Ngữ văn: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Chinh phụ ngâm

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngọc Hạc Phong, 5 Tháng ba 2022.

  1. Ngọc Hạc Phong

    Bài viết:
    250

    TÌM HIỂU CHUNG

    1. Tác giả

    • Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất), sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
    • Ngoài tác phẩm chính là "Chinh phụ ngâm", ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán.

    2. Dịch giả

    • Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), hiệu là Hồng Hà nữ sĩ.
    • Người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc, Hưng Yên.
    • Nổi tiếng thông minh từ nhỏ.
    • Tác giả của "Truyền kì tân phả".
    • "Chinh phụ ngâm" được bà dịch ra bằng chữ Nôm thể thơ song thất lục bát.

    3. Thể ngâm khúc

    • Là thể loại thơ trữ tình trường thiên thuần túy Việt Nam viết bằng thể thơ song thất lục bát.
    • Là sản phẩm kết hợp nhuần nhuyễn giữa thể thơ song thất lục bát với phương thức trữ tình dài hơi, gắn với số phận thăng trầm của một con người.
    • Thường dùng tiểu đối, nhiều từ Hán Việt làm cho câu thơ tha thiết, trang trọng.
    • Ngôn ngữ đánh dấu bước trưởng thành đến độ điêu luyện của tiếng Việt.

    3. Tác phẩm "Chinh phụ ngâm"



    1. A) Hoàn cảnh sáng tác

    - Đầu đời Lê Hiển Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Triều đình cất quân đi đánh dẹp. Nhiều người phải ra trận.

    - Cảm động trước nỗi khổ đau mất mát của con người vợ lính trong chiến tranh nên Đặng Trần Côn đã viết: "Chinh phụ ngâm".

    Tác phẩm gồm 476 câu bằng chữ Hán theo thể trường đoản cú.

    B) Giá trị

    • Nội dung:

    + Nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

    + Thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu hạnh phúc lứa đôi.

    + Cảm thông với nỗi khổ của người chinh phụ.

    • Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

    • Nghệ thuật:

    + Thể thơ: Trường đoản cú (nguyên tác), song thất lục bát (bản dịch).

    + Mang đậm tính tượng trưng ước lệ.

    + Tả cảnh ngụ tình.

    + Bản dịch đã đưa ngôn ngữ dân tộc lên tầm cao mới, phong phú, uyển chuyển.

    C) Đoạn trích

    C1) Xuất xứ: Trích "Chinh phụ ngâm" từ câu 193-216 (24 câu).

    C2) Bố cục :3 phần

    - Phần 1: Sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.

    - Phần 2: Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ.

    - Phần 3: Niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.

    ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

    I. Sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ

    1. Người chinh phụ cảm thấy cô đơn trước khung cảnh hoang vắng:

    "Dạo hiên vắng gieo thầm từng bước,

    Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen".

    • Hình ảnh "hiên vắng" : Khoảng hiên nhà vắng ngắt, lạnh lẽo.
    • Hình ảnh "rèm thưa" : Vật trang trí chốn khuê phòng của chinh phụ.

    • Không gian vắng vẻ, đìu hiu gợi nỗi buồn da diết, thê lương.

    • Hành động lặp đi lặp lại:

    • Động từ "dạo" : Đi lại quanh quẩn trong nhà.
    • Cụm từ "thầm gieo tường bước" : Lặng thầm bước từng bước chân mỏi mệt, buồn phiền.

    • Mỗi bước đi nặng nề diễn tả nỗi nhớ, nỗi đau và thân phận buồn lẻ loi của người chinh phụ.

    • Động từ "ngồi" : Thể hiện sự trông chờ, ngóng đợi.
    • Cụm từ "rủ thác đòi phen" : Hành động buông xuống rồi lại kéo rèm lên.
    • Phép đối và bút pháp tả cảnh ngụ tình trong hai câu thơ tạo sự tha thiết và trang trọng, thể hiện tâm trạng của chinh phụ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng.

    • Người chinh phụ ngồi trông đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu.

    • Những hành động lặp đi lặp lại vô nghĩa, không mục đích.

    Sự tù túng, bế tắc, nỗi lo lắng bồn chồn không yên và sự cô đơn ghê gớm đang bủa vây lòng người.

    2. Người chinh phụ trông mong tin tức của chồng từ phương xa báo về:

    "Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

    Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?"

    • Hình ảnh tượng trưng "thước" : Là con chim khách được coi là báo tin lành - có khách đến, người đi xa về.
    • Cụm từ ".. chẳng mách tin" : Thiếp ngày đêm mong ngóng nhưng chàng vẫn bặt vô âm tín.

    • Tâm trạng rối bời, lo âu không biết chồng mình nơi xa có được bình an.

    • Cụm từ "trong rèm" chính là khoảng không gian chật hẹp, tù túng, trói buộc cuộc sống và tâm hồn của người chinh phụ.
    • Câu hỏi tu từ ".. dường đã có đèn biết chăng?" : Thể hiện nỗi cô đơn khắc khoải, lạnh vắng của người chinh phụ khi thiếu vắng người chồng.

    • Một mình đối diện với ánh đèn, với bóng mình, với một người bạn vô tri vô giác.

    • Phép đối và phép nhân hóa thể hiện tâm trạng mong đợi, lo âu cho chồng nhưng chẳng có chút tin tức gì của người chinh phụ, muốn bộc bạch nỗi lòng nhưng chỉ có đèn làm bạn.

    3. Nhân vật trữ tình mang tâm trạng buồn phiền nhưng không biết bày tỏ cùng ai:

    "Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi".

    • Điệp ngữ bắc cầu: "Đèn biết chăng - đèn có biết" là một biện pháp nghệ thuật phổ biến trong đoạn trích và trong toàn bộ khúc ngâm.

    Lời than thở, nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng trong nhớ thương day dứt, không biết phải tâm sự cùng ai.

    - Hình ảnh tượng trưng "ngọn đèn" :

    + "Ngọn đèn" trong đêm là nguồn sáng đối lập với bóng đêm bao trùm. Diễn tả thân phận nhỏ bé của nàng.

    + "Ngọn đèn" là đối tượng tâm sự trực tiếp của nàng. Gợi cảm giác cô đơn, lẻ loi.

    • Cách bộc lộ tâm trạng trực tiếp: "Lòng.. bi thiết.." Người chinh phụ trĩu nặng nỗi sầu cô đơn, buồn tủi.

    • Nhân vật trữ tình đã chuyển từ lời kể bên ngoài đến lời tự độc thoại nội tâm da diết, tự dằn vặt, thương nhớ ngậm ngùi.

    4. Nhân vật trữ tình mang dáng vẻ sầu muộn và buồn bã vì ngày đêm thương nhớ chồng:

    "Buồn rầu nói chẳng nên lời,

    Hoa đèn kia với bóng người khá thương".

    • Tính từ "buồn rầu.." : Vẻ mặt buồn bã, sầu muộn, không nói nên lời. Tâm trạng buồn phiền, cô đơn.
    • Hình ảnh tượng trưng "hoa đèn" :

    + "Hoa đèn" là cái bấc đèn hết dầu cháy thành hoa.

    + Hình ảnh "hoa đèn" đi liền với cụm từ "bóng người khá thương" : So sánh bây giờ nàng khác nào hoa đèn kia.

    • Nhớ thương, mong ngóng tin chồng đến tàn lụi, cạn kiệt sức sống.

    • Những hành động lặp đi lặp lại một cách vô thức cùng với hình ảnh "ngọn đèn" leo lét trong không gian quạnh vắng vô cùng, vô tận đó để khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
     
    Tôn Nữ, Ưu Đàm Thanh TiCuộn Len thích bài này.
  2. Ngọc Hạc Phong

    Bài viết:
    250
    TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ (PHẦN 2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    ĐỌC HIỂU VĂN BẢN (TIẾP THEO)

    II. Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ


    1. Người chinh phụ thức trọn năm canh vì nhớ thương chồng:

    "Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên"

    - Hình ảnh "gà eo óc" : Tiếng gà trong đêm báo hiệu thời gian di chuyển theo từng canh.

    - Hình ảnh "hòe phất phơ" : Gợi cảm giác hoang vắng, cô đơn.

    - Từ láy "eo óc", "phất phơ" có giá trị gợi tả thời gian và cảnh vật, làm tăng sự cô đơn, buồn vắng, thao thức hết ngày lại đêm.

    Làm tăng thêm cái vắng vẻ, tĩnh mịch.

    • Dòng thời gian tâm lí cũng chuyển hóa thành sự chờ đợi mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi, không có sự sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con người.

    2. Nhân vật trữ tình mang nỗi sầu triền miên trong một thời gian dài:

    "Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa".

    - Sử dụng biện pháp nghệ thuật:

    + So sánh: "Khắc giờ" – "như niên", "nỗi sầu" – "tựa miền" Mối sầu nặng trĩu, dằng dặc.

    + Từ láy "đằng đẵng", "dằng dặc" chỉ độ dài vô tận của thời gian, không biết đến bao giờ.

    + Từ Hán Việt gợi sự trang trọng, nhẹ nhàng.

    Thời gian lê thê gợi nỗi sầu triền miên, da diết.

    • Âm điệu buồn thương, ngân nga, như tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng.

    3. Người chinh phụ cảm thấy chán nản, buồn phiền:

    "Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

    Gương gượng soi lệ lại châu chan".

    - Đảo ngữ "hương gượng đốt" : Người chinh phụ gượng đốt hương để tìm sự thanh thản trong tâm hồn.

    - Đảo ngữ "gương gượng soi" : Cố gắng trang điểm nhưng nhìn thấy khuôn mặt thì ứa nước mắt.

    - Cụm từ Hán Việt: "Lệ lại châu chan" nói lên sự đau buồn của người phụ nữ một cách tao nhã, ý vị.

    Đảo ngữ và điệp từ "gượng" thể hiện thái độ miễn cưỡng, chán chường, không buồn chú ý đến dung nhan.

    4. Nhân vật trữ tình nhìn kỉ vật mà nhớ về một thời hạnh phúc:

    "Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng".

    - Hình ảnh tượng trưng "sắt cầm" : Gợi nhắc đến cảnh vợ chồng hòa thuận.

    - Hình ảnh tượng trưng "dây uyên" : Biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp.

    - Hình ảnh tượng trưng "phím loan" : Nguyên văn "loan phượng trụ" - phím đàn loan phượng. Loan phượng cũng là biểu tượng của lứa đôi gắn bó.

    - Động từ "gượng" diễn tả sự miễn cưỡng, chán chường, phải làm một việc mà mình chẳng hứng thú.

    Nàng nhớ đến đàn mà không gảy nỗi đàn vì sợ dây đàn đứt sẽ là điềm gở.

    • Những hành động gượng gạo không giúp chinh phụ tìm được sự giải tỏa, sẻ chia nỗi cô đơn, sầu nhớ càng thêm chồng chất.

    • Lên án chiến tranh phi nghĩa.

    III. Niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi

    1. Người chinh phụ muốn gửi đến chồng tấm lòng nhớ thương đau đáu của mình:

    "Lòng này gửi gió đông có tiện?

    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên"

    - Hình ảnh "gió đông" (đông phong) : Gió mùa xuân.

    - Câu hỏi tu từ: "Lòng.. có tiện?" Chinh phụ muốn nhờ gió đông gửi lòng mình tới người chồng chinh chiến, gửi tới phương xa nỗi nhớ thương đau đáu không nguôi.

    - Cụm từ "nghìn vàng" : Lòng thương nhớ, trân trọng quý như nghìn vàng.

    - Hình ảnh ước lệ: "Non Yên" : Núi Yên Nhiên tận phương Bắc, nơi chiến trận biên ải xa xôi, nơi người chồng đang chinh chiến.

    Hình ảnh mang tính tượng trưng thể hiện sự xa xôi, cách trở muôn trùng giữa người chinh phụ và người chinh phu, việc gặp gỡ là điều không thể.

    • Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng dõi theo người chồng nơi phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa cay đắng, nối dài bất tận.

    2. Nhân vật trữ tình nhớ thương da diết nhưng không thể gặp gỡ chồng mình được:

    "Non Yên dù chẳng tới miền,

    Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời".

    - Cụm từ "dù chẳng tới miền" : Thể hiện sự cách trở xa xôi.

    - Hình ảnh so sánh "đường lên bằng trời" : Gợi ra miền không gian càng vô tận, bát ngát hơn với hình ảnh đường lên trời thăm thẳm, mênh mông, không giới hạn Nó không chỉ là không gian ngăn cách hai vợ chồng mà còn là nỗi nhớ khôn nguôi, không tính đếm được của nàng, là tình yêu thương của người vợ nơi quê nhà.

    Chinh phụ khao khát sự đồng cảm của chinh phu nơi biên ải nhưng vô vọng, nỗi nhớ thương da diết triền miên.

    3. Người chinh phụ chịu biết bao đau khổ cũng vì chiến tranh:

    "Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong".

    - Chiến tranh phong kiến đã xô đẩy người chinh phu biền biệt ngoài biên ải xa xôi bỏ mặc người chinh phụ với những tháng ngày cô đơn, sầu nhớ:

    • Từ láy "đau đáu" : Lột tả tâm trạng lo âu, khao khát được gặp chồng để biết rằng chàng vẫn còn sống khoẻ mạnh và ở nơi xa vẫn luôn mong ngóng về người vợ thân yêu Chiến tranh đã chia cách hai con người để rồi họ phải sống trong nỗi nhớ thương, chờ đợi.
    • Từ láy "thăm thẳm" ngầm ý oán trách: Chinh phụ thấy chiến tranh gây đau khổ cho mình và gây đau khổ cho những người phụ nữ khác.

    Điệp từ "nhớ" và nhiều từ láy gợi tả thể hiện nỗi nhớ thương da diết và khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

    4. Người chinh phụ và cảnh vật như có sự đồng điệu với nhau:

    "Cảnh buồn người thiết tha lòng,

    Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun".

    - Hình ảnh thiên nhiên lạnh lẽo: "Sương đượm", "tiếng trùng", "mưa phun" Hiện thực bi thương, phũ phàng, sự cô đơn, nhớ nhung càng thêm trĩu nặng.

    - Biện pháp ẩn dụ và các động từ mạnh "phun", "đượm" gợi tả sự cô đơn, buồn nhớ. Cái lạnh như ăn mòn mọi thứ, từ giọt sương, tiếng trùng đến mưa xuân cũng như ẩn tàng một sức mạnh ghê gớm. Thiên nhiên và con người đã soi chiếu vào nhau, cùng có chung nỗi sầu.

    - Từ "thiết tha" được đảo lên trước từ "lòng" để nhấn mạnh tâm trạng của người chinh phụ, nỗi buồn đã chuyển thành nỗi đau trong lòng.

    Người phụ nữ khao khát hạnh phúc lứa đôi.

    Lời thơ lại dần chuyển sang độc thoại nội tâm, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng chinh phụ với hình ảnh chinh phu tràn ngập trong tâm tưởng.

    Tâm trạng của người chinh phụ được miêu tả ngày càng sầu thảm, làm cho khung cảnh thêm hoang vắng, quạnh hiu. Hình ảnh người chinh phụ chìm sâu trong cô đơn, vò võ, lẻ loi chiếc bóng thao thức suốt năm canh: Nhớ nhung, sầu muộn, lo lắng, day dứt. Khao khát mãnh liệt được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đoàn tụ gia đình.

    TỔNG KẾT

    1. 1. Nội dung

    • Đoạn trích thể hiện sự đồng cảm với nỗi cô đơn, lẻ loi và khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.
    • Gián tiếp lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

    2. Nghệ thuật

    • Thể thơ song thất lục bát.
    • Bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật.
    • Ngôn từ chọn lọc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ..
    • Hình ảnh ngôn ngữ ước lệ, trang trọng..

    • Tiêu biểu cho thể loại ngâm khúc.

    3. Điểm mới

    - Nguyên nhân người chinh phụ đau khổ:

    + Nàng lo lắng cho sự an nguy của người chồng nơi chiến trận, không biết giờ ra sao, thế nào.

    + Tuổi trẻ thường qua đi vội vã (hạnh phúc và tình yêu sẽ mất) Do đó nàng khát khao sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

    + Niềm tin của nàng ở tương lai thì quá mỏng manh mờ nhạt. Càng nghĩ nàng càng đau khổ, xót xa cho thân phận của mình.

    Người chinh phụ trong khúc ngâm đại biểu cho tất cả phụ nữ Việt Nam lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa của giai cấp phong kiến đã làm tang thương, tàn lụi tuổi xuân của biết bao nhiêu người phụ nữ, đổ vỡ biết bao gia đình. Đồng thời cũng thể hiện khát vọng hạnh phúc gia đình của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến Giá trị nhân đạo của tác phẩm.
     
    Tôn Nữ, Ưu Đàm Thanh TiCuộn Len thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 5 Tháng ba 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...