nó bao gồm nhiều nhữn g dấu vết, tàn tích của các xã hội, cơ sở hạ tầng trước đó, tạo nên những lớp ngói chồng chéo lên nhau, nhưng lớp sau không hề che khuất lớp trước. Kiến trúc thượng tầng hay thượng tầng kiến trúc là toàm bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùng với những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội và các đoàn thể được hình thành trên cơ sở một cơ sở hạ tầng nhất định. Nó khác ý thức xã hội ở cái đuôi là các thiết chế tương ứng. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước là quyền lực của một giai cấp nhất định. Vậy, mối quan hệ biện chứng giữa hai cái đó ra sao? Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, bởi lẽ cơ sở hạ tầng bao giờ cũng là cơ sở hạ tầng của một kiến trúc thượng tầng nhất định; ngược lại, kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng là kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Hạ tầng cơ sở suy cho cùng quyết định thượng tầng kiến trúc theo nghĩa: - Hạ tầng cơ sở thay đổi thì sớm muộn thượng tầng kiến trúc cũng phải thay đổi theo. C. Mác cho rằng cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. - Hạ tầng cơ sở sản sinh ra thượng tầng kiến trúc; quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế suy cho cùng quyết định quan hệ về chính trị, pháp quyền, tư tưởng; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, qui định mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. - Hạ tầng cơ sở qui định tính chất của thượng tầng kiến trúc; giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế, giai cấp đó chiếm địa vị thống trị trong thượng tầng kiến trúc. - Tính độc lập tương đối của thượng tầng kiến trúc và sự tác động của nó đến hạ tầng cơ sở. + Các yếu tố của thượng tầng kiến trúc đều có khả năng gây ra những biến động không nhỏ đối với hạ tầng cơ sở bằng nhiều hình thức, theo những cơ chế, khuynh hướng (tích cực, tiêu cực) khác nhau. + Các yếu tố của thượng tầng kiến trúc không phải lúc nào cũng đồng bộ theo một hướng, nhưng với chức năng bảo vệ, phát triển hạ tầng cơ sở hiện có, thì nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng; nó chi phối và trong nhiều trường hợp, quyết định khả năng tác động của các bộ phận khác của thượng tầng kiến trúc đến toàn bộ đời sống xã hội và hạ tầng cơ sở. + Quá nhấn mạnh sự tác động của thượng tầng kiến trúc đối với hạ tầng cơ sở mà không thấy chiều quyết định ngược lại dễ rơi vào duy tâm chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí như thời kỳ 1975-1986.

    - Hạt nhân của mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc chính là mối liên hệ giữ kinh tế và chính trị. + Kinh tế là tổng thể các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối; tổng thể các mối quan hệ trong quá trình sản xuất. Như vậy, theo nghĩa rộng, kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi. Theo nghĩa hẹp, thực chất của kinh tế là lợi ích, là sở hữu, là hạt nhân của cơ sở hạ tầng. + Chính trị là quan hệ các giai cấp, các lực lượng chính trị; quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia xung quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị mà tập trung ở nhà nước. Như vậy, chính trị, thực chất là giải quyết các quan hệ chính trị nhằm giành lấy quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước để giải quyết các quan hệ lợi ích, chủ yếu là lợi ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng cầm quyền. - Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. + Kinh tế và chính trị liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Kiến trúc thượng tầng định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói lên điều đó. + Kinh tế (không phải là yếu tố duy nhất) quyết định chính trị là xét đến cùng; kinh tế thay đổi, sớm muộn chính trị cũng phải thay đổi theo. + Mặt khác, chính trị có tính độc lập tương đối của nó, nó có thể vượt trước kinh tế, nhưng nhìn chung nó thay đổi chậm so với kinh tế. Chính trị là một trong những hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất; nó có tác động trở lại kinh tế. Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ các vấn đề then chốt của kinh tế như ngân sách, vốn, tiền tệ, tài chính. Đường lối chính trị thể hiện rõ nhất ở đường lối kinh tế.


    Câu 19: Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên?

    Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Thế nào là một quá trình lịch sử tự nhiên? Sự phát triển của các hình thái kinh tế tuân theo 3 quy luật (quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp), không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, nó đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Bởi vậy, nó cũng là một quá trình lịch sử tự nhiên.

    Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vấn đề bỏ qua. Nếu trong tự nhiên có tuần tự và nhảy vọt thì trong xã hội (một bộ phận đặc biệt, hình thức tổ chức cao nhất của giới tự nhiên) cũng có tuần tự và bỏ qua. Qui luật kế thừa của lịch sử cho phép trong sự giao lưu, hợp tác với trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, về khoa học kỹ thuật, về văn hóa, chính trị.. một số nước đi sau, trong những điều kiện nhất định, có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình mà nhân loại đã trải qua. Như vậy, theo học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, bỏ qua là xu hướng tất yếu, khách quan, hợp qui luật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người thì cũng là một quá trình lịch sử tự nhiên. Tính qui luật chung của sự phát triển lịch sử toàn thế giới, theo V. I. Lênin, đã không loại trừ mà trái lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển đặc thù về hình thức, trật tự phát triển. Chỉ có bỏ qua, rút ngắn một cách duy ý chí, bất chấp qui luật thì mới không phải là một quá trình lịch sử tự nhiên, chẳng hạn như các nước xã hội chủ nghĩa trước kia, chẳng hạn như Việt Nam 1975-1986. Các nhà tư tưởng cũng đã nêu ra những tư tưởng về rút ngắn, bỏ qua. Nhìn chung có hai hình thức bỏ qua liên hệ mật thiết với nhau: - Bỏ qua do đòi hỏi tất yếu khách quan bên trong (nội sinh) của một xã hội nhất định; - Bỏ qua do tác động khách quan từ bên ngoài (ngoại sinh). Hiện nay còn có hình thức bỏ qua một cách gián tiếp. Vậy, rút ngắn, bỏ qua của Việt Nam thuộc hình thức bỏ qua nào? Vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết ta hãy phân tích tại sao (hay căn cứ vào đâu) mà Đảng ta lại chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đảng ta dựa vào qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong bối cảnh hiện nay ở nước ta. Trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, nhìn chung, là rất đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ: - Công cụ lao động hiện nay ở nước ta cũng rất đa dạng, không đồng đều. - Thích ứng với sự đa dạng của công cụ lao động sản xuất như vậy, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác nhau. Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau. - Về khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung là thấp, chậm phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Từ đó, ta thấy trình độ khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay cũng rất đa dạng.

    Tóm lại, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay khá đa dạng, không đồng đều, tức nhiều trình độ. Theo qui luật, muốn sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ như vậy; do đó, lôgíc tất yếu đối với quan hệ sản xuất, hay trong quan hệ sản xuất chúng ta cũng phải đa dạng. Đa dạng thể hiện ở chỗ: - Đa dạng trong thành phần kinh tế, tức chúng ta phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng XHCN. Như vậy, chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần không phải là một chủ trương vu vơ không có căn cứ, mà nó dựa trên qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Cụ thể hiện nay chúng ta có năm thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điều n ày khiến chúng ta càng nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan duy ý chí của thời kỳ 1975- 1986 với hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể. - Đa dạng trong hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý, nhiều hình thức phân phối. Khác với trước kia (hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể), ngày nay chúng ta có ba hình thức sở hữu: Toàn dân, tập thể và tư nhân. - Đa dạng trong phân phối. Nếu như trước kia chúng ta phân phối theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều cách khác nhau như theo lao động (tức theo khả năng, năng lực, trí tuệ), theo hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, theo phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Từ phân tích qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trên, vậy, muốn phát triển sản xuất ở nước ta hiện nay chúng ta cần phải: Như Nghi quyết Đại hội XI đã chỉ ra là chúng ta phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phải xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay là phải phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Muốn phát triển sản xuất ở nước ta hiện nay, chúng ta không chỉ phát triển lực lượng sản xuất, phát triển sức sản xuất; mà phải còn xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; tức phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ những công việc sau: - Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường; - Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; - Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường;

    - Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua đó ta thấy mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ biện chứng, liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. - Vấn đề đổi mới kinh tế và chính trị ở nước ta hiện nay. + Đổi mới kinh tế ở nước ta. 1986 đổi mới tư duy kinh tế, 1989 cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, 1991 chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, 2008 kiến trúc thượng tầng định hướng xã hội chủ nghĩa. + Đổi mới chính trị. 1989 chuyển từ chuyên chính vô sản sang hệ thống chính trị; 1994 dùng Nhà nước pháp quyền; Đại hội VIII nhấn mạnh Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; 1999 đẩy mạnh cải cách hành chính; Đại hội IX khảng định nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Đại hội X xây dựng xã hội dân chủ, cán bộ là công bộc của dân. + Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đại hội VI, đổi mới kinh tế; Đại hội VIII, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị; Đại hội X đổi mới toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị; hiện nay, đổi mới kinh tế nhanh hơn đổi mới chính trị. + Thực chất qua hệ thứ cấp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đó chính là quan hệ giữa hoàn thiện thể chế kiến trúc thượng tầng định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển kiến trúc thượng tầng định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.


    Câu 20: Quan điểm của triết học Mác Lênin về bản chất con người. Ý nghĩa phương pháp luận.

    Quan điểm của triết học Mác Lênin về bản chất con người - Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động xã hội, con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội với việc hình thành bản chất con người, song không có nghĩa là coi nhẹ tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì, theo Mác, "giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có thể là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên". Con người vừa có mặt sinh vật vừa có mặt xã hội, là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, quá trình tác động hai mặt đó cũng là quá trình hình thành bản chất con người. - Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội

    Khi nói bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự qui định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó, xét đến cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất (cá nhân từng con người). - Con người là chủ thể và là sản pham của lịch sử Các quan hệ xã hội không chỉ xét ở quan hệ trong từng hình thái xã hội riêng biệt, mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại) vừa theo chiều dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội qui định bản chất con người bao gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử của mình, con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó. Ý nghĩa phương pháp luận đối với phát triển con người Việt Nam hiện nay Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau: Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN Thực hiện thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực tiễn đã chứng minh, những chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước ta trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng con người Việt Nam mới. Hai là, nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân lực Phát triển kinh tế gắn liền với tự do chính trị và tự do công dân. Do đó, sự phát triển nguồn lực con người và giáo dục được coi là yếu tố quan trọng to lớn đối với tiến bộ kinh tế và tiến bộ xã hội. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản xuất sức lao động, đầu tư cho tương lai. Không phải ngẫu nhiên mà ở nước ngoài, trong kế hoạch phát triển đất nước của mình, nhiều quốc gia đều đặt giáo dục vào hệ thống ba chiến lược: Giáo dục, khoa học và mở cửa. Ba là, ổn định chính trị và mở rộng, phát huy dân chủ ổn định chính trị, trước hết thể hiện sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị hoàn chỉnh. Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bốn là, mở rộng giao lưu, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Để tạo điều kiện cho con người Việt Nam sáng tạo tránh được những sai lầm quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến kịp con đường tiến hóa của nhân loại, đòi hỏi phải kết hợp việc tổng kết kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm của thế giới. Tiếp thu có phê phán, chọn lọc những giá trị phong phú của loài người sẽ tạo thành một động lực mạnh mẽ để hình thành từng bước một chủ thể mới của lịch sử - con người Việt Nam mới, vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa đại biểu cho sự phát triển của dân tộc.


    Câu 21: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ này, phê phán bệnh chủ quan duy ý chí trong cán bộ - đảng viên hiện nay?

    1. Khái niệm vật chất và ý thức:

    * Vật chất: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem

    Lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản

    Ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

    * Ý thức: Ý thức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng

    Cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống.. nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh

    Tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.

    2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

    Vật chất và ý thức có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ

    Đó, vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, ý thức là cái có sau, phụ thuộc vào vật chất,

    Do vật chất quyết định. Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức,

    Quyết định ý thức, thì sự nhận thức thế giới không thể xuất phát từ ý thức của con người,

    Mà phải xuất phát từ thế giới khách quan. Nhưng ý thức có tính độc lập tương đối, có vai

    Trò tác động trở lại đối với sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.

    *Vật chất quyết định ý thức trên 3 phương diện:

    - Quyết định nội dung phản ánh của ý thức: Bởi vì ý thức bao giờ cũng là sự phản ánh thế

    Giới vật chất và sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo trong phản ánh và theo khuôn khổ của sự phản ánh. Hơn nữa, tự thân ý thức không thể gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực. - Quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức: Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội. - Quyết định sự biến đổi của ý thức: Ý thức phản ánh thế giới hiện thực khách quan, thế giới vật chất, bản thân nó không thể gây ra sự biến đôitrong đời sống hiện thực. Nhưng thế giới vật chất thì luôn vận động và biến đổi không ngừng (vận động là phương thức tồn tại của vật chất), vì vậy khi nó thay đổi dẫn tới làm cho ý thức cũng thay đổi theo. * Ý thức cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất, bao gồm các vấn đề sau: - Mối quan hệ giữa ý thức và vật chất vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Nghĩa là, vật chất luôn là cái có trước và quyết định ý thức, nhưng ngược lại ý thức cũng có tác động trở lại đối với vật chất. Mối quan hệ này xét về một mặt nào đó tương tự như mối quan hệ nhân quả. - Ý thức có tính năng động to lớn, tác động trở lại thế giới vật chất theo hai chiều: Ý thức tích cực, tiến bộ, phản ánh đúng quy luật khách quan sẽ thúc đẩy thế giới vật chất phát triển và chỉ đạo hoạt động thực tiễn thành công. Ngược lại, ý thức tiêu cực, lạc hậu, không phản ánh đúng quy luật khách qua thì sẽ kìm hãm sự phát triển, tuy nhiên sự kìm hãm này chỉ là tạm thời, không phải bất biến. + Phương thức phản ánh của ý thức là thông qua hạt động thực tiễn của con người, biến sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, mà biểu hiện ở chỗ đề ra các đường lối. Chủ trương chính sách đúng đắn, khoa học và phù hợp với tình hình thực tiễn. + Sự tác động của ý thức để thúc đẩy thế giới vật chất phát triển phải có điều kiện: Ý thức phải phản ánh đúng hiện thực khách quan, con người vận dụng tri thức đó vào hoạt động thực tiễn, đề ra được những phương án tối ưu chỉ đạo hoạt động thực tiễn. 3. Ý nghĩa phương pháp luận để giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, phê phán bệnh chủ quan duy ý chí. * Ý nghĩa phương pháp luận: - Tôn trọng và xuất phát từ thực tế khách quan: + Trước hết là điều kiện khách quan: + Quy luật khách quan: + Khả năng khách quan: - Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức: + Năng động trong nhận thức: Phải nhận thức đúng thực tiễn, từ đó đề ra đường lối, chủ trương, biện pháp đúng và khoa học.

    + Năng động trong tổ chức thực tiễn cách mạng..

    - Đấu tranh chống mọi biểu hiện bất chấp quy luật khách quan, thụ động, tiêu cực. Đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí. (Phân tích nguyên nhân và biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí).


    Câu 22: Trình bày đối tượng và những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vai trò của phép biện chứng đối với quá trình nhận thức?

    Phép biện chứng duy vật là một trong 3 hình thức cơ bản của phép biện chứng (Phép BC chất phác, duy tâm và duy vật). Nó là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, theo định nghĩa của Ăng-ghen thì: "Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy". Vì vậy: 1. Đối tượng của phép biện chứng duy vật: Nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, biến đổi và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. 2. Lịch sử phát triển của phép biện chứng: Phép biện chứng đã ra đời từ thời cổ đại, trong lịch sử triết học đã hình thành nên 3 hình thức, đó là: - Phép biện chứng chất phác, ngây thơ thời cổ đại: Đại diện cho trường phái này là Hê-raclít đã coi sự vận động và phát triển của thế giới giống như dòng chảy của một dòng sông. Ngoài ý nghĩa vô thần, nó còn chống lại các quan niệm tôn giáo về thế giới, tuy nhiên phép biện chứng chất phác này ít có giá trị khoa học, sau này đã bị phép siêu hình phủ định. - Phép biện chứng duy tâm: Điển hình là phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen (triết học cổ điển Đức, thế kỷ XIX). Hê-ghen là người đầu tiên có công xây dựng một cách tương đối hoàn chỉnh phép biện chứng với hệ thống các khái niệm, phạm trù và những quy luật cơ bản. Song do thế giới quan duy tâm coi "ý niệm tuyệt đối" là cái có trước thế giới, giới tự nhiên và xã hội chỉ là biểu hiện ra bên ngoài của "ý niệm tuyệt đối" nên Hê-ghen đã mắc phải sai lầm khi cho rằng biện chứng của ý niệm sinh ra biện chứng của sự vật. Do đó, phép biện chứng của Hê-ghen là biện chứng duy tâm khách quan, thần bí, thiếu triệt để và thiếu khoa học. - Phép biện chứng duy vật: Do Mác và Ăng-ghen sáng lập vào giữa thế ky XIX và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XX đã đem lại cho phép biện chứng một hình thức hoàn toàn mới về chất. 3. Nội dung của phép biện chứng duy vật: Gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ bản (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt ®ối lập, quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những quy luật không cơ bản (cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên nhân và kết quả; bản chất và hiện tượng; tất nhien và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực). 4. Vai trò của phép biện chứng duy vật đối với người cán bộ KHKTQS: - Xây dựng phương pháp xem xét giải quyết với quan điểm: Khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Từ đó khắc phục cách xem xét trừu tượng, chung chung, phi lịch sử, siêu hình. Khách quan: Có nghĩa là..

    Toàn diện: Có nghĩa là.. Lịch sử: Có nghĩa là.. Cụ thể: Có nghĩa là.. Phát triển: Có nghĩa là.. Vận dụng vào bản thân, cần liên hệ cụ thể, đối chiếu với phương pháp trên, chỉ ra những mặt nào đã làm được, mặt nào chưa làm được, tiếp tục bồi dưỡng theo phương pháp khoa học trên.


    Câu 23: Trình bày tính cách mạng và tính khoa học của phép biện chứng duy vật. Vận dụng vấn đề này để xem xét tính hình thế giới và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

    - PBC duy vật trong triết học Mác chứa đựng bản chất CM&KH, bản chất CM&KH là hai thuộc tính nội tại của PBC và nó gắn bó chặt chẽ với nhau không tách rời CM&KH và ngược lại bởi đã CM thì là KH và ngược lại.

    - Bản chất CM&KH biểu hiện trong những nội dung sau:

    + PBC duy vật không thừa nhận sự nhất thành bất biến của sự vật hiện tượng mà mọi cái đều tồn tại trong Vận động, biến đổi và phát triển một cách phổ biến.

    + Nguyên nhân nguồn gốc của sự vận động, biến đổi nằm ở bên trong sự vật đó là sự thống nhất giữa nhân tố khẳng định và nhân tố phổ định, nhân tố phủ định có xu hướng duy trì cái hiện có, nhân tố khẳng định có xu hướng phủ định chuyển sang cái mới cao hơn, những tư tưởng bảo thủ, sơ cứng đề trái với bản chất này.

    + PBC duy vật mang tính phê phán cách mạng thông qua đấu tranh với những yếu tố lạc hậu, bảo thủ đối lập và phát triển tiến lên.

    + PBC duy vật là cơ sở xây dựng niềm tin ý chí quyết tâm cải tạo thế giới, cải tạo xã hội trong quá trình ngiên cứu KH, PBC duy vật là vũ khí lý luận sắc bén để chiến thắng trong cuộc đấu tranh ý thức hệ. - Vận dụng xem xét tình hình thế giới và công cuộc đổi mới ở Việt Nam:

    + Vận dụng PBC để nhậ thức đúng CNTB cả mặt hạn chế và tiến bộ.

    + Đánh giá những thành tựu và sai lầm của CNXH.

    + Mặt dù CM XHCN đang ở thoái trào CNTB thực hiện một số chiến lượt trong âm mưu chiến lược toàn cầu của chúng nhưng đó chỉ là những bước biến đổi tạm thời có giới hạn, CNXH sẽ lấy lại sức sống của nó và CNXH là tất yếu KQ.

    + Ở việt Nam chúng ta hiện nay đảng ta chủ trương thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần xuất hiện một mâu thuẩn nổi bật phản ánh hai xu hướng phát triển CNTB đó là phát triển kinh tế TBCN theo định hướng XHCN và phát triển nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn TBCN, nếu xu hướng 1 thắng lợi ta giữ vững XHCN, nếu xu hướng hai thắng lợi ta sẽ chệch hướng XHCN.

    + Kinh tế nhiều thành phần chứa đựng nhiều mâu thuẩn, thậm chí có mâu thuẩn gay gắt, nhưng chính sách của chúng ta là phát triển tiềm năng của mỗi thành phần kinh tế, nhưng có điều chỉnh và hạn chế những lợi ích đối lập nhau.


    Câu 24: Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức, ý nghĩa phương pháp luận?

    1. Định nghĩa thực tiễn: Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử – xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Phân tích định nghĩa: Khi nghiên cứu định nghĩa thực tiễn cần nắm chắc và hiểu rõ một số nội dung sau: + Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người: Chỉ những hoạt động vật chất của con người mới là hoạt động thực tiễn. + Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể với tính tích cực của mình làm biến đổi khách thể. Trong quá trình này không chỉ biến đổi khách thể, mà còn làm biến đổi ngay cả bản thân chủ thể. Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, song có thể có 3 hình thức cơ bản sau đây: - Hoạt động lao động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản nhất, có vai trò quyết định chi phối các hình thức hoạt động khác. Chính lao động đã biến vượn thành người và là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. - Hoạt động biến đổi xã hội: Là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn xã hội. Không có các hoạt động đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho hòa bình thì không thể biến đổi được các quan hệ xã hội và xã hội nói chung được. - Thực nghiệm khoa học: Là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, đó là hoạt động của con người đượ tiến hành trong điều kiện nhân tạo, nhằm nhận thức và biến đổi tự nhiên và xã hội. Trong điều kiện tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, thực nghiệm là hoạt động đóng vai trò quan trọng trong việc biến các phát minh khoa học thành các giải pháp kỹ thuật và công nghệ, thành các sản phẩm phục vụ đời sống con người. Với vai trò đó, thực nghiệm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất vật chất và kích thích sự biến đổi các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. 2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: Trong quan hệ với nhận thức, thực tiễn có những vai trò sau đây: + Triết học Mác khẳng định nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Trong mối quan hệ này, lý luận đóng vai trò là người dẫn đường cho hoạt động thực tiễn, thực tiễn là nơi để kiểm chứng lại tính chân thực, đúng đắn của nhận thức. Quá trình của nhận thức là: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan. + Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý. Thể hiện ở chỗ: Nhận thức ngay từ đầu đều xuất phát từ thực tiễn và do thực tiễn quy định (là cơ sở). Chính yêu cầu của thực tiễn sản xuất vật chất và thực tiễn cải biến xã hội đã buộc con người phải nhận thức (là động lực). Nhờ có hoạt động thực tiễn, mà trước hết là lao động, con người nhận thức được thế giới xung quanh.

    Thực tiễn không chỉ là cơ sở mà còn là mục đích của nhận thức: Tri thức khoa học có ý nghĩa thực tiễn chỉ khi nó được áp dụng vào đời sống. Chính thực tiễn là nơi để thể hiện sức mạnh của tri thức. Như vậy, nhận thức không phải là chỉ để nhận thức, nhận thức coa mục đích cuối cùng của nó là giúp con người trong hoạt động cải tạo thế giới. Chính nhu cầu của thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành và phát triển của các nghành khoa học, biến những tri thức khoa học thành phương tiện hùng mạnh giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Vì thực tiễn là nơi mà nhận thức (các tri thức đã được con người nhận thức) của con người được đưa ra áp dụng. + Thực tiễn là điểm xuất phát của mọi nhận thức: Vì mọi nhận thức của con người đều bắt đầu từ thực tiễn. + Thực tiễn làm tự nhiên bộc lộ bản chất, đặc tính để nhận thức. Như vậy, thực tiễn đã đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. + Thực tiễn cung cấp cho con người công cụ, phương tiện để nhận thức hiện thực khách quan. Thực tiễn làm cho các giác quan của con người phát triển và hoàn thiện. Hoạt động thực tiễn còn tạo ra các phương tiện và dụng cụ tinh vi làm tăng thêm khả năng nhận biết của các giác quan, như: Kính hiển vi điện tử, kính thiên văn, tầu vũ trụ, các máy tính điện tử.. + Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có các tri thức khoa học. Cho ví dụ minh họa và phân tích 3. Ý nghĩa thực tiễn và phê phán các quan điểm sai trái: Từ việc nghiên cứu về thực tiễn và mối quan hệ của thực tiễn với nhận thức, với chân lý, chúng ta có thể rút ra một số ý nghĩa thực tiễn sau: + Xây dựng quan điểm thực tiễn đúng đắn: Phải coi trọng thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn. Mọi nhận thức lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức lý luận (kiểm tra chân lý). + Phê phán mọi biểu hiện xem nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn (sẽ rơi vào lý luận suông), chống chủ nghĩa giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm thuần tuý (tuyệt đối hóa thực tiễn mà xem nhẹ lý luận, sẽ rơi vào trường hợp mù quáng).


    Câu 25: Trình bày nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Vận dụng nguyên tắc này người cán bộ kỹ thuật phải làm gì? * Vì sao thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê Nin.

    - Vị trí vai trò: Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của CN Mác-Lê Nin, vì mục đích của CN Mác nói chung và TH Mác nói riêng, để nhận thức và cải tạo thết giới. - Khái niệm và vai trò của thực tiễn: Thực tiễn là hoạt động VC có mục đích mang tính LSXH nhằm cải tạo TGKQ, không phải hoạt động VC nào cũng là thực tiễn, thực tiễn mang tính LSXH bào giờ cũng gắn với một giai đoạn lịch sử nhất định, bao giờ cũng giới hạn bởi

    Một điều kiện lịch sử nhất định, mang tính lịch sử và là một quá trình phát triển lịch sử, hoạt động thực tiễn diễn ra trong một môi trường XH nên bị chi phối theo quan điểm của GC mang tính XH. Hoạt động thực tiễn có 3 dạng (Hoạt động SX_VC, ĐT chính trị XH, quan sát thực nghiệm KH). Thực tiễn đóng vai trò là điểm xuất phát là cơ sở, động lực, mụcđích của nhận thức. Hoạt động thực tiễn là tất yếu KQ, chính hoạt động thực tiễn đã cung cấp những tư liệu cho khái quát nhận thức, trực tiếp tác động vào sự vật hiện tượng là cho sự vật hiện tượng bộc lộ bản chất bên trong, giúp cho nhận thức được sự vật hiện tượng, bằng hoạt động thực tiễn con người tạo ra công cụ và phương tiện. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra nhận thức. - LL là vai trò của LL: Lý luận là sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, là tổng hợp các tri thức về tự nhiên và XH mà loài người đạt được trong quá trình nhận thức. Lý luận có vai trò dẫn đường vạch phương hướng, tổ chức giác ngộ, tập hợp GC, có khả năng dự báo phát triển tương lai. - lý luận và thực tiễn phải thống nhất đó là nguyên tắc: Vì xuất phát từ chức năng của lý luận nhận thức là cải tạo TGKQ, thông qua hoạt động thực tiễn mà con người khái quát lý luận, từ đó lý luận quay về chỉ đạo thực tiễn để lý luận bổ xung không ngừng. * Vận dụng nguyên tắc này cán bộ khoa học phải làm gì: - Phải không ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận, tri thức chuyên ngành, thường xuyên cập nhật kiến thức, học tập suốt đời. - Có phương pháp phân tích KH, phát hiện ra nhu cầu thực tiễn, nắm được bản chất của thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn phải sáng tạo, đổi mới không ngừng. - Bổ sung phát triển lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn.


    Câu 26: Phân tích cơ sở lý luận và nội dung nguyên tắc xem xét: Khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể và phát triển.

    * Cơ sở lý luận và nội dung nguyên tắc: - Nguyên tắc khách quan. + Cơ sở lý luận: Từ mối quan hệ VC và YT, VC tồn tại KQ quyết định YT, từ nguyên lý, quy luật, cặp phạm trù của phép biện chứng. + Nội dung: Đòi hỏi trong nhận thức và hành động luôn xuất phát từ KQ, lấy KQ làm tiền đề, cơ sở xem xét sự vật đúng như nó có, xây dựng đặc tính trung thực, thật thà, phát huy vai trò CQ, độc lập suy nghĩ nghiên cứu chống KQ chủ nghĩa, chống CQ duy ý chí bất chấp quy luật, điều kiện KQ là theo ý của chúng ta. - Nguyên tắc toàn diện: + Cơ sở lý luận: Từ nguyên lý liên hệ phổ biến thì mọi SV-HT đều nằm trong sự liên hệ phổ biến nhiều vẻ vô cùng phong phú, liên hệ là KQ, tức là không có SV-HT nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập. + Nội dung: Nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu toàn diện các mối liên hệ, bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp. Chú ý mối liện hệ bản chất, quyết định để nhận thức đúng đắn SV. Chống lại bệnh cực đoan phiến diện và chủ nghĩa chiết trung.

    - Nguyên tắc phát triển: Lô gíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động, và biến đổi của nó để từ đó tìm ra được những mâu thuẩn của SV. Phải thấy xu hướng phát triển của SV, quá trình cái cũ mất đi và cái mới ra đời, phải ủng hộ cái mới, cái tiến bộ. Chống bệnh bảo thủ, trì trệ và giáo điều. - Nguyên tắc lịch sử cụ thể: Chân lý luôn là cụ thể nên khi xem xét sự vật phải xuất phát từ ĐK KG và TG, gắn với hoàn cảnh tồn tại lịch sử của nó, phải biết phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể và do đó, phải sáng tạo trong nhận thức và hành động. Chống bệnh giáo điều rập khuôn máy móc, chủ nghĩa hư vô lịch sử và bệnh "chung chung trừu tượng".


    Câu 27: Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đảng ta đã vận dụng quy luật này trong việc đổi mới đất nước hiện nay như thế nào?

    Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ cảu LLSX là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội, quy luật này nói lên vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX và sự phụ thuộc của QHSX đối với LLSX. Đồng thời nó cũng tác động trở lại đối với LLSX. 1. Nội dung quy luật: LLSX và QHSX là hai mặt của PTSX, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người – Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt mình QHSX tác động trở lại đối với LLSX. + Tính chất của LLSX là tính chất của TLSX và của lao động. Khái quát có 2 hình thức cơ bản là: Tính chất các nhân riêng lẻ, hoặc tính chất xã hội. Còn trình độ của LLSX là trình độ phát triển của sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của khoa học công nghệ, công cụ lao động, kỹ thuật, kỹ năng, tri thức của người lao động, trình độ phân công lao động. + LLSX quyết định QHSX, vì: LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá trình sản xuất, còn QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã hội của sản xuất nên có tính chất tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của LLSX. LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của LLSX với QHSX là động lực làm cho LLSX phát triển. Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. + QHSX tác động lại LLSX: QHSX tác động lại LLSX ở chỗ, nó quy định mục đích của sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất, phương thức phân phối sản phẩm. Do vậy, nó tác động đến thái độ người lao động. QHSX phù hợp sẽ thúc đẩy LLSX phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX tác động trong lịch qua sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX từ thấp đến cao. Đó là cách nhìn thế giới trên phương diện tổng thể, quy luật chung, xu hướng chung của lịch sử thế giới. Nhưng thực tế thì lịch sử đã chứng minh rằng, không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự qua các PTSX. 2. Vận dụng của Đảng ta trong tình hình đổi mới đất nước hiện nay: Nghiên cứu nắm vững quy luật này Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng: + Việt Nam lựa chọn con đường đi lên XHCN không qua TBCN là một sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của lịch sử. (phân tích tại sao) + Xuất phát từ đặc điểm chủ yếu của Việt Nam là từ sản xuất nhỏ đi lên xây dựng PTSX XHCN, nên theo quy luật này. Đảng ta cho rằng: Phát triển LLSX, thực hiện CNH – HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. + Phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao, đa dạng hóa hình thức sở hữu. + Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hưỡng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.

    Câu 28: Trình bày nội dung quy luật cơ sơ hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Nhận thức và vận dụng quy luật của Đảng ta?

    1. Khái niệm CSHT và KTTT: * Cơ sở hạ tầng (CSHT) : Là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những QHSX thống trị, những QHSX là tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chugn của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT. * Kiến trúc thượng tầng (KTTT) : Là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: Hệ tư tưởng và thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp mới ra đời; quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT: Giữa CSHT và KTTT có mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ không tách rời nhau: * CSHT quyết định KTTT: + CSHT quyết định KTTT, vì: CSHT là những quan hệ vật chất – kinh tế nên quyết định các quan hệ xã hội về tư tưởng. Nó quyết định sự ra đời, cơ cấu, tính chất của KTTT, quyết định sự vận động biến đổi của KTTT. Tức là, CSHT nào thì sinh ra KTTT đó. Những biến đổi căn bản trong CSHT sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong KTTT. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế – xã hội, cũng như khi chuyển từ một hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác. + Khi CSHT cũ mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng mất theo, khi CSHT mới ra đời thì một KTTT mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Song có những nhân tố riêng lẻ của KTTT cũ vẫn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế sinh ra nó đã bị tiêu diệt (tàn dư). Cũng có những nhân tố nào đó của KTTT cũ được giai cấp cầm quyền mới duy trì để xây dựng KTTT mới. Kết luận: Như vậy, sự hình thành và phát triển của KTTT do CSHT quyết định. Đồng thời nó còn có quan hệ kế thừa đối với các yếu tố của KTTT của xã hội cũ. * KTTT tác động trở lại CSHT: Suy cho cùng thì CSHT quyết định KTTT, nhưng KTTT luôn luôn la lực lượng tác động mạnh mẽ trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội và tác động tích cực trở lại đối với CSHT sinh ra nó. Sự tác động tích cực của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chỗ: + Chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ CSHT và KTTT cũ. + Trong các bộ phận của KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp, nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với CSHT. Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất: Quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù.. để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố vững chắc địa vị quan hệ sản xuất thống trị. + Trong bản thân KTTT cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với CSHT. Nếu tác động đó cùng chiều (càng phù hợp) với CSHT thì thúc đẩy sự phát triển của CSHT và ngược lại thì có tác động cản trở sự phát triển của CSHT. Đối với tác động của KTTT trở lại CSHT cũng vậy. Kết luận: Nhw vậy giữa CSHT và KTTT có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó CSHT giữ vai trò quyết định, là nội dung; còn KTTT có tác động trở lại đối với CSHT, là hình thức biểu hiện của CSHT. 2. Ý nghĩa và vận dụng của Đảng ta: Nghiên cứu quy luật này giúp ta nắm được quy luật vận động chung của xã hội và phương hướng để phân tích sự tác động của nó trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. + Giúp ta có cơ sở khoa học để nhận thức và chỉ đạo hoạt động trong việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng CSHT và KTTT ở nước ta. Mối quan hệ giữa nhân tố kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới đất nước. + Quá trình đổi mới đất nước theo CNXH là đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa tư tưởng.. Trong khi lấy đổi mới kinh tế làm nhiệm vụ hàng đầu thì đồng thời phải từng bước đổi mới chính trị cho hù hợp, làm cho kinh tế, văn hóa xã hội phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện. + CSHT trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, có nhiều QHSX gắn với các hình thức sở hữu khác nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Trong đó phải làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể, tạo thành nền tảng của kinh tế quốc dân. + Về KTTT ở nước ta phải xây dựng trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo, trong đó nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

    Câu 29: Phân tích phạm trù hình thái kinh tế – xã hội. Đảng ta vận dụng lý luận hình thái kinh tế – xã hội trong sự nghiệp đổi mới như thế nào?

    1. Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội: Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với LLSX ở một trình độ nhất định và với một KTTT được xây dựng lên trên những QHSX đó. Phân tích: Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội có các đặc trưng: Là một chỉnh thể sống, vận động, có cơ cấu phức tạp. Trong đó có 3 mặt cơ bản, phổ biến nhất là: LLSX, QHSX và KTTT. Các mặt đó gắn bó, tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển xã hội. + Trong các yếu tố cơ bản cấu thành hình thái kinh tế – xã hội thì LLSX là nền tảng vật chất kỹ thuật của mọi hình thái kinh tế – xã hội, QHSX là cơ sở kinh tế, CSHT của xã hội là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội với xã hội khác. KTTT có chức năng, vai trò duy trì, bảo vệ, phát triển CSHT và các mặt của đời sống xã hội. * Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, vì: + Con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo quy luật khách quan. Đó là hoạt động của họ, tuy do ý thức chỉ đạo, nhưng lại diễn ra trong một hoàn cảnh khách quan nhất định mà họ hải tích ứng. + Trong các quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hoàn cảnh thì quan hệ kinh tế xét đến cùng là quan hệ quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một trình độ nhất định của LLSX. + Sự phát triển của hình thái kinh tế do sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. + Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên vừa bao hàm sự phát triển tuần tự theo xu hướng tổng quát chung, vừa bao hàm khả năng một quốc gia này hay một quốc gia khác trong tiến trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế độ này để lên một chế độ xã hội khác cao hơn (lấy ví dụ đối với lịch sử thế giới và Việt Nam). 2. Sự vận dụng của Đảng ta: + Lý luận về hình thái kinh tế – xã hội nói chung và nguyên lý về sự phát triển các hình thái kinh tế, là một quá trình lịch sử tự nhiên giúp chúng ta có một cơ sở khoa học để đi sâu nhận thức xã hội, quy luật phát triển của nó, chống CNDT, CNDV máy móc về xã hội. + Đảng ta nhất quán cho rằng, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng 10 Nga, việc Việt Nam đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là sự chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển lịch sử nhân loại và đất nước ta (Phân tích những khó khăn, thuận lợi và bài học của 10 năm đổi mới ở nước ta). + Để tiến lên một xã hội mới – xã hội XHCN, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ LLSX, tiến hành CNH-HĐH, từng bước thiết lập QHSX XHCN từ thấp đến cao phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và củng cố, hoàn thiện KTTT XHCN. Đảng ta cho rằng, theo quy luật phát triển các hình thái kinh tế – xã hội ở Việt Nam hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, phải làm cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng KTTT XHCN, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.

    Câu 30: Phân tích các đặc trưng cơ bản trong định nghĩa giai cấp của Lênin. Vì sao trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của sự phát triển xã hội có giai cấp?

    1. Định nghĩa giai cấp của Lênin: Giai cấp là những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những TLSX, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định. Tóm lại, theo định nghĩa của Lênin, giai cấp là một tập đoàn người rộng lớn có quan hệ lợi ích gắn bó chặt chẽ với nhau trên nhiều mặt, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Phân tích 4 đặc trưng cơ bản trong định nghĩa giai cấp của Lênin: + Đặc trưng thứ nhất: Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau đó là do địa vị của họ khác nhau. Trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định, nó biểu hiện ở chỗ giai cấp này ở địa vị thống trị, bóc lột, các giai cấp khác ở địa vị bị trị, bị bóc lột. Việc nghiên cứu giai cấp phải gắn liền với hệ thống sản xuất nhất định. Địa vị của một giai cấp lại được quyết định bởi mối quan hệ của giai cấp đó với 3 mặt của QHSX. + Đặc trưng thứ hai: Các giai cấp có mối quan hệ khác nhau về quyền sở hữu đối với TLSX. Đây là đặc trưng giữ vai trò quyết định đối với các đặc trưng khác. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu TLSX của xã hội thì giai cấp đó đồng thời cũng đóng vai trò tổ chức quản lý nền sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội cho giai cấp đó. Giai cấp đó ở vị trí thống trị, bóc lột các giai cấp khác. + Đặc trưng thứ ba: Các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao động xã hội. Vai trò tổ chức lao động xã hội thuộc về giai cấp chiếm hữu TLSX xã hội. + Đặc trưng thứ tư: Các giai cấp có những phương thức và quy mô thu nhập khác nhau về của cải xã hội, phụ thuộc vào địa vị của giai cấp đó trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Quan hệ sở hữu đối với TLSX là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các giai cấp khác nhau trong xã hội. Bốn đặc trưng trên đây của định nghĩa giai cấp có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đặc trưng thứ hai là đặc trưng cơ bản nhất chi phối các đặc trưng khác. Thiếu một trong 4 đặc trưng đó, nhất là đặc trưng thứ 2 thì không thành giai cấp. Những hiện tượng: Kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn, địa vị cao thấp chỉ là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của sự phân chia giai cấp. Nên không thể coi đó là tiêu chuẩn duy nhất để phân định giai cấp. 2. Đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội: Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội, vì: + Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp là một tất yếu khách quan. Đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp mà lợi ích căn bản đối lập nhau. + Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Sản xuất vật chất trong mỗi giai đoạn lịch sử lại được tiến hành theo một cách thức nhất dịnh. Cách thức đó được gọi là PTSX. Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử thay thế hợp quy luật của các PTSX. Đó là quá trình đấu tranh và giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ đã lỗi thời. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị đại biểu trong xã hội cho QHSX cũ đã lỗi thời với quần chúng lao động đại biểu cho LLSX mới trong xã hội. Chỉ chừng nào cuộc đấu tranh của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng phát triển, đỉnh cao là cách mạng xã hội. Thông qua cách mạng xã hội, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, giành chính quyền về tay mình thì chừng đó giai cấp cách mạng và quần chúng lao động mới xóa bỏ được QHSX cũ (thực chất là xóa bỏ địa vị lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị) để xác lập QHSX mới và theo đó một PTSX mới tiến bộ hơn xuất hiện, làm cho xã hội phát triển lên một hình thái kinh tế – xã hội mới, cao hơn. + Trong xã hội có đối kháng giai cấp, QHSX cũ dù có lỗi thời lạc hậu đến bao nhiêu, nó cũng không tự mất đi. Vì nó được nhà nước của giai cấp thống trị duy trì, bảo vệ. Để giải quyết mâu thuẫn phải bằng đấu tranh giai cấp. + Không phải cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng được xem là động lực trực tiếp, mà chỉ có cuộc đấu tranh của những giai cấp nhằm thiết lập một QHSX mới, một PTSX cao hơn, ưu việt hơn mới được coi là động lực phát triển lịch sử. Ngày nay, chỉ có cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới là đòn bẩy vĩ đại của cách mạng xã hội hiện đại.

    Câu 31: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế – xã hội. Chứng minh sự lựa chọn con đường XHCN ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử của Đảng và nhân dân ta?

    1. Sự lựa chọn con đường XHCN ở Việt Nam là một tất yếu của lịch sử của Đảng và nhân dân ta: + Đó là sự lựa chọn do lịch sử quy định và được kiểm ngihệm bằng chính lịch sử (phân tích). + Đó là xu hướng khách quan của sự phát triển xã hội loại người, loài người đang chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ (phân tích). + Thời đại đang tạo ra những điều kiện và tiền đề vật chất chín muồi cho sự phủ định CNTB để chuyển sang CNCS (phân tích). + Đất nước ta có đầy đủ điều kiện bên trong và bên ngoài để thực hiện thắng lợi con đường cách mạng đã được lựa chọn (Phân tích thời cơ, vận hội và nguy cơ thử thách). + Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới hơn 10 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn (phân tích). 2. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam: Về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định: Ngày nay nhân dân ta hoàn toàn có đủ khả năng xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta với những hình thức, bước đi, cách làm thích hợp. Đảng ta đã xây dựng được cương lĩnh cách mạng và định ra đường lối đổi mới đúng đắn, hình thành được những nét chủ yếu quan niệm về xã hội XHCN và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Đây là điều kiện sống còn của cách mạng. (Tham khảo thêm: Trình bày 5 đặc trưng về CNXH mà ta xây dựng, báo cáo chính trị Đại hội VII và những phương hướng và biện pháp xây dựng CNXH) * Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay là con đường quá độ, không qua giai đoạn phát triển chế độ TBCN, thực hiện những khâu trung gian, những bước quá độ nhằm rút ngắn sự phát triển lịch sử (đi tắt đón đầu), thực hiện kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tiến hành CNH-HĐH nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 3. Ý nghĩa: + Thấy được sự nghiệp cách mạng XHCN Việt Nam vĩ đại nhất định thắng lợi, củng cố niềm tin, ý chí quyết tâm. Đồng thời thấy được tính chất phức tạp, khó khăn của quá trình cách mạng. Phân tích được các nguy cơ, thử thách để có lập trường kiên định vững vàng. + Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong sự nghiệp đổi mới, vai trò trách nhiệm của người cán bộ KHKT quân sự trong sự nghiệp CNH-HĐH.

    Câu 32: Vì sao trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, đấu tranh giai cấp là tất yếu. Quan điểm của Đảng ta về nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay? * Vì sao trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, đấu tranh giai cấp là tất yếu.

    - GC thống trị bị lật đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn vẫn còn âm mưu lật đổ chính quyền CM để khôi phục địa vị thống trị của chúng. - Trong một thời gian dài sau khi GCVS giành được chính quyền những cơ sở nảy sinh GC bóc lột và sự phân chia GC nói chung vẫn tồn tại là chế độ tử hữu, nền sản xuất nhỏ hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB. - Cuộc CM XHCN là cuộc CM triệt để quyết liệt sấu sắc trên tất cả các mặt từ CSHT đến KTTT dẫn đến sự phản kháng của GC TS vô cùng quyết liệt cho nên ĐTGC để bảo vệ thành quả. - Thắng lợi của GCVS không cùng thắng lợi một lúc trên toàn TG mà chỉ thắng lợi trên một nước một quốc gia một dân tộc hoặc một số nước trong khi đó CNĐQ vẫn còn mạnh đã tìm mọi cách để phá hoạt nhằm xóa bỏ những thành quả CM. TTLS đã chứng minh cuộc ĐTGC gay go quyết liệt ở LX, TQ, VN.. * Trình bày quan điểm của Đảng ta về ĐTGC ở Việt Nam được trình bày trong văn kiện đại hội đảng lần thứ IX. + ĐTGC là không thể tránh khỏi trước hết là cuộc ĐT giữa một bên là QCND, các lực lượng XH đi theo con đường XHCN vì mục tiêu dân giàu nước mạnh XH công bằng văn minh, và một bên là thế lực, tổ chức phần tử chống độc lập dân tộc và CNXH chống lại nhà nước phá hoại Đảng, gây rối trật tự XH. + ĐTGC còn được thể hiện đó là cuộc ĐT giữa hai con đường CNXH và TBCN đây là cuộc ĐT giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước theo hướng TBCN với những nhân tố thúc đẩy đất nước theo định hướng XHCN. + Nội dung chủ yếu của ĐTGC trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH_HĐH đất nước khắc phục nước nghèo, thực hiện công bằng XH chống áp bức bất công, ĐT với những tư tưởng và hành động tiêu cực, ĐT làm thất bại các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh hạnh phúc.

    Câu 33: Vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, giải quyết một cách khoa học mối quan hệ giai cấp - dân tộc và giai cấp - nhân loại.

    * Sự thống nhất giữa vấn đề giai cấp, dân tộc và giai cấp, nhân loại là một thuộc tính bên trong vốn có của CN Mác-Lê Nin cũng như tư tưởng HCM, tuy nhiên sự thống nhất được xem xét và giải quyết với những nội dung và mức độ khác nhau trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra trong từng thời kỳ lịch sử.

    * ĐTGC ở Việt Nam hiện nay là ĐTGC trong thời kỳ quá độ nó phù hợp với tính tất yếu phải ĐTGC theo quan điểm của CNMLN. Tuy nhiên nó có đặc thù riêng đó là đặc điểm ĐTGC có nhiều thay đổi do kết cấu vai trò của GC đã có sự thay đổi, kinh tế phát triển chậm từ một nền sản xuất nhỏ đie lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tình hình thế giới và trong nước hết sức phức tạp đòi hỏi hình thức đấu tranh phải hết sức phong phú nhằm giữ vững ổn định bên trong và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thù địch của các thế lực bên ngoài.


    Câu 34: Trình bày quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người. Quan điểm của Đảng ta về phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới?

    1. Quan điểm của triết học Mác về bản chất con người: Có nhiều khoa học khác nhau nghiên cứu về con người như: Y học, sinh vật học, tâm lý học, nhân chủng học, xã hội học, triết học.. và mỗi khoa học tiếp cận con người theo cách riêng của mình. Song tựu chung lại, trong khi các khoa học chuyên nghành nhận thức con người bằng cách chia hệ thống thành yếu tố, thì ngược lại triết học nghiên cứu con người được hình thành trên cơ sở tổng hợp các yếu tố thành hệ thống, nghĩa là những vấn đề triết học về con người được hình thành trên cơ sở tổng kết những thành tựu đạt được bởi các khoa học cụ thể trong lĩnh vực nghiên cứu con người. Chính vì vậy, chúng ta sẽ không thể hiểu được bản chất con người nếu không dựa vào tri thức của các khoa học chuyên nghành (tâm lý học, xã hội học, sinh vật học và khoa học nhân văn). * Các quan điểm trước Mác về bản chẩt con người: + Các nhà triết học cổ đại: Coi con người là một vũ trụ thu nhỏ. Đường đời của mỗi con người được gọi là số phận và số phận bị quy định bởi ý chí của tạo hóa + Các nhà tôn giáo: Con người được coi như một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác. Trong đó thể xác là cái nhất hời, tinh thần là cái vĩnh cửu. + Hê-ghen (Đức) : Hê-ghen đã có công lao trong việc nghiên cứu con người ở chỗ, ông là người đầu tiên đặt vấn đề xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần của con người. Theo ông, con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là bước cuối cùng của cuộc diễu hành của ý niệm tuyệt đối trên trái đất. Hê-ghen phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân mà phù hợp với quy luật đó là: Trong sự phát triển của cá nhân cần thiết và tất yếu phải lặp lại hìnhg thức rút ngắn và cô đọng, nhưng trình độ cơ bản mà đới sống xã hội đã phải trải qua. Hê-ghen đã nghiên cứu bản chất quá trình của tư duy và khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó, trình bày nó trong hình thức hệ thống. Hêghen có hạn chế là đã giải thích một cách duy tâm về con người. + Phơ-bách: Cho rằng vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, vì chỉ có con người mới biết tư duy. Sai lầm của Phơ-bách ở chỗ, ông tuyệt đối hóa các mặt sinh học của con người, chia cắt con người khỏi các quan hệ xã hội hiịen thực (ông cho rằng con người chỉ là tác phẩm của thế giới tự nhiên). * Quan điểm của triết học về bản chất con người: Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà triết học tiền bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế giới quan của CNDVBC, Mác khẳng định: "Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội". Quan niệm hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong bản chất con người là: Mặt sinh học và mặt xã hội.

    + Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không phải chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình phát triển của nó. + Con người hòa hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của thế giới vật chất. + Con người có tính xã hội: Trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người mang tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. + Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động, giao tiếp trong đời sống xã hội. 2. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới: + Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử: Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra các công cụ lao động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người. Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải biến thế giới, bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất, cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển của lịch sử, con người trở thành chủ thể của lịch sử. Bởi vì con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử. + Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người làm nên. Để phát huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau: Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay nghề. Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích của cả cộng đồng. Đảng ta khẳng định: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất với lợi íchtinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lực con người là cơ bản nhất của sự nghiệp CNH-HĐH. (coi con người là trung tâm của sự phát triển xã hội).


    Câu 35: Đồng chí hãy trình bày và phân tích quan điểm của Đảng ta: "Văn hóa là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội". Rút ra ý nghĩa của vấn đề này?

    1. Khái niệm văn hóa: Nói về văn hóa là một phạm trù rất rộng, có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành nghiên cứu về văn hóa, mỗi nghành khoa học lại tiếp cận vấn đề văn hóa ở những khía cạnh khác nhau. Vì vậy, cũng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Nhưng theo quan điểm của CNDVBC thì:

    "Văn hóa là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của loài người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác". Hình thức khởi đầu và nguồn gốc đầu tiên làm hình thành và phát triển của văn hóa là lao động của con người, phương thức thực hiện lao động và kết quả của lao động. Văn hóa được chia thành hai lĩnh vực cơ bản là: Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, ranh giới giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính tương đối. Văn hóa có tính khách quan, là tổng hòa những giá tị vật chất và tinh thần của loài người. Tuy rằng nó xuất hiện với tính cách chủ quan các nhân và cụ thể lịch sử, nhưng theo dòng lịch sử, những thành tựu đó tựa hồ như siêu thời gian, tạo ra truyền thống và không phụ thuộc vào cá nhân riêng rẽ, không với tư cách là cá nhân, mà với tư cách là một thực thể được phát triển về mặt xã hội. Văn hóa có các chức năng: Giáo dục, nhận thức, định hướng, định giá, xác định chuẩn mực của hành vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song cốt lõi trong các chức năng của những giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị (giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Đồng thời, văn hóa cũng có tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp thì văn hóa tinh thần cũng mang tính giai cấp, nó phục vụ cho một giai cấp nhất định. Tính giai cấp thể hiện ở chỗ văn hóa do ai sáng tạo ra, phản ánh và phục vụ cho lợi ích giai cấp nào, những cơ sở vật chất của văn hóa do ai làm chủ. Tính giai cấp của văn hóa còn thể hiện ở chức năng của văn hóa. 2. Quan điểm của Đảng ta là xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Đặc trưng của nền văn hóa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là: + Có đời sống tinh thần cao đẹp + Nâng cao trình độ dân trí + Phát triển khoa học công nghệ phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.


    Link sách giáo trình Triết học Mac Lenin: GIAO TRINH TRIET HOC. Doc

    Câu 1: Cái chung có bao giờ tách rời khỏi cái riêng không? Vì sao? Cho một ví dụ để minh họa.

    Cái chung không bao giờ tách khỏi cái riêng, vì:

    - Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:

    +Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.


    Ví dụ: Không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào.. nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng hóa, dị hóa để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm "cây". Đó là cái chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.

    +Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.

    Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.

    Một ví dụ khác, nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc điểm phong phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung - cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đó là cái chung.

    Như vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.

    +Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.

    Ví dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn, v. V, còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.

    Cái chung sâu sắc hơn cái riêng và cái chung phản ánh những thuộc tính những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với các bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.

    Câu 2: Nguồn gốc nào của ý thức nói lên: Một hiện tượng mang bản chất xã hội? Vì sao? Cho ví dụ minh họa. (tr87, sách giáo trình Triết học MacLenin)

    Nguồn gốc xã hội của ý thức nói lên một hiện tượng mang bản chất xã hội thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.

    Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình, là một quá trình trong đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động, con người tách ra khỏi giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, còn con người thì nhờ lao động mà bắt giới tự nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó, bắt nó phục tùng những nhu cầu của mình. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.

    Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động, mà đó là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định, và các hiện tượng ấy tác động vào bộ óc người, hình thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội. Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó. Ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới xung quanh. Vì thế có thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng, hoặc nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động của con người.

    Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang tính tập thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư tưởng cho nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.

    Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.

    Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là một hiện tượng xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.

    Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.


    Câu 3: Trong các bộ phận kiến trúc thượng tầng, bộ phận nào tác động lớn nhất tới cơ sở hạ tầng? Vì sao? Cho ví dụ minh họa?

    - Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì nhà là bộ phận có tác động lớn nhất tới cơ sở hạ tầng. Vì đó trong một xã hội có giai cấp thì nhà nước là bộ máy bạo lực, tập trung quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế. Nhà nước sử dụng sức mạnh của bạo lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị và củng cố vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Với ý nghĩa đó Ph. Ăngghen khẳng định "Bạo lực cũng là một sức mạnh kinh tế". Và chỉ rõ, tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế theo hai chiều hướng cơ bản, nếu tác động cùng hướng với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn; nếu tác động ngược lại hướng phát triển kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế; và nó có thể ngăn cản một vài hướng phát triển nào đó của nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển đó theo những hướng khác.

    - Ví dụ: Nhà nước phong kiến triều nhà nguyễn đơi vua Minh Mạng, ông đã thực hiện chính sách đối ngoại là bế quan tỏa cảng, khước từ mọi giao lưu phương tây, cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, khiến kinh tế trì trệ, chậm phát triển, nước Đại Nam dần tụt hậu do không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học kĩ thuật. Từ đó nhà nước dần suy vong.


    Câu 4: Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa vận động và phát triển? Cho ví dụ phát triển từ đơn giản đến phức tạp.

    - Giống nhau: Đều là sự biến đổi của sự vật, hiện tượng

    - Khác nhau:

    +vận động:

    - Là mọi sự biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng: Lên hay xuống, tiến bộ hay lạc hậu

    - Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vận động là phương thức tồn tại của vật chất, bất cứ ở đâu và bất cứ lức nào cũng khong có và không thể

    Có dạng vật chất nào tồn tại mà không vận động. Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động và không có vật chất không động.

    - Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện qua vận động.

    +phát triển

    - Là quá trình vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ đơn giản đến phức tạp

    - Phát triển chỉ là khuynh hướng tất yếu của vận động, nó chỉ khái quát những vận động đi lên

    - Phép biện chứng duy vật khẳng định, phát triển là quá trình diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.

    - Phát triển mang tính khách quan, nó là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.

    - Ví dụ: + một cây hoa nhỏ sẽ tổng hợp các chất của môi trường để trao đổi chất nuôi cây lớn lên, ra nụ, nở hoa. Ở đây cây hoa vận động là sẽ tự hấp thụ các chất, trao đổi chất và lớn lên còn phát triển là từ cây nhỏ sẽ lớn lên, ra nụ, nở hoa.

    +từ dùng đồ đá đến dùng đồ sắt, đồng

    + quá trình tiến lên xã hội chủ nghĩa của nước ta.


    Câu 5: Hiểu thế nào: Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan? Cho ví dụ để minh họa.

    - Ý thức là hình cảnh chủ quan của thế giới khách quan vì ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn.

    Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con người và được cải biến ở trong đó. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử-xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Cùng một đối tượng phản ánh nhưng với các chủ thể khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau.. thì kết quả phản ánh đối tượng trong ý thức cũng khác nhau. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ tính chất biện chứng phức tạp của quá trình phản ánh "Trên thực tế, bất kì phản ánh nào của hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi đặc điểm về thể chất và tinh thần của tác giả". Trong ý thức của chủ thể, sự phù hợp giữa tri thức và khách thể chỉ là tương đối, biểu tượng vầ thế giới khách quan có thể đúng đắn hoặc sai lầm, và cho dù phản ánh chính xác đến đâu thì đó cũng chỉ là sự phán đoán gần đúng, có xu hướng tiến dần đến khách thể.

    - Ví dụ: Trong chuyện "thầy bói xem voi", người sờ vòi thì chỉ nhận thức được về cái vòi, người sờ tai chỉ nhận thức về cái tai.. vì họ mù nên không nhìn thấy và không nhận thức được tất cả các bộ phận nên đã hình dung hình dáng con voi lệch lạc theo chủ quan của mỗi người.


    Câu 6: Những cơ sở nào để khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội? Cho ví dụ minh họa.

    Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.

    Ý thức xã hội là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình. Hya nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế- xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.

    Tồn tại xã hội quyết định đến sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội, tồn tại xã hội có trước rồi ý thức xã hội có sau. Tồn tại xã hội phát triển theo chiều hướng như thế nào thì ý thức xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng như thế.

    Một trong những công lao to lớn của C. Mác và Ph. Ăngghen là đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất: Rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con nguời mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được chính xác đến nguyên nhân cuối cùng của nó nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Theo C. Mác: ".. không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội".

    Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của cả thời đại đó. Ví dụ, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất còn yếu kém, hoạt động lao động được diễn ra đồng nhất và của cải đều được chia đều cho mọi người. Tuy nhiên khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ dần xuất hiện, xã hội đã bắt đầu có sự phân chia giàu nghèo.

    Từ đây mà mầm mống của sự bóc lột bắt đầu hình thành, kéo theo sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xóa bỏ, được thay thế hoàn toàn bởi hệ tư tưởng tư sản.

    Những luận điểm của C. Mác đã bác bỏ hoàn toàn những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm trước đó là muốn đi tìm ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xác định tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của xã hội, quyết định ý thức xã hội, chính là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, ý thức xã hội.

    Ngoài ra, giữa hình thái ý thức xã hội và tồn tại xã hội vẫn luôn có sự tác động quan lại lẫn nhau. Cụ thể trong mỗi thời đại tùy vào từng hoàn cảnh lịch sử, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý thức xã hội không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã hội, ngoài ra còn chịu sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những tính chất và những mặt không thể giải thích trực tiếp bằng các quan hệ vật chất.


    Câu 7: Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện như thế nào? Vì sao? Cho ví dụ minh họa.

    Vai trò của vật chất đối với ý thức

    Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:

    Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: Vật chất có trước, ý thức có sau.

    Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.

    Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

    VÍ DỤ: Trong ĐỜI SỐNG XÃ HỘI có câu: Thực túc, binh cường, có thực mới vực được đạo.

    + Vật chất Quết định nguồn gốc ý thức: Nghĩa là não người là dạng vật chất cao có tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức.

    Tóm lại: Quan hệ VẬT CHẤT và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua lại, trong đó VẬT CHẤT quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thực tiễn thông qua hoạt động nhận thức của con người.


    Câu 8: Nguồn gốc của sự vận động, phát triển là gì? Vì sao? Cho ví dụ minh họa. (nguyệt)

    Nguồn gốc cảu vân động và phát triển là mâu thuẫn

    *Vì:

    - Mỗi mâu thuẫn đều bao hàm sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.

    - Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật hiện tượng không thể giữ nguyên trạng thái cũ.

    - Khi mâu thuẫn được giải quyết, kết quả là sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, lại xuất hiện các Mâu thuẫn mới..

    → Như vậy, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.

    - Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập không phải bằng con đường điều hòa mâu thuẫn.

    * Ý nghĩa:

    - Giải quyết mâu thuẫn là nguồn gôc, động lực của vận động, phát triển của sự vật hiện tượng, nên cần phải biết phát hiện ra mâu thuẫn, tìm cách tác động, có như vậy mâu thuẫn mới được giải quyết, sự vật cũ mới mất đi, sự vật mới mới ra đời.

    * Ví dụ:

    Đồng hóa >< Dị hóa → sinh vật phát triển.

    - Vô sản >< Tư sản → CMXHCN.

    - Ý thức tốt >< ý thức chưa tốt → tiến bộ.

    - Chăm học >< lười học → học tốt.


    Câu 9: Giữa lượng và chất yếu tố nào thường xuyên biến đổi? Vì sao?

    Chất tương đối ổn định, còn lượng thường xuyên thay đổi. Vì:

    - Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên tục. Tùy vào sự vật, hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó diễn ra sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.

    - Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ . Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố.. của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận.. của chúng. Sự phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng.

    - Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần . Bước nhảy tức thời làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả các bộ phận của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.

    Ví dụ: Trong năm học bạn không ngừng tích lũy kiến thức, đó gọi là lượng. Trong khi đó bạn vẫn là học sinh lớp 10, tức là chất chưa đổi chỉ có lượng đổi. Lượng tích lũy đến khi thi cuối năm (điểm nút) bạn lên lớp 11 thì chất đã thay đổi.


    Câu 10: Bộ phận nào quan trọng trong lực lượng sản xuất? Vì sao?

    Con người. Vì:

    - Trong quá trình sản xuất cần có công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao.

    - Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là một yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất.

    - Khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hóa được tự động hóa thì vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất.

    - Trình độ phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người.


    Câu 11: Vật chất tồn tại khách quan hay chủ quan? Vì sao?

    Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác

    Vật chất theo định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin là cái có trước, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và là cái quyết định ý thức


    Vật chất tồn tại khách quan vì:

    Trước hết là phân biệt vật chất với phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng cũng như các dạng vật chất khác nha. Vật chất là tư cách phạm trù triết học dùng để chỉ sự vật nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra và không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khao học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy không thể quy vật chất chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với dạng cụ thể của vật chất duy vật như các nhà duy vật lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.

    Thứ hai, trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là cái tồn tại độc lập với loài người và cảm giác với con người. Trong đời sống xã hội vật chất theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người . Về mặt nhận thức kuận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".

    Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:

    - Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa.

    - Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan của con người.

    - Cảm giác, tue duy, ý thức là sự phản snh của vật chất

    Nên vật chất hoàn toàn tồn tại khách quan

    Khi xét một hiện tượng nào đó xem có phải vật chất hay không, cần phải xem xét nó có tồn tại và độc lập bên ngoài hay không, chứ không thể xét riêng nó với ý thức cá nhân nào đó.

    Phương thức tồn tại của vật chất là vận động.

    Hình thức tồn tại của vật chất là: Không gian và thời gian


    Ý nghĩa:

    Sự ra đời khái niệm về vật chất đặt nền tảng về nhận thức và phương pháp cho một thế giới quan khoa học, hiện đại; giúp lý giải mọi vận động và biến đổi của dạng vật chất trong xã hội và những hoạt động thực tiễn của con người của con người.

    Câu 12: Những cơ sở nào để khẳng định ý thức xã hội có khả năng vượt trước tồn tại xã hội? Cho ví dụ minh họa.

    Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác - Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự bảo đúng tồn tại xã hội mai sau.

    - Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế.

    - Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.


    Câu 13: Vì sao phải tạo điều kiện để cái đơn chất chuyển về cái chung và từ cái chung chuyển về cái đơn chất? Cho ví dụ đề minh họa quá trình đó.

    • cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những đk xác định Sở dĩ như vậy là vì trong hiện thực cái mới bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau nữa, khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
    • Ví dụ, một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến - khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung..

    Câu 14: Mâu thuẫn biểu hiện trong xã hôi như thế nào? Cách giải quyết?

    Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong lôgic hình thức . Mâu thuẫn trong lôgic hình thức là sai lầm trong tư duy.

    Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng sự mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt cựu sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng sự mâu thuẫn.. sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là cái khác. Như vậy sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã nhận thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn, chăng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người và sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng lực nhận thức, - mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn cũng là vô tận- và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận

    Ví dụ: Trong hoạt động bài tiết thì con người có hai hoạt động đối lập nhau: Hoạt động ăn, hoạt động bài tiết. Mặc dù chúng đối lập nhau nhưng lại không thể tách rời nhau và phụ thuộc vào nhau, từ đó cho thất hai hoạt động này có sự thống nhất với nhau.

    - Cách giải quyết:

    Các mâu thuẫn và xung đột xã hội đều có nguyên nhân gốc rễ, do đó các mâu thuẫn và xung đột xã hội chỉ có thể được giải quyết triệt để khi xử lý được vấn đề gốc rễ của nó. Điều này đòi hỏi phải có cách tiếp cận, phương pháp và bộ công cụ giải quyết phù hợp với từng loại mâu thuẫn và xung đột xã hội cụ thể;

    - Cần xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức được thực hành rộng rãi và quy phạm pháp lý chặt chẽ được tôn trọng, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước trong xây dựng và thực thi những nguyên tắc đạo đức và pháp luật.

    - Yếu tố con người. Cần thực thi đạo đức công vụ, văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế và đảm bảo thượng tôn luật pháp. Xây dựng đạo đức và pháp luật trong sự thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc.

    - Thực hiện đúng nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội trong giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội.

    - Cần xây dựng hệ thống kiểm soát quyền lực và phát hiện xung đột lợi ích hiệu quả, tránh chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tập thể. Quy định trách nhiệm cá nhân khi xử lý các mâu thẫn và xung đột xã hội.

    - Không hình sự hóa quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự.

    - Cần làm tốt công tác dự báo nguy cơ xuất hiện xung đột xã hội để sớm hóa giải những mầm mống gây xung đột xã hội


    Câu 15: Thế nào là nội dung và hình thức phù hợp với nhau? Cho ví dụ trong tục ngữ ca dao để minh họa.

    Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng.

    Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật và hiện tượng ấy; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.

    Nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng tồn tại thống nhất chặt chẽ trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, nhưng nội dung giữ vai trò quyết định. Hình thức xuất hiện trong sự quy định của nội dung và sau khi xuất hiện, hình thức tồn tại tương đối độc lập và có ảnh hưởng tới nội dung, gây ra các hệ quả nhất định. -Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó là động cơ thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không phù hợp, hình thức cản trở sự phát triển của nội dung.

    Cùng một nội dung, trong quá trình phát triển, có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể biểu hiện cho một số nội dung khác nhau. Sự vật, hiện tượng phát triển thông qua sự đổi mới không ngừng của nội dung và sự thay đổi theo chu kỳ của hình thức.

    Lúc đầu, sự biến đổi diễn ra trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hình thức, nhưng khi sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra tới giới hạn nhất định, nội dung mới xuất hiện thì hình thức ban đầu trở nên chật hẹp, kìm hãm sự phát triển của nội dung. Nôi dung mới phá bỏ hình thức cũ và trong vỏ bao bọc của hình thức mới đó, thì nội dung mới sẽ tiếp tục phát triển.

    Ví dụ minh họa:


    Câu 16: Trong xã hội khi diễn ra mâu thuẫn đối kháng, cách thức giải quyết mâu thuẫn như thế nào? Vì sao?

    Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội.. có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị..

    Phương pháp giải quyết mâu thuẫn: Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng.

    Vì xu hướng phát triển cơ bản của mâu thuẫn đối kháng là ngày càng trở nên gay gắt, trở nên xung đột kịch liệt và cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập ấy làm một mất một còn; cơ sở của những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội là lợi ích không thể điều hòa được của các lực lượng, của các giai cấp hay tập đoàn thù địch của nhau. Thường thường chỉ có thể thanh toán mâu thuẫn như thế bằng bạo lực, nghĩa là bằng một cuộc đấu tranh giai cấp có tính chất cách mạng và bằng sự thắng lợi của giai cấp này với giai cấp khác hay bằng cuộc chiến tranh, vv.. Cho nên theo quy luật chung là phải dùng bạo lực cách mạng bằng những cuộc cách mạng xã hội để lật đổ giai cấp thống trị bóc lột.

    Ví như mâu thuẫn của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nghĩa là giữa những giai cấp có lợi ích đối lập nhau về căn bản, chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giải quyết được. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì thì "tình trạng đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản vẫn còn là một cuộc đấu tranh giữa giai cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh ấy, đến giai đoạn cao nhất của nó, sẽ trở thành một cuộc cách mạng toàn diện". (Mác: Sự thống cùng của triết học, bản tiếng Pháp, Pa-ri, 1947, trang 135).


    Câu 17: Tại sao kiến trúc thượng tầng lại ra sức bảo vệ lấy cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó? Cho ví dụ minh họa.

    -Vì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, đó là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

    +Cơ sở hạ tầng là cơ sở sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng: Kiến trúc thượng tầng không thể khởi phát từ đâu ngoài cơ sở hạ tầng của nó. Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế ấy.

    +Nếu cơ sở hạ tầng có sự thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.

    · Quá trình thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

    · Như C. Mác đã viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".

    - Ví dụ:

    + Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:

    · Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân dân là người làm chủ xã hội.

    · Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng.. không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân.


    Câu 18: Vì sao nói mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học.

    Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, hay còn gọi là quan hệ giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học. Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Quan hệ giữa vật chất và ý thức, giới tự nhiên và tinh thần, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại của triết học.

    Quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề mà mọi nhà triết học, mọi học thuyết triết học ở mọi thời kỳ lịch sử đều phải giải quyết dù trực tiếp hay gián tiếp. Các khía cạnh khác nhau của thế giới vật chất hoặc ý thức sẽ do nhiều khoa học cụ thể giải quyết. Song, vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức là do triết học nghiên cứu. Do vậy, nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức quyết định sự tồn tại, phát triển của triết học.

    Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề cơ bản triết học quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của các triết gia, xác định bản chất của các trường phái và các hệ thống triết học. Những nhà triết học nào cho vật chất có trước, quyết định ý thức được gọi là các nhà duy vật; ngược lại, những nhà triết học nào cho rằng ý thức có trước, quyết định vật chất được gọi là các nhà duy tâm.

    Giải quyết vấn đề này là cơ sở, điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học, đồng thời quyết định cách xem xét các vấn đề khác trong đời sống xã hội. Giải quyết vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để giải quyết các vấn đề khác trong triết học như: Quan hệ giữa khách quan và chủ quan, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa quy luật khách quan và hoạt động có ý thức của con người, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng..

    Nhận thức đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học cho ta cơ sở khoa học trong nhận thức lịch sử tư tưởng triết học, phân biệt triết học với các khóa học cụ thể, giải quyết đúng đắn các vấn đề đặt ra của triết học và cuộc sống.


    Câu 19: Có những sự vật trên thế giới chỉ xuất hiện kết quả mà không có nguyên nhân. Đúng hay sai?

    Sai.

    Nguyên nhân: là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định.

    Kết quả : là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng. Kết quả là sự biến đổi so nguyên nhân gây ra.

    - Tính chất và mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả: Tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu.


    Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân – kết quả

    - Mối quan hệ nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, bao hàm tính tất yếu: Không có nguyên nhân nào không dẫn tới một kết quả nhất định và ngược lại không có kết quả nào không có nguyên nhân.

    - Nguyên nhân sinh ra kết quả do vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả xuất hiện sau nguyên nhân.

    - Một nguyên nhân sinh ra không chỉ sinh ra một kết quả, mà sinh ra nhiều kết quả. Một kết quả thường không phải do một nguyên nhân gây ra mà do nhiều nguyên nhân gây ra. Người ta phân chia ra các lâọi nguyên nhân

    + Nguyên bên trong và nguyên nhân bên ngoài

    + Nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp

    + Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản

    + Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu

    + Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan

    - Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau, cái ở đây hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì ở chổ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả, và ngược lại.

    - Kết quả tácđộng trở lại nguyên nhân theo hai hướng:

    + Thúc đẩy nguyên nhân

    + Kìm hãm nguyên nhân


    Ý nghĩa phương pháp luận

    - Một kết quả do nhiều nguyên nhân sinh ra vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại nguyên nhân, chiều hướng tác động của các nguyên nhân, để từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân tích cực và hạn chế sự hoạt động của các nguyên nhân có tác động tiêu cực.

    - Kết quả có tác động và cải tạo nguyên nhân vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng nhằm đạt mục đích.
     
    Last edited by a moderator: 14 Tháng năm 2022
  3. annryhouse

    Bài viết:
    22
    Nhận định đúng sai môn Triết học Mác - Lênin (đề mở)

    Phần 3: Câu 20-hết


    Câu 20: Vì sao nói ý thức xã hội lạc hậu hơn tồn tại xã hội? Cho ví dụ.

    Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.

    Ý thức xã hội là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình. Hya nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế- xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.

    - Những nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội:

    § Do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội.

    § Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả tính bảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ mất hoàn toàn đi.

    § Ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của tập đoàn người, của các giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám chặt vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền lợi của họ, để chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.

    Vì vậy, muốn xây dựng xã hội mới thì nhất định phải từng bước xóa bỏ những tàn dư, những tư tưởng và ý thức xã hội cũ song song với việc bồi đắp, xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới.

    - Ví dụ: Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng..


    Câu 21: Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan? Lấy ví dụ.

    - Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

    Triết học duy tâm quan niệm: Ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy nhất từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.

    Còn đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng thì quan niệm ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người không qua thực tiễn.

    - Giải thích:

    § Ý thức là hình ảnh chủ quan – vì nó không có tính vật chất, không có tính hiện thực khách quan, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn. Ý thức cũng tồn tại nhưng chỉ tồn tại trong bộ óc của con người.

    § Ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện, nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến qua lăng kính chủ quan (tình cảm, nguyện vọng, sở thích, tri thức, kinh nghiệm)

    § Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan cũng có nghĩa là ý thức phản ánh sự tự giác, sáng tạo thế giới.

    - Ví dụ: Trong chuyện thầy bói xem voi người sờ vào cái vòi thì chỉ nhận thức được cái vòi, người sờ vào cái tai thì có nhận thức về cái tai.. vì họ mù nên không nhìn thấy và không nhận thức được tất cả các bộ phận đó mới cấu thành 1 con voi dẫn đến ý thức về con voi bị lệch theo chủ quan của mỗi người.


    Câu 22: Hiểu thế nào về tính vượt trước của ý thức xã hôi.

    Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.

    Ý thức xã hội là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình. Hay nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế- xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.

    Triết học Mac- Lênin thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế là nhiều tư tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do nó phản ánh đúng được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận.

    Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học mác-xít đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiếnn có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.

    Ví dụ: Dự báo tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đang được thực tiễn của cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số


    Câu 23: Phân tích thể hiện tính năng động, sáng tạo của ý thức?

    => Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý - ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.

    Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:

    Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.

    Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây là quá trình "sáng tạo lại" hiện thực của ý thức theo nghĩa: Mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.

    Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.

    Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức. Ý thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.


    Câu 24: Phương pháp luận giữa vật chất và ý thức?

    Cách 1:

    Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phuơng pháp luận cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, đó là:

    Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Nguyên tắc này yêu cầu, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và hiệu quả khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan với phát huy tính năng động chủ quan; phát huy tính năng động chủ quan phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực tiễn.

    Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan.

    Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạocủa ý thức và phát huy vai trò của nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy.

    Cách 2:

    => Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.

    Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V. I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.

    - Nếu ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn thì con người phải phát huy tính năng động chủ quan.

    Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí, phải có phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay.


    Câu 25: Ý nghĩa phương pháp luận mối liên hệ phổ biến? Sự phát triển.

    Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến:

    Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về phương pháp luận sau:

    - Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.

    Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.

    Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.

    Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.

    - Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể.

    Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.


    Ý nghĩa phương pháp luận về sự phát triển:

    Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.

    Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.

    Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

    Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.

    Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

    Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.


    Câu 26: Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng cái gì cảm giác được là ý thức

    Câu 27: Cơ sở phân biệt của chủ nghĩa duy vật và duy tâm

    Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triệt học đã chia các nhà trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật. Học thuyêt của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa đủy vật, giải thích mọi hiện tượng của thế giới này bằng các nguyên nhân vật chất – nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thê giới này là nguyên nhân vật chất. Ngược lại những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyêt của họ hợp thành các phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm, chủ trương giải thích toàn bộ thế giới này bằng các nguyên nhân tư tưởng, tin - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thê giới này là nguyên nhân tịnh thần.

    -Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thê hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

    +Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời Cô đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất v ật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và cấu trúc vật chất, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cô đại về cơ bản là đúng vì nó đã lầy bản thân giới tự nhiên đề giải thích thế giới, không viện đến Thân linh, Thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên.

    +Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVII và điên hình là ở thế kỷ thứ XVI, XVII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới - phương pháp nhìn thế giới như một cổ máy không lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản là ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong toàn cục nhưng chú nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ vào việc đây lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo, đặc biệt là ở thời kỳ chuyên tiếp từ đêm trường Trung cổ sang thời Phục hưng.

    +Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V. I. Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cô đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

    - Chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

    +Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người . Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.

    +Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi là bằng những cái tên khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới..


    Câu 28: Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức biểu hiện như thế nào? Vì sao.

    Vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.

    Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực tiễn để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khảng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người

    * Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định nguồn gốc, bản chất, nội dung sự biến đổi của ý thức.

    VÍ DỤ: Trong ĐỜI SỐNG XÃ HỘI có câu: Thực túc, binh cường, có thực mới vực được đạo.

    + Vật chất Quết định nguồn gốc ý thức: Nghĩa là não người là dạng vật chất cao có tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức.

    Ý thức phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

    + Vật chất quyết định bản chất, nội dung ý thức: Bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và thế giới vật chất được dịch chuyển vào óc người, được cải biến trong đó. Vì thế, vật chất quyết định cả bản chất và nội dung. Nội dung là phản ánh thế giới khách quan.

    + Vật chất quyết định Sự biến đổi ý thức: Ý thức là cái phản ánh, vật chất là cái được phản ánh khi cái được phản ánh biến đổi thì cái phản ánh cũng phải biến đổi theo.


    Câu 29: Hiểu tn "ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy"? Cho ví dụ?

    + Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ

    Thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không

    Thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C. Mác, nó chính là cái vỏ vật chất

    Của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ con người

    Không thể có ý thức.

    + Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa

    Là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn

    Ngữ mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại

    Những tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có

    Tính chất xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.

    Ví dụ: một đất nước khi có nhiều người không đi học cũng không biết sử dụng những câu từ ngôn ngữ phong phú mà chỉ đơn giản là sử dụng những câu từ hằng ngày thì việc người đó tư duy suy nghĩ sẽ thụt lùi dần so với xã hội, với sự tiến bộ của đất nước. Trong giao tiếp cũng vậy khi bạn muốn giao tiếp hay làm quen mà lại không biết nói một câu gì thì đó là một sự thậm tệ của tư duy
     
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng năm 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...