Ngữ văn: Lẽ ghét thương - Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngọc Hạc Phong, 22 Tháng ba 2022.

  1. Ngọc Hạc Phong

    Bài viết:
    250
    I. Tìm hiểu chung

    1. Truyện Lục Vân Tiên


    - Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có lẽ được sáng tác vào khoảng những năm 50 của thế kỉ XIX khi ông bị mù, về dạy học và chữa bệnh cho nhân dân ở Gia Định.

    - Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột thiện, ác, đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng về một xã hội tốt đẹp.

    - Tác phẩm thuộc loại truyện Nôm bác học nhưng đậm chất dân gian gồm 2028 câu thơ.

    2. Đoạn trích

    A) Vị trí


    - Trích từ câu 473 – 504 (32 câu) trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu.

    - Đoạn thơ kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và 4 sĩ tử: Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, khi họ đang uống rượu làm thơ trong quán của ông (trước lúc vào Trường thi).

    b) Bố cục: 4 phần

    - Câu 1 – 6: Lời đối đáp giữa ông Quán với Tử Trực và Vân Tiên.

    - Câu 7 – 16: Lẽ ghét

    - Câu 16 – 30: Lẽ thương

    - Hai câu kết

    II. Đọc – hiểu văn bản

    1. Thái độ ghét thương qua lời đối đáp giữa ông Quán với Vân Tiên


    - Nhân vật ông Quán (chủ quán rượu) thuộc lực lượng chính nghĩa hỗ trợ nhân vật chính (trên đường tìm chính nghĩa).

    - Ông Quán có phong thái một nhà nho ở ẩn, am tường kinh sử và quặn lòng với nhựng đối tượng làm băng hoại xã hội, đau khổ dân lành.

    "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"

    Vì vậy, ông Quán bày tỏ thái độ ghét thương rất phân minh.

    2. Mối quan hệ giữa ghét – thương trong thái độ ông Quán

    A) Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương dân lầm than


    - Ghét:

    + Đời Kiệt, Trụ mê dâm >< dân sa hầm sẩy hang

    + Đời U, Lệ đa đoan >< dân lầm than

    + Đời Ngũ bá phân vân >< dân nhọc nhằn

    + Đời thúc quý phân băng >< rối dân

    - Điệp từ "ghét", "đời".

    - Liệt kê hàng loạt các điển cố: "Kiệt, Trụ", "U, Lệ", "Ngũ bá", "thúc quý".

    - Nghệ thuật đối lập giữa vua quan với dân, điệp từ "dân", động từ "sa, sẩy", tính từ "Lầm than", "nhọc nhằn", "rồi".

    Tác giả căm ghét mãnh liệt những tên vua dâm ô, tham tàn, bạo ngược, những kẻ bề tôi tiếm nghịch gây khổ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lòng xót thương sâu sắc đối với người dân vô tội phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều.

    Như vậy, tác giả đứng về phía nhân dân mà bày tỏ thái độ yêu ghét rất rạch ròi.

    b) Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương hiền tài không được trọng dụng

    - Liệt kê các danh sĩ trong sử sách.

    + Khổng Tử: Lận đận

    + Nham Tử: Tài đức mà mệnh yểu.

    + Gia Cát: Mưu lược tài ba, nhưng không gặp thời.

    + Đổng Tử: Tài cao học rộng nhưng không được tin dùng.

    + Nguyên Lượng: Thơ văn lỗi lạc, học rộng, từ quan ở ẩn.

    + Hàn Dũ: Ngay thẳng mà mang họa

    + Liêm, Lac: Triết gia không được trọng dụng, lui về dạy học.

    Điểm chung của các nhân vật này: Họ đều là những người có tài, có chí muốn hành đạo, giúp đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều không đạt sở nguyện.

    - Họ là những người đồng cảnh ngộ với Nguyễn Đình Chiểu: Ông muốn giúp đời, lập nên công danh nhưng đầy bất hạnh, lại thêm thời thế đầy nhiễu nhương. Bởi thế, đoạn thơ chính là niềm cảm thông sâu sắc tận đáy lòng của cụ Đồ Chiểu.

    3. Lẽ ghét thương của tác giả

    "Xem qua kinh mấy lần kinh sử

    Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương"

    - Nghệ thuật tiểu đối: Nỗi "thương" và "ghét" ở đây, tuy nói chuyện sử sách nhưng ít nhiều đều phù hợp với chế độ thối nát của nhà Nguyễn và tâm sư của Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ.

    4. Đánh giá

    A) Nội dung


    - Căm ghét thế lực cường quyền bạo ngược.

    - Xót thương nhân dân, hiền tài bị hãm hại.

    - Bộc lộ thái độ của tác giả trước thời cuộc.

    b) Nghệ thuật

    - Bút pháp trữ tình nồng hậu.

    - Ngôn ngữ bình dị.

    - Sử dụng nhiều điệp từ "thương", "ghét" (mỗi từ 12 lần).

    - Phép đối trong đoạn thơ "ghen – ghét", "thương – thương" và tiểu đối trong câu thơ.

    Sự lặp lại tưởng nhàm chán nhưng lại thể hiện sự trong sáng sâu sắc trong tâm hồn tác giả: Lẽ ghét thương tưởng đối lập nhưng hoàn toàn thống nhất.

    Hai khái niệm "ghét", "thương" cứ đan cài, tiếp nối không thể tách rời, rất sâu nặng, thương là cội nguồn của cảm xúc, ghét là từ thương mà ra.

    III. Tổng kết

    Đoạn thơ "Lẽ ghét thương" nói riêng và tác phẩm "Lục Vân Tiên" nói chung là minh chứng cho văn chương giáo huấn mang tính chất đạo đức trữ tình của Nguyễn Đình Chiểu.
     
    Minn.102 thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 22 Tháng ba 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...