Bài viết: 250 



TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ (PHẦN 1)
2. Dịch giả
3. Thể ngâm khúc
3. Tác phẩm "Chinh phụ ngâm"
- Đầu đời Lê Hiển Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Triều đình cất quân đi đánh dẹp. Nhiều người phải ra trận.
- Cảm động trước nỗi khổ đau mất mát của con người vợ lính trong chiến tranh nên Đặng Trần Côn đã viết: "Chinh phụ ngâm".
Tác phẩm gồm 476 câu bằng chữ Hán theo thể trường đoản cú.
B) Giá trị
+ Nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
+ Thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu hạnh phúc lứa đôi.
+ Cảm thông với nỗi khổ của người chinh phụ.
+ Thể thơ: Trường đoản cú (nguyên tác), song thất lục bát (bản dịch).
+ Mang đậm tính tượng trưng ước lệ.
+ Tả cảnh ngụ tình.
+ Bản dịch đã đưa ngôn ngữ dân tộc lên tầm cao mới, phong phú, uyển chuyển.
C) Đoạn trích
C1) Xuất xứ: Trích "Chinh phụ ngâm" từ câu 193-216 (24 câu).
C2) Bố cục :3 phần
- Phần 1: Sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
- Phần 2: Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ.
- Phần 3: Niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
I. Sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ
"Dạo hiên vắng gieo thầm từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen".
Sự tù túng, bế tắc, nỗi lo lắng bồn chồn không yên và sự cô đơn ghê gớm đang bủa vây lòng người.
2. Người chinh phụ trông mong tin tức của chồng từ phương xa báo về:
"Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?"
3. Nhân vật trữ tình mang tâm trạng buồn phiền nhưng không biết bày tỏ cùng ai:
"Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi".
Lời than thở, nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng trong nhớ thương day dứt, không biết phải tâm sự cùng ai.
- Hình ảnh tượng trưng "ngọn đèn" :
+ "Ngọn đèn" trong đêm là nguồn sáng đối lập với bóng đêm bao trùm. Diễn tả thân phận nhỏ bé của nàng.
+ "Ngọn đèn" là đối tượng tâm sự trực tiếp của nàng. Gợi cảm giác cô đơn, lẻ loi.
4. Nhân vật trữ tình mang dáng vẻ sầu muộn và buồn bã vì ngày đêm thương nhớ chồng:
"Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương".
+ "Hoa đèn" là cái bấc đèn hết dầu cháy thành hoa.
+ Hình ảnh "hoa đèn" đi liền với cụm từ "bóng người khá thương" : So sánh bây giờ nàng khác nào hoa đèn kia.
TÌM HIỂU CHUNG
- Tác giả
- Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất), sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
- Ngoài tác phẩm chính là "Chinh phụ ngâm", ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán.
2. Dịch giả
- Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), hiệu là Hồng Hà nữ sĩ.
- Người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc, Hưng Yên.
- Nổi tiếng thông minh từ nhỏ.
- Tác giả của "Truyền kì tân phả".
- "Chinh phụ ngâm" được bà dịch ra bằng chữ Nôm thể thơ song thất lục bát.
3. Thể ngâm khúc
- Là thể loại thơ trữ tình trường thiên thuần túy Việt Nam viết bằng thể thơ song thất lục bát.
- Là sản phẩm kết hợp nhuần nhuyễn giữa thể thơ song thất lục bát với phương thức trữ tình dài hơi, gắn với số phận thăng trầm của một con người.
- Thường dùng tiểu đối, nhiều từ Hán Việt làm cho câu thơ tha thiết, trang trọng.
- Ngôn ngữ đánh dấu bước trưởng thành đến độ điêu luyện của tiếng Việt.
3. Tác phẩm "Chinh phụ ngâm"
A) Hoàn cảnh sáng tác
- Đầu đời Lê Hiển Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Triều đình cất quân đi đánh dẹp. Nhiều người phải ra trận.
- Cảm động trước nỗi khổ đau mất mát của con người vợ lính trong chiến tranh nên Đặng Trần Côn đã viết: "Chinh phụ ngâm".
Tác phẩm gồm 476 câu bằng chữ Hán theo thể trường đoản cú.
B) Giá trị
- Nội dung:
+ Nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
+ Thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu hạnh phúc lứa đôi.
+ Cảm thông với nỗi khổ của người chinh phụ.
- Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ: Trường đoản cú (nguyên tác), song thất lục bát (bản dịch).
+ Mang đậm tính tượng trưng ước lệ.
+ Tả cảnh ngụ tình.
+ Bản dịch đã đưa ngôn ngữ dân tộc lên tầm cao mới, phong phú, uyển chuyển.
C) Đoạn trích
C1) Xuất xứ: Trích "Chinh phụ ngâm" từ câu 193-216 (24 câu).
C2) Bố cục :3 phần
- Phần 1: Sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
- Phần 2: Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ.
- Phần 3: Niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
I. Sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ
- Người chinh phụ cảm thấy cô đơn trước khung cảnh hoang vắng:
"Dạo hiên vắng gieo thầm từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen".
- Hình ảnh "hiên vắng" : Khoảng hiên nhà vắng ngắt, lạnh lẽo.
- Hình ảnh "rèm thưa" : Vật trang trí chốn khuê phòng của chinh phụ.
- Không gian vắng vẻ, đìu hiu gợi nỗi buồn da diết, thê lương.
- Hành động lặp đi lặp lại:
- Động từ "dạo" : Đi lại quanh quẩn trong nhà.
- Cụm từ "thầm gieo tường bước" : Lặng thầm bước từng bước chân mỏi mệt, buồn phiền.
- Mỗi bước đi nặng nề diễn tả nỗi nhớ, nỗi đau và thân phận buồn lẻ loi của người chinh phụ.
- Động từ "ngồi" : Thể hiện sự trông chờ, ngóng đợi.
- Cụm từ "rủ thác đòi phen" : Hành động buông xuống rồi lại kéo rèm lên.
- Phép đối và bút pháp tả cảnh ngụ tình trong hai câu thơ tạo sự tha thiết và trang trọng, thể hiện tâm trạng của chinh phụ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng.
- Người chinh phụ ngồi trông đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu.
- Những hành động lặp đi lặp lại vô nghĩa, không mục đích.
Sự tù túng, bế tắc, nỗi lo lắng bồn chồn không yên và sự cô đơn ghê gớm đang bủa vây lòng người.
2. Người chinh phụ trông mong tin tức của chồng từ phương xa báo về:
"Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?"
- Hình ảnh tượng trưng "thước" : Là con chim khách được coi là báo tin lành - có khách đến, người đi xa về.
- Cụm từ ".. chẳng mách tin" : Thiếp ngày đêm mong ngóng nhưng chàng vẫn bặt vô âm tín.
- Tâm trạng rối bời, lo âu không biết chồng mình nơi xa có được bình an.
- Cụm từ "trong rèm" chính là khoảng không gian chật hẹp, tù túng, trói buộc cuộc sống và tâm hồn của người chinh phụ.
- Câu hỏi tu từ ".. dường đã có đèn biết chăng?" : Thể hiện nỗi cô đơn khắc khoải, lạnh vắng của người chinh phụ khi thiếu vắng người chồng.
- Một mình đối diện với ánh đèn, với bóng mình, với một người bạn vô tri vô giác.
- Phép đối và phép nhân hóa thể hiện tâm trạng mong đợi, lo âu cho chồng nhưng chẳng có chút tin tức gì của người chinh phụ, muốn bộc bạch nỗi lòng nhưng chỉ có đèn làm bạn.
3. Nhân vật trữ tình mang tâm trạng buồn phiền nhưng không biết bày tỏ cùng ai:
"Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi".
- Điệp ngữ bắc cầu: "Đèn biết chăng - đèn có biết" là một biện pháp nghệ thuật phổ biến trong đoạn trích và trong toàn bộ khúc ngâm.
Lời than thở, nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng trong nhớ thương day dứt, không biết phải tâm sự cùng ai.
- Hình ảnh tượng trưng "ngọn đèn" :
+ "Ngọn đèn" trong đêm là nguồn sáng đối lập với bóng đêm bao trùm. Diễn tả thân phận nhỏ bé của nàng.
+ "Ngọn đèn" là đối tượng tâm sự trực tiếp của nàng. Gợi cảm giác cô đơn, lẻ loi.
- Cách bộc lộ tâm trạng trực tiếp: "Lòng.. bi thiết.." Người chinh phụ trĩu nặng nỗi sầu cô đơn, buồn tủi.
- Nhân vật trữ tình đã chuyển từ lời kể bên ngoài đến lời tự độc thoại nội tâm da diết, tự dằn vặt, thương nhớ ngậm ngùi.
4. Nhân vật trữ tình mang dáng vẻ sầu muộn và buồn bã vì ngày đêm thương nhớ chồng:
"Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương".
- Tính từ "buồn rầu.." : Vẻ mặt buồn bã, sầu muộn, không nói nên lời. Tâm trạng buồn phiền, cô đơn.
- Hình ảnh tượng trưng "hoa đèn" :
+ "Hoa đèn" là cái bấc đèn hết dầu cháy thành hoa.
+ Hình ảnh "hoa đèn" đi liền với cụm từ "bóng người khá thương" : So sánh bây giờ nàng khác nào hoa đèn kia.
- Nhớ thương, mong ngóng tin chồng đến tàn lụi, cạn kiệt sức sống.
- Những hành động lặp đi lặp lại một cách vô thức cùng với hình ảnh "ngọn đèn" leo lét trong không gian quạnh vắng vô cùng, vô tận đó để khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.