Vũ trụ được tạo thành bởi sự kết hợp giữa âm và dương, do âm dương phát triển không cân bằng mà dẫn tới vũ trụ không ngừng vận động. Một khi âm dương trong vũ trụ có xu hướng cân bằng thì vũ trụ sẽ trở thành trạng thái tĩnh, mọi vật cũng sẽ không tồn tại. Vì vậy, vũ trụ chỉ có nằm ở trạng thái không cân bằng mới có thể tạo ra rất nhiều thế giới đầy màu sắc, sản sinh ra những cuộc đời khác nhau. Dự đoán lục hào dựa trên sự biến hóa của âm dương mà xây dựng nên một hệ thống dự đoán riêng biệt.
Tại sao lục hào phải sử dụng 12 Địa Chi để chiết xuất thông tin và sử dụng 12 loài vật để đối ứng với 12 Địa Chi? Điều này là bởi vì 12 loài vật có tính đặc thù, chúng phụ trách một vai trò quan trọng về mật mã vũ trụ. Đó là lý do mà người xưa sử dụng 12 loài vật này làm ký hiệu mật mã để suy đoán sự vật.
Do sự khác biệt giữa âm và dương mà 12 loài vậy này đã được chọn làm mật mã dự đoán.
Căn cứ vào âm dương có thể chia động vật làm hai loại là động vật móng lẻ và động vật móng chẵn. Nếu như bạn quan sát kỹ móng hoặc chân của 12 loài vật này một chút, bạn sẽ phát hiện ra có một quy luật rất lớn ở trong đó. Trâu, thỏ, dê, gà, lợn đều có số móng chân chẵn, tương ứng với Địa Chi âm, rắn là cực âm nên không có chân; hổ, rồng, ngựa, khỉ, chó đều có số móng chân lẻ, tương ứng với Địa Chi dương, chuột tương ứng với giờ Tý là lúc âm dương hoán đổi, vì vậy chân trước là số chẵn, chân sau là số lẻ.
Loài cá con giáp kỳ lạ.
Theo tài liệu xưa ghi lại, ở Đông Hải có một loài cá gọi là nhuận ngư có màu sắc rất thần kỳ. Đối với loài cá thông thường chúng ta đều có thể nhìn thấy chúng mỗi năm, nhưng chỉ năm nhuận mới có thể gặp được nhuận ngư. Hơn nữa tùy theo năm nhuận khác nhau mà hình dạng đầu của nó cũng liên tục biến đổi. Ví dụ như năm Tý nhuận thì Đông Hải sẽ xuất hiện động vật đầu chuột đuôi cá, năm Sửu nhuận thì sẽ xuất hiện động vật đầu trâu đuôi cá.
Người xưa quyết không tùy tiện lấy tổ hợp 12 loài vật để ứng dụng vào dự đoán học. Bất kể là sử dụng 12 loài vật này làm mật mã để dự đoán hay hóa giải, người ta đã xem chúng như phương tiện truyền tải năng lượng ngũ hành, nói không chừng trong 12 con vật này còn ẩn chứa bí mật về vũ trụ.
Bởi vì sự không hoàn thiện của cơ thể mà 12 loài vật này đã được chọn vào nhóm động vật tiết lộ thiên cơ. Người xưa cho rằng thiên cơ tiết lộ ở nơi có bệnh, vì vậy khi chọn 12 loài vật làm mật mã đã lựa chọn những loài vật khuyết hãm.
Người Trung Quốc thường nói "thử mục thốn quang", dùng để ví những người không có lý tưởng, con mắt thiển cận, điều này là do giờ Tý là lúc âm dương hoán đổi, là thời khắc kết thúc một ngày cũ và bắt đầu một ngày mới, bầu trời trở nên tối tăm sẽ lại nghênh đón ánh sáng mặt trời. Chuột thiếu ánh sáng sẽ không thể nhìn xa được, vì vậy lấy chuột đại diện cho giờ Tý. Những động vật khác cũng giống như
Vậy, trâu thiếu răng, thỏ thiếu môi, rắn thiếu chân, rồng thiếu thính giác (tai nghe không rõ), gà thiếu bàng quang..
Giữa 12 loài vật cũng tồn tại hiện tượng sinh khắc.
Chẳng hạn như trong địa chi thì Hợi thủy xung khắc Tị hỏa, trên thực tế lợn không những ăn rắn mà khi bị rắn cắn cũng chỉ phát sưng ngoài da, không gây nguy hiểm đến tính mạng. Tý thủy xung khắc Ngọ hỏa, trên thực tế phân chuột là chất độc đối với ngựa, một khi ngựa ăn phải sẽ trướng bụng mà chết. Mặc dù đây chỉ là hiện tượng tự nhiên nhưng cũng cho thấy mối quan hệ sinh khắc tồn tại giữa 12 địa chi.
Ý nghĩa tương ứng của 12 địa chi khi sử dụng vào hóa giải.
Khi sử dụng mối quan hệ sinh khắc xung hợp giữa 12 địa chi để hóa giải, chúng ta xem ảnh hưởng đối với Dụng thần ra sao, từ đó mượn năng lượng của động vật, thực vật, đồ vật.. để làm vật hóa giải nhân tố bất lợi, thay đổi những khía cạnh không tốt trong cuộc sống. Do mỗi canh giờ trong ngày có hàm lượng âm dương khác nhau, người xưa đã phát triển 12 con giáp thành 36 con thú, vì vậy thời gian chế tạo và thời gian đặt vật hóa giải cũng rất quan trọng. Một số vật hóa giải phải được chế tạo ở một thời điểm cụ thể thì mới có hiệu quả rõ ràng, nhưng nếu như không có đủ thời gian để chế tạo vật hóa giải thì có thể rút ngắn thời gian chế tạo, sau đó chọn thời điểm và đặt vật hóa giải ở nơi thích hợp.
Tý: chuột (ban ngày), chim én (buổi sáng), cá quả, con dơi (ban đêm), nước muối, dòng sông, ao hồ, nước suối, bể nước, người sinh năm Tý..
Sửu: trâu (buổi sáng), con cua (ban ngày), rùa đen (ban đêm), ruộng đất, két sắt, đồ gốm sứ, khối đất, người sinh năm Sửu..
Dần: hổ (ban ngày và ban đêm), con lửng (buổi sáng và ban đêm), con mèo, con báo (ban ngày), cây cối, cỏ, rừng cây, bãi cỏ, khúc gỗ, kiến trúc bằng gỗ, đồ gỗ, người sinh năm Dần..
Mão: thỏ (ban ngày), cáo (ban ngày và ban đêm), con nhím (buổi sáng), hạc trắng (ban đêm), cây cối, hoa cỏ, bãi cỏ, đồ gỗ, kiến trúc bằng gỗ, đồ tre trúc, người sinh năm Mão..
Thìn: rồng (buổi sáng), thuồng luồng (ban ngày), cá (ban đêm), giun đất, đầm nước, vại nước, ấm trà, ấm nước, khối đất, ruộng đất, dụng cụ y tế, đồ gốm sứ, người sinh năm Thìn..
Tị: rắn (ban đêm), giun đất (ban ngày), dây thừng, cây nến, ánh đèn, sao trên trời, con lươn (buổi sáng), rùa đen (ban đêm), ve sầu (ban đêm), đất đỏ (ban ngày), đất nung, người sinh năm Tị..
Ngọ: ngựa (ban ngày), con lừa, con la, con kiến, cầy hương (ban đêm), hưu nai (buổi sáng và ban đêm), con hoẵng (ban đêm), cây nến, lồng hấp, người sinh năm Ngọ..
Mùi: dê cừu (buổi sáng), diều hâu (ban ngày), chim nhạn (ban đêm), cây khô (ban đêm), sừng dê, chén rượu, vườn trái cây, bãi cỏ, bồn cảnh, y dược, cây dâu tằm, trang phục, người sinh năm Mùi..
Thân: khỉ (ban đêm và ban ngày), con mèo (buổi sáng), tảng đá (ban đêm), kim loại, đồ sắt, xe, xương cốt, vũ khí, đao, dụng cụ sắc bén, cái đinh, người sinh năm Thân..
Dậu: Gà (ban ngày), chim trĩ (buổi sáng), diều hâu, đồ kim loại, xương cốt, dụng cụ sắc bén, chim, gương đồng, kim chỉ nam, nam châm, khóa, tảng đá (ban đêm), người sinh năm Dậu..
Tuất: chó (buổi sáng), sói (ban ngày), chồn (ban đêm), ngói, gạch, khối đất, ruộng đất, tảng đá, tràng hạt, đồ gốm, bình chữa cháy, người sinh năm Tuất..
Hợi: lợn rừng (ban đêm), lợn nhà (buổi sáng), nước mưa, cá quả, con gấu,
Băng, nước đá, mực viết, muối, nước tương, người sinh năm Hợi..
Phương pháp hóa giải 12 con giáp chủ yếu là sử dụng mối quan hệ sinh khắc xung hợp giữa 12 địa chi để tiến hành hóa giải.
Nếu Dụng thần Không Vong, xuất Không là cát, chính là căn cứ vào nguyên lý Xung Không Thực Không, sử dụng động vật, đồ chơi động vật, đồ vật, hình vẽ.. tương ứng với địa chi để thay đổi tính chất ngũ hành của sự vật nhằm đạt được mục đích hóa giải. Nếu Dụng thần Nguyệt phá thì dùng Thực Phá Hợp Phá để tiến hành hóa giải. Nếu Nguyên thần bị hợp thì dùng địa chi xung Nguyên thần để hóa giải. Kỵ thần phát động thì dùng địa chi khắc Kỵ thần hoặc hợp Kỵ thần để hóa giải. Hoặc là mượn sức mạnh của Nguyên thần, sử dụng vật ở trạng thái động làm Nguyên thần, khiến cho các địa chi hình thành thế liên tục tương sinh, từ đó làm giảm sức mạnh của Kỵ thần mà cứu trợ Dụng thần.
Ví dụ 1: Ngày Quý Dậu tháng Giáp Dần năm Quý Mùi, một người đàn ông dự đoán lên chức, được quẻ Địa Thủy Sư biến Lôi Trạch Quy Muội.
Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Dụng thần bị Nguyệt kiến khắc thương, lại không được Nhật thần sinh phù, trong quẻ lại có Tử Tôn phát động đến khắc, theo sự suy vượng của Dụng thần thì rất khó lên chức. Sư là quân đội ra trận, Tử Tôn lại có ý nghĩa binh lính, lâm Nguyệt kiến ý nghĩa càng mạnh hơn, vì vậy tôi đoán tại lúc đánh giá lên chức sẽ có một quân nhân xuất ngũ phản đối anh ta lên chức. Nhưng quẻ này Quan Quỷ động mà hóa hồi đầu sinh, thông qua hóa giải sẽ có hy vọng.
Khi được cho biết các kết quả ở trên, anh ta đã nhớ lại tất cả các lãnh đạo tham gia xem xét, trong số họ không có ai là quân nhân xuất ngũ. Bất kể là có hay không một quân nhân xuất ngũ phản đối, nếu như không tiến hành hóa giải, theo quẻ này mà đoán thì khó có thể lên chức. Thế là anh ta thỉnh cầu hóa giải.
Hóa giải: Ngọ hỏa là địa chi tăng cường Quan Quỷ, Dụng thần phát động hóa hồi đầu sinh, nhưng chỉ có một hào biến đến sinh, lại bị Kỵ thần và Nguyệt kiến khắc thương là sinh phù bất khởi. Hào Thế là Nguyên thần sinh phù Quan Quỷ, thuyết minh lần này muốn lên chức thì bản thân phải nỗ lực. Kỵ thần là Dần mộc tương ứng với hướng Đông Bắc, hướng này sinh ra khí bất lợi cho quan vận. Nguyên thần là Ngọ hỏa, Ngọ là ngựa, hỏa là màu đỏ, hợp lại là ngựa đỏ, vì vậy đề nghị để một con ngựa hàng mỹ nghệ màu đỏ tại hướng Đông Bắc căn nhà. Ngọ hỏa tại hào Thế, lại là hào hồi đầu sinh Dụng thần, vì vậy đầu con ngựa phải hướng vào phía trong mới có tác dụng, đây là ý nghĩa của hồi đầu sinh.
Nghe theo lời tôi dặn, anh ta đã đặt con ngựa tại hướng Đông Bắc của căn nhà, đầu ngựa hướng vào phía trong.
Ngày hôm sau, khi vấn đề thăng chức được thảo luận thì đột nhiên gặp phải sự phản đối của một cựu hồng quân, lúc này anh ta mới chợt ngộ ra, đây chẳng phải là quân nhân xuất ngũ đã nói hay sao? Có lẽ là hóa giải đã có tác dụng, sau khi ông ta phản đối vài câu đã quay mũi nhọn sang những người được đề cử khác, cuối cùng anh ta được lên chức. Nếu sự việc đã kết thúc như vậy thì ví dụ này vẫn chưa xem là thần kỳ.
Sau khi việc thăng chức cho người này được quyết định trong cuộc họp, một vị Dịch hữu khác nói với anh ta rằng việc lên chức nếu đã được thông qua thì đầu con
Ngựa trong nhà có thể đổi vị trí ngược lại, để đầu hướng ra ngoài. Thế là anh ta
Nghe theo căn dặn của vị Dịch hữu này quay đầu con ngựa lại.
Ai ngờ sau khi anh ta quay đầu con ngựa, vị cựu hồng quân nọ lại bắt đầu phản đối, đề nghị loại anh ta ra khỏi số người được thăng chức. Anh ta nghe vậy liền vội vàng chạy về nhà quay đầu con ngựa trở về hướng ban đầu, vị cựu hồng quân lại thôi phản đối, cuối cùng vẫn được lên chức.
Chính bởi vì có sự việc phía sau nên chúng ta mới thấy được tác dụng thần kỳ của hóa giải.
Ví dụ 2: Ngày Canh Dần tháng Bính Dần năm Kỷ Mão, một cô gái ở Bắc Kinh khóc lóc gọi điện thoại cho tôi, nói là cậu của cô ấy vì bệnh mà nhập viện ở Thiên Tân, mặc dù đã chấp nhận phẫu thuật trị liệu, nhưng phẫu thuật thất bại, bệnh viện đã thông báo khó qua khỏi. Đành nhờ vào dự đoán, tôi gieo được quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân biến Càn Vi Thiên.
Lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần. Phụ Mẫu Mão mộc lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ là bệnh, cũng là thông tin làm phẫu thuật. Phụ Mẫu có ngũ hành tương đồng với Nhật Nguyệt là vượng tướng, nhìn từ góc độ Dụng thần suy vượng thì vẫn còn chỗ để hóa giải. Đầu tiên phán đoán bệnh của cậu, Dụng thần vượng tướng, lại không bị Nhật Nguyệt hào động khắc, vì vậy không lấy Dụng thần để phán đoán chứng bệnh.
Trong quẻ Tử Tôn Sửu thổ độc phát, khắc thương Nguyên thần Quan Quỷ Hợi thủy, chính là lấy Nguyên thần và Cừu thần để phán đoán chứng bệnh. Từ quái cung để luận, Thiên Hỏa Đồng Nhân là quẻ cung Ly, Ly chủ bệnh về tim, ruột, máu, mắt.. Từ lục thân để luận, Tử Tôn là ruột, mạch máu, đường hô hấp, khí quản, ngũ quan, vú, bộ phận sinh dục.. Lấy 12 cung Trường Sinh để luận, Tử Tôn Sửu thổ là kim khố, trong quẻ này kim là Thê Tài, Thê Tài chủ phân và nước tiểu, Mộ khố chứa Thê Tài, Tử Tôn Sửu thổ có thể phán đoán là ruột. Lấy hào vị để luận, hào 2 và hào 3 là dạ dày, eo, thận, chân, ruột, bộ phận sinh dục.. Rất nhiều thông tin ở trên cho thấy cậu bị bệnh về ruột.
Khi được hỏi, cô ấy nói là dính ruột, phân bị tắc nghẽn trong ruột không thể xuống được, bệnh viện đã làm phẫu thuật để làm sạch phân trong ruột, nhưng vấn
Đề dính ruột vẫn chưa được giải quyết. Ngay khi phân mới được tạo ra, ruột lại bị tắc.
Hóa giải: Tử Tôn Sửu thổ là mấu chốt trong quẻ. Tử Tôn Sửu thổ là Cừu thần, tuy rằng phát động khắc chế Nguyên thần, nhưng được Nhật Nguyệt hào biến khắc chế, không cần lo lắng đến phương pháp hóa giải theo góc độ khắc chế Cừu thần nữa. Quẻ này hung là bởi vì Nguyên thần hưu tù. Nguyên thần Hợi thủy không được Nhật Nguyệt sinh phù lại còn bị Sửu thổ động đến khắc. Trong 12 địa chi, Tý Sửu có quan hệ tương hợp, Tý thủy và Hợi thủy có ngũ hành tương đồng, Tý thủy cũng là Nguyên thần, có tác dụng trợ vượng Nguyên thần và Dụng thần, đồng thời cũng có thể hợp trú Sửu thổ khiến cho không thể khắc Nguyên thần. Vì vậy, sử dụng Tý thủy để làm vật hóa giải là sự chọn lựa tốt nhất.
Tý thủy tương ứng với rất nhiều vật, khi gieo quẻ đã là buổi tối, Tử Tôn Sửu thổ lại lâm Huyền Vũ, Huyền Vũ lại chủ tối tăm, nếu như dùng động vật liên quan đến Tý thủy để hóa giải thì tốt nhất là lựa chọn động vật thuộc về ban đêm trong 36 con thú. Như vậy chỉ có con dơi tương ứng với Tý thủy. Phân dơi có tác dụng giải độc lợi tiểu thông tiện, phân lại có liên quan đến thông tin về ruột, vì vậy sử dụng phân dơi để hóa giải chắc chắn sẽ có tác dụng tốt đối với triệu chứng dính ruột do viêm gây ra. Hào 3 là giường, Sửu thổ tại hào 2, hào 2 có thể hiểu là dưới giường, do đó bảo họ đến hiệu thuốc bắc mua một ít phân dơi (trong Trung y gọi là ngũ linh chi) rắc dưới giường bệnh. Một tuần lễ sau, bệnh tật của cậu khỏi hẳn, thuận lợi xuất viện, khỏi bệnh ngoài dự đoán của bác sĩ.
Ví dụ 3: Ngày Canh Dần tháng Giáp Tý năm Mậu Dần, một người đàn ông 66 tuổi ở quê tôi đến xin dự đoán. Ông ta tư thông với một cô gái nhỏ hơn mình 20 tuổi, sợ rằng vì vậy mà gặp tai họa, hỏi cát hung ra sao? Được quẻ Hỏa Sơn Lữ biến Hỏa Lôi Phệ Hạp.
Thê Tài Thân kim phát động làm Dụng thần. Quan Quỷ Hợi thủy phục dưới Thê Tài Thân kim, th HỎA Không Vong: Ngọ, Mùi
Lấy hào Tài làm Dụng thần, xem ảnh hưởng của Thê Tài đối với hào Thế. Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, lấy uyết minh cô ta đã có chồng. Hào Thế và Dụng thần tương sinh, hai người ăn ở với nhau rất hòa hợp, cô gái này sẽ không lừa dối, cũng sẽ không làm hại ông ta. Tử Tôn trì Thế phát động khắc chế Quan Quỷ phục dưới Dụng thần, chuyện của hai người cho dù bị chồng cô ấy phát
Hiện cũng sẽ không gây sự với ông ta. Nhưng hào Thế phát động tự hóa Quan Quỷ, Quan Quỷ là bệnh tật, tai họa, chính là thông tin tự mình có nạn.
Đầu tiên, Thế lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ là bệnh, chính là thông tin bản thân có bệnh. Nguyên thần Ngọ hỏa bị Nguyệt kiến xung phá, hỏa là tim, chính là tim có bệnh. Nguyệt kiến vừa xung vừa khắc, tháng này tim đứng trước nguy hiểm, phải hết sức chú ý.
Mặt khác, hào Thế động mà hóa Quỷ, Quan Quỷ chỉ tai họa, chính là thông tin tự mình gặp phải tai họa. Hào Thế là Dịch Mã (lấy Nhật kiến là Dần mộc mà suy ra, Dần Ngọ Tuất mã tại Thân Tý Thìn, không chỉ lấy Thân làm Dịch Mã), là tượng xuất hành, lâm hào sơ, hào sơ là chân, cũng là tượng xuất hành, lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ chủ bị thương, tai nạn xe cộ.. Hào Thế lại bị Nhật khắc, Nhật có ngũ hành tương đồng với Phụ Mẫu, Phụ Mẫu là xe, thông tin tai nạn xe cộ rất rõ ràng. Hào biến là Tý thủy, căn cứ vào quy tắc ứng kỳ phán đoán là xảy ra tại tháng Tý. Phụ Mẫu Mão mộc phục dưới hào Thế chính là tượng bản thân đi xe, là đi xe gặp phải tai nạn, không phải là đi bộ bị xe đụng. Mão mộc tương ứng với địa chi năm Kỷ Mão (năm 1999), vì vậy phán đoán tai nạn này sẽ xảy ra tại tháng Tý năm Kỷ Mão.
Hào Thế lâm Tử Tôn nghĩa là có con, hào sơ lại là Tử Tôn, hào vị con cái. Thủy là ngũ hành bị hào Thế khắc, dùng nguyên lý chuyển hoán lục thân "cái ta khắc là Tài" để luận, có thể xem Tý thủy là Thê Tài. Quan Quỷ có ý nghĩa là phiền não, Bạch Hổ có ý nghĩa là tức giận, nổi giận, lấy hào sơ Tử Tôn động hóa Quan Quỷ có thể suy đoán là vì vợ con mà tức giận, phiền não. Phán đoán ứng kỳ có thể dùng hào động để xác định, tức năm Canh Thìn (năm 2000).
Quẻ chính là Lữ, có nghĩa là lữ hành, lại hào Thế lâm Dịch Mã, vì cãi nhau với vợ con mà năm Canh Thìn bỏ đi nơi khác.
Hóa giải: Bởi vì trong quẻ có thông tin tai nạn giao thông nên phải tiến hành hóa giải. Hào Thế mặc dù là thần giải ưu Tử Tôn, nhưng hưu tù bị khắc, vì vậy phải tăng cường sức mạnh hào Thế. Hào Thế là thổ, thổ tương ứng với màu vàng, đầu tiên chọn vải màu vàng làm vật liệu chế tạo vật hóa giải. Nguyên thần Ngọ hỏa Nguyệt phá, Mùi thổ và Ngọ hỏa tương hợp, vừa có thể Hợp Phá lại có thể trợ vượng hào Thế, đồng thời Mùi thổ lại là Tiến thần của hào Thế, vì vậy mượn Mùi thổ để hóa giải tai họa khá là hợp lý. Sau khi đã xác định địa chi sử dụng để hóa giải thì có thể bắt đầu chế tạo vật hóa giải.
Trước tiên, vẽ một Thái Cực đồ trên tấm vải màu vàng. Thái Cực đồ chính là một hình vẽ biểu thị âm dương cân bằng, là kết tinh của trí tuệ người xưa, Thái Cực đồ có tác dụng cân bằng âm dương, thường dùng để phối hợp chế tạo vật hóa giải. Theo thứ tự của phạm vi số tiên thiên và 12 địa chi thì Mùi thổ đều nằm ở số 8, do đó viết 8 chữ Mùi (未) ở dưới Thái Cực đồ, dùng số ám hợp vũ trụ nhằm đạt được hiệu quả hóa giải hoàn mỹ. Thái Cực đồ và chữ Mùi đều dùng chu sa vẽ ra viết ra. Chu sa chính là vật trừ tà, là một trong những phẩm màu thường dùng để chế tạo vật hóa giải. Chu sa có màu đỏ, thuộc tính hỏa, vì vậy sử dụng chu sa sẽ giúp tăng cường sức mạnh hào Thế. Sau khi chế tạo xong vật hóa giải thì có thể mang theo nó trên người.
Ngay sau khi đoán xong, ông ta cho biết mình có bệnh tim, bốn ngày trước đã phát tác qua một lần. Hiện tại bản thân đang tư thông với một người phụ nữ đã có chồng. Những suy đoán khác còn phải chờ nghiệm chứng thêm ở tương lai.
Tháng Tị năm Canh Thìn, người này lại tới chỗ tôi dự đoán. Toàn bộ suy đoán về năm 1998 đều ứng nghiệm. Tháng Tý năm 1999, ông ta lái xe ô tô ra ngoài khi tuyết đang rơi, xe đang đi trên một chiếc cầu thì bị trơn trượt nên đã đâm gãy lan can cầu, suýt nữa cả người lẫn xe từ trên cầu rơi xuống, có thể là do vật hóa giải đã có tác dụng nên mới không tạo thành tai họa lớn. Nhưng hiện tại chuyện ngoại tình đã bị vợ và con phát hiện, họ đã bắt cóc cô gái kia và ép ông ta giao ra một số tiền lớn, nếu không giao sẽ giết chết cô ấy. Ông ta đã dùng tiền thuê người đoạt lại cô gái từ trong tay vợ, mang theo cô ấy trốn khỏi quê nhà. Hiện tại mục đích tới đoán là muốn xem khi nào mới có thể giải quyết được việc này với vợ, yên ổn trở về quê.