MỞ ĐẦU Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời". Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. Ai đó cũng khẳng định: "Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ..". Rồi có một lúc nào đó ta cũng sẽ tự hỏi lòng: "Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?" Tình yêu quê hương đất nước, yêu lịch sử, lẽ cống hiến và gắn bó cuộc đời mình với đất nước, nhân dân đã khiến biết bao hồn thơ cất cánh. Cũng vì những tình cảm lớn lao ấy mà cuối năm 1971, trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm ra đời. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén và hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam, đặc biệt khi hướng về nhân dân, đất nước anh hùng. Đoạn trích "Đất nước" nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm được xem là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Đoạn trích mang đậm khuynh hướng sử thi trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. 2. NỘI DUNG a. Khuynh hướng sử thi trong văn học Việt Nam Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, "Sử thi là tác phẩm tự sự dài xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học của các dân tộc nhằm ca ngợi những sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử" [3-tr. 125] . Khuynh hướng sử thi thể hiện tiêu biểu nhất trong văn học giai đoạn 1945 – 1975 với nội dung bao trùm là những vấn đề về vận mệnh của quốc gia, dân tộc; hiện thực mà văn học phản ánh là hiện thực lịch sử dân tộc; nhân vật tiêu biểu nhất là người anh hùng đại diện cho sức mạnh, ý chí và phẩm chất của cộng đồng, giai cấp và thời đại. Khuynh hướng sử thi đã chi phối hầu khắp các sáng tác thuộc đủ mọi thể loại. Nó không chỉ thể hiện trong tiểu thuyết mà còn ở truyện ngắn và kí, nó cũng thấm sâu vào thơ trữ tỉnh, từ thơ ngắn đến các trường ca, vào kịch bản sân khấu. Khuynh hướng sử thi đã hình thành từ những bước khởi đầu của nền văn học mới ngay sau Cách mạng tháng Tám, nhưng từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là trong thời kì chống Mĩ, khuynh hướng ấy càng phát triển mạnh mẽ và bao trùm cả nền văn học. Khuynh hướng sử thi chi phối từ việc lựa chọn đề tài, chủ đề, đến việc xây dựng hình tượng nhân vật và chi phối cả đặc điểm kết cấu tác phẩm, nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi và cái tôi trữ tình trong thơ. Đề tài, chủ đề phải là những vấn đề có liên quan mật thiết đến đời sống lịch sử, vận mệnh của dân tộc và nhân dân hay những tình cảm cộng đóng. Nhiều tác phẩm – cả thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết – đã trực tiếp tái hiện, khái quát con đường và vận mệnh của nhân dân, dân tộc trong một giai đoạn lịch sử. b. Khuynh hướng sử thi trong đoạn trích Đất Nước Trường ca "Mặt đường khát vọng" viết năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc. Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". * Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: Địa lý, lịch sử, văn hóa, tâm hồn và lối sống. Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước. "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể" [1-tr. 118] Trong hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước để trả lời cho câu hỏi "Đất nước có từ bao giờ?". Với cách mở đầu rất tự nhiên, nhà thơ khẳng định đất nước đã có từ trước khi ta sinh ra, khi ta lớn lên và biết nhận thức về thế giới quanh mình thì đất nước "đã có rồi". Không thể trả lời chính xác rằng đất nước có tự bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm đã mượn cách mở đầu của truyện cổ tích "ngày xửa, ngày xưa" để nói về cội nguồn của đất nước. Vận dụng ngôn từ một cách độc đáo, sáng tạo, nhà thơ không chỉ cho thấy đất nước chắc chắn đã có từ cái thuở xa lắc xa lơ nào đó, từ rất lâu đời mà còn gợi ra một không gian cổ tích, thần thoại, khiến cội nguồn đất nước trở nên thiêng liêng, kì diệu. Đất nước mình là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với biết bao câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm tâm hồn cho ta để lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Năm chữ "Đất Nước đã có rồi" và bốn chữ "ngày xửa, ngày xưa" vang lên đầy tự hào góp phần khẳng định sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. "Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn * * * Đất nước có từ ngày đó" [1-tr. 118] Khi nói về đất nước người ta cũng thường đặt ra các câu hỏi như "Đất nước là gì?" và "Đất nước tồn tại ở đâu?" và rồi thường tự cho rằng đất nước là cái gì đó cao siêu, trừu tượng khó định nghĩa và khó nắm bắt. Nhưng ở đoạn thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã cho chúng ta thấy đất nước thiêng liêng, kì diệu nhưng không ở đâu xa, trái lại gần gũi, thân thiết đến bất ngờ. Đất nước không ở đâu xa mà là những người thân yêu nhất như bà, cha và mẹ. Là hình ảnh người bà với "miếng trầu bà ăn", là hình ảnh người mẹ với "câu chuyện mẹ kể" và "tóc mẹ thì bới sau đầu", là cả cha và mẹ trong câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Không phải ngẫu nhiên khi viết về đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ba lần nhắc đến hình ảnh người mẹ và nhiều nhà thơ khác cũng thường so sánh hình ảnh đất nước, tổ quốc với hình ảnh người mẹ. Đất nước không cao siêu trừu tượng mà có thể đơn giản là câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, có trong những phong tục tập quán, trong cái kèo cái cột, thậm chí có trong những thứ nhỏ bé như hạt gạo.. Đất nước gắn với những phong tục, tập quán từ bao đời của người Việt Nam như tục ăn trầu, tục bới tóc sau đầu. Hình ảnh miếng trầu từ xưa đến nay rất quen thuộc với bao nhiêu thế hệ người Việt Nam. Người Việt Nam có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Miếng trầu không chỉ xuất hiện trong các dịp ăn hỏi, cưới xin, hội hè, ma chay.. mà còn được dùng mời khách đến nhà để tỏ lòng hiếu khách. Hình ảnh "miếng trầu" cũng là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, trong ca dao, thơ ca. Miếng trầu trở thành hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung, son sắc trong tâm hồn dân tộc. Đất Nước có trong "miếng trầu bây giờ bà ăn" gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt, gợi nhớ về câu truyện cổ tích "Sự tích trầu cau" được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Như vậy, trong miếng trầu dung dị ấy là mấy ngàn năm văn hóa, văn hiến của đất nước. Câu thơ "Tóc mẹ thì bới sau đầu" không chỉ gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục lâu đời của người Việt mà còn làm hiện lên hình ảnh người mẹ với búi tóc sau gáy, làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam. Đất nước còn có trong đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc, có trong tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Có lẽ câu thơ về tình nghĩa sâu nặng ấy được gợi ý từ một câu ca dao đẹp. Thành ngữ "gừng cay muối mặn" được vận dụng một cách đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: Gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng son sắc, mặn nồng. Không dừng lại ở ở việc tìm về cội nguồn, sự tồn tại mà nhà thơ còn nỗ lực hình dung quá trình lớn lên, trưởng thành của đất nước. Phải chăng, khởi thủy và quá trình lớn lên của Đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Để nói hết được những điều đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến hình ảnh cây tre, vốn từ lâu đã trở nên quen thuộc trong tâm thế của mỗi người Việt Nam. Hình ảnh cây tre đã đi vào truyền thuyết Thánh Gióng với người anh hùng nhổ tre đánh giặc. Hai chữ "lớn lên" gợi liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Ngà mới lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Cây tre vì thế đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. Cây tre còn trở thành biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam thật thà chất phác, cần cù, chăm chỉ, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hòa bình.. Câu thơ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" như vậy đã thể hiện quá trình lớn lên của đất nước. Đất nước lớn dần lên trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ của cha ông trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Đất nước còn bắt đầu và lớn mạnh dần lên trong quá trình lao động lam lũ, vất vả để làm ra hạt lúa, hạt gạo, làm ra những giá trị vật chất cho đất nước thể hiện rõ qua câu thơ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Thành ngữ "Một nắng, hai sương" đã cho thấy đất nước lớn lên trong nhọc nhằn, lam lũ. Các động từ "Xay - giã - giần - sàng" là những hoạt động trong quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân. Trong anh và em hôm nay, Đều có một phần Đất Nước [1-tr. 119] Đất nước không chỉ gần gũi thân thiết với mỗi con người, như những người thân yêu nhất là bà, là cha và mẹ; là những gì bình thường, bình dị, quen thuộc nhất xung quanh mỗi chúng ta như miếng trầu bà ăn, câu chuyện mẹ kể, cái kèo, cái cột, là những phong tục tập quán, là tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ.. mà gần gũi thân thiết hơn nữa khi nó còn có ở bên trong mỗi con người. Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận một cách rất tự nhiên rằng đất nước đã thấm vào bên trong, đã hòa vào trong mỗi cá thể nên trong anh, trong em, trong mỗi chúng ta đều có một phần là đất nước. Sự sống của mỗi cá nhân không phải là của riêng người đó mà còn có phần thuộc về đất nước, bởi vì mỗi con người từ khi sinh ra đều đã thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước. Chỉ "một phần" đất nước nhỏ bé bên trong mỗi con người ấy thôi nhưng đủ làm ta xúc động, tự hào vì nhận ra mình đã góp phần làm nên đất nước. "Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn" [1-tr. 119] Nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của con người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất trữ tình chính luận. Trong câu thơ "Khi hai đứa cầm tay" thì "hai đứa" ở đây là anh và em. Cầm tay là một hành động thể hiện tình cảm thắm thiết, yêu thương và tin cậy, là giao duyên, là tình yêu đôi lứa. Trong anh và em đều có một phần là đất nước nên khi hai đứa cầm tay nhau thì phần đất nước trong cả hai hòa nhập làm một, tạo nên sự hài hòa, nồng thắm. Trong cái cầm tay ấy hóa ra không chỉ có tình yêu đôi lứa mà còn có tình yêu quê hương đất nước. Đất nước là sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, cái cá nhân và cái tập thể nên khi anh và em nắm tay mọi người, phần đất nước trong mỗi con người nhập vào làm một, sẽ tạo nên một đất nước to lớn, tạo nên sức mạnh đoàn kết có thể nhấn chìm tất cả và giúp đất nước vươn mình đứng dậy. Từ "hài hòa, nồng thắm" đến "vẹn tròn, to lớn" là đi từ cái riêng đến cái chung, cái cá nhân đến cái tập thể; là cả một quá trình lớn lên của lịch sử dân tộc. Chỉ khi nào ba cây biết chụm lại thì mới nên hòn núi cao, khi nào các cá nhân biết nắm tay nhau để đất nước hài hòa làm một thì đất nước mới thực sự vẹn tròn, to lớn. "Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng" [1-tr. 119] Trước hết, ba câu thơ thể hiện những cảm nhận về đất nước trong mối hệ giữa các thế hệ. Ở đoạn thơ trước, khi nhắc về chiều dài lịch sử của đất nước nhà thơ đã nhắc đến bao nhiêu thế hệ đi trước trong quá khứ (những ai đã khuất), nhắc đến những thế hệ của hôm nay (những ai bây giờ), thế hệ tương lai (con cháu mai sau) và đến đoạn thơ này nhà thơ lại nhắc đến ta của hôm nay và "mai này" của "con ta", tức là nhắc đến một tương lai gần. Nhà thơ tin rằng, sẽ không phải đợi lâu mà chỉ cần đến thế hệ "con ta", khi chúng lớn lên chúng sẽ đưa đất nước đi xa, đến những ngày tháng tươi đẹp và "mơ mộng" nhất. Từ "mơ mộng" chỉ cái đẹp trong trí tưởng tượng, sản phẩm của cảm xúc lãng mạn, được đặt trong ba câu thơ gợi liên tưởng thế hệ con cháu sẽ tiếp bước ông cha để xây dựng đất nước tốt đẹp, hùng cường. Khi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sáng tác trường ca "Mặt đường khát vọng" vào năm 1971, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy cam go, thử thách, gian khổ, hi sinh và chưa biết bao giờ sẽ chiến thắng. Vậy mà ông đã tin rằng trong một tương lai rất gần, đất nước sẽ đến những tháng ngày tươi đẹp nhất. Điều đó rất đáng quý và đó chính là cảm hứng lãng mạn mà chúng ta thường thấy trong các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Chính niềm tin và cảm hứng lãng mạn ấy đã nâng đỡ con người Việt Nam trong khó khăn, thử thách để chúng ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng. "Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.." [1-tr. 120] Cách xưng hô "Em ơi em" như một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao nỗi niềm đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và phát hiện ra nhiều điều mới lạ về đất nước. Cụm từ này khiến đoạn thơ như một lời thủ thỉ, tâm tình của anh với em, của đôi lứa yêu nhau. Nghệ thuật tăng cấp thể hiện trong suốt đoạn trích "Đất nước", từ chỗ khẳng định đất nước là những gì gần gũi thân thiết xung quanh cuộc sống con người đến chỗ ở trong mỗi con người, rồi đến đoạn thơ này thì không chỉ ở trong mà quan trọng hơn là máu, là xương, là phần không thể thiếu của cơ thể sống. Đất nước là huyết lệ, là thân thể ruột thịt của chính mình, là mồ hôi, nước mắt của cha ông qua bao nhiêu thế hệ. Đất nước gắn bó, thân thiết và quan trọng với mỗi người như vậy nên mỗi con người đều phải có ý thức trách nhiệm với đất nước. Điệp từ "phải biết" được lặp lại hai lần và được đặt ở đầu các câu thơ như các mệnh lệnh phát ra từ con tim làm giọng thơ trở nên mạnh mẽ, chân thành thể hiện ý thức trách nhiệm sâu sắc với non sông, đất nước. Trách nhiệm của mỗi con người là phải biết gắn bó, san sẻ và hóa thân cho đất nước. Với Nguyễn Khoa Điềm "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân" là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức về nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng. Gắn bó, san sẻ là phải biết yêu mến, sẻ chia, cống hiến, thậm chí phải biết hi sinh vì đất nước. Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến thành. Hóa thân như cô Tấm trong truyện cổ tích "Tấm Cám" hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và quả thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, còn người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong truyện cổ tích "Trầu cau". Hóa thân thành đất nước chính là sự nhập thân hay biến mình vào đất nước. Tư thế hi sinh trong thế tấn công của anh giải phóng quân ấy đã hóa thành tư thế, dáng hình của đất nước anh hùng, quật khởi. Mỗi con người cần phải biết gắn bó, san sẻ, hóa thân để làm nên đất nước muôn đời như cha ông ta đã hóa thân thành núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên.. đã gắn bó, san sẻ để làm nên lịch sử mấy ngàn năm của đất nước. Khát vọng đất nước trường tồn là khát vọng của người Việt Nam từ bao đời nay, đã đi vào những áng văn chương bất hủ của dân tộc: "Xã tắc từ đây vững bền Non sông từ đây đổi mới Càn khôn bĩ mà lại thái Nhật nguyệt hối mà lại minh Muôn thuở nên thái bình vững chắc." [2-tr. 26] Trước hết, trong đoạn thơ tiếp theo nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt các tên địa danh, các kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu * * * Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm" [1-tr. 120] Những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước như núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, hòn Trống Mái ở Thanh Hóa, đất Tổ Hùng Vương ở Phú Thọ, thắng cảnh Hạ Long ở Quảng Ninh, núi Bút non Nghiên ở Quảng Nam, các tên địa danh Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở miền Nam.. Đây vốn là những danh lam thắng cảnh do tự nhiên sắp đặt, là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lý từ hàng ngàn, hàng vạn năm. Những tên địa danh, những danh lam thắng cảnh, tên núi tên sông, tên đất, tên làng, hình sông, thế núi ấy đã gợi lên cả một bức tranh thiên nhiên đất nước tươi đẹp mà nhìn đâu cũng có cảnh đẹp, thấy núi cao, biển rộng, sông dài, thấy những dòng sông đỏ nặng phù sa và nhiều tôm cá, những biển lúa mênh mông với những cánh cò bay lả bay la.. Những tên địa danh ấy trước hết gợi cho chúng ta bao nhiêu niềm yêu mến, tự hào và khát khao muốn được khám phá vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên quê hương đất nước mình. Mỗi địa danh không chỉ là một nét tô điểm cho bức tranh thiên nhiên đất nước mà còn là tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã hóa thân, đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Và những ngọn núi, những dòng sông.. chỉ trở thành thắng cảnh khi nó thể hiện tâm hồn con người và lịch sử dân tộc. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là biểu tượng đẹp đẽ cho truyền thống chung thủy, son sắc trong tình yêu. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn, hình ảnh 99 con voi dựng đất Tổ Hùng Vương là những hình ảnh bất tử về truyền thống yêu nước nồng nàn, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm. Núi Bút, non Nghiên là biểu tượng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo.. Và như thế những người dân vô danh bình dị còn góp phần hóa thân thành những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và khắc ghi những truyền thống tốt đẹp ấy lên dáng hình đất nước, lên những hình sông, thế núi, tên đất tên làng.. thành lời nhắn nhủ đến muôn đời sau. * Tư tưởng "Đất nước của nhân dân" Tư tưởng đất nước của nhân dân là tư tưởng tiến bộ đã manh nha từ thời trung đại. Từ "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" [2-tr. 24] Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định "Nước là dân, dân là nước". Đến giai đoạn 1945 - 1975, tư tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học. Không chỉ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm mà trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và coi đó là nền tảng của lòng yêu nước. Tuy nhiên, phải đến "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng đất nước của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào trong tất cả những thành tố thuộc về đất nước. Trong đoạn trích "Đất nước" nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ yếu cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục và sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân cũng được triển khai theo ba chiều ấy. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên nền văn hóa, văn hiến lâu đời của đất nước. "Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta" [1-tr. 121] Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý - văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục bày tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước. Em là nhân vật trữ tình không xác định, cũng có thể là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Cụm từ "em ơi em" khiến cho đoạn thơ trở thành lời thủ thỉ, tâm tình tha thiết và dễ đi vào lòng người. Với những tâm tình tha thiết ấy, nhà thơ đã đưa chúng ta về quá khứ, lịch sử 4000 năm Đất Nước và thể hiện niềm tự hào trước lịch sử lâu đời của dân tộc. Nhìn vào chiều dài lịch sử lâu đời của đất nước, nhà thơ đã không nhắc lại các triều đại hay kể tên các bậc vua chúa, các vị anh hùng mà nhắc đến nhân dân. Trong đoạn thơ nhà thơ viết hoa chữ "Nhân dân" để thể hiện sự trân trọng, mến yêu. Nhân dân là những con người vô danh đã cống hiến và hi sinh cho đất nước một cách tự nguyện. Nhân dân là biết bao thế hệ những người con gái, con trai, là 4000 lớp người trong lịch sử. Họ bằng tuổi với thế hệ thanh niên thời chống Mĩ. Họ là những con người bình thường nhưng chính họ đã làm ra đất nước. Vì thế, đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó. Cụm từ "bằng tuổi chúng ta", và cụm từ "giống ta lứa tuổi" ở sau cho thấy đoạn thơ là lời thủ thỉ tâm tình hướng về thế hệ trẻ miền Nam vùng tạm chiếm giúp họ ý thức được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình mà đóng góp công sức để bảo vệ đất nước. "Cần cù làm lụng * * *Có nội thù thì vùng lên đánh bại" [1-tr. 121] Trong những câu thơ đầu của đoạn trích "Đất nước" nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cho thấy khởi thủy và quá trình lớn lên của đất nước chính là quá trình lao động lam lũ để làm ra hạt gạo, của cải vật chất "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Đất nước lớn lên trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ để bảo vệ đất nước "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Và đến đoạn thơ này nhà thơ cho chúng ta thấy quá trình ấy đều là đóng góp của nhân dân. Đất nước 4000 năm lịch sử là 4000 thế hệ những người con gái con trai đã cống hiến, hi sinh. Họ đã làm nên đất nước, tạo ra lịch sử dân tộc bằng cách: "Cần cù làm lụng" [1-tr. 121] Sống trong một đất nước mà nông nghiệp là chính, người nhân dân ta từ bao đời chỉ cần cù lao động, chịu thương chịu khó để nuôi sống gia đình, góp phần làm nên đất nước. Cả cuộc đời họ chỉ gắn với con trâu, thửa ruộng và hầu như không ra khỏi lũy tre làng. Nhưng khi có giặc xâm lược, chính những người dân bình thường ấy chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Người con trai sẽ ra trận, người con gái ở nhà trở thành hậu phương vững chắc. Khi giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh, đánh giặc đến cùng giống như lời nhân vật chị Út Tịch trong "Người mẹ cầm súng" của Nguyễn Thi "Còn cái lai quần cũng đánh". Nguyễn Khoa Điềm đã nêu lên một sự thật lịch sử là trong bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ "cả anh và em đều nhớ" : "Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ" [1-tr. 121] Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống. Họ không phải là những anh hùng mà là những người dân vô danh, bình dị đã sống và chết giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt, nhớ tên của họ nhưng chính họ có công làm ra đất nước. Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần như truyền hạt lúa, truyền lửa, truyền tiếng nói, truyền tên xã tên làng, đắp đập be bờ cho người đời sau trồng cây hái trái.. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng sống trong tối tăm, lạnh lẽo. Truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc mình, giữ cho mình cái văn hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy.. Để rồi trong cái nôi văn hóa truyền thống ấy, chúng ta được sinh ra và dần lớn lên, chập chững những bước đi đầu tiên trên mặt đất và bập bẹ hai tiếng "mẹ, cha" ngọng nghịu. Tiếng nói đầu tiên là tiếng "mẹ" yêu thương, tiếng nói đầu tiên của ta cũng là tiếng nói của đất nước đã có tự bao đời. Tiếng nói ấy chính là hồn thiêng sông núi. Ngay từ tiếng nói đầu tiên ấy, ta đã trở thành con người đất Việt, hồn thiêng sông núi đã bắt đầu hình thành mạch ngầm trong huyết quản. Và những giá trị vật chất, tinh thần ấy rồi sẽ theo chúng ta trong suốt cuộc đời, khiến ta tự hào được trở thành con cháu Rồng, Tiên. 3. KẾT LUẬN Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam 1945- 1975 là thể hiện rõ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Chất sử thi trong văn học thường được thể hiện khi nó tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước: Tổ quốc còn hay mất, tự do hay nô lệ. Nhân vật chính là những con người đại diện cho phẩm chất và ý chí của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt lẽ sống của dân tộc lên hàng đầu. Giọng điệu sử thi là giọng ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng. Đoạn trích "Đất Nước" phản ánh mọi mặt của đất nước từ khi bắt đầu. Đoạn thơ sử dụng chất liệu chính là ca dao, dân ca. Điều đáng chú ý là nhà thơ không trích dẫn nguyên văn câu ca dao mà chỉ lấy lại ý để thể hiện những liên tưởng, suy ngẫm vừa độc đáo vừa sâu sắc. Từ "Đất Nước" được viết hoa và nhắc lại nhiều lần cùng giọng thơ chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết đối với đất nước làm cho nội dung chính luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người, góp phần bộc lộ tư tưởng bao trùm, xuyên suốt ấy là tư tưởng đất nước của nhân dân. 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020) – Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020) – Ngữ văn 10, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2017) – Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục.