1 người đang xem

Admin

Nothing to lose.. your love to win..
23,200 ❤︎ Bài viết: 4162 Tìm chủ đề
6151 1,182
Bài thơ Gửi người vợ miền Nam của Nguyễn Bính là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tình cảm lứa đôi gắn liền với tình yêu đất nước trong giai đoạn đất nước chia cắt hai miền. Đọc bài thơ, ta như được bước vào một bức tranh đầy chân thực và xúc động: vừa có nỗi nhớ nhung của người chồng ở miền Bắc gửi tới vợ nơi miền Nam xa xôi, vừa có sức mạnh của niềm tin, lý tưởng và khát vọng thống nhất non sông.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh những bức thư, "thư một bức nghìn lời tâm huyết", chất chứa bao tình cảm riêng tư và niềm tin gửi gắm. Nguyễn Bính khéo léo dựng lại cả một hành trình đời sống: từ buổi đầu gặp gỡ, cưới hỏi đơn sơ, rồi xây dựng tổ ấm, sinh con, vượt qua bom đạn chiến tranh, đến cảnh người vợ, người mẹ, người bà gắn bó với ruộng đồng, làng xóm, đồng hành cùng kháng chiến. Trong mỗi chi tiết đều thấm đẫm tình cảm gia đình giản dị, chân thành nhưng lại hòa quyện, gắn bó sâu sắc với vận mệnh của dân tộc.

Điểm nổi bật là bài thơ không chỉ nói về tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng mà còn phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh miền Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. Nguyễn Bính để người chồng vừa nhớ thương, vừa tự hào về người vợ kiên cường, sắt son, gắn bó với đồng bào, đồng chí. Tình riêng không tách rời tình chung, khát vọng đoàn viên cũng chính là khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước.

Ngôn từ của Nguyễn Bính vẫn mộc mạc, gần gũi như ca dao, dân ca, khiến bài thơ giàu nhạc điệu, dễ đi vào lòng người. Từ những hình ảnh quen thuộc của đời sống thôn quê như trầu cau, bánh tét, vườn cam, giếng nước... đến những chi tiết khốc liệt như bom đạn, hầm trú, máu chảy, khăn tang... tất cả tạo nên sự đối lập gay gắt, vừa gợi đau thương, vừa làm sáng ngời tinh thần bất khuất.

Có thể nói, Gửi người vợ miền Nam là bản tình ca – anh hùng ca giàu sức lay động. Đó là tiếng lòng của một người chồng yêu thương vợ con, của một người chiến sĩ tin tưởng vào tương lai thống nhất, cũng là tiếng nói của biết bao gia đình Việt Nam trong những năm tháng đất nước bị chia cắt. Bài thơ vừa là lời nhắn gửi riêng tư, vừa là bản tuyên ngôn của tình yêu, niềm tin và ý chí dân tộc.

54730460036_721d051c03_o.png


Gửi vợ miền Nam​


Thư một bức nghìn lời tâm huyết

Đêm canh dài thức viết cho em.

Bồi hồi máu ứ trong tim

Chảy theo ngòi bút hiện lên thư này.

Thư mọc cánh thư bay khắp ngả

Rộn muôn lòng, hoa lá xôn xao

Thư đi núi thẳm đèo cao

Bay qua giới tuyến đậu vào tay em

Em bắt được hàng đêm em đọc

Cánh thư vàng em thuộc từng câu

Ru con thềm vắng canh thâu

Nghe trong tiếng hát tình nhau thơm lành

Nhớ lại buổi chúng mình gặp gỡ

Xanh bóng dừa bỡ ngỡ nhìn nhau.

Cắn môi chẳng nói lên câu

Ai hồng đôi má nghiêng đầu làm thinh.

Đường công tác thuyền anh ghé bến

Anh ngập ngừng em thẹn quay đi

Mẹ cười mẹ chẳng nói chi

Đã người kháng chiến mẹ thì cho không

Khỏi mai mối, cũng không lễ lạt

Đám cưới mình tiếng hát vang sông

Trầu xanh têm với vôi hồng

Đêm trăng xuân ấy vợ chồng sánh đôi..

Gia đình em mười người giặc giết

Tám năm ròng nối tiếp khăn tang.

Thương anh mẹ nghĩ thêm rằng:

Thù nhà nợ nước đôi đằng vẹn đôi..

Đời chiến đấu thêm tươi thêm đẹp

Thêm mặn nồng thắm thiết thơ anh.

Lứa đôi tuổi trẻ đầu xanh

Trọn tình yêu nước, vẹn tình yêu nhau

Trăng hè giãi sáng màu áo cưới

Gió hương bay hoa bưởi thơm lừng

Ghé tai em báo tin mừng:

"Nói riêng anh biết, anh đừng khoe ai!"

Trải chín tháng mười ngày mong mỏi

Sớm đầu xuân ấy buổi khai hoa

Hương Mai tên xóm quê nhà

Vợ chồng liền đặt con là Hương Mai

Anh nghỉ phép đôi ngày đốn củi

Em chong đèn đốt muỗi cho con.

Chuyền tay chồng nựng vợ hôn

Tổ êm biếc bóng cây vườn đung đưa..

Buổi trứng nước con chưa rụng rốn

Máy bay quần vẫn loạn tiếng bom

Em thì tuần cữ còn non

Một ngày bốn lượt ôm con xuống hầm

Lửa giặc cháy đỏ bầm thân cột

Xe giặc càn tím ruột đồng xanh

Con thơ giấc ngủ không lành

Mếu thầm từng chập, giật mình từng cơn.

Mẹ tất tưởi giục con giục rể

Thôi cửa nhà mẹ kể như không

Đương đêm mẹ tắt đường đồng

Tay ôm thóc giống tay bồng cháu thơ

Ngợp bóng lá rừng thưa lay động

Cháy ruột chờ tiếng súng quê ta

Hai hôm mẹ đã nhớ nhà

Nghĩ thương con lợn con gà đói ăn.

Mũi chông nhọn giăng giăng nửa bước

Lưỡi dao dài chém, gọt đầu Tây

Thâu đêm đuốc sáng đường cày

Dân làng đào huyệt vùi thây quân thù.

Vách lá mới tươi cờ Tổ quốc

Xuồng hành quân mát nước sông xa

Mẹ ngồi thức mấy canh gà

Gói thêm bánh tét gửi ra chiến trường

Anh tập kích hạ đồn Ngã Bảy

Em vần công phát rẫy Kinh Ba

Hương Mai quấn quýt bên bà

Mẹ cưng cháu nhỏ tuổi già thêm vui..

Lửa Điện Biên đỏ trời phương Bắc

Gió hòa bình thổi mát xóm thôn

Em vâng tiếng gọi nước non

Đưa anh theo bóng cờ son lên đường.

Em trở giấc trăng nghiêng nửa gối

Mẹ chống rèm, sương gội vườn cam

Ngước trông một mảnh trời Nam

Ngôi sao Bắc Đẩu ngày càng tỏ thêm.

Mẹ chân cứng đá mềm chờ đợi

Em khăng khăng đứng mũi chịu sào

Chín năm xương trắng máu đào

Lẽ đâu lại chịu công lao dã tràng.

Bọn buôn máu cam làm nô lệ

Rước thằng đao phủ Mỹ vào nhà

MiềnNamyêu quý đôi ta

Vườn cam ruộng lúa thành ra pháp trường

Chợ Mỹ Lược khăn tang trắng xóa

Đập Vĩnh Trinh cánh quạ đen ngòm

Khe A Chê máu đỏ lòm

Lệ rơi xuống bến Thu Bồn chứa chan

Em chẳng được đi bàn đi họp

Con hết mong nhảy nhót nô cười

Mẹ già ôm cháu nghẹn lời

Bóng đen quỷ sứ che trời âm u

Người đang gặt bỗng tù bỗng tội

Ng đang ăn chết vội chết vàng

Ng vừa đưa bạn sang ngang

Mái chèo chưa ráo hồn oan đã lìa

Người mẹ trẻ gần kỳ sinh nở

Đêm ngồi may áo lụa cho con

Sáng ngày chết gục đầu thôn

Cái thai trong bụng nghe còn đạp đây

Em mười bảy cổ tay trắng nõn

Lựa chỉ thêu thầm chọn người thương

Lõa lồ phơi xác bên đường

Tay em còn nắm chặt vuông khăn hồng

Lớp mới giảng nó giằng xé vở

Chùa mới xây nó gỡ đem đi

Nó tung thuốc độc bùa mê

Cấm ngăn thương nhớ cắt chia ruột rà

Anh đã thấy mẹ già mạnh bước

Gậy vững tay trong cuộc tuần hành

Thấy em trong đám biểu tình

Má đào ửng đỏ mắt xanh sáng ngời

Muôn tiếng thét cùng đòi thống nhất

Muôn lời hô phải lập hiệp thương

Đôi bờ một dải Hiền Lương

Phải cho chung bến liền đường Bắc Nam

Cho Sa Đéc thơm cam Bố Hạ

Cho Hải Phòng đẹp lụa Tân Châu

Núi sông sát cánh kề đầu

Ruộng đồng bát ngát một màu lúa xanh

Anh đã thấy con mình thơ bé

Quấn cờ son bảo vệ lấy cờ

Đồng bào từ chuyện tóc tơ

Phanh phui kế hiểm ngăn ngừa mưu sâu

Mấy gian khổ chẳng nao dạ sắt

Bao tù đày chẳng tắt niềm tin

Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ

Cau nở bẹ dừa tơ lớn đọt

Xoài thơm hương cam ngọt trĩu cành

Cây vườn ngày một thêm xanh

Trái ngon thêm ngọt chờ anh trở về

Dạ canh cánh tình kia nghĩa nọ

Mắt đăm đăm ngoài đó trong này

Lòng ta biển rộng sông dài

Tát hoài chẳng cạn chảy hoài chẳng ngưng

Muối đã mặn ba năm còn mặn

Gừng đã cay chín tháng còn cay

Lời thề năm ấy còn đây

Còn ta ta phải còn ngày đoàn viên

Giấc mộng đẹp qua nghìn vạn dặm

Gối chăn này vẫn ấm hơi em

Đầu cành ríu rít tiếng chim

Giật mình trông hút bóng em xa dần

Trải ngày tháng trăng xuân gió hạ

Giấc chiêm bao nhắc nhở anh hoài

Mây đen còn nửa phương trời

Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi riêng anh

Tin trong ấy đấu tranh thắng lợi

Nghe mà mừng như cởi ruột gan

Một lòng bắc cũng như nam

Có em trong ấy anh càng vững tâm

Ta những tưởng hai năm đoàn tụ

Mà vì đâu để lỡ hẹn hò

Vì ai tháng đợi năm chờ

Hồng thưa nhạn vắng đôi bờ cách ngăn

Ai chia rẽ kẻ Nam người Bắc?

Mảnh trăng tròn ai cắt làm đôi?

Ai làm máu đổ, lệ rơi?

Ai đang rấp ngõ, ai xui phá cầu?

Vui đất Bắc còi tàu, xưởng máy

Loạn miền Nam lửa cháy rui nhà

Ngoài này đẹp lúa tươi hoa

Thương em trong ấy khổ ba bốn tầng

Đoàn trẻ nhỏ bước chân lẫm chẫm

Mặt hồ Gươm lấm tấm hoa ngâu.

Quản chi sóng cả sông sâu

Tay ta lại bắc nhịp cầu ta qua.

Cầu nối nhịp duyên ta tròn vẹn

Dòng Hiền Lương mát bến xuôi đò

Con sông vẫn đẹp đôi bờ

Tấm lòng có một cơ đồ không hai.

Thư em viết mấy lời thắm thiết

Ấm lòng anh chi xiết mấy mươi

"Giữa mùa lúa chín hoa tươi

Anh tin tưởng thế, em người vợ anh".

Nghĩ đến buổi nước mình thống nhất

Lệ tuôn trào khoé mắt rưng rưng

Dạt dào trăm nhớ ngàn thương

Anh về hoa nở con đường thênh thênh

Anh sẽ đón gia đình ra Bắc

Vợ chồng mình dạo khắp thủ đô

Con ta được gặp Bác Hồ

Mẹ ta được vãn cảnh chùa Ngọc Sơn.

Xe lửa ghe nông trường Phú Thọ

Tàu thuỷ thăm vùng mỏ Quảng Yên

Tám thơm cũng thể nàng tiên

Sen Hồ Tây ngát như sen Tháp Mười

Vui sum họp mẹ tươi trẻ lại

Mừng đoàn viên em mãi đẹp ra

Rõ ràng giáp mặt đôi ta

Đắng cay trải đấy, mặn mà xiết bao.

Cùng ôn lại năm tao bảy tuyết

Càng xa nhau càng biết lòng nhau

Mấy thu nắng lửa mưa dầu

Tâm tình vẫn thắm mái đầu vẫn xanh

Cùng trở lại quê mình vườn cũ

Dấu đạn thù còn trổ thân cây

Nhà ta ta lại sum vầy

Lại gieo mạ nếp, lại gây giống dừa

Con mỗi buổi học về múa hát

Đêm trăng vàng ngan ngát hương cau

Mẹ già ngừng giã cối trầu

Mỉm cười nhẩm tính tháng nào em sinh?

Vườn xanh tốt đâm cành nảy lộc

Hoa đầy vườn chim chóc đến bay.

Em mà nằm cữ chuyến này

Khỏi lo con chạy máy bay giặc ruồng

Con bé bỏng thơm ngon giấc ngủ

Hé môi non cười nụ hồng hồng

May hơn chị nó đầu lòng

Nó sinh gặp lúc non sông yên lành

Đời thêm đẹp mối tình thêm thắm

Nắng nông trường đỏ sẫm da cam

Tháng giêng lúa trĩu bông vàng

Em trên máy giặt khăn rằn gió bay.

Chiều chủ nhật xanh mây biếc gió

Tay nắm tay đi giữa Sài Gòn

Lo màu chọn kiểu áo con

Sách in nét chữ tươi giòn thơ anh.

Ngày kỷ niệm hòa bình hạnh phúc

Anh thả bè thuỷ lục tươi hoa

Làng trên xóm dưới vui ca

Mặt sông pháo nổ, mái nhà sao bay.

Mẹ đi hội vui bầy cháu nhỏ

Em bên anh má đỏ bóng cờ

Tưng bừng tiếng trúc tiếng tơ

Đầu thôn trăng mọc tròn như mâm vàng..



Hà Nội, 7 - 1956


Nguyễn Bính

Trích đoạn bài thơ này được sử dụng trong sách giáo khoa Tập đọc lớp 4.
 
Chỉnh sửa cuối:
1,431 ❤︎ Bài viết: 730 Tìm chủ đề

Cảm nhận về bài thơ "Gửi người vợ miền Nam" của Nguyễn Bính​


Trong dòng chảy văn học kháng chiến chống Mỹ, bên cạnh những tác phẩm sục sôi khí thế đấu tranh, vẫn có những vần thơ tha thiết, đằm sâu, kết hợp hài hòa giữa tình riêng và tình chung. Một trong số đó là bài thơ "Gửi người vợ miền Nam" của Nguyễn Bính – thi sĩ của đồng quê, của nỗi niềm dân tộc. Bài thơ đã để lại nhiều dư âm trong lòng người đọc bởi sự chân thành, giản dị mà sâu lắng, vừa là tiếng nói tình yêu lứa đôi, vừa là khát vọng thống nhất non sông.

Trước hết, bài thơ chan chứa nỗi nhớ thương riêng tư. Trong bối cảnh đất nước bị chia cắt, người chồng ở miền Bắc gửi nỗi lòng cho người vợ ở miền Nam xa xôi. Tình cảm ấy được diễn đạt bằng giọng thơ thủ thỉ, mộc mạc, gần gũi như lời tâm tình trong một lá thư: Có thương nhớ, có khắc khoải, có tin tưởng và hy vọng. Ở Nguyễn Bính, tình yêu luôn gắn liền với những hình ảnh quen thuộc, dân dã – tạo cho lời thơ một sức gợi đặc biệt, vừa thấm đẫm chất trữ tình, vừa rất chân thực.

Từ tình cảm riêng, bài thơ mở ra tình cảm chung. Người vợ miền Nam trong thơ Nguyễn Bính không chỉ là người vợ cụ thể của tác giả, mà còn là biểu tượng cho biết bao người phụ nữ nơi tuyến lửa, kiên cường, thủy chung, âm thầm hy sinh cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc. Hình ảnh ấy khơi dậy niềm cảm phục, trân trọng và càng làm nổi bật vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh. Qua đó, bài thơ khẳng định: Tình yêu đôi lứa trong thời loạn không hề nhỏ bé, mà trái lại, trở nên thiêng liêng khi hòa cùng tình yêu đất nước.

Bên cạnh nỗi nhớ, Nguyễn Bính còn gửi gắm khát vọng lớn lao – ngày đất nước thống nhất, Bắc – Nam sum họp, gia đình đoàn tụ. Chính khát vọng ấy đã nâng tình yêu cá nhân thành tình yêu dân tộc, làm cho giọng thơ của ông không chỉ là lời nhắn nhủ riêng tư, mà còn là tiếng lòng của hàng triệu con người Việt Nam trong thời khắc lịch sử gian lao.

Về nghệ thuật, bài thơ gây ấn tượng bởi ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng thấm thía, giàu sức gợi. Giọng thơ chân thành, tha thiết, có lúc như lời thủ thỉ, có lúc như một tiếng gọi vang vọng từ trái tim hướng về đất nước. Nguyễn Bính đã kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình đậm đà với hơi thở chính luận của thời đại, làm cho tác phẩm vừa gần gũi, vừa giàu tính khái quát.

Có thể nói, "Gửi người vợ miền Nam" là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Bính trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: Tình cảm riêng hòa trong tình cảm chung, cái cá nhân gắn với cái cộng đồng. Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được nỗi nhớ thương của một người chồng xa vợ, mà còn thấy được khát vọng mãnh liệt về độc lập, tự do, thống nhất non sông. Chính sự hòa quyện ấy đã làm nên vẻ đẹp đặc biệt của tác phẩm.

Tóm lại, với giọng thơ mộc mạc, giàu cảm xúc, Nguyễn Bính đã để lại trong lòng người đọc một bài thơ vừa đằm thắm, vừa sâu xa. "Gửi người vợ miền Nam" không chỉ là một khúc tình ca riêng, mà còn là một khúc hùng ca chung của cả dân tộc trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng.
 
Từ khóa: Sửa

Những người đang xem chủ đề này

Back