Chúng ta không phải đều muốn phát triển khoa học về nhân thể hay sao? Chúng ta không phải muốn biết được bí mật ảo diệu trong
khí công hay sao? "
Tây Du Ký toàn thư khí công phá dịch" chính là sách nói về bí mật ảo diệu của
tu luyện đại pháp. Chắc mỗi người trong chúng ta đều không khỏi tự hỏi "Tây Du Ký" với khí công có quan hệ gì? Không phải là cố làm ra vẻ huyền bí mà bày đặt ra đấy chứ? Tác giả sách này thông qua câu truyện thần thoại để diễn ta đạo lý tu luyện chân thực. Chúng ta nghiêm túc nghiên cứu có thể minh chứng: Sách này dựa trên lý luậnđạo gia khí công, mượn câu truyện thần thoại, mượn dùng ngôn ngữ thần thoại để thuật lại toàn bộ quá trình tu luyện. Rõ ràng tả câu chuyện Tây Thiên thủ kinh, bạt sơn khai thủy, hàng trừ yêu quái; ngầm tả quá trình tu luyện, khai phát nhân thể, đắcđạo thành tiên. Sách này cho rằng: Đường Tăng là Thái Cực, Ngộ Không là Kim Thủy, Bát Giới là Mộc Hỏa, dọc đường là Đường Tăng thu tam đồ, thái cực sinh ngũ hành, tiên thiên sinh hậu thiên, sinh nhân sinh vạn vật. Tam đồ bảo hộ Đường Tăng, ngũ hành quy thái cực, hậu thiên phản tiên thiên, đắcđạo mà có được thần thông. Vừa nghe nói, thấy có vẻ khiên cưỡng, nói chuyện không đâu, nghiên cứu cho kỹ mới thấy vô trung sinh hữu, đều là diệu lý. Toàn thư xuyên sơn thảo mộc, yêu ma quỷ quái, binh khíđao thương, đều cóý nghĩa riêng, rất là kỳ diệu, thâm ảo tinh túy, ngôn ngữ cẩn mật, lý lẽ chặt chẽ, nói ra đều có căn cứ. Độc giả hãy gấp mà nghiên cứu để thấy đượcđây là bộ sách tu luyện khí công rất khoa học, có thể coi như dẫnđạo chỉ đường, chỉ mê phá nghi. Chính là: Nhất bộ
Tây Du vạn cổ truyền, tự tự cú cú thị Huyền Quan. Độc giả muốn hiểuý nghĩa trong đó, hãy cẩn thận mà nghiên cứu.
Độc giả tôn kính, nếu như lần đầu đọc sách này, chắc không khỏi kinh ngạc với phát hiện mới mẻ như thế. Đúng vậy, bao nhiêu năm rồi, "Tây Du ký" đều được coi là một tác phẩm văn học, được coi là một bộ tiểu thuyết thần thoại. Nay nói nó là một bộ sách tu luyện khí công, không giật mình sao được? Thế nhưng, nếu như tâm bình khí hòa, cẩn thận xem qua một lượt, chúng ta có thể dần dần hiểu rõ mà các loại nghi ngờ đều tiêu thất. Đến lúc đó, chúng ta như làđang khai mở một kho tàng rất nhiều chân bảo cùng rất nhiều vui sướng vậy.
Kỳ thực, bộ sách "Tây Du Ký' là một bộ sách chuyên nói về khí công, không phải chúng ta lần đầu phát hiện, sớm tại thời nhà Minh, phía trên mục lục tác giả đã đề một bài thơ đề tỉnh độc giả, đọc" Tây Du' cần phải khứ giả tồn chân, từ bên ngoài mà thâm nhập vào trong, thông qua hiện tượng bên ngoài mà phát hiện bản nghĩa bên trong. Thơ viết rằng: "Nguyệt đáo thiên tâm xử, phong lai thủy diện thì. Nhất bàn thanh ý vị, liêu đắc thiểu nhân tri". Cũng là dùng hai mươi chữđó, đem một trăm hồi Tây Du phân thành hai mươi quyển, mỗi chữứng với một quyển, để mà đề tỉnh độc giả. Cũng như "Hồng Lâu Mộng", bên trong có thơ "Mãn chỉ hoang đường ngôn, nhất bả tâm toan lệ. Đô vân tác khán si, thùy giải kỳ trung vị'. Mãi tới cuối thời Minh, Uông Tượng Húc, Hoàng Thái Hồng mới công khai bình giảng xưng là" Tây Du chứng đạo thư ". Kế tiếp, mãi cho đến đầu thời nhà Thanh, khoảng những năm Khang Hi, Trần Sĩ Bân Ngộ Nhất Tử Trần tiên sinh, mới chú giải toàn bộ ý nghĩa tu luyện khí công, cũng xưng là" Tây Du chân thuyên "(诠, thuyên, thuyết minh, giải thích). Kế đến, những năm cuối Càn Long, học giả Lưu Nhất Minh Ngộ Nguyên Tử tiên sinh, dựa trên cơ sở chú giải của Ngộ Nhất Tử tiên sinh, tiến hành liễu giải toàn bộ ý nghĩa chân thực, xưng là" Tây Du nguyên chỉ ". Đạo Quang năm thứ mười chín, Trường Hàm Chương tiên sinh đã đề xuất" Tây Du ký "là" Dịch "đạo xiển phát khí công ý nghĩa thâm ảo, cũng viết thành sách gọi là" Thông dịch Tây Du chính chỉ ". Trong những năm Hàm Phong, học giả Hoài Minh tiên sinh cho rằng" Tây Du ký' xiển phát chính là phương pháp tu luyện khí công, cũng làm sách gọi là "Tây Du ký ký". Những năm Quang Tự, học giả Hàm Tinh Tử có tác phẩm "Tây Du ký bình chú", cũng xiển phát ẩn nghĩa tu luyện; cũng trong nhưng năm Quang Tự một vị khác là Khê Kiều đạo nhân, cũng làm thành "Tây Du xiển chân", khai phát đạo lý tu chân trong Tây Du ký. Cho đến nhưng năm Dân Quốc thì có rất nhiều học giả nghiên cứu Tây Du, phát triển ý nghĩa tư tưởng về khoa học nhân thể.
Như trên đã nói, chúng ta không khó để nhận thấy, Tây Du Ký là một bộ sách mang ý nghĩa tu luyện khí công, không phải là người đời nay mới đề xuất, mà từ xưa rất nhiều học giả đã nhận thức. Như nay, chúng ta trọn ra hai tác giả Ngộ Nhất Tử Trần Sĩ Bân và Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh, để giới thiệu cùng độc giả chú giải của hai vị này trong cùng một bộ sách.
Ngộ Nhất Tử tiên sinh họ Trần, tên Sĩ Bân, người Thiệu Hưng, Triết Giang, sống vào khoảng những năm cuối nhà Minh, qua đời những năm Khang Hi nhà Thanh. Về thân thế hiện còn rất ít tư liệu ghi chép lại. Thế nhưng, chỉ với bộ "Tây Du chân thuyên", giới học giả nghiên cứu đều tôn sùng như một vị đắcđạo chân truyền.
Ngộ Nguyên Tử tiên sinh họ Lưu, tên Nhất Minh. Quê gốc ở Khúc Ốc, Sơn Tây, nổi tiếng là người Đạo cao những năm Càn Long và Gia Khánh. Ngài khoảng năm hai mươi tuổi, mắc bệnh nặng, được cao nhân chữa trị, diệu thủ hồi xuân, từ đó tâm hướngđạo, từ bỏ gia tài vạn đại mà xuất gia, ngài cầu tìm chân quyết, bôn ba Đại Giang nam bắc, sau được chân truyền của Kham Cốc lão nhân và một vị tiên nhân, cần tu khổ luyện, ngộ đắc tinh diệu, tính mệnh chi công đạt đến thượng thừa, trở thành
đạo gia nhất đại tông sư. Ngài sinh thời viết rất nhiều sách, có đến hơn ba mươi chủng loại, nay truyền thế rất nhiều. Trong đó, "Tây Du nguyên chỉ" được viết rất sớm, thế nhưng bản khắc gỗ được làm rất muộn, có thể thấy tiên sinh tâm huyết cả đời ở chỗ này. Bởi vì, muốn đem bí quyết tu luyện gửi trong câu chữ, đường lối đắc đạo để ở trong văn chương, truyền đạo độ thế, tiên sinh có thể coi là thiên hạ đệ nhất. Hết lời tâm huyết, thực là cổ kim hiếm thấy. Cẩn thận đọc "Nguyên Chỉ", kim đan tâm pháp rõ ràng nói ra. Lại xem "Tây Du", trăm hồi tiểu thuyết rõ ràng trình tự tu luyện. Chữ không viết chơi, lời văn không khinh xuất, quái thư kỳ thư có thể coi là thiên hạ đệ nhất vậy! Kế tuyệt học, khai hậu thế, truyện tâm pháp, bố đạo chủng, thành thiên cổ nhất mạch chân truyện, vạn thế hoằng đạo pháp điển, có thể không bảo giữ không lưu truyền, không nghiên cứu học luyện hay sao?
Chúng ta nói "Tây Du Ký" cùng với "Vạn cổ đan kinh chi vương" "Tham Đồng Khế", và "Ngộ Chân Thiên", đều là kinh điển khí công lý luận, mượn câu truyện thần thoại, vứt bỏ đi cái hình thức bên ngoài, thì có thể cầu được kim đan đại đạo. Rõ ràng tả Tây Thiên thủ kinh, bạt sơn thiệp thủy, hàng yêu trừ quái, nhưng ngầm tả khí công tu luyện, khai phát nhân thể, đắc đạo thành chân. Sách này mô tả núi rừng thảo mộc, yêu ma quỷ quái, đao thương khí giới, nhân vật hành trình, đều có ý nghĩa riêng. Trong đó Đường Tam Tạng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, đều là các yếu tố trong tu luyện của hành giả. Chúng ta thử cùng đề cập khái lược một chút.
Tôn Ngộ Không xuất sinh tại "Đông Thắng thần châu Ngạo Lai quốc Hoa Quả sơn, thử sơn tại đại hải chi trung, sơn đính hữu nhất khối tiên thạch, nhất nhật đạo liệt, nhân lý phong, hóa tác nhất cá thạch hầu". Tôn Ngộ Không trong tu luyện khí công, dụ cho Kim trong Thủy, tiên thiên chân ất chi khí, đó là tu đạo chi căn. Thiên nhất sinh Thủy, Thủy là Nhâm Thủy, Nhâm Thủy trường sinh tại Thân. Thân ấy, Hầu vậy. Kim sinh tại Thổ, thạch là Thổ tinh, cho nên gọi là Thạch Hầu. Tôn Ngộ Không là tiên thiên chân ất chi khí, ất là mộc, hoa quả chi mộc, sinh vào mùa xuân, mùa xuân theo bát quái thuộc "Chấn", "Tốn".
Phương đông, tượng nhất dương mới sinh, cho nên Tôn Ngộ Không xuất sinh tại Đông Thắng thần châu Ngạo Lai quốc đại hải trung chi Hoa Quả sơn. Tây Du ký hồi đầu, có thơ rằng: "Tam dương giao thái sản quần sinh, tiên thạch bào hàm viết nguyệt tinh', tức mượn đó để đặt danh tính thạch hầu.
Trước nói Trư Bát Giới thuộc Hợi, trong Hợi có giáp Mộc, Mộc trường sinh tại Hợi, Mộc lại có thể sinh Hỏa, cho nên Bát Giới ẩn dụ Mộc Hỏa nhất phương. Có người hỏi Tôn Ngộ Không ẩn dụ thuộc Kim, Trư Bát Giớiẩn dụ thuộc Mộc, trong" Tây Du Ký "có nói rõ ra như vậy không? Nói: Chẳng những có, mà còn rất dễ thấy. Mời xem Tây Du ký hồi thứ mười chín, Ngộ Không thu Bát Giới, có thơ làm chứng rằng:
" Kim tính cương cường năng khắc Mộc, tâm viên hàng đắc mộc long quy. ", Kim có thể khắc Mộc, Mộc không thể khắc Kim. Kim là Ngộ Không, Mộc là Bát Giới, cho nên Trư Bát Giới:" "Đinh ba bất tằng trúc động hành giả nhất ta đầu bì" (Đinh Ba không thể đụng đến một chút da đầu của Hành Giả). Tâm viên chỉ Ngộ Không, Mộc Long ấy chỉ Bát Giới (Thanh Long thuộc phương đông, cùng Mộc đồng vị, cho nên Mộc Long tức là Bát Giới). Thơ cuối chương cũng nói: "Kim tòng mộc thuận giai vi nhất, mộc luyến kim nhân tổng phát huy." Nói Kim Mộc tương tịnh, tương tác hỗ dụng, tinh diệu trong đó có thể thấy, kim đan hữu tượng. Thơ trong đó cũng nói: "Nhất chủ nhất tân vô gian cách, tam giao tam hợp hữu huyền vi." Mộc tại đông làm chủ, Kim tại tây làm tân, chủ tân diệu hợp vô gian. "Tam giao tam hợp", tức Mộc Hỏa, Kim Thủy, giao tại Thổ. "Hữu huyền vi", đạo kỳ diệu ở chỗ này. Trong thơ cũng nói: "Tính tình tỉnh hỉ trinh nguyên tụ, đồng chứng tây phương thoại bất vi." Chân âm ấy, tính vậy, chân dương ấy, tình vậy, tức mộc tính kim tình, tính tình tương hợp tức thị âm dương tương giao, "Trinh nguyên tụ", tức đầu đuôi tương tiếp, tuần hoàn bất tức, miên miên bất đoạn, như thế trinh hạ khởi nguyên, tu luyện hữu đạo. Có thể thấy rõ tả Ngộ không thu phục Bát giới, chí đồng đạo hợp, tề tâm hiệp lực, có thể bảo hộ Đường Tăng tây thiên thủ kinh; ngầm tả kim công mộc mẫu tương tịnh, âm dương hợp nhất, mượn chân thổ điều hòa, mới là con đường tu luyện khí công.
Trong《 Tây du ký 》 hàng yêu trừ quái, đa phần tả Tôn Ngộ Không cùngTrư Bát Giới hợp tác, liên thủ phá địch. Tôn Ngộ Không là chân dương, Trư Bát Giới là chân âm, nhất âm nhất dương vị chi đạo, cho nên có kim công, mộc mẫu xưng danh. Có người hỏi Trư Bát Giới là Mộc Hỏa, lý ứng với dương, sao lại là âm? Tôn Ngộ Không là Kim Thủy, lý ứng với âm, sao lại là dương? Ngũ hành thuận hành mà nói, mộc hỏa tại đông nam, thời là xuân hạ, lý là dương; kim thủy tại tây bắc, thời là thu đông, lý là âm, đó là lý thường. Lấy ngũ hành nghịch hành mà nói, trong dương có chân âm, 《 ly 》 quái thuộc hỏa, hỏa là dương, tây 《 ly 》 quái trung hư, nội trung hào nhất âm, thượng hạ nhị hào là dương, là chân âm tàng trong chúng dương, cho nên nói Bát Giới là chân âm, là Mộc trong Hỏa; trong âm có dương; 《 khảm 》 quái là Thủy, thủy thuộc âm, mà《 khảm 》 quái trung thực, hòa bên trong là nhất dương, thượng hạ nhị hào là âm, là chân dương tàng trong chúng âm, cho nên nói Ngộ Không là chân dương, là Kim trong Thủy. Khí công kim đan chi đạo tu luyện chính là ngũ hành nghịch đảo chi công; cho nên Trương Tam Phong nói: "Thuận vi phàm, nghịch vi tiên, chích tại trung gian thuận đảo thuận", chân âm chân dương tương hợp mới thành đan. Đó chính là một bức《 thái cực đồ 》, mộc hỏa là nghi dương, kim thủy là nghi âm ; trong nghi dương có một điểmđen là âm; trong nghi âm có một điểm trắng là dương. Đồng dạng cũng là một bức《 hà đồ 》, Mộc Hỏa tại đồ là phương đông, số Mộc là 3, 8. Số của Hỏa là 2, 7. Số 2 thêm 8, số 3 thêm 7 đều là 10. Có thủy có chung, đều là nghi dương. Kim Thủy tại đồ, thuộc hướng tây bắc, số Kim là 4, 9, số thủy 1, 6. Số 4 thêm 6, số 1 thêm 9, đều là 10, có thủy có chung, thuộc nghi âm. Thân đồ hình là số 5, 10, thuộc Thổ, Thổ khởi lên tác dụng, là chân ý, có chân ý điều hòa thì âm dương nghịch hành, có thể phản tiên thiên. Kim Thủy đắc Thổ thì hội tụ, Mộc Hỏa đắc Thổ thì điều hòa. Đã có Kim Thủy, Mộc Hỏa, không thể không có chân Thổ. Cho nên Sa Tăng ẩn dụ cho Thổ. Thổ trong đồ hình là trung cung. Chân Thổ vô hình, biến dịch cửu cung, Kim Thủy Mộc Hỏa không gì là bất hợp, kỳ công chân thực hài hòa, cho nên gọi là Sa Hòa Thượng. Lại xưng là Quyển Liêm đại tướng, Quyển Liêm ấy là hình tượng trong ngoài cách biệt, quyển liêm tức minh tương thông, tức lấy ý câu nghịch chi ý (nhân chi ngũ tàng, thận tàng tinh là thủy, tâm hỏa là hỏa, Can tàng hồn là mộc, phế tàng phách là kim, tỳ tàng ý là thổ) chân thổ sắc hoàng, đối âm dương hữu môi hợp, cho nên xưng là Hoàng Bà. Cũng gọi là Sa Tăng Ngộ Tịnh, số quy y tịnh thổ, tu chân chi đạo, tổng quy chân thổ chi tác dụng. Cho nên cần phải biết chân Thổ, muốn đắc kim đan, toàn do Thổ này điều hòa công phu.
Có người lại hỏi, Sa Tăng là Hoàng Bà, trong Tây Du có chỗ nào nói tới không? Lại mời xem hồi thứ hai mươi ba, Đường Tăng sau khi thu phục Sa Tăng làm đồ đệ, thầy trò đồng tâm hợp lực tây hành. Lại có thơ rằng: "Khỉ kia trói buộc cần chi chão, Ngựa nọ ruổi rong há giật cương, Mộc mẫu, Kim công lòng vẫn hợp, Hoàng bà, Xích tử gốc thân thương, Cắn đôi đạn sắt ngời tin tức, Bát nhã ba la đến niết bàn", đều là tả Mộc Mẫu (Bát Giới), Kim Công (Ngộ Không), Hoàng Bà (Sa hòa thượng), xích tử (Đường Tăng), bốn người, ẩn dụ Kim Mộc Thổ, tam gia tương hợp, bảo hộ Xích Tử quy thái cực.
Nhị thập nhị hồi, Bát giới đại chiến lưu sa hà, có thơ làm chứng: "Bảo trượng luân, đinh ba trúc, ngôn ngữ bất thông phi quyến lệ. Chích nhân Mộc Mẫu khắc Đao Khuê, trí lệnh lưỡng hạ tương chiến mẫn." Mộc Mẫu là Bát Giới, Đao Khuê tức Sa Tăng. Chữ "Khuê" (圭) tạo bởi hai chữ Thổ (土), tức mậu kỷ nhị Thổ hợp thành, là chân Thổ. Ngôn ngữ thông tức bỉ thử đồng tâm, thổ năng điều hòa; ngôn ngữ bất thông, tức bỉ thử tranh trì, Mộc khắc Thổ. Kim Mộc tương tịnh, tu luyện hữu cơ, nhưng hoàng trung bất năng sính lý, như cũ đại đạo khó thành. 《Ngộ chân thiên 》nói: "Ly khảm nhược hoàn vô mậu kỷ, tuy hàm khốn tượng bất thành đan. Chích duyến bỉ thử hoài chân thổ, toại sử kim đan hữu sính hoàn". 《 ly》là mộc hỏa, là chân âm; 《 khảm 》là kim thủy, vi chân dương, mậu kỷ là Thổ. Có thể thấy hữu chân thổ kim đan dễ thành, vô chân thổ kim đan nan tựu. Cho nên 《 tham đồng khế 》nói: "Thanh xích bạch hắc, các cư nhất phương, giai bẩm trung cung, mậu kỷ chi công." (thanh giả mộc cư đông, xích giả hỏa cư nam, bạch giả kim cư tây, hắc giả thủy cư bắc, mậu kỷ thổ cư trung). Tiếp 《 Tây Du ký 》 nhị thập nhị hồi lại có thơ rằng: "Ngũ hành thất phối hợp thiên chân, nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỷ lập cơ vi diệu dụng, biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, mộc khứ cầu tình diệc đẳng luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.". Đến đây tam gia tương kiến, có thể tu, có thể luyện, thành đạo có hi vọng. Ngộ Không thân hầu thuộc kim, kim sinh thủy, 《 hà đồ 》 tây tứ bắc nhất, nhất ngũ vậy, nhất gia; Bát Giới hợi trư thuộc mộc, mộc sinh hỏa, 《 hà đồ 》 đông tam nam nhị, nhất ngũ dã, nhất gia; Sa tăng là thổ, 《 hà đồ 》 trung cung sinh sổ ngũ là thổ, nhất ngũ dã, nhất gia. 《 ngộ chân thiên 》nói: "Tam ngũ nhất đô tam cá tự, cổ kim minh giả thực nhiên hi, đông tam nam nhị đồng thành ngũ, bắc nhất tây phương tứ cộng chi. Mậu kỷ tự cư sinh sổ ngũ, tam gia tương kiến kết anh nhi. Anh nhi thị nhất hàm chân khí, thập nguyệt thai viên nhập thánh cơ".
Độc giả nên biết: Cái gọi là tam ngũ, Mộc Hỏa nhất ngũ, Kim Thủy nhất ngũ, Thổ nhất ngũ, đều là nhất khí phân ra vận dụng, đều là nhất khí lưu hành, không phải là chỉ vật có thực, cũng là âm dương nhị khí vận hành. Thổ là ý, chỉ nhị khí chi vận tác, dựa vào chân ý điều hòa cho nên tam gia tương hợp, mới có thể đắc đạo thành chân.
Tôn Ngộ Không là Kim, lại xưng Kim Công; Trư Bát Giới là Mộc, lại xưng Mộc Mẫu; Sa Hòa Thượng là Thổ, lại xưng Hoàng Bà. Chẳng những thơ ca trong truyện nói rõ, mà bách hồi tiêu đề, cũng sớm chỉ rõ rồi. Như tam thập nhị hồi: Tôn Ngộ Không kêu Bát Giới đi tuần sơn, Bát Giới tham ngủ, trở về nói láo với sư phụ, kết quả bị Ngộ Không nói ra, lại bị bắt đi tuần sơn lần nữa, tại Bình Đính sơn bị Kim Giác đại vương, Ngân Giác đại vương bộ hạ bắt giữ, bắt về Liên Hoa động. Tiêu đề nói: "Bình Đính sơn công tào truyện tín, Liên Hoa động Mộc Mẫu phùng tai." Trư bát giới không phải Mộc Mẫu sao? Tứ thập nhất hồi: Tôn Ngộ Không bị Hồng Hài Nhi dụng tam muội chân hỏa đả bại, Trư Bát Giới cưỡi đi mời Quan Âm hàng yêu, kết quả bị Hồng Hài Nhi biến Quan Âm bắt về Hỏa Vân động. Tiêu đề nói: "Tâm viên tao hỏa bại, Mộc Mẫu bị ma cầm." Mộc Mẫu chẳng phải Bát Giới hay sao? Tứ thập thất hồi: Thông Thiên hà gặp trở ngại, Tôn Ngộ Không Trư Bát Giới để hàng yêu, biến thành đồng nam đồng nữ tế tái hà quái. Tiêu đề nói: "Thánh Tăng dạ trở Thông Thiên hà, Kim Mộc thùy từ cứu tiểu đồng." Kim không phải Ngộ Không, Mộc không phải Bát Giới sao? Bát thập lục hồi: Đường Tăng bị Ân Vụ sơn Chiết Nhạc liên hoàn động yêu quái bắt đi, Bát Giới ra sức trước tiên, cùng Ngộ Không cộng đồng hàng quái. Cuối cùng Tôn Ngộ Không thi pháp, khiến chúng yêu ngã lăn ra, mới cứu được sư phụ. Tiêu đề nói: "Mộc Mẫu trợ uy chinh quái vật, Kim Công thi pháp diệt yêu tà." Có thể thấy Bát Giới tức Mộc Mẫu, Kim Công là Ngộ Không.
Ngũ thập tam hồi: Đường Tăng Bát Giới uống nước sông Tử Mẫu, hình thành thai khí, Tôn Ngộ Không đi Giải Dương sơn Phá Nhi động Lạc Dị tuyền lấy nước, lại bị Như Ý chân tiên ngăn cản, lấy nước không được. Sau Sa Tăng xuất mã, mới đem được tuyền thủy trở về, giải được Đường Tăng Bát Giới chi nguy. Tiêu đề viết: "Thiện chủ thôn xan hoài quỷ dựng, Hoàng Bà vận thủy giải tà thai". Hoàng Bà là chân thổ, không phải Sa Hòa Thượng sao?
Bát thập cửu hồi: Báo Đầu sơn Hổ Khẩu động yêu quái, thu mất binh khí của Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, muốn khai yến khánh Đinh Ba hội. Ngộ Không, Bát Giới biến thành tiểu yêu, Sa Tăng biến thành khách nhân, hỗn nhập Hổ Khẩu động, đoạt hồi binh khí. Tiêu đề viết: "Hoàng sư tinh hư thiết Đinh Ba hội, Kim Mộc Thổ kế nháo Báo Đầu sơn". Thử hỏi: Kim không phải Ngộ Không, Mộc không phải Bát Giới, Thổ không phải Sa Tăng sao?
Tam thập bát hồi: "Anh nhi vấn mẫu tri tà chính, Kim Mộc tham huyền kiến giả chân." Tứ thập hồi: "Anh nhi hí hóa thiện tâm loạn, Viên Mã Đao Khuê Mộc Mẫu không". Thất thập lục hồi: "Tâm thần cư xá ma quy tính, Mộc Mẫu đồng hàng quái thể chân." Bát thập ngũ hồi: "Tâm viên đố Mộc Mẫu, ma chủ kế thôn thiện." Bát thập bát hồi: "Thiện đáo ngọc hoa thi pháp hội, tâm viên Mộc Mẫu thụ môn nhân", trong đó Mộc Mẫu, Đao Khuê, Kim Công, Đều là chỉ Bát Giới, Sa Tăng, Ngộ Không. Có thể thấy Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng; ẩn dụ ba yếu tố lớn trong thân người tu luyện, toàn thư chỉ điểm rất rõ, vừa nhìn đã rõ, cần gì phải nhiều lời?
Đường Tăng ẩn dụ cho thái cực, không có Đường Tăng, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng không thể xuất hiện; không có Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Đường Tăng không thể lấy chân kinh. Thái cực sinh âm dương ngũ hành, Đường Tăng trước đắc Ngộ Không Kim Thủy chân dương, sau đắc Bát Giới Mộc Hỏa chân âm, thứ đến đắc Sa Tăng chân Thổ; tam gia tương hợp, phục hoàn thái cực. Thái cực sinh âm dương ngũ hành, là tiên thiên hướng hậu thiên thuận hành chi sinh phát! Tam gia hợp thành nhất gia, là hậu thiên phản tiên thiên nghịch hành mà hồi quy. 《 tây du ký 》 toàn thư ngầm chỉ công phu kim đan đại đạo, giảng thuật hậu thiên phản tiên thiên chi lý.
Long mã ẩn dụ, người tu hành cần có hằng tâm nghị lực, Đường Tăng thủ kinh thập vạn bát thiên dặm trường, không có đại cước lực không thể tới nơi; người tu luyện, trăm loại khổ nan, không có đại nghị lực không thể thành. Cho nên cần có Long Mã tinh trì, nhật kiền tịch dịch, tiến về phía trước, tiềm tu mật luyện, lâu dài tự đắc.
《 Tây Du ký 》 đệ nhị hồi có thơ rằng: "Diệu diễn tam thừa giáo, tinh hàn vạn pháp kim. Thuyết nhất hội đạo, giảng nhất hội thiện, tam gia phối hợp mộc như nhiên. Khai minh nhất tự quy thành lý, chỉ dẫn vô sinh liễu tính huyền', bài thơ này chỉ ra đại pháp tu luyện, nội tàng hữu vô, sắc không, hư thực, động tu vận tác chi pháp tắc. Đọc hết toàn thư khí công phá dịch, lại trở về đọc bài thơ này, có thể nói là:" Chúng lý tầm tha thiên bách độ, mạch nhiên hồi thủ, na nhân khước tại đăng hỏa đệ san xử. "
Như trên chúng ta đã nói 《 Tây du ký 》ngầm chỉ kim đan đại đạo chi diệu, 《 tây du ký 》hết thảy có đến vài chục vạn chữ, bên trong đại kỳ đại diệu, tràn ngập toàn bộ bộ sách. Ngộ Nhất Tử, Ngộ Nguyên Tử phá dịch dẫn nhập, tinh tế tỉ mỉ, tự đắc kỳ diệu. Nhưng muốn đọc hết toàn sách, cần phải hiểu một chút lý luận đạo gia khí công, cần phải biết chút ít tu luyện Phật gia. Quá khứ có rất nhiều học giả không nhận thức được giá trị thực của Tây Du, ví như" Nghi cổ phái', "Cực tả tư triều", có tư tưởng nhiễu loạn, với tư tưởng chủ quan đã tự che khuất đi tầm nhìn của họ. Thêm nữa đạo gia khí công tư tưởng thâm áo, không thể ngày một ngày hai có thể tiếp cận được. Nhất định cần phải được chân sư chỉ điểm, lại cần phải có chân lý thực tiễn của từng cá nhân, dò xét cẩn thận, cực thâm nghiên kỷ, mới có thể hiểu ngộ.
Chúng ta nói tây du ký》 là kim đan chính tông, là nhằm vào bàng môn ngoại đạo; chúng ta nói 《 tây du ký 》là khoa học khí công, là để phê phán những tư tưởng tà đạo. "Bàng" ấy, nghĩa là ở bên lề; bàng môn, tức là ở bên ngoài cửa, không phải bên trong. "Ngoại" ấy, 《 ngọc thiên 》nói rằng: "Biểu dã, viễn dã, ngoại đạo giả, viễn ly chi đạo", ở bên ngoài, không phải bên trong. Bàng môn ngoại đạo rất dễ làm lẫn lộn 'chân' đạo, mới xem rất giống với chân đạo, thiện nam tín nữ rất khó phân biệt, cho nên 《 tây du ký 》đệ nhị hồi, Bồ Đề tổ sư trước tiên chỉ ra "Thuật", "Lưu", "Tĩnh", "Động" các môn, mượn môn Ngộ Không, phê phán các môn này đều là bàng môn tiểu thuật vậy. 《Ngộ Chân Thiên: "Bất thức chân duyên thị tổ tông. Vạn bàn tác dụng uổng thi công. Hưu thì mạn khiển âm dương cách, tuyệt lạp đồ khiếu dương vị không. Thảo mộc kim ngân giai chỉ chất, vân hà nguyệt chúc mông lung. Canh nhiêu thổ nạp tịnh tồn tưởng, tổng thị kimđan sự bất đồng".
Có thầy nói rằng: Môn chúng ta tham thiện đả tọa, lại tĩnh tọa pháp môn, song tất bàn định, đoạn lự tuyệt tư. Vô dục vô tưởng, vạn niệm giai không, lâu dần tự có thể thành đạo, kiến Như Lai, thu được thần đạo, không gì không thể đạt tới. Ngộ Chân Tử cho rằng: Tĩnh tọa nhất không, như hỗ mộc ngốc tượng. Như thế mà thành phật, thử hỏi nhân sinh bách niên, trong đó quá nửa là ngủ, lúc ngủ vạn lự giai không, tại sao không thể thành đạo? Như thế tu hành, chẳng qua là cũng như mài gạch thành gương, lấy tuyết làm lương thực vậy.
Có thầy nói rằng: Môn chúng ta luyện chính là tinh, khí, thần, vận hà xa, hành đồng diệt, đem thận khí từ Vĩ Lư thượng Giáp Tích, quá song quan, tới Ngọc Chẩm, hoàn tinh bổ não, gọi là thủ《 khảm 〉〉 điền 《 ly, lâu dài từ hậu thiên phản tiên thiên, tự có thể thành tiên đạo. Hiểu được chân tinh, khí, thần là nhân chi tam bảo, tu đạo tu những thứ này. Tinh ấy không phải là giao cảm tinh. Khí ấy không phải hô hấp khí. Thần ấy không phải là tư lự thần. Nếu như thế mà tu, ta không biết như thế nào để luyện thần hoàn hư? Cũng không biết làm sao phản hồi tiên thiên?
Ở trên, nhị môn, nhất là "trứ không", nhất là "Chấp hữu", đều là bàng môn ngoại đạo, 《 tây du ký 》 nhất bách hồi trung, phê phán các môn như thế rất nhiều. Bởi nó rất giống thực cho nên rất dễ gây loạn đạo pháp, khiến nhiều người nhập vào đường mê mờ vậy.
Có thầy cho rằng: Môn chúng ta bái phật tụng kinh, tĩnh tâm chỉ lự, thiện quan ky phong, ngộ triệt tam muội, lâu dần, tự khả thành đạo. Ngộ chân tử cho rằng: Đạo tại tu luyện, bất tại tụng kinh. Vạn quyển phật kinh chỉ là giảng thuật một thứ đạo lý, tức là con đường thành Phật. Tòng niệm kinh trung ngộ xuất thành phật liễu đạo chi pháp môn, sau đó phải tu chi luyện chi, mới là chính lộ. Cho nên《 chân kinh ca 》nói: "Trì kinh chú, niệm phật khoa, bài định chỉ lự, vọng siêu thoát. Nhược thị giá bàn siêu sinh tử, biến địa thích tử tác phật la! Hựu thán ngu nhân ái tham thiện, nhất ngôn nhất ngữ đấu xảo ngôn, ngôn tẫn khẩu quyết nan miễn tử, chân cá phật pháp bất như thử."
Có thầy lại nói môn chúng ta giảng tu tâm dưỡng tính, kính phật ái đạo, hành chủng chủng thiện, thủ chủng chủng thành. Lâu dần, tự khả thành phật. Ngộ chân tử cho rằng: Tích xưa Lương Vũ đế, xây chùa bố thí, cung phật, thiết trai, hỏi Đạt Ma tổ sư có công đức gì? Đạt Ma nói: "Xây chùa, chép kinh, cung dưỡng, bố thí công đức, chỉ là nhân đức tiểu quả, thực không phải công đức." Tích đức hành thiện tu chính là nhân đạo, tuyệt không phải là thiên đạo. Tu thiên cần phải khởi phát tu nhân đạo, tu nhân đạo chỉ có thể nói là căn bản để tu phật đạo, so với đắc đạo thành phật còn xa vậy. Cho nên Tôn Ngộ Không đầu sư học đạo trước tiên học nhân đạo.
Nhị môn ở trên, đều là chính phái chi môn, nhưng chỉ có thể tu nhân đạo, không thể thành phật đạo. Đối kim đan đại đạo nhi ngôn, cũng là bàng môn ngoại đạo.
《 Tây Du ký 》chẳng những phê bình bàng môn ngoại đạo, đối với tà môn ngoại đạo cũng là thâm ác thống tuyệt. Như ở các hồi ngũ thập tứ, ngũ thập ngũ, thất thập nhị, bát thập, bát thập nhị, đều là phê phán ngự nữ thuật nhất loại, vọng tưởng tại trên thân thể nữ nhân để mà tu hành, đều là tà thuật, cho đến này loại tà đạo này vẫn còn tồn tại. Những pháp môn đó vọng xưng nam nữ song tu tựu thị biến quá tính hành vi hoàn thành, cho nên khiến không ít "Tín nữ" thất thân. Còn có không ít học giả vô trách nhiệm, đem Kim Đan đại đạo tu luyện quá trình, đánh đồng với "Phòng trung thuật". Các loại sách như vậy được lưu truyền nhiều trong giới thượng lưu trong xã hội, rất là tai hại. Ta tin rằng độc giả đọc hết《 tây du ký toàn thư khí công phá dịch》, đối với các loại dâm từ tà thuyết như thế, tự có khả năng phê phán.
Còn có không ít khí công sư, tự cho mình là thần thánh, biểu diễn các loại thần thông năng lực, phóng ra vật này vật kia, gieo trồng thứ này thứ kia, tựa hồ ta cấp cho ngươi thứ này ngươi mới có thể thành đạo, các loại thuyết pháp như thế đều là hoang đường sai lầm cả. 《 Tây du ký》cũng là đối các loại hành vi trào lộng như thế mà phê phán, cảnh tỉnh học giả cẩn thận đề phòng. Người người đều có thể thành phật, người người tự có "Chân chủng tử", chân "Linh căn". Tu thì tự có, bất tu thì cũng là vô. Cho nên đạo gia rõ ràng chỉ ra rằng: "Thử bàn chí bảo gia gia hữu. Tự thị ngu nhân thức bất toàn'《 Tây du ký 》rằng:" Thiên di địa thiết đích gia đương. "Lại nói:" Phật tại Linh sơn mạc viễn cầu, Linh sơn chích tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp, hảo hướng linh sơn tháp hạ tu. "Đinh ninh dặn dò, cảnh tỉnh học nhân!
Đương kim khí công giới, có không ít" Đại sư "đem" Ngọc tượng "của chính mình, bắt đệ tử môn" Quan chiếu "; cũng có vị chế thành tượng, khiến đệ tử môn bội bái. Các loại hành vi như thế, không biết các đại sư muốn như thế nào? Muốn cho đệ tử môn khai phát nhân thể tiềm năng, lợi kỷ lợi nhân sao? Hay là làm lợi cho tông giáo? Phật tổ Thích Ca mưu ni đối với loại hành vi này có phê phán rằng:" Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai ". Thử hỏi: Tự mình còn chưa đặt chân lên tới bỉ ngạn, còn chưa thoát khỏi" Tục niệm ", làm sao có thể phổ độ chúng sinh, làm sao giúp cho đệ tử đắc đạo thành phật mà đạt bỉ ngạn đây? Các loại hành vi như thế, đi ngược lại giáo huấn phật đạo, những kẻ trí giả cũng không làm như vậy, huống chi các vị đại sư?
Còn có không ít người nói cái gì mà Phật đem chân kinh truyện cho Đường Tăng, còn muốn" Nhân sự ". Đường Tăng không biết làm sao, chỉ biết đem Bình Bát Đường vương đưa cho mà để lại, coi đó là cậy cửa quyền mà đoạt tài vật. Không biết rằng, Phật hướng Đường Tăng muốn" nhân sự ", ngầm ám chỉ đạt được chân kinh rồi, cần phải cước đạp thực địa tu luyện. Thành Phật đại đạo, chẳng những cần phải có chân kinh, mà còn cần phải bỏ đi tu vi tu luyện, mà dựa vào" nhân sự "để mà chân lý thực tiễn hoàn thành. Ý nghĩa" nhân sự "ấy, cùng với" tri thiên mệnh, tận nhân sự ", cùng một hàm nghĩa, tuyệt không phải muốn lấy tài vật. Lại thêm, Bình Bát là đồ vật để hóa trai, người không thể một ngày không ăn, trai không thể một ngày không hóa, đó cũng là ám chỉ" tận nhân sự", tức ngày ngày nỗ lực tu trì, không thể một ngày lười biếng, cũng như mỗi ngày phải ăn uống. Tâm niệm kiên trì, sớm chiều chăm chỉ, tích tiểu thành đại, đến ngày đại công cáo thành.
Bính tý niên lục nguyệt tác ẩn trai chủ nhân Ngộ Chân Tử Tôn Quốc Trung thức.