Bạn được Thichdoctruyen2020 mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
171 1
Kiếm tiền
mrgu21 đã kiếm được 1710 đ
Giang Sơn Mỹ Nhân Chí

Tác giả:
Thụy Căn

Thể loại: Huyền ảo – Lịch sử – Quân sự – Tranh bá vương triều

Dịch giả: Mr. Gu

600.webp

Giới thiệu:

Trên một đại lục thần kỳ, nơi tụ hội vô số dân tộc, các quốc gia hùng cứ, chư hầu tranh bá, anh hùng xuất thế - phong vân biến ảo, thiên hạ phân hợp, hợp rồi lại phân.

Vì sự tồn vong của dân tộc, vì sự cường thịnh của quốc gia, vì lý tưởng và hoài bão của bản thân - vô số anh hùng kiệt xuất đã nổi lên trong thời loạn, mỗi người đều có chí hướng và con đường riêng, cùng viết nên huyền thoại máu và lửa của mình.

Hươu chết về tay ai, thiên hạ thuộc về ai, tất cả hãy cùng chờ xem.

Hãy cùng chứng kiến một đời truyền kỳ của thiết huyết hoàng đế Lý Vô Phong, kẻ đã dùng trí tuệ và dũng khí của mình viết nên chương sử oanh liệt trên mảnh đất rộng lớn này - nơi giang sơn và mỹ nhân, quyền lực và mưu kế, lý tưởng và hiện thực đan xen thành một bức tranh hùng vĩ của thời đại.
 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 01: Hồi Hương

Năm Công lịch Đại Lục 671, Lý Vô Phong – nhà chính trị, nhà quân sự, nhà hùng biện kiệt xuất, người sáng lập ra Huy Hoàng Vương Triều, và là vị Hoàng đế đầu tiên của Huy Hoàng Đế quốc – sinh ra trong một gia đình sĩ tộc sa sút ở Trung Châu, thủ đô của Đường Hà Đế quốc tại phía Đông Đại Lục.

--- Trích từ 《Huy Hoàng Đế Quốc Sử》 ---​

"A, cố hương, cuối cùng ta cũng đã trở về." Nhìn tòa thành cao sừng sững, chàng trai hít một hơi thật sâu. Dù nơi cố hương không còn một người thân, nhưng dù sao đây cũng là nơi đã nuôi dưỡng mình mười mấy năm, là nơi mình đã trưởng thành. Tình cảm cố hương sâu đậm ấy, dù có đi đâu, chàng cũng chẳng thể nào quên được.

Gần nhà lại càng thêm e sợ. Càng đến gần nơi đã rời xa, lòng chàng lại càng thêm bồn chồn. "Có lẽ mình đã thực sự lớn rồi." Chàng nhớ lại hai năm trước, khi rời nhà với tâm trạng muốn nhìn thấu thiên hạ, ngao du khắp bốn bể, hoàn toàn khác biệt với tâm trạng lúc này. "Không biết cỏ trên mộ song thân đã xanh sâu đến đâu rồi, cũng nên đi thăm một chuyến." Một thanh niên đầy phong trần đứng cạnh cổng thành, hướng mắt nhìn dòng người qua lại trên con đường lớn, lẩm bẩm một mình. Chàng không vội về nhà, mà phủi đi lớp bụi bặm trên người, một tay kéo dây cương, leo lên ngựa, phi thẳng ra ngoại ô.

"Phụ thân, Mẫu thân, hài nhi đã về rồi." Đến trước hai ngôi mộ bình thường trong nghĩa địa ngoại ô, chàng xuống ngựa, quỳ gối trước mộ, mãi không muốn đứng dậy. Nghĩa trang tĩnh lặng lạ thường, chỉ thỉnh thoảng vang lên vài tiếng chim hót.

Sau khi bái lạy mộ song thân, chàng trai đứng lên, ngửa mặt nhìn trời, thở phào một hơi dài. "Giờ mình nên làm gì đây? Thôi, cứ về nhà xem sao đã, không cần nghĩ nhiều vội."

Đường Hà Đế quốc tọa lạc ở khu vực Trung bộ và Đông bộ của Đông Đại Lục, đất đai rộng lớn, dân số đông đúc. Thủ đô Trung Châu nằm trên vùng bình nguyên Phiến Giang ở Trung bộ Đế quốc, nơi đây đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi phát triển, giao thông thuận tiện, vật phẩm phong phú, dân cư đông đúc, là một trong những khu vực sản xuất lương thực, bông vải quan trọng và là nơi kinh tế phát triển của Đế quốc, đồng thời cũng là trung tâm chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa và nghệ thuật.

Thủ đô Trung Châu có khoảng năm triệu dân, là thành phố lớn nhất Đông Đại Lục, và cũng là một trong những thành phố lớn nhất toàn bộ Lạp Á Đại Lục. Mấy trăm năm gần đây, nơi đây chưa từng chịu cảnh chiến tranh, nên đã trở thành thành phố phồn hoa nhất Đông Đại Lục. Thành phố được xây dựng từ đầu thời kỳ Đường Hà Đế quốc, năm Công lịch Đại Lục 286. Trải qua hơn hai mươi năm mới hoàn thành cơ bản, sau đó qua các đời lại dần dần hoàn thiện, đến đầu thế kỷ này mới hoàn thành trọn vẹn.

Thành phố chia làm hai phần: Nội thành và Ngoại thành. Nội thành là Hoàng Cung, nơi Hoàng đế, phi tần và các con chưa trưởng thành sinh sống, cũng như nơi Hoàng đế làm việc. Nội thành nằm ngay giữa trung tâm thành phố, bao quanh Nội thành là khu vực làm việc của các cơ quan chính phủ. Tiếp đến là dinh thự của các quan lại, quý tộc, rồi đến khu dân cư và khu thương mại.

Toàn bộ thành phố có hình vuông vắn, chín con đường lớn rộng rãi chia thành phố thành ô bàn cờ từ Đông sang Tây và từ Nam ra Bắc, xen kẽ là vô số ngõ hẻm, lối đi nhỏ và quảng trường. Tường thành kiên cố cao mười lăm mét, rộng mười mét bao bọc toàn bộ thành phố, bên ngoài còn có một con hào rộng bao quanh. Bốn cửa thành Đông, Tây, Nam, Bắc đều có một cổng lớn rộng mười mét, thường ngày không mở, chỉ khi có trường hợp đặc biệt mới mở. Hai bên cổng lớn có hai cổng nhỏ rộng năm mét, mở từ sáu giờ sáng đến tám giờ tối, phục vụ việc đi lại thường ngày của người dân trong và ngoài thành.

Gần bốn cửa thành, cả bên trong và bên ngoài thành đều có một doanh trại quân đội. Bốn doanh trại bên trong thành đóng bốn sư đoàn của Cấm Vệ Quân Đoàn Đế quốc, bốn doanh trại bên ngoài thành đóng bốn sư đoàn của Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc.

Khu công nghiệp và khu thương mại chủ yếu tập trung ở phía Bắc thành phố, nơi đây tập trung các xưởng sản xuất, nhà kho, chợ đầu mối của các loại hàng hóa, cũng như các bang hội ngành nghề, trụ sở hoặc chi nhánh của nhiều thương hiệu lớn. Tổng Cục Tài chính Đế quốc và Tổng Cục Thuế vụ trực thuộc cũng đặt ở đây.

Mỗi ngày, các loại hàng hóa từ khắp nơi trong Đế quốc và thậm chí khắp Đại Lục được vận chuyển liên tục bằng đường bộ hoặc đường thủy qua bến Phiến Giang nằm ngoài cổng Bắc vào thành, và các sản phẩm của thủ đô cũng được vận chuyển từ đây đi khắp cả nước. Các thương hiệu nổi tiếng khắp Đại Lục đều đặt trạm trung chuyển và kho tạm ở bến tàu.

Khu thương mại và khu giải trí chủ yếu tập trung ở phía Đông thành phố. Đây là nơi phong thủy tốt để kinh doanh, các cửa hàng san sát nhau, trên các con phố lớn nhỏ xe cộ tấp nập, thương nhân và du khách từ khắp Đại Lục có thể thấy khắp nơi. Phần lớn các tiệm vàng, ngân hàng, tửu lầu, khách sạn, chốn phong nguyệt, sòng bạc, tiệm cầm đồ, trung tâm đấu giá nổi tiếng đều nằm trong khu vực này. Đây cũng là khu vực có an ninh xã hội phức tạp nhất thủ đô, Tổng Cục Cảnh sát Đế quốc và Cục Cảnh sát Thủ đô cũng đặt ở đây.

Phía Nam thành phố là trung tâm văn hóa nghệ thuật của Đế quốc. Đại học Đế quốc, Học viện Nghệ thuật Đế quốc, Học viện Quân sự Đế quốc – ba trường đại học cao nhất Đế quốc – đều tọa lạc tại đây. Sinh viên từ khắp nơi trong Đế quốc học tập các kỹ năng và kiến thức khác nhau tại đây, nhiều sinh viên từ các quốc gia khác ngoài Đế quốc cũng không ngại ngàn dặm xa xôi đến đây cầu học. Nơi đây còn có Thư viện Đế quốc, Viện Bảo tàng Đế quốc, Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật Đế quốc, Kỳ viện Đế quốc, Nhà hát lớn Quốc gia Đế quốc, Viện Thư họa Đế quốc, Thái Y Phủ và nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng khác.

Vì khu vực này có cảnh quan đẹp, không khí văn hóa nghệ thuật đậm đà, các tòa đại sứ quán của các nước ở Đường Hà Đế quốc cũng chọn nơi đây. Nhiều vương công quý tộc cũng xây dựng dinh thự hoặc biệt thự của mình tại đây, đồng thời còn có không ít thư viện tư nhân, trường tư thục nổi tiếng cũng được xây dựng tại khu vực này.

Phía Tây thành phố là khu vực sinh sống chính, phần lớn người dân thường của thủ đô đều sống ở khu vực này. Ra khỏi cổng Tây Hoàng Cung là Khải Hoàn Môn và Quảng trường Khải Hoàn nổi tiếng, nơi Đế quốc tổ chức các đại lễ và nơi Hoàng đế duyệt binh.

Xung quanh quảng trường có trụ sở của Cấm Vệ Quân Đế quốc và Thành Vệ Quân Đế quốc, lần lượt đóng Sư đoàn thứ nhất của Cấm Vệ Quân Đoàn và Sư đoàn thứ nhất của Thành Vệ Quân Đoàn. Bộ Tư lệnh Hiến Binh Đế quốc và Tổng bộ Vũ Lâm Quân Đế quốc cũng nằm xung quanh quảng trường.

Bái lạy xong mộ phần song thân, chàng thanh niên lại lên ngựa, phi vào thành. Vào thành từ cổng Tây, vừa qua cổng là Đại lộ Khải Hoàn lừng danh. Đi dọc theo đại lộ này sẽ dẫn thẳng tới Khải Hoàn Môn và Quảng trường Khải Hoàn ngoài cổng Tây Hoàng Cung. Vào thành, chàng trai xuống ngựa, dắt ngựa đi chầm chậm dọc theo đại lộ, nhìn những cảnh vật quen thuộc xung quanh. Cảnh tượng hai năm trước rời nhà cứ như vừa mới xảy ra hôm qua. Xung quanh vẫn như cũ, không có nhiều thay đổi: Dòng người tấp nập, các cửa hàng buôn bán phát đạt, khách lữ hành đến từ Nam, Bắc, các tiểu thương rao hàng bên đường. Mọi cảnh tượng sinh động và chi tiết hiện rõ trong mắt. "Xem ra cuộc sống của người dân Đế đô vẫn không tệ, khác xa so với cuộc sống của người dân ở mấy quận phía Tây Đế quốc." Chàng vừa đi vừa nghĩ.

Dắt ngựa, chàng rẽ phải vào một con phố khác, đi thêm một đoạn, rồi rẽ trái vào một con hẻm nhỏ. Đi nhanh vài bước, chàng đã thấy cánh cửa nhà mình. Đây là một con hẻm không lớn, có thể thấy những người sống ở đây đều là dân thường. Thật khó mà tưởng tượng được vài chục năm sau, nơi đây sẽ thu hút hết đợt du khách này đến đợt du khách khác đến tham quan cố cư của Hoàng đế Đế quốc.

"Dì Ngô, Dì Ngô!"

"Ai đấy?"

"Là cháu đây."

"Ai cơ?" Cùng với tiếng "kẽo kẹt" của cánh cửa, một phụ nữ trung niên khoảng bốn mươi tuổi bước ra từ cánh cửa vừa mở bên cạnh. Chàng trai nhận ra ngay đó là Dì Ngô, người hàng xóm đã nhìn mình lớn lên từ nhỏ.

"Là cháu đây, Dì Ngô, cháu là Vô Phong đây."

"Vô Phong, thật sự là cháu sao? Hai năm nay cháu chạy đi đâu rồi? Vừa đi là hai năm, chẳng gửi lấy một lời về, làm người ta lo chết đi được, nhỡ có chuyện gì, dì làm sao đối mặt được với mẹ cháu lúc lâm chung đã gửi gắm cháu cho dì?"

"Dì Ngô, chẳng phải cháu đã về rồi sao? Hơn nữa, cháu cũng đâu còn nhỏ nữa, cháu tự lo được cho mình. Lúc cháu đi, chẳng phải cháu đã nói với dì rồi sao?"

Dì Ngô kéo chàng hỏi han ân cần một hồi, Vô Phong phải rất khó khăn mới kể sơ lược được tình hình hai năm qua của mình. "Vô Phong à, mới mười sáu tuổi mà cháu đã đi nhiều nơi thế này rồi, thật không đơn giản. Ở ngoài chắc là khổ lắm hả?" "Quen rồi, cũng chẳng thấy có gì." Dù nói vậy, nhưng nhớ lại lúc mình vừa tròn mười bốn tuổi đã một mình rời nhà đi du lịch khắp thế gian, "đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường," "Trời giao đại nhậm cho người này, ắt trước phải đày đọa tâm chí, nhọc mệt gân cốt, bắt thân thể chịu đói khổ," lời sư phụ vẫn còn văng vẳng bên tai. Chớp mắt đã hai năm trôi qua, chàng cũng đã làm theo lời dặn của sư phụ, hoàn thành chuyến du lịch. Bản thân chàng cũng đã từ một thiếu niên gầy gò trở thành một thanh niên vóc dáng cao ráo, đồng thời mở mang tầm mắt, tăng thêm kiến thức, và võ công cũng tiến bộ vượt bậc. Hai năm chịu khổ này thực sự mang lại lợi ích lớn cho sự trưởng thành của chàng.

"À, phải rồi, sao cháu không thấy Đại Ngưu và Nhị Nữu đâu?"

"Đại Ngưu đi kéo hàng với cha nó ở bến tàu rồi. Nhị Nữu thì năm ngoái đã gả cho Trương lão tứ ở con phố phía trước rồi, Trương lão tứ làm chân chạy việc ở một tiệm thuốc phía Đông thành, cuộc sống cũng coi như tạm ổn. Nghe nói gần đây phía Tây đang đánh nhau, phía Bắc thì có giặc cướp quấy phá, xem ra cuộc sống ngày càng không được yên bình rồi. Chú của cháu họ cũng sắp về rồi. Dì đi làm vài món ăn, chờ họ về cả nhà mình sum họp một bữa."

Sự quan tâm chân thành của người hàng xóm khiến Lý Vô Phong vô cùng cảm động. Nằm trong căn nhà đã hai năm chưa về, Lý Vô Phong miên man suy nghĩ. Giờ đã về nhà rồi, sau này mình nên đi đâu, làm gì đây? Có lẽ đã đến lúc phải đưa ra quyết định rồi. Nghĩ đến đây, Lý Vô Phong chợt nhớ đến lúc ăn tối, Chú Ngô có nhắc đến việc Quảng trường Khải Hoàn trong thành đang tuyển quân. Có lẽ đây là một cơ hội. Tại sao không bắt đầu từ đây để thực hiện ước mơ từ thuở nhỏ của mình?

Sư phụ hai năm trước đã từng nói, hiện nay trên Đại Lục, Đường Hà Đế quốc ở phía Đông có nỗi lo tiềm ẩn từ các phiên trấn bên trong, bên ngoài thì bị các nước xung quanh rình rập, biên cương Tây Bắc lại bị các dân tộc du mục phương Bắc xâm lược, quấy nhiễu hàng năm. Nội bộ Đế quốc cũng có rất nhiều vấn đề, các cuộc khởi nghĩa nhỏ của nông dân, nô lệ thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Nhiều người nghèo vì mưu sinh mà trở thành giặc cướp. Quốc lực Đế quốc ngày càng suy yếu, sớm đã không còn được khí thế như thời kỳ cường thịnh nhất.

Ở Trung Đại Lục, thế lực của các dân tộc du mục trên thảo nguyên phía Bắc rất mạnh mẽ, liên tục phát động chiến tranh xâm lược ra bên ngoài, nội bộ cũng không ngừng tranh chấp. Khu vực Trung bộ và Nam bộ thì các quốc gia, thành bang san sát nhau. Do không có sự can thiệp của thế lực lớn nào, nên mười năm gần đây không xảy ra chiến tranh lớn, cục diện có vẻ tương đối yên bình, nhưng các cuộc xung đột nhỏ vẫn xảy ra, và do sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia và thành bang, khả năng bùng phát chiến tranh vẫn luôn tồn tại.

Tây Đại Lục thì là cuộc tranh bá của bốn thế lực mạnh. Ba cường quốc và một liên minh quốc gia không ngừng chiến đấu vì lợi ích riêng của mình, trong khi các dân tộc du mục phía Bắc cũng năm này qua năm khác nam tiến xâm lược, đổ thêm dầu vào lửa cho Tây Đại Lục vốn đã chìm trong khói lửa chiến tranh.

Nghĩ đến đây, Vô Phong cảm thấy sâu sắc rằng, muốn làm nên chuyện lớn trong thời thế hiện nay, không có thực lực thì chỉ là si tâm vọng tưởng. Có thực lực mới có quyền lên tiếng. Vô Phong không nhớ rõ là triết gia nào đã từng nói câu này.

Giờ tham gia quân đội, vừa hay có thể thi triển tài năng của mình, gây dựng nên sự nghiệp. Nghĩ đến đây, chàng không khỏi hạ quyết tâm, rồi mới yên tâm ngủ. Sáng sớm, vừa tỉnh giấc, trời còn chưa sáng. Đã lâu lắm rồi chàng mới được ngủ một giấc thoải mái như vậy. Chàng đứng dậy đi ra sân, vận động thân thể, rồi luyện tập quyền cước. Tục ngữ có câu: "Quyền không rời tay, khúc không rời miệng." Luyện công như chèo thuyền ngược nước, không tiến ắt lùi. Chàng đã sớm hình thành thói quen dậy sớm luyện công mỗi ngày. Nếu không có tình huống đặc biệt, chàng đều kiên trì tập luyện.

Ngoài cửa truyền đến tiếng Dì Ngô gọi chàng sang ăn sáng. Lý Vô Phong sửa soạn lại rồi đi qua. Sau bữa cơm, Vô Phong nói với gia đình Dì Ngô về quyết định của mình. Dì Ngô có chút lo lắng, nhưng Chú Ngô thì hết lòng ủng hộ, cho rằng chí làm trai là ở bốn phương, nên đi thử sức một phen.
 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 2: Mầm mống

Quảng trường Khải Hoàn là công trình lớn nhất và quan trọng bậc nhất trong toàn đế đô. Giữa quảng trường, Khải Hoàn Môn sừng sững như một biểu tượng của đế quốc hùng cường, xung quanh là các cơ quan trọng yếu cùng hàng loạt tòa nhà quyền lực. Bên cạnh Khải Hoàn Môn, cờ quân phần phật trong gió, vài chiếc lều dã chiến dựng san sát, khung cảnh vừa hùng tráng vừa trang nghiêm.

Theo luật của đế quốc, mọi nam nhân từ mười sáu đến bốn mươi lăm tuổi đều có thể nhập ngũ. Một khi đã gia nhập quân đội, nếu không được quân bộ phê chuẩn mà tự ý rời bỏ, sẽ bị xem là đào binh và xử theo quân pháp.

Đế quốc dân đông, binh nguồn dồi dào, vì thế thi hành chế độ tuyển mộ tự nguyện. Với nhiều người dân tầng lớp trung hạ, nhập ngũ không chỉ là vinh dự, mà còn là một con đường đổi đời, dẫu cơ hội chẳng nhiều.

Đế quốc vốn là một quốc gia phân tầng nghiêm ngặt:

Đẳng cấp thứ nhất là hoàng tộc - huyết thống trực hệ và thân cận của hoàng đế.

Đẳng cấp thứ hai là sĩ tộc, tức tầng lớp quý tộc - những người được phong tước nhờ công lao quân sự, chính trị, hoặc kế thừa tước vị tổ tiên.

Theo quy định, tước vị chỉ được truyền cho một người ở đời kế tiếp. Nếu đời thứ ba không có công trạng hiển hách, danh vị sẽ bị thu hồi. Nhờ vậy, số quý tộc có tước phong không nhiều, song hậu duệ của họ vẫn được ưu tiên tuyệt đối trong việc làm quan, nhập ngũ hay thăng tiến - đó là quyền lợi của sĩ tộc.

Đẳng cấp thứ ba, gọi là thứ tộc, bao gồm quan lại bình dân, thương nhân, địa chủ, chủ xưởng, hay người có cống hiến đặc biệt được địa phương báo lên trung ương công nhận.

Đẳng cấp thứ tư là dân tự do, tức tầng lớp dân thường mưu sinh bằng đủ mọi nghề nghiệp.

Hai đẳng cấp này gộp chung gọi là bình dân.

Ngoài ra, còn có một tầng lớp không được pháp luật công nhận nhưng tồn tại khắp nơi - nô lệ.

Họ là tù binh, tội nhân, con nợ hay hậu duệ của những người ấy, sống ở tận cùng đáy xã hội.

Muốn trở thành dân tự do, nô lệ phải có chủ nhân chứng nhận và nộp phí xác lập thân phận cho chính quyền địa phương, được phê chuẩn mới coi là hợp pháp. Duy chỉ có hoàng đế là người có quyền đặc xá nô lệ ngay tức khắc.

Chính vì sự phân tầng khắt khe này, những người thuộc tầng lớp bình dân muốn đổi số phận phải nỗ lực gấp bội.

Ngay cả khi có tài năng xuất chúng, công lao hiển hách, họ vẫn khó vượt qua rào cản huyết thống.

Ngược lại, những kẻ xuất thân sĩ tộc dù tầm thường hay thậm chí thối nát, vẫn ngồi trên đầu người khác.

Lý Vô Phong từng nhiều lần nghĩ - đây mới là căn bệnh trầm kha của đế quốc, còn nguy hiểm hơn cả ngoại xâm.

Dẫu vậy, qua các triều đại, lời khuyên cải cách vẫn rơi vào im lặng.

Bởi một khi đụng đến lợi ích của sĩ tộc, tầng lớp quý tộc thượng tầng liền đồng loạt phản đối kịch liệt.

Đa phần quan viên cao cấp trong triều đều xuất thân từ chính sĩ tộc ấy.

Mọi đề nghị cải cách đều "chết yểu" trong im lặng.

Vô Phong nhớ lại lần luận bàn cùng sư phụ:

"Người muốn làm nên đại nghiệp, điều quan trọng nhất là gì?"

Câu trả lời cuối cùng - không phải võ công, không phải đức hạnh, không phải mưu lược, mà là biết dùng người, biết trọng người hiền, có lòng bao dung và tầm nhìn thiên hạ.

Đáng tiếc, đế quốc này lại đang bóp chết chính những nhân tài của mình.

Bao người có chí đành rời bỏ quê hương, sang nước khác tìm đường sống, thậm chí trở thành mối họa tiềm ẩn cho quốc gia.

Đến chỗ chiêu binh bên cạnh Khải Hoàn Môn, nơi đây đã sớm đông nghịt người.

Do Đế quốc từ trước đến nay coi trọng quân công, đặc biệt là trong mấy chục năm gần đây, Đế quốc liên tục thất bại trong các cuộc chiến tranh đối ngoại, đã ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của Đế quốc trong mắt các nước Đại Lục.

Hoàng đế đương nhiệm lại càng có ý muốn chấn hưng hình ảnh Đế quốc, đối với những người lập được quân công đều ban thưởng trọng hậu.

Trong khi đó, việc Đế quốc xét duyệt những người xuất thân Thứ tộc và Dân tự do muốn tham gia chính trị lại rất nghiêm ngặt, việc thăng tiến cũng khó khăn hơn so với trong quân đội.

Dù sao, trong quân đội, đã lên chiến trường, chỉ cần có can đảm và tài trí, cơ hội sẽ nhiều hơn rất nhiều, nên người dân tầng lớp trung và hạ lưu đều rất tích cực gia nhập quân ngũ.

Vô Phong xem qua yêu cầu tuyển quân bên ngoài lều.

Đợt tuyển quân này chủ yếu là để bổ sung biên chế cho mấy sư đoàn của Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc, nhằm đối phó với tình hình ngày càng nghiêm trọng.

Vì Thành Vệ Quân Đoàn đóng quân ngay trong thành và vùng ngoại ô Thủ đô, nên người dân Thủ đô càng tích cực tham gia nhập ngũ hơn.

Chàng phải đợi đủ hai giờ đồng hồ mới đến lượt Lý Vô Phong đăng ký.

Khi Vô Phong đưa giấy tờ thân phận cho viên quân quan trung niên phụ trách đăng ký, viên quân quan nhìn giấy tờ, rồi dùng ánh mắt kinh ngạc đánh giá Vô Phong, sau đó lại kiểm tra kỹ lưỡng một lần nữa, rồi mới theo quy định yêu cầu Vô Phong báo tên, tuổi, quê quán và các thông tin liên quan khác.

Vô Phong biết viên quân quan kinh ngạc vì điều gì, bởi vì những người xuất thân Sĩ tộc rất hiếm khi gia nhập quân đội ở cấp cơ sở như thế này.

Họ thường thông qua các mối quan hệ và kênh khác nhau để vào cơ quan quân đội hoặc tầng lớp trên.

Những người như Vô Phong trực tiếp đến điểm tuyển quân đăng ký gia nhập cấp cơ sở là điều thực sự hiếm thấy.

Sau một cuộc kiểm tra thị giác và kiểm tra sức khỏe đơn giản, phòng tuyển quân nhanh chóng đưa ra quyết định chấp thuận nhập ngũ.

Cứ như vậy, Lý Vô Phong trở thành một tân binh của Sư đoàn thứ ba, Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc.

Sau ba tháng huấn luyện tân binh cơ bản, nhờ những màn thử tài của Vô Phong trong quá trình huấn luyện, chàng đã nhận được lời khen ngợi nhất trí từ các quân quan huấn luyện tân binh.

Cộng thêm xuất thân Sĩ tộc của Vô Phong, chàng nhanh chóng được bổ nhiệm làm Tiểu đội trưởng của Tiểu đội thứ hai, Trung đội thứ ba, Đại đội thứ năm mới thành lập, Liên đội thứ tư, Sư đoàn thứ ba, Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc.

Khi biết mình được bổ nhiệm làm Tiểu đội trưởng, Vô Phong không khỏi dâng lên một cảm giác phấn khích.

Dù sao, đây là bước thành công đầu tiên trên con đường mà chàng đã chọn.

Tuy nhiên, con đường phía trước không hề bằng phẳng.

Thông thường, một tân binh rất khó được thăng chức trực tiếp làm quân quan, huống hồ là nhảy vọt qua cấp Phân đội trưởng để trực tiếp lên làm Tiểu đội trưởng, mà Vô Phong còn chưa tròn mười bảy tuổi.

Một tiểu đội có năm phân đội, ba mươi lăm người.

Liệu mình có thể thực sự đứng vững trong tiểu đội, có thể thực sự giành được sự tin phục của mọi người trong đội hay không, vẫn cần phải được kiểm chứng.

Trong đội chắc chắn sẽ có không ít người, đặc biệt là một số lính cũ và những người tự cho mình là có bản lĩnh, muốn gây khó dễ cho mình.

Thay vì ngồi chờ, chi bằng nói thẳng, giải quyết một cách công khai, minh bạch.

Nghĩ đến đây, Lý Vô Phong nở một nụ cười đầy tự tin.

"Mọi người, trước khi về vị trí của mình, tôi xin tự giới thiệu một chút. Sau này chúng ta là anh em cùng chiến đấu, cùng sinh hoạt, hy vọng mọi người sẽ ủng hộ công việc của tôi. Tôi tên là Lý Vô Phong, năm nay mười bảy tuổi, người Trung Châu, sau này sẽ là Tiểu đội trưởng của các bạn."

Vô Phong đứng trước hàng quân của toàn bộ tiểu đội, bình thản tự giới thiệu đơn giản về bản thân.

Bên dưới, khuôn mặt các binh sĩ lộ rõ vẻ kinh ngạc, không phục, ghen tị lẫn lộn, nhưng tất cả đều giữ im lặng, bởi vì quân kỷ Đế quốc rất nghiêm khắc, kẻ nào coi thường cấp trên sẽ bị xử lý theo quân luật.

Sau đó, Vô Phong chuyển giọng.

"Có lẽ trong lòng mọi người đang nghĩ: Cái tên nhóc ranh chưa ráo máu đầu này chắc chắn là bà con thân thích của ai đó cấp trên, ăn no rửng mỡ nên chạy đến quân đội để 'mạ vàng' thân mình, chỉ là không hiểu sao lại chạy xuống tận cấp cơ sở này.

Tôi có thể thẳng thắn nói rõ với mọi người, tôi, Lý Vô Phong, xuất thân Sĩ tộc, nhưng tuyệt đối không phải dựa vào cái gọi là quan hệ để kiếm chén cơm.

Tục ngữ nói rất hay: 'Là lừa hay là ngựa, cứ lôi ra chạy thử.'

Hiện tại, tôi vẫn chưa phải là đội trưởng của mọi người, nếu ai nghi ngờ năng lực của tôi, xin cứ thoải mái chỉ giáo.

Ở đây là cấp cơ sở nhất trong quân đội, cái hơn nhau chính là bản lĩnh giết địch.

Tôi xin lấy danh dự cá nhân mà thề, tuyệt đối sẽ không vì chuyện này mà ôm hận trả thù người khiêu chiến tôi, bất kể thắng hay bại.

Nếu vi phạm, trời tru đất diệt.

Nếu ai đánh bại tôi, tôi sẽ tiến cử người đó lên cấp trên để thay thế vị trí đội trưởng của tôi, còn tôi sẽ làm một binh sĩ bình thường."

Những lời này của Vô Phong lập tức gây ra một làn sóng lớn trong các binh sĩ.

Chẳng phải chỉ là một đứa nhóc ranh sao? Đánh bại nó thì có hy vọng làm Tiểu đội trưởng, dù không làm được Tiểu đội trưởng thì ít nhất cũng làm được Phân đội trưởng.

Mà dù có thua, cũng chẳng ảnh hưởng gì, dù sao hắn ta cũng đã thề độc trước công chúng, không thể nuốt lời được.

Các binh sĩ không khỏi nhìn nhau, ai nấy đều có chút háo hức muốn thử.

"Sao? Không ai dám thử sao?"

Quả nhiên, câu nói này vừa thốt ra, lập tức có người bước ra đáp lời.

"Tôi xin đến! Binh nhì Khang Kiến Quốc xin thỉnh giáo Đại nhân!"

Vô Phong đánh giá người hán tử vừa nhảy ra: Chừng hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, dáng người vạm vỡ, lưng hổ vai gấu, mặt vuông trán rộng, toát ra khí chất của một anh hùng đánh hổ.

Hắn ta tay trái vác khiên, tay phải cầm đao.

Sau khi chào Vô Phong một cái, hắn lùi lại hai bước, chờ đợi.

Vô Phong cũng tiện tay lấy cây trường thương từ một binh sĩ cầm thương bên cạnh, nói: "Mời!"

Đối phương cũng không khách sáo, khiên trái hộ thân, xông lên.

Vô Phong nghiêng người, trường thương nhân thế đâm thẳng vào hạ thân đối phương.

Đối phương cũng không yếu thế, khiên trái nhấn xuống, động tác dứt khoát, gọn gàng.

Một tiếng "cang!" vang lên, cả hai đều lùi lại một bước.

Vô Phong thầm cảm thấy đối thủ có thực lực không tồi.

Nhưng đâu biết rằng chính chiêu thương này đã khiến gần như tất cả những người có mặt đều kinh ngạc.

Bởi vì Khang Kiến Quốc là người nổi bật nhất trong số tân binh của toàn bộ Sư đoàn thứ ba, vậy mà lại bị Vô Phong dùng thương đánh vào khiên mà chấn lui.

Cần biết rằng khiên thép nặng hơn trường thương rất nhiều, lấy nhẹ đánh nặng, hơn nữa khiên được đeo vào cánh tay, tương đương với sức mạnh của nửa người.

Mà chỉ ngang sức nhau, rõ ràng là thực lực không tương xứng, trong khi đó, Khang Kiến Quốc đã là người giỏi nhất trong số tân binh rồi.

Khang Kiến Quốc càng cảm thấy nỗi khổ trong lòng mình.

Toàn bộ cánh tay trái bị chấn đến tê dại, hoàn toàn không thể dùng sức.

Nhưng giờ đây đã ở thế cưỡi hổ rồi, chỉ đành cắn răng xông lên.

Lắc lư khiên trái một cái, Khang Kiến Quốc nhanh chóng lăn người về phía trước, đã đến trước mặt Vô Phong.

Hắn ta nhân thế vung đao phải chém mạnh vào hai chân Vô Phong.

Vô Phong đã sớm đề phòng, lùi lại một bước, trường thương xiên ngang, đỡ được nhát đao hung hiểm này.

Rồi trường thương hất lên, đâm thẳng vào cổ họng đối phương.

Đối phương nghiêng đầu né tránh, khiên sắt đẩy thẳng tới, đập mạnh vào ngực Vô Phong, đồng thời thu đao về phòng thủ.

Vô Phong dùng thân thương gạt cú đập của khiên sắt, rồi lùi lại hai bước, trường thương đâm thẳng vào cánh tay phải đang cầm đao của đối phương.

Khang Kiến Quốc dựng lưỡi đao phải lên đỡ.

Vô Phong nhân đà nhấn xuống, dùng sức xoắn.

Đối phương chỉ cảm thấy một lực lớn truyền đến từ tay, không thể cầm chắc thanh phác đao nữa, bị trường thương xoắn bay xa hơn một trượng.

Khang Kiến Quốc ngẩn người đứng đó, mặt đầy xấu hổ, không biết phải làm sao.

Vô Phong cắm thương xuống đất, đi tới nhặt đao lên giao cho hắn.

Khang Kiến Quốc như tỉnh cơn mơ, hành lễ với Vô Phong.

"Thuộc hạ cuồng vọng, không biết trời cao đất dày, xin đội trưởng trách phạt."

"Tôi đã nói rồi, hoan nghênh mọi người chỉ giáo. Cậu không hề có lỗi gì, lấy gì mà trách phạt."

Đánh bại đối thủ khiêu chiến một cách dứt khoát, lập tức trấn áp được gần như tất cả mọi người.

Ai nấy đều tự cân nhắc bản thân, liệu mình có thể dễ dàng đánh bại Khang Kiến Quốc như vậy không, bản lĩnh của mình rốt cuộc lớn đến đâu.

Trong lòng mỗi người đều tự rõ, đội ngũ im lặng như tờ.

"Còn ai muốn thử nữa không?"

Ánh mắt của vài lính cũ đều đổ dồn về người đứng đầu tiên bên trái.

Đó là một hán tử lớn hơn Khang Kiến Quốc một hai tuổi, về vóc dáng thì không bằng Khang Kiến Quốc, nhưng khí chất đứng đó rõ ràng hơn hẳn đám tân binh như Khang Kiến Quốc.

Vô Phong cũng không nói thêm, chỉ mỉm cười nhìn hắn.

Hán tử kia rõ ràng có chút do dự, nhưng cuối cùng dường như không chịu nổi áp lực từ ánh mắt mọi người, hắn vẫn bước ra, hành lễ.

"Thuộc hạ, Hạ sĩ Lương Sùng Tín, Phân đội trưởng Phân đội thứ nhất, Tiểu đội thứ hai, xin Đại nhân chỉ giáo nhiều hơn."

Lời nói rõ ràng lịch sự hơn hẳn lúc nãy.

"Mời." Vô Phong cũng không nói nhiều.

Xem ra thực lực của Lương Sùng Tín này cao hơn Khang Kiến Quốc không chỉ một bậc.

Lương Sùng Tín từ từ bước ra khỏi hàng, trên tay là cây kích thương.

Vô Phong thì lấy chiếc khiên sắt và phác đao mà Khang Kiến Quốc vừa dùng từ tay một binh sĩ bên cạnh.

Các binh sĩ xung quanh không khỏi xì xào bàn tán.

Vừa rồi Vô Phong dùng trường thương dễ dàng đánh bại Khang Kiến Quốc dùng đao khiên, chứng tỏ Vô Phong phải giỏi các loại trường binh như thương kích.

Giờ đối phương cầm kích thương, mà hắn lại đổi sang đao khiên, chẳng lẽ trường đoản binh đều tinh thông?

Nếu là như vậy, e rằng mình cũng chẳng hơn Khang Kiến Quốc được bao nhiêu.

Lương Sùng Tín vốn đã không còn tự tin mấy, sắc mặt lại càng thêm nặng nề.

Thôi kệ, cứ dốc hết sức mình, cũng coi như không phụ lòng mong đợi của anh em.

Nghĩ đến đây, Lương Sùng Tín không khỏi phấn chấn tinh thần.

Một tiếng quát khẽ, Lương Sùng Tín tiến lên xung phong một cách đẹp mắt, chủ động tấn công.

Chiêu này giành được tràng pháo tay tán thưởng từ các binh sĩ ngoài vòng chiến.

Vô Phong cũng không chậm trễ, cánh tay trái ôm khiên, thân hình nghiêng chuyển, một cú va nhẹ nhàng đã hóa giải đòn tấn công sắc bén của đối thủ thành hư vô.

Tiếng reo hò của các binh sĩ chưa dứt, lại không khỏi reo hò thán phục cho màn hóa giải nhẹ nhàng của Vô Phong.

Hóa giải chiêu thức của Lương Sùng Tín, Vô Phong xông lên, phác đao tay phải bổ thẳng xuống đầu.

Đối phương giơ vũ khí lên đỡ, kích thương thuận thế xiên ngang chém xuống.

Vô Phong giơ khiên đỡ.

Đao phải của Vô Phong đâm mạnh về phía trước.

Đối phương nghiêng người né tránh.

Kích thương từ dưới lên trên hất mạnh vào bụng dưới Vô Phong.

Vô Phong lùi lại một bước, tránh được chiêu hiểm độc này.

Đối phương mượn thế lại là một nhát xốc ngang, mũi kích nhắm thẳng vào eo sườn Vô Phong.

Vô Phong thấy đối phương tấn công hung mãnh, không lùi nữa, nếu không đối phương sẽ càng thêm khí thế.

Chàng không lùi mà còn tiến lên, khiên sắt nghiêng ép chặn đứng kích thương của đối thủ, phác đao tay phải là một nhát "Chém ngang eo" hiểm ác.

Đối phương không ngờ Vô Phong không lùi mà tiến, liên tiếp tung ra sát chiêu, có phần bất ngờ không kịp trở tay, đành phải mượn lực va chạm giữa khiên sắt và kích thương mà chạm nhẹ rồi lùi lại.

Vô Phong thừa thế không tha, từng bước áp sát, khiên sắt tay trái bổ lên đập xuống, phác đao tay phải múa như tuyết rơi cuồng loạn, chiêu nào cũng nhắm thẳng vào yếu hại.

Lương Sùng Tín bị chế ngự ngay từ chiêu đầu tiên, bước nào cũng bị mắc kẹt, kích thương trong tay hoàn toàn không thể phát huy ưu thế của trường binh, rơi vào thế phòng thủ liên tục.

Vô Phong thì phát huy tối đa đặc điểm của đoản binh, không cho đối phương thoát thân.

Cuối cùng, lợi dụng sơ hở trong phòng thủ của đối phương, đao phải của chàng xẹt ngang, cắt đứt dây đeo vai của đối thủ.

Đây cũng là do Vô Phong nương tay, nếu ở trên chiến trường, một cánh tay của đối phương đã coi như phế bỏ rồi.

Lương Sùng Tín cũng không bất ngờ, vì ngay từ đầu hắn đã chuẩn bị tâm lý thất bại.

Có thể cầm cự được lâu như vậy, thua cũng không quá mất mặt, coi như đã làm tròn ý nguyện của anh em.

Đối phương rõ ràng vẫn còn giữ sức, cũng coi như đã nương tay với mình, nếu mình còn không biết tiến thoái, thì quả là không biết điều.

Hắn hành lễ, cung kính nói: "Thuộc hạ đã bại, đa tạ Đại nhân đã nương tay."

"Đâu có, đâu có, đều là giao lưu, không cần để ý, sau này mọi người đều là anh em." Vô Phong đi tới, nhiệt tình nắm lấy tay Lương Sùng Tín nói.

Thấy Vô Phong thắng mà vẫn khiêm nhường như vậy, hoàn toàn khác với vẻ kiêu ngạo, hống hách của những Sĩ tộc khác mà hắn từng thấy, Lương Sùng Tín và tất cả binh sĩ đều có chút cảm động, và cũng chẳng có lý do gì để không phục nữa.

Cứ như vậy, Vô Phong đã dùng sự thật để chứng minh thực lực của mình, và phẩm chất khiêm tốn "thắng mà không kiêu" của chàng cũng giành được sự tôn trọng của toàn bộ tiểu đội.

Uy tín của chàng nhanh chóng được thiết lập trong Tiểu đội thứ hai, và không còn ai dám coi chàng là một đứa trẻ nữa.
 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 3: Khởi Bước

Ngày tháng cứ thế trôi qua, thoắt cái đã một năm. Trong suốt thời gian đó, Lý Vô Phong dẫn dắt toàn đội thứ hai miệt mài rèn luyện, ngày đêm tập luyện không ngơi nghỉ. Nhờ những tháng ngày khổ luyện, Vô Phong chẳng mấy chốc đã thân thiết với các binh sĩ trong đội. Mọi người nhận ra chàng hoàn toàn khác hẳn đám quý tộc sĩ tộc thường ngày – không hề có vẻ kiêu ngạo, hách dịch hay tự cao. Chính vì thế, họ dần dần mở lòng, coi chàng như người một nhà. Còn Vô Phong cũng ngày một hiểu rõ hơn về từng thuộc hạ của mình.

Trong số đó, có Lương Sùng Tín, xuất thân từ một gia đình giàu có ở phủ Hồ Châu, quận Giang Nam. Nhà họ Lương nổi tiếng khắp vùng vì nghề làm giấy – một trong tứ bảo văn phòng của Hồ Châu: Bút, mực, giấy, nghiên đều vang danh thiên hạ. Không ít văn nhân tài tử, thi họa gia khắp đại lục đều ưa dùng văn phòng tứ bảo nơi đây, đặc biệt là giấy Hồ Châu – loại cao cấp nhất, được tiêu thụ mạnh ở kinh đô Trung Châu, thậm chí còn cung không đủ cầu.

Gia tộc họ Lương qua nhiều đời chuyên sản xuất giấy thô, sau đó chuyển cho các xưởng danh tiếng làm công đoạn tinh chế phức tạp, để cuối cùng trở thành "Hồ chỉ" nức tiếng toàn lục địa. Lương Sùng Tín là trưởng tử trong nhà, song lại chẳng hứng thú với việc kinh thương của tổ tiên, mà chỉ mê đọc sách, luyện võ. May thay, cha mẹ cũng khá cởi mở, không ép buộc con nối nghiệp. Mãi đến tuổi đôi mươi, y vẫn chẳng có nghề nghiệp ổn định. Tự thấy mình bất tài, bốn năm trước, y liền giấu gia đình mà tòng quân, ngoài miệng bảo là đi du phương, thực chất là muốn lập nên sự nghiệp để rạng danh tổ tông, ngày về khoác áo gấm vinh quy.

Nhờ biểu hiện xuất sắc trong quân ngũ, hai năm trước y được thăng làm phân đội trưởng. Song do xuất thân dân tự do, lại không có chỗ dựa, nên mãi vẫn chưa được đề bạt lên tiểu đội trưởng. Khi Vô Phong được điều tới từ tân binh doanh và bổ nhiệm chức ấy, nhiều người trong doanh đều bất bình thay cho Lương Sùng Tín. Những chuyện đó, Vô Phong chỉ biết dần dần sau khi thân quen với binh sĩ.

Chàng thầm cảm khái - với năng lực của Lương Sùng Tín, đừng nói là tiểu đội trưởng, ngay cả đại đội trưởng hay liên đội trưởng cũng hoàn toàn đủ sức đảm đương. Nhưng thể chế đế quốc lại coi trọng xuất thân và thâm niên, khiến bao nhân tài bị chôn vùi. Không khó hiểu khi quốc lực ngày một suy yếu, các quốc gia láng giềng đều dòm ngó, hết lần này đến lần khác gây chuyện ở biên giới, chỉ chờ cơ hội để mưu lợi. Còn trong nước, những trấn thủ có thực quyền lại dần sinh dã tâm, ngoài mặt tuân lệnh triều đình, trong lòng lại tính toán riêng - quả là một cục diện "núi mưa sắp tới, gió đầy khắp lâu đài". Triều đình đã cảm nhận được điềm bất ổn ấy, nên ra sức tăng cường binh bị, phòng ngừa họa loạn.

Nhờ thường xuyên tiếp xúc và trò chuyện cùng thuộc hạ, Vô Phong càng thắt chặt tình quân – tướng, lại phát hiện ra không ít nhân tài ẩn giấu trong hàng ngũ.

Trong số đó có Lư Mạn, một thanh niên tóc vàng xuất thân từ một gia đình thứ xuất ở phủ Hoàng Cương, quận Ngũ Hồ. Chàng ta không giỏi võ nghệ, nhưng lại tinh thông quân nhu hậu cần, nói chuyện rất am hiểu. Thì ra nhà họ Lư là đại địa chủ trong vùng, buôn bán lúa gạo, vải vóc, rượu, danh tiếng vang xa. Tuy là con thứ, mẹ y chỉ là thiếp thất – một phụ nữ lai, song lại được cha y hết mực sủng ái. Từ nhỏ Lư Mạn đã được dạy về việc kinh doanh, lại có năng khiếu, chẳng bao lâu đã được gia tộc công nhận. Nhưng cũng vì vậy mà khiến các huynh đệ ghen ghét, hợp nhau vu cáo, khiến cha y cũng sinh lòng nghi ngờ. Phẫn uất, y bỏ nhà tòng quân, quyết lập công chứng minh bản lĩnh.

Vô Phong thấy tuy hiện thời năng lực của Lư Mạn chưa có đất dụng võ, song với thời cuộc sắp tới, người này nếu được rèn giũa, ắt trở thành cánh tay đắc lực. Bởi thế, chàng luôn khích lệ Lư Mạn học hỏi thêm, hứa rằng một ngày kia tài năng của y nhất định sẽ được trọng dụng.

Tiểu đội do Vô Phong chỉ huy đa phần là tân binh mới nhập ngũ, đều ở độ tuổi đôi mươi, thể lực sung mãn, tập luyện rất chăm chỉ, chỉ thiếu kinh nghiệm trận mạc – điều chỉ có thể tích lũy qua thực chiến.

Đơn vị của Vô Phong thuộc Sư đoàn thứ ba, một sư đoàn hỗn hợp; Liên đội thứ tư, Đại đội thứ năm lại là đơn vị bộ binh nhẹ mới thành lập, nên phải điều thêm một số cựu binh từ đơn vị khác về làm nòng cốt tăng sức chiến đấu. Dưới sự huấn luyện nghiêm khắc của Vô Phong suốt hơn một năm, tiểu đội của chàng đã đạt trình độ chiến đấu vượt trội. Trong quá trình đó, chàng còn truyền cho binh sĩ phương pháp điều tức do sư phụ dạy - tuy không giúp luyện công, nhưng lại có thể nhanh chóng hồi phục thể lực, nâng cao sức bền, khiến toàn đội có thể lực vượt xa các tiểu đội khác.

Thuở còn bôn ba khắp đại lục, Vô Phong từng theo học nửa năm tại Đại học Heidelberg danh tiếng ở Tây Lục, vừa học vừa làm. Nhờ đó, chàng có hiểu biết rộng rãi về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và nghệ thuật phương Tây. Tuy thời gian có hạn, nhưng phần lớn tâm sức chàng đều dành cho lĩnh vực quân sự, mong so sánh chiến lược – chiến thuật Đông Tây, tìm ra con đường tối ưu để xây dựng quân đội hùng mạnh. Chỉ tiếc thời cơ chưa chín, tạm thời chưa thể thực hiện.

Thời gian thấm thoắt trôi, nháy mắt đã sang năm thứ 689 theo lịch đại lục. Trong năm ấy, tiểu đội của Vô Phong liên tục đạt thành tích xuất sắc trong các cuộc huấn luyện, diễn tập, thi đấu đơn binh. Phong thái hòa nhã, không kênh kiệu của chàng khác hẳn đám sĩ tộc quý phái, khiến giới chỉ huy xuất thân bình dân càng thêm yêu mến. Nhờ vậy, chàng được phá cách thăng chức Trung đội trưởng Trung đội Ba, còn trung đội trưởng cũ được điều sang Trung đội Một thay người bị thương giải ngũ.

Dưới sự tiến cử và vận động của Vô Phong, Lương Sùng Tín cũng được đặc cách bổ nhiệm Phó trung đội trưởng, quân hàm thăng lên Trung sĩ. Khang Kiến Quốc nhờ thành tích cá nhân nổi bật trong thi đấu đơn binh cũng được cất nhắc làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội Ba, quân hàm Hạ sĩ.

Lương Sùng Tín giờ đây càng khó đoán nổi người cấp trên trẻ tuổi của mình. Sau hai năm tiếp xúc, từ chỗ bất phục, y đã hoàn toàn khâm phục. Kiến thức uyên bác, nhãn quan chính trị sâu sắc, khả năng quân sự của Vô Phong đều khiến y phải tự thẹn không bằng. Đặc biệt, việc chàng vừa được thăng chức lại đích thân tiến cử y làm phó - một trường hợp vượt cấp bất thường - vốn tưởng trên sẽ không chấp thuận, nào ngờ lại được phê duyệt nhanh chóng.

Nhớ lại những tháng ngày qua, y càng cảm thấy người thanh niên này ngoài năng lực siêu phàm, trí tuệ lão luyện còn ẩn chứa một sự thâm trầm khó dò. Tuy thân thiết, nhưng y vẫn không thể nhìn thấu bản tâm của Vô Phong. Chàng còn tặng y nhiều sách quân sự các nước, bảo hãy chuyên tâm nghiên cứu. Mục đích thật sự của người này là gì? Vì sao lại gia nhập quân đội? - tất cả đều là ẩn số. Nhưng Lương Sùng Tín tin rằng, Vô Phong tuyệt đối không phải người tầm thường. Và dù thế nào, chàng cũng đối xử với y thật lòng, thật nghĩa. Nghĩ lại cảnh trước kia mình bị lạnh nhạt trong quân ngũ, so với nay được trọng dụng như thế, y chỉ thấy cảm kích. "Sĩ vì tri kỷ mà chết", y thầm nghĩ, nếu phải liều mạng vì vị chỉ huy này, y cũng cam lòng.

Sau khi nhận chức Trung đội trưởng Trung đội Ba, Vô Phong lập tức phát động phong trào tổng luyện binh, yêu cầu các tiểu đội khác noi gương Tiểu đội Hai. Thành tích của Tiểu đội Hai vốn là niềm tự hào của cả đơn vị. Trong cuộc họp toàn trung đội, chàng tuyên bố: Đợt huấn luyện cường hóa kéo dài ba tháng, mục tiêu là nâng cao sức chiến đấu toàn đơn vị, mỗi tiểu đội phải đạt hoặc vượt trình độ của Tiểu đội Hai. Toàn bộ kế hoạch, giám sát và chấm điểm sẽ do Phó trung đội trưởng Lương Sùng Tín phụ trách. Ai không phục tùng mệnh lệnh, xử theo quân pháp; ai đạt thành tích xuất sắc, sẽ được đề bạt thưởng công.

Lời của Vô Phong như một gáo nước sôi đổ vào chảo dầu đang sục sôi – toàn doanh xôn xao. Ai nấy đều biết Lương Sùng Tín và Khang Kiến Quốc đều từ binh sĩ mà được phá cách thăng chức, khiến cả sĩ quan lẫn binh lính vừa ngưỡng mộ vừa ganh tị. Hơn nữa, chính hai người này từng là kẻ khiêu chiến Vô Phong thuở ban đầu. Nay họ được trọng dụng, khiến bao người háo hức muốn thể hiện, quyết tranh công để lọt vào mắt xanh cấp trên.

Giữa lúc toàn trung đội sục sôi khí thế luyện binh, Vô Phong lại khác hẳn trước - không còn thân chinh đôn đốc từng việc như trước, mà chỉ dặn Lương Sùng Tín tăng cường giám sát, chú trọng phương pháp huấn luyện, sao cho hiệu quả tốt nhất. Còn bản thân chàng thì thường xuyên ra ngoài, có khi vào thành, hành tung trở nên bí ẩn khác thường.

Lương Sùng Tín tuy lấy làm lạ, song vẫn nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh, ngày ngày tổ chức huấn luyện, đích thân giám sát và áp dụng toàn bộ phương pháp huấn luyện mà Vô Phong từng dùng ở Tiểu đội Hai, mở rộng ra toàn trung đội.
 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 4: Cơ Hội

"Làm việc phi thường, ắt phải dùng đến thủ đoạn phi thường."

- Trích Ngữ Lục của Hoàng Đế Đế Quốc -

Giữa lúc mọi người còn đang mơ hồ không hiểu chuyện gì đang xảy ra, thì Lý Vô Phong đã âm thầm bắt tay vào bước thứ hai trong kế hoạch của mình. Hắn vốn không bao giờ bằng lòng với vị trí hiện tại. Mục tiêu của hắn là trong thời gian ngắn phải leo lên vị trí cao hơn nữa, để chuẩn bị cho bước tiếp theo.

Tuy vậy, việc huấn luyện quân đội cũng không thể lơ là. Thế nên hắn quyết định mạo hiểm, mạnh dạn giao toàn bộ công tác huấn luyện của trung đội cho Lương Sùng Tín phụ trách, còn bản thân thì dồn tâm trí vào việc hoạch định kế tiếp.

Từ trung đội trưởng muốn thăng lên một cấp nữa, chỉ có thể là vào hàng ngũ lãnh đạo đại đội. Mà Lý Vô Phong không hề có ý định làm phó; mục tiêu của hắn chỉ có chức đại đội trưởng.

Thông thường, vừa được đề bạt đặc cách mà lại muốn tiếp tục thăng tiến trong thời gian ngắn là chuyện gần như không thể. Huống hồ là liên tục thăng hai cấp! Dù quyền đề cử nằm ở cấp liên đội, nhưng quyền quyết định cuối cùng lại thuộc về sư đoàn. Nếu muốn đi đường tắt, thì chỉ có thể "tìm một lối riêng".

Sư đoàn Ba đóng quân tại vùng ngoại ô phía Bắc đế đô. Sư đoàn trưởng là một quý tộc trung niên bình thường, bảo thủ, tên là Hách Khắc Nhĩ – nghe nói là họ hàng với Thứ trưởng Bộ Quân vụ Tất Khắc, thường trú trong thành, chỉ đến sư đoàn mỗi tuần một lần để nghe báo cáo và phê duyệt công việc. Những việc thường nhật đều do phó sư đoàn trưởng và tham mưu trưởng đảm nhận.

Bên cạnh Hách Khắc Nhĩ có một tên tùy tùng tên Giáp Bộ, kẻ vừa keo kiệt vừa tham lam, chuyên dựa hơi chủ mà tác oai tác quái, song lại rất được sư đoàn trưởng tin dùng, khiến ai nấy đều ghét cay ghét đắng.

Sau khi tìm hiểu kỹ lưỡng, Lý Vô Phong quyết định ra tay từ chỗ tên Giáp Bộ này.

Hắn bí mật thông qua vài kẻ ăn không ngồi rồi trong đế đô để nắm rõ thói quen sinh hoạt của Giáp Bộ. Hóa ra gã này mỗi buổi chiều đều đến trà lâu Vọng Nguyệt Hiên ở khu Đông thành để uống trà và nghe kể chuyện.

Vì vậy, Lý Vô Phong cũng thay thường phục, nhiều ngày liền đến đó nghe kể chuyện, âm thầm quan sát.

Quả nhiên, Giáp Bộ keo kiệt đến mức nực cười: Gọi loại trà rẻ nhất, nhưng lại phải ngồi ở vị trí trung tâm – nơi nghe rõ nhất. Người kể chuyện mỗi lần xin thưởng thì gã giả vờ không nghe thấy. May mà bọn tiểu nhị ở đây quen rồi, chẳng ai thèm để ý.

Lý Vô Phong cố tình ngồi gần, thỉnh thoảng cùng bình phẩm chuyện kể. Người kể chuyện nói về lịch sử hào hùng khi Lục Đại Gia Tộc phò tá họ Tư Đồ lập nên Đế quốc Đường Hà, vốn là câu chuyện truyền kỳ được các trà lâu trong thiên hạ ưa thích.

Nhờ sắp đặt khéo léo, chẳng bao lâu, hai người đã trở nên thân quen. Có lúc Lý Vô Phong còn chủ động trả tiền trà, thỉnh thoảng lại thay Giáp Bộ thưởng cho người kể chuyện vài đồng bạc.

Vài tuần sau, Giáp Bộ bắt đầu thấy ngại, có lần còn đòi mời lại Lý Vô Phong, nhưng bị hắn khéo léo từ chối.

Một buổi tối uống rượu, Giáp Bộ hỏi nửa thật nửa đùa:

"Huynh đệ à, có chuyện gì cần ta giúp chăng?"

Lý Vô Phong biết thời cơ đã tới, bèn thẳng thắn nói ra kế hoạch của mình, hứa sau khi việc thành tất sẽ trọng thưởng.

Giáp Bộ ngẫm nghĩ hồi lâu, thấy chẳng có rủi ro gì, lại được lợi, bèn đồng ý ngay.

Kế hoạch là thế này: Chọn thời điểm thích hợp, để Giáp Bộ sắp xếp cho Hách Khắc Nhĩ sư đoàn trưởng đến thị sát tại Liên đội Bốn, nhân cơ hội chứng kiến màn diễn tập của các trung đội. Lúc đó, Giáp Bộ sẽ đứng ra tán dương biểu hiện của trung đội do Lý Vô Phong chỉ huy, rồi khéo léo tác động để Hách Khắc Nhĩ khen ngợi, thậm chí đề nghị thăng chức cho hắn.

Một khi sư đoàn trưởng đã đích thân yêu cầu đề bạt, việc thông qua gần như chắc chắn. Như vậy, kế hoạch của Lý Vô Phong sẽ hoàn toàn viên mãn.

Mấu chốt chỉ còn ở mức độ ảnh hưởng của Giáp Bộ đối với Hách Khắc Nhĩ, và màn trình diễn của trung đội. Giáp Bộ cam đoan không thành vấn đề, hai bên chia nhau chuẩn bị.

Trong khi đó, Lương Sùng Tín cũng đã dẫn dắt toàn trung đội hoàn thành ba tháng huấn luyện cường hóa, kết quả vượt xa mong đợi. Lý Vô Phong rất hài lòng, tự tin kế hoạch sẽ thành công.

Trong buổi tổng kết, hắn dựa theo danh sách Lương Sùng Tín đề xuất, khen thưởng những người thể hiện xuất sắc, còn kiến nghị cấp trên xét duyệt thăng quân hàm. Sau đó, hắn lập tức báo cáo kết quả huấn luyện lên đại đội và liên đội, mời cấp trên xuống kiểm tra.

Đồng thời, hắn cũng gửi tin cho Giáp Bộ, báo rằng đã đến lúc hành động.

Một tuần sau, Liên đội Bốn thuộc Sư đoàn Ba nhận được thông báo: Sư đoàn trưởng sẽ đích thân đến thị sát. Tin ấy khiến toàn liên đội chấn động. Vì Hách Khắc Nhĩ xưa nay hiếm khi xuống cơ sở, lần này lại chọn riêng Liên đội Bốn, khiến mọi người đều căng thẳng chuẩn bị.

Ba ngày sau, đoàn thị sát tới nơi. Trong lúc kiểm tra, Hách Khắc Nhĩ bất ngờ yêu cầu xem tình hình huấn luyện tân binh.

Lập tức, Đại đội Năm tổ chức diễn tập trình diễn.

Lý Vô Phong dẫn Trung đội Ba xuất trận, tinh thần dâng cao, khí thế hừng hực, đội hình chỉnh tề, thao tác nghiêm cẩn, vượt trội hẳn các trung đội khác. Các cấp chỉ huy có mặt đều khen ngợi không dứt, ngay cả Hách Khắc Nhĩ cũng gật đầu hài lòng.

Giáp Bộ nhân cơ hội hùa theo, không tiếc lời tán dương, khiến Hách Khắc Nhĩ càng thêm ấn tượng.

Ông ta gọi Lý Vô Phong lên hỏi han, nghe hắn báo cáo rành mạch, lại khéo léo khen ngợi cấp trên từng tầng, khiến ai nấy đều vui vẻ.

Khi biết Lý Vô Phong xuất thân sĩ tộc, Hách Khắc Nhĩ càng thêm thiện cảm, nói ngay:

"Những sĩ quan trẻ tuổi, có tài như trung đội trưởng Lý, nên được trọng dụng, giao vị trí quan trọng để huấn luyện tân binh. Liên đội phải xem xét ngay việc đề bạt!"

Cứ thế, cuộc thị sát kết thúc trong tiếng khen ngợi vang dội - và kế hoạch của Lý Vô Phong đã thành công mỹ mãn.

Các lãnh đạo trong sư đoàn đều đồng loạt tán thành đề nghị của sư đoàn trưởng. Ngay sau đó, ban chỉ huy Liên đội 4 nhanh chóng ra quyết định: Bổ nhiệm Lý Vô Phong làm Đại đội trưởng Đại đội 5 thuộc Liên đội 4, Sư đoàn 3, Quân đoàn Cấm vệ thành Đế quốc, đồng thời thăng quân hàm lên Hiệu úy.

Đại đội trưởng đương nhiệm của Đại đội 5 được điều sang giữ chức Đại đội trưởng Đại đội 2, Đại đội trưởng Đại đội 2 được điều lên nắm Đại đội 1, còn Đại đội trưởng Đại đội 1 thì thăng làm Trưởng ban Hậu cần Liên đội.

Mọi điều chỉnh được trình lên cấp sư đoàn phê chuẩn, Hawkell – sư đoàn trưởng – cùng các sĩ quan lãnh đạo khác đều lập tức đồng ý.

Theo đề cử của Vô Phong, Lương Sùng Tín được bổ nhiệm thay ông làm Trung đội trưởng Trung đội 3, đề nghị này cũng nhanh chóng được thông qua.

Buổi trưa hôm ấy, Liên đội 4 mở tiệc chiêu đãi long trọng tại Đăng Tiên Các – tửu lâu nổi tiếng ở khu Tây đế đô, mời toàn thể lãnh đạo sư đoàn đến dự.

Lý Vô Phong được đặc cách tham gia. Trong yến tiệc, ông cùng vị tân Trưởng ban Hậu cần liên tục đứng dậy nâng chén mời rượu các lãnh đạo sư đoàn và liên đội. Mọi người đều vui vẻ khích lệ, chúc mừng, tiếng cười nói hòa cùng tiếng ly chạm nhau vang dội khắp gian tiệc, đến khi tàn tiệc mới chịu tan.

Trước khi rời đi, nhân lúc không ai chú ý, Vô Phong kín đáo nhét một túi gấm chứa một trăm đồng vàng vào tay Giả Bộ. Giả Bộ không khách sáo, hiểu ý mà cất đi ngay.

Chỉ trong hơn hai năm ngắn ngủi, từ một binh sĩ vô danh, Lý Vô Phong đã một bước tiến lên hàng đại đội trưởng nắm trong tay gần ngàn quân, trở thành niềm kiêu hãnh của toàn thể tân binh.

Họ xem ông như thần tượng, sùng bái đến mức cúi đầu thán phục.

Trong lễ nhậm chức Đại đội trưởng Đại đội 5, Vô Phong đã即兴发表了一场热血演讲--

"Huynh đệ các ngươi!

Hai năm trước, ta cũng giống như phần lớn người trong các ngươi, chỉ là một tân binh nhỏ bé.

Hai năm qua, nhờ nỗ lực không ngừng và cơ hội trời ban, ta mới có được vinh hạnh trở thành đại đội trưởng của các ngươi hôm nay.

Ta không tự cho mình thông minh hay xuất chúng hơn ai, chỉ là biết khổ luyện, biết phấn đấu.

Ta tin rằng, chỉ cần các ngươi cũng như ta – kiên trì tập luyện, dốc sức chiến đấu – thì cơ hội sẽ đến nhiều hơn nữa.

Nhưng ta muốn nói thẳng: Tình hình hiện nay vô cùng nghiêm trọng.

Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể ra chiến trường.

Cơ hội nhiều hơn, nhưng nguy hiểm cũng lớn hơn!

Kẻ địch sẽ không vì các ngươi là tân binh mà nương tay –

Trên chiến trường, chỉ có máu và lửa, chỉ có sống hoặc chết!

Chỉ khi vượt qua thử thách sinh tử ấy, các ngươi mới xứng đáng được gọi là chiến sĩ thực thụ.

Hãy ghi nhớ một câu:

" Bình thời đổ nhiều mồ hôi, chiến thời bớt đổ máu! "

Chỉ cần mạnh hơn kẻ địch, cơ hội mới thật sự thuộc về chúng ta!

Ta hy vọng từng trung đội sẽ lấy Trung đội 3 làm gương, trong những ngày huấn luyện sắp tới, hãy nỗ lực gấp đôi, phấn đấu vượt qua họ.

Huynh đệ của ta, đừng để thời gian trôi qua vô ích!

Hãy dùng chính đôi tay của mình mà tạo dựng cơ hội, để khắc tên mình trên sân khấu cuộc đời!"​

Lời nói của ông như lửa đổ vào dầu, khiến toàn thể binh sĩ máu nóng sôi trào, đứng dậy vỗ tay vang dội, tiếng hò reo kéo dài không dứt.

Các sử gia đời sau từng bình luận rằng: Bài diễn thuyết đầu tiên của vị Hoàng đế sáng lập Đế quốc Huy Hoàng tuy chưa thật hoàn mỹ, ngôn từ còn pha chút đe dọa và khích lệ vụ lợi, nhưng ông đã khéo léo lấy chính mình làm tấm gương, đánh trúng tâm lý cầu tiến của binh sĩ, khơi dậy tinh thần chiến đấu, đặt nền móng cho những năm tháng huấn luyện huy hoàng về sau.​

Năm Công lịch Đại Lục 689, là một năm sóng gió không yên.

Khi Lý Vô Phong đang dốc toàn lực dẫn dắt Đại đội 5 luyện quân, thì một biến cố bất ngờ đã phá tan kế hoạch ấy, khiến chàng trai chưa tròn mười chín tuổi sớm nếm trải sự tàn khốc của chiến tranh, đồng thời càng thôi thúc trong lòng ông khát vọng quyền lực mãnh liệt.

Bước vào mùa thu, vốn là thời điểm thu hoạch, nhưng vùng Yên Vân quận, Bắc Nguyên quận, Hà Sóc quận ở miền Bắc Đế quốc lại liên tiếp gặp hạn hán rồi nạn châu chấu.

Nhiều phủ huyện mất trắng mùa màng.

Triều đình, vì cần gom góp ngân khố chuẩn bị chiến tranh với bộ tộc du mục La Bôi ở biên giới Tây Bắc, nên không hề giảm thuế.

Các địa chủ và thương nhân lớn lại lợi dụng tình thế, găm hàng nâng giá, khiến dân thường đói khổ tận cùng.

Khắp nơi bắt đầu nổ ra các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ chống thuế, chống sưu, còn triều đình thì áp dụng chính sách đàn áp bằng bạo lực.

Toàn cục rối ren bất ổn, dân tâm oán thán.

Phía Bắc Đường Hà Đế quốc là Đại bình nguyên Li Bố Nhã, nơi vẫn còn tồn tại vài quốc gia khác.

Tuy thực lực không bằng Đế quốc Đường Hà, song cũng không thể xem thường.

Người dân ở đó phần lớn là bạch chủng, hậu duệ của di dân từ Tây Đại Lục đến, sau nhiều thế hệ hòa huyết với người bản địa, tạo thành chủng tộc hiện nay.

Những quốc gia này có nền văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tương đồng, thường xuyên giao hảo.

Trong đó, Đế quốc Karman là cường thịnh nhất; các vương thất thậm chí còn có hôn ước liên minh với nhau.

Bốn quốc gia này nằm trải dọc phía Bắc và Đông Bắc của Đế quốc Đường Hà:

Từ Tây sang Đông lần lượt là Đế quốc Sislow, Đế quốc Karman, Vương quốc Poole, và xa hơn về Đông Bắc là Vương quốc Dodon.

Quan hệ giữa Dodon và Đế quốc tương đối hòa hoãn, nhưng ba nước còn lại thì luôn căng thẳng, biên giới xung đột triền miên, chiến tranh lớn nhỏ liên tục nổ ra, lần gần nhất là bảy năm trước.

Giữa Karman và Poole lại có một tiểu quốc kẹp giữa – Công quốc Jelock, diện tích và dân số chỉ bằng một quận trung bình của Đế quốc, song quan hệ với Đế quốc vô cùng mật thiết.​

Kinh đô Budley của Đế quốc Karman.

Giữa đoạn trung tâm của đại lộ Stanley sầm uất có một tòa kiến trúc đồ sộ – Phủ Tể tướng danh tiếng.

Trong căn mật thất nơi góc tây phủ ấy, một người đàn ông thấp, béo, đang ngồi trên ghế thái sư, lặng lẽ lắng nghe báo cáo của cấp dưới – một người trung niên khác đứng bên dưới.

"Thưa đại nhân, những cuộc bạo động nhỏ lẻ tại địa phương đều đã bị quân cảnh địa phương đàn áp xong. Tuy nhiên, nhờ người của chúng ta âm thầm dẫn dắt, các thủ lĩnh nông dân đang chuẩn bị hợp nhất lực lượng, tổ chức một cuộc khởi nghĩa quy mô lớn.. Nhưng.."

Người báo cáo ngập ngừng, không nói hết.

Ánh mắt sắc như chim ưng của người đàn ông thấp bé lập tức chiếu đến hắn:

"Nhưng sao? Nói tiếp!"

"Bẩm đại nhân.. Thuộc hạ cho rằng, dù họ có liên kết lại thì cũng khó mà thành công."

"Ồ? Nói lý do xem."

"Họ chỉ là đám nông dân và nô lệ ô hợp, tuy có vài kẻ tài trí, nhưng chưa từng được huấn luyện chính quy, lại thiếu vũ khí và tiếp tế.

Cho dù có ta cung cấp tin tức, thì kết cục cũng chỉ là thất bại – sớm hay muộn mà thôi."

"Chuyện đó không cần ngươi lo." – người đàn ông thấp bé nhếch môi cười lạnh –

"Ngươi chỉ cần đảm bảo người của ta cung cấp đầy đủ thông tin tình báo cho bọn họ, nhưng tuyệt đối không được can dự trực tiếp.

Phải chú ý cách thức, không để thân phận bị bại lộ, nhớ kỹ lời ta.

Nếu có biến động gì, lập tức báo về!"

"Thuộc hạ tuân lệnh. Nếu không còn việc gì khác, xin phép cáo lui."

"Được, đi nghỉ đi, giữ sức khỏe cho tốt."

"Đa tạ đại nhân quan tâm."

Sau khi người kia rời đi, người đàn ông béo ngồi lặng trên ghế, trầm ngâm hồi lâu.

"Ta vốn chẳng mong lũ ô hợp ấy làm nên trò trống gì.

Chỉ cần chúng làm tiêu hao bớt sức lực của đối phương, kéo dài càng lâu càng có lợi cho ta.

Nếu có thể khiến quân chính quy của địch bị cuốn vào.. Thì càng tuyệt hơn.

Cơ hội.. Vốn là thứ do con người tạo ra mà thôi."

Giọng ông ta thấp, khàn, đầy toan tính.

Nếu không được giới thiệu, chẳng ai ngờ người đàn ông ngoại hình tầm thường này lại chính là Gomez, "Tể tướng thép" danh trấn toàn Đế quốc Karman.​

 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 5: Phá Địch

Công lịch năm 689, ngày 27 tháng 10 - tại quận Bắc Nguyên, phía bắc của Đế quốc Đường Hà, bùng nổ cuộc khởi nghĩa nông dân và nô lệ lớn nhất trong gần mười năm trở lại đây.

Khởi nghĩa bắt đầu ở phủ Thanh Hà, miền nam quận Bắc Nguyên. Do quan lại địa phương khinh suất, tưởng chỉ là cuộc nổi loạn nhỏ như trước kia nên không trình báo triều đình cũng chẳng kịp thời trấn áp. Vì thế, trong vỏn vẹn một tuần, ngọn lửa khởi nghĩa đã lan rộng sang phủ Bình Lục lân cận, rồi tràn tới phủ Lai Châu của quận Yên Vân, phủ Hắc Sơn và Long Tuyền của quận Hà Sóc.

Số người tham gia từ chưa đến ba nghìn đã tăng vọt lên gần sáu vạn, và còn đang tiếp tục phình to. Nghĩa quân liên tiếp chiếm giữ mấy trấn lớn ở phủ Thanh Hà, đánh tan hai liên đội của sư đoàn cảnh bị phủ và quân nhà giàu, thương nhân địa phương. Họ tịch thu của cải của đại địa chủ, đại thương nhân, thậm chí chiếm luôn một kho vũ khí của đơn vị cảnh bị, thu được vô số quân nhu, khiến khí thế càng thêm hừng hực.

Tin thắng trận lan nhanh, các toán khởi nghĩa nhỏ ở các phủ lân cận cũng ùn ùn kéo tới, mong hội quân cùng họ. Lúc này, quan viên phủ Thanh Hà và quận Bắc Nguyên mới hốt hoảng nhận ra tình hình vượt khỏi tầm kiểm soát, vội vàng tấu báo triều đình, đồng thời cầu viện Quân đoàn Đế quốc Thứ Hai đang đồn trú tại phủ An Nguyên, thủ phủ của quận.

Trong Đức Chính Điện của hoàng cung, không khí lặng ngắt như tờ. Chỉ có giọng nói trầm hùng của Lục Văn Phu, Thượng thư Bộ Nội chính, vang lên giữa đại điện:

"Hiện đám phản loạn tập trung chủ yếu ở khu vực Đại An Tập, Cổ Thành trấn, Thái Hòa trấn thuộc phủ Thanh Hà, giáp ranh với phủ Long Tuyền của quận Hà Sóc, địa hình vô cùng phức tạp. Chúng đã đánh tan lực lượng cảnh bị địa phương, cướp được nhiều vũ khí và quân nhu, nên phát triển rất nhanh. Theo ước tính, số lượng hiện đã gần tám vạn. Phủ Long Tuyền đã cho hai sư đoàn cảnh bị đóng quân tại thành, sẵn sàng ứng chiến.

Do tình hình rối ren, các phủ An Nguyên, Thanh Hà, Bình Lục của quận Bắc Nguyên, cùng phủ Long Tuyền, Hắc Sơn của quận Hà Sóc và phủ Lai Châu của quận Yên Vân đều đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Bắc Nguyên quận đã cầu viện Quân đoàn Thứ Hai, song chưa được phép của Bộ Binh và Quân khu Bắc nên quân đoàn vẫn chưa có hành động gì."

Ngồi trên ngai vàng ở trung tâm điện, Hoàng đế Tư Đồ Minh Nguyệt, vị Hoàng đế thứ ba mươi mốt của Đế quốc, nửa khép mắt, sắc mặt âm trầm. Một lúc lâu sau, Ngài mới lạnh lùng cất tiếng:

"Hà ái khanh, khanh nói xem."

Người được gọi là Hà Tri Thu, Thượng thư Bộ Binh, bước ra khỏi hàng - một vị lão tướng gầy gò khoảng năm mươi tuổi.

"Tâu bệ hạ, Quân đoàn Thứ Hai cùng Quân khu Bắc đã gửi báo cáo lên Bộ Binh, thần đang chuẩn bị dâng trình. Ngoài ra, thần còn có một số tình hình khác cần bẩm báo."

"Trẫm nghe."

"Tâu bệ hạ, theo tin tình báo mới nhất, biên giới phía bắc của ba nước Karman, Sislow và Poole đang có những động thái quân sự bất thường. Nhiều sư đoàn chủ lực của họ đã di chuyển xuống khu vực giáp ranh, dường như chuẩn bị phát động tấn công. Quân khu Bắc của ta đã đặt toàn bộ hai quân đoàn cùng ba sư đoàn độc lập trong tình trạng cảnh giới cao độ. Chúng ta cũng đã gửi công hàm tới sứ quán ba nước, nhưng họ viện cớ chỉ là 'diễn tập quân sự thường niên'.

Tuy nhiên, thần nghi ngờ hành động của họ có liên quan tới cuộc bạo loạn ở Bắc Bộ. Ngoài ra, Đại thần Chiến sự của Công quốc Tay Lộc, Bá tước Lan Mông, cũng đã gửi công văn thông báo rằng quân đội Karman và Sislow đang tập trận quy mô lớn sát biên giới nước họ, đề nghị Quân đoàn Thứ Ba thuộc Quân khu Tây của ta điều động lên phía bắc để đề phòng bất trắc."​

Hoàng đế khẽ gật đầu, ánh mắt quét qua hàng ngũ văn võ bá quan.

"Các khanh nghĩ sao?"

Một vị tướng thân hình cường tráng, giọng nói mang đậm âm sắc phương Nam, bước ra cúi đầu bẩm:

"Tâu bệ hạ, theo thần thấy, việc cấp bách nhất lúc này là bình định phản loạn. Ba nước phương Bắc chỉ đang muốn thừa cơ quấy rối. Chỉ cần ta vừa chuẩn bị chiến sự, vừa nhanh chóng dẹp yên nội loạn, bọn họ sẽ chẳng đạt được gì ngoài công dã tràng."

Người nói chính là Ưu Tố Phu Bá tước, Quân đoàn trưởng Cấm vệ thành Đế đô.

Hoàng đế liếc sang vị tướng đứng bên cạnh - Mã Viễn Vãng Bá tước, Quân đoàn trưởng Cấm vệ Quân đoàn - liền thấy ông ta cũng bước ra chắp tay:

"Tâu bệ hạ, thần cũng đồng ý nên lấy việc an nội làm trọng. Tuy nhiên, nếu muốn điều quân từ Quân khu Bắc hay Đông, e cần cân nhắc kỹ, tránh để ngoại địch thừa cơ xâm phạm."

Hoàng đế trầm ngâm giây lát rồi hỏi:

"Các khanh còn ý kiến gì khác?"

Không ai lên tiếng. Ngài khẽ cau mày, rồi ra hiệu cho Hà Tri Thu tiếp lời.

"Khải tấu bệ hạ," Hà Tri Thu nói, "thần cùng Lục đại nhân đã thương nghị và xin trình lên một phương án để bệ hạ định đoạt."

"Trẫm nghe."

"Chúng thần dự định như sau:

- Dùng bốn phủ, năm sư đoàn cảnh bị ở phía bắc và tây liên kết thành tuyến phòng thủ, giữ thế thủ.

- Từ phía đông và nam, điều hai sư đoàn thuộc Cấm vệ Thành quân đoàn triển khai tấn công theo thế gọng kìm.

- Ba sư đoàn của Quân đoàn Thứ Ba thuộc Quân khu Tây tiến quân lên phía bắc, áp sát biên giới với Công quốc Tay Lộc, đề phòng biến cố.

- Toàn bộ lực lượng Quân khu Bắc duy trì cảnh giới cao độ, sẵn sàng ứng chiến.

- Đồng thời, đề nghị Ngoại giao đại thần Tô đại nhân gửi công hàm phản đối ba nước, cảnh cáo họ không được làm rối loạn biên giới, tránh châm ngòi chiến tranh."

Hà Tri Thu cúi đầu:

"Xin bệ hạ định đoạt xem có thỏa đáng chăng."

Hoàng đế khẽ gật đầu:

"Các khanh còn ý kiến gì khác, nói ra."

Lúc này, Tần Dược Đông, Thượng thư Bộ Nông chính, bước ra chắp tay:

"Tâu bệ hạ, thần cho rằng ngoài việc trấn áp phản loạn, nên giảm thuế, mở kho cứu tế tại những vùng thật sự khó khăn. Như thế vừa có thể an dân, vừa làm tan rã ý chí bọn phản tặc."

Hoàng đế nở nụ cười hài lòng:

"Khánh nói rất đúng. Việc này giao cho khanh và Điền ái khanh phụ trách. Còn những việc khác, cứ theo kế hoạch của Hà ái khanh mà thi hành. Phải nhanh, phải thắng."​

Công lịch năm 689, ngày 15 tháng 11 -

Sư đoàn thứ hai của Cấm vệ Thành quân đoàn xuất phát từ ngoại ô phía tây kinh đô, tiến quân thần tốc về phía bắc.

Sư đoàn thứ ba xuất phát từ ngoại ô phía bắc, hành quân gấp về đông bắc, rồi vòng ngược theo hướng đông nam - tây bắc, tạo thế gọng kìm, chuẩn bị bao vây tiêu diệt phản quân.

Trước khi xuất quân, Sư đoàn Ba triệu tập hội nghị tác chiến với sự tham gia của toàn thể cán bộ từ cấp đại đội trở lên. Tư lệnh sư đoàn – Hóc Khắc – truyền đạt tinh thần và mệnh lệnh của Quân bộ, yêu cầu toàn sư đoàn phải phấn chấn tinh thần, quyết đánh một trận ra oai, để danh tiếng của Sư đoàn Ba vang dội khắp chiến trường. Ông nhấn mạnh đây là cơ hội hiếm có để rèn luyện và lập công, mong mọi người hãy tự mình nắm lấy.

Sau đó, Tham mưu trưởng lần lượt bố trí nhiệm vụ cho các liên đội.

Về đến doanh trại, Lý Vô Phong liền tập hợp toàn thể binh sĩ đại đội tại thao trường. Trong tiếng trống dồn dập, hắn điểm qua thành quả huấn luyện thời gian qua, rồi chuyển sang phân tích tình hình nghiêm trọng ở phương Bắc. Cuối cùng, hắn lại thi triển tài diễn thuyết tuyệt luân của mình.

"Huynh đệ các ngươi, vận may luôn đến bất ngờ! Ta vừa nhận lệnh – chúng ta sẽ hành quân ra Bắc, nghênh đón trận chiến đầu tiên của đời binh nghiệp! Trái ngọt vinh quang đang chờ chúng ta hái lấy! Thăng chức, phát tài, áo gấm về làng – không còn là mộng tưởng! Địch chẳng qua chỉ là đám dân quê chưa từng qua huấn luyện, chỉ cần tiêu diệt bọn chúng, vàng bạc, nô lệ, mỹ nữ.. Tất cả sẽ nằm trong tay chúng ta! Cơ hội chỉ đến một lần, hãy ngẩng cao đầu, bước ra giành lấy vinh quang đầu đời!"

Lời hiệu triệu ấy khiến cả doanh trại như bốc cháy. Tiếng hò reo vang trời, quân sĩ phấn khích đến mức không thể kìm nổi. Ngay cả Lương Sùng Tín vốn bình tĩnh trầm ổn cũng thấy máu trong người sôi sục, chỉ mong được xuất quân ngay lập tức.

Sau năm ngày đêm hành quân gấp, Sư đoàn Ba đến được khu vực giáp giới giữa phủ Lai Châu của quận Yên Vân và phủ Bình Lục thuộc quận Bắc Nguyên. Quân lính đã mỏi mệt, nên sư đoàn ra lệnh nghỉ ngơi một ngày.

Lý Vô Phong ngồi trong trướng, trước mặt là bản đồ trải rộng.

"Báo cáo!"

"Vào đi."

Người bước vào chính là Lương Sùng Tín.

"Là ngươi à, Sùng Tín? Ngồi đi."

Lương Sùng Tín không ngồi ngay mà cúi nhìn bản đồ:

"Thưa ngài, đây hình như là bản đồ khu vực chúng ta đang đóng quân? Nhưng so với bản đồ quân dụng trên cấp phát thì chi tiết hơn nhiều."

Lý Vô Phong cười nhẹ:

"Mắt ngươi tinh thật. Đây là bản đồ ta đặt riêng mấy năm trước, khi còn chu du khắp nơi."

"Chẳng lẽ khi đó ngài đã đoán được hôm nay ta sẽ đánh trận ở đây?"

"Ha ha, ta đâu phải thần tiên mà biết trước tương lai. Chẳng qua ta có hứng thú với địa lý, nên mỗi khi đi đến đâu đều nhờ học giả địa phương vẽ lại bản đồ chi tiết vùng ấy. Dù không chuẩn theo quy cách quân dụng, nhưng dùng thực tế thì tiện hơn nhiều. Tây Lục địa họ vẽ bản đồ giỏi hơn ta xa, đế quốc ta lạc hậu trong khoản này đã lâu rồi."

"Thưa đại nhân, ngài có biết ngày mai sẽ có hành động gì không?"

"Ta vừa nhận tin từ Liên đội. Hai ngày trước, Sư đoàn Hai phối hợp ba sư đoàn cảnh bị địa phương đã giao chiến với loạn quân tại phủ Thanh Hà. Trận đầu không thuận, nhưng giờ đã chiếm ưu thế tuyệt đối. Có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ có tin thắng trận."

Lương Sùng Tín cau mày:

"Thắng lợi của họ chưa hẳn là tin vui với ta. Cả khối 'miếng ngon' đều để Sư đoàn Hai ăn hết, e rằng Sư đoàn Ba ta chẳng còn phần."

Lý Vô Phong khẽ lắc đầu:

"Chưa chắc. Theo ta dự đoán, loạn quân chưa dễ gì bị diệt gọn."

"Tại sao ngài lại nghĩ vậy?"

"Bởi Sư đoàn Hai chỉ hơn hai vạn quân, cộng ba sư đoàn cảnh bị chưa đủ biên chế – nhiều lắm chín vạn. Trong khi loạn quân có đến tám vạn, lại thông thạo địa hình, được dân địa phương ủng hộ. Dù kỷ luật kém nhưng cũng từng đánh bại quân cảnh bị, chứng tỏ chiến lực không tệ. Dẫu bị đánh tan, Sư đoàn Hai cũng khó lòng bắt trọn. Ta đoán phần lớn địch sẽ rút lui về hướng này – nơi chúng ta đang đóng quân. Đến lúc đó, ta chỉ việc giăng lưới bắt cá mà thôi."

Lương Sùng Tín thở phào, gật đầu:

"Đại nhân quả nhìn xa trông rộng. Mong sao Sư đoàn Ba ta cũng có dịp lập công, đừng để huynh đệ trắng tay."

"Cứ yên tâm, cơ hội sẽ đến. Giờ thì về nghỉ, dưỡng sức chuẩn bị chiến đấu."

Hai ngày sau, tin thắng trận từ Liên đội truyền tới: Sư đoàn Hai và quân cảnh bị đã đại phá chủ lực loạn quân tại vạn Gia Tập, phủ Thanh Hà – diệt hơn hai vạn, bắt ba vạn tù binh, còn hơn hai vạn địch chia nhỏ thành mười mấy nhóm, đang tháo chạy về hướng Sư đoàn Ba.

Lý Vô Phong mỉm cười, thầm nghĩ:

"Quả nhiên không sai, thời cơ đến rồi."

Nhận lệnh, Sư đoàn Ba lập tức bố trí đội hình tác chiến, lấy liên đội làm đơn vị hành quân, năm liên đội tỏa ra đón đầu, quyết tâm tiêu diệt toàn bộ.

Liên đội Bốn triển khai năm đại đội trong khu vực, giãn cách vừa phải để giữ liên lạc, tránh để lọt địch. Dựa theo bản đồ, Lý Vô Phong chủ động xin dẫn Đại đội Năm phụ trách vùng đồi núi hiểm trở ở trung tâm – nơi không ai muốn nhận – và được chấp thuận.

Khi hành quân, Lương Sùng Tín hỏi:

"Đại nhân, sao ta lại chọn tuyến này? Đường vừa xấu vừa vắng, e địch đang trốn chạy cũng chẳng đi lối này."

"Chính vì thế ta mới chọn. Con đường này tuy khuất nhưng không hẹp, lại thuận cho mai phục. Trong bọn địch chắc có kẻ thông địa hình, mà chính vì thế, chúng càng không ngờ ta chờ sẵn ở đây. Điều duy nhất ta lo là nếu địch quá đông, e khó nuốt trọn."

"Thưa ngài, chúng đã là chó cùng rứt giậu, lại chạy dài cả quãng đường, hẳn kiệt sức. Quân ta tinh nhuệ, sĩ khí đang hừng hực, có gì phải sợ?"

"Kiến nhiều cũng cắn chết voi, nên phải cẩn thận. Giữ liên lạc thường xuyên với Liên đội, cho trinh sát toàn lực xuất phát, có động tĩnh báo ngay."

"Rõ!"

Đại đội Năm dưới quyền Lý Vô Phong lập tức tiến vào khu vực được phân công, duy trì cảnh giác cao độ, tổ chức lục soát có trật tự.

"Báo cáo!" – một tiếng gọi dồn dập vang lên.

"Nói!"

"Phía trước mười lăm dặm phát hiện địch đông, ước chừng hơn ba ngàn, đang tiến thẳng về hướng ta."

"Ra lệnh toàn quân vào trạng thái chiến đấu! Đại đội Một vòng ra sau lưng địch; Đại đội Hai hành quân cấp tốc đến thung lũng phía trước, cho hai tiểu đội mai phục hai bên sườn núi. Đại đội Ba, Bốn, Năm cùng một tiểu đội của Đại đội Hai nhanh chóng bố trí trận tuyến ở cửa thung lũng, lập phòng tuyến chờ lệnh. Đồng thời báo khẩn về Liên đội, xin chi viện."

Lý Vô Phong bình tĩnh hạ lệnh, các đơn vị lập tức tản ra chiếm vị trí.

Mọi sự chuẩn bị vừa xong, đám loạn quân như bầy châu chấu ùn ùn kéo tới. Chúng không hề cử trinh sát – rõ ràng chỉ biết chạy trốn, chẳng ngờ sẽ gặp phục kích.

"Cung thủ, sẵn sàng.. Nghe lệnh ta."

Tiếng hô khe khẽ truyền đi. Khi quân địch tiến đến gần, đã nghe rõ tiếng người nói chuyện, Lý Vô Phong giơ tay lên cao.

"Bắn!"

Hàng loạt tên bay ra như mưa rào, xuyên qua không khí "vù vù" như bầy cào cào. Loạn quân trúng đòn bất ngờ, hàng loạt người ngã xuống như lúa bị gặt. Chúng rối loạn, kẻ chạy lên sườn núi cũng bị tên bắn trúng, kẻ quay đầu thì đụng ngay đơn vị truy kích phía sau, hỗn loạn đến cực độ.

Lúc ấy, Lý Vô Phong đứng bật dậy trên điểm cao nhất, vận hết nội lực hét lớn:

"Loạn quân nghe đây! Chúng ta là quân Đế quốc – Sư đoàn Ba Vệ Quân Thành! Các ngươi đã bị bao vây! Hạ vũ khí đầu hàng sẽ được tha chết, kháng cự – giết không tha!"

Giọng hắn không to, nhưng vang dội và rõ ràng, lọt tới tai từng tên địch.

Đám loạn quân thoáng khựng lại, song ngay sau đó có tiếng khàn khàn gào lên:

"Đừng tin chúng! Đầu hàng là chết chắc! Bọn chúng chẳng đông đâu – xông lên! Phải xông ra mới sống!"

Lại có vài tiếng hô theo: "Xông lên!", "Đừng sợ!" – thế là hàng ngũ lại náo loạn.

Lý Vô Phong nhắm chuẩn kẻ vừa hét, đoán là thủ lĩnh của bọn chúng. Hắn rút lấy một cây cung cứng từ tay binh sĩ bên cạnh, giương lên như sét đánh, "vút" một tiếng – tên đó gục ngay tại chỗ. Lương Sùng Tín cùng hai sĩ quan khác cũng nhanh tay hạ luôn mấy kẻ hô hào còn lại. Đám loạn quân lập tức tan tác, như rắn mất đầu, không biết nên chạy hay nên hàng.

Giọng Lý Vô Phong lại vang lên, lạnh lẽo như thép:

"Lập tức bỏ vũ khí, đầu hàng sẽ được sống. Ai còn chống cự – giết tại chỗ. Mấy tên vừa rồi chính là ví dụ!"

"Choang!" – Không biết ai buông vũ khí trước, mà ngay lập tức cả đám noi theo, "loảng xoảng" vang rền. Trong chốc lát, toàn bộ loạn quân đều quăng khí giới, quỳ xuống.

"Hai tay ôm đầu, xếp hàng theo hàng dọc, chờ xử lý!"

Lý Vô Phong ra lệnh. Một phần quân cảnh giới, phần còn lại tiến lên tước vũ khí.

Khi viện quân Liên đội đến nơi, Đại đội Năm đã quét sạch chiến trường, gom tù binh lại trông giữ cẩn mật. Trong lúc kiểm tra, lính phát hiện một tù nhân lạ.

Hỏi ra mới biết – người này vốn là tham mưu của loạn quân, sau vì bất đồng với thủ lĩnh mà cãi nhau, bị kết tội phản nghịch, suýt chém đầu. Nhờ từng dâng vài kế sách hữu dụng nên được tha, nhưng vẫn bị trói giam. Trước khi bọn loạn quân bị đánh tan, chúng còn kéo hắn chạy trốn theo, cuối cùng sa vào tay Lý Vô Phong.

Trận đầu tiên của Lý Vô Phong – kết thúc gọn gàng, sạch sẽ, như chính cách hắn cầm quân: Lạnh lùng, chính xác và hiệu quả đến đáng sợ.​

 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 6: Thăng Chức

"Không câu nệ thân thế, chỉ trọng dụng hiền tài."

- Trích Ngữ Lục của Hoàng Đế Đế Quốc -​

Nghe xong báo cáo của binh sĩ, Lý Vô Phong bất giác nhìn người bị bắt đưa đến, trong lòng dâng lên một cơn hiếu kỳ. Trước mặt chàng là một người đàn ông chừng ba mươi tuổi, tuy sắc diện mỏi mệt, song giữa hàng mày vẫn ẩn hiện khí thế khác người. Gò má cao, mày rậm, dưới đôi mày ấy là ánh mắt sáng rực bất khuất, còn đôi môi mỏng hơi tái nhợt, khẽ mím lại. Từ khi bị áp giải vào trướng, hắn vẫn im lặng không nói một lời.

"Ngươi tên gì?"

"Tên là Đàm Tiếu - Đàm trong ngôn đàm cử chỉ, Tiếu trong tiếu ngạo giang hồ."

"Cái tên hay đấy! Người ta vẫn nói 'Đàm tiếu hữu hồng nho, lai vãng vô bạch đinh'. Ta từng nghe danh Đàm tiên sinh ở Bắc Nguyên quận rất có tiếng, chẳng hay vì cớ gì mà tiên sinh lại phản nghịch triều đình, đi theo đám phản tặc hạ lưu ấy?"

Đàm Tiếu khẽ thở dài, ánh mắt dấy lên nỗi chua chát khó tả. Ban đầu hắn chỉ muốn nhân cơ nông dân khởi nghĩa, mượn gió xoay cờ, dùng tài năng giúp dân, ai ngờ thế cuộc xoay vần nhanh đến vậy - thất bại đến quá đột ngột, mà cái giá phải trả có thể là chính mạng sống của mình. Trong lòng hắn vẫn còn một tia không cam. Hắn đã đánh giá quá cao đám người kia - tưởng họ chí lớn cứu đời, ai ngờ chỉ là bọn hẹp hòi, ham hưởng lạc, chẳng có chí lâu dài. Hắn hết lòng hiến kế, lại nhiều lần bị gạt bỏ; quân đội ngày càng suy đồi, đi đến đâu cũng cướp bóc, chẳng còn kỷ cương. Dù có tin tình báo chuẩn xác, cũng khó tránh khỏi kết cục thảm bại.

Nghĩ vậy, Đàm Tiếu gạt đi phiền muộn, bình thản nói:

"Chuyện đã đến nước này, Đàm Tiếu không có gì để nói, chỉ mong được chết sớm cho xong."

Lý Vô Phong bật cười:

"Ha ha! Sao tiên sinh lại nói thế? Ta nào có ý giết tiên sinh đâu."

"Ồ? Vậy chẳng hay đại nhân đưa ta tới đây là vì chuyện gì?"

"Ta nghe danh tiên sinh học rộng hiểu sâu, có nhiều kiến giải về trị quốc an bang. Nay được gặp, thật đúng dịp muốn thỉnh giáo."

"Ồ?" - Đàm Tiếu khẽ nhướn mày, lòng thầm kinh ngạc. Hắn quan sát kỹ chàng thanh niên trước mặt: Chưa đầy hai mươi tuổi, vậy mà đã là đại đội trưởng. Trận vừa rồi, tuy hắn không tận mắt chứng kiến, nhưng biết chắc chính người này là trung tâm khiến quân khởi nghĩa tan tác đầu hàng. Tuổi còn trẻ mà khí thế đã hiên ngang, lời lẽ tự tin, ẩn chứa uy thế át người - đúng là "long trung chi long", tương lai tất rực rỡ. Có lẽ, đây chính là cơ hội xoay chuyển vận mệnh của hắn.

"Ta chỉ là một tù phạm chờ chết, lại mắc tội đại nghịch, mà đại nhân dám hỏi ta đạo trị quốc - chẳng sợ cấp trên biết được hay sao?"

"Ha ha! Tiên sinh đa nghi rồi. Ở đây, ta chính là thượng cấp duy nhất. Ngươi là tù nhân hay dân thường, ngoài trời đất này, chỉ có bốn người biết - trời biết, đất biết, ngươi biết, ta biết."

Lý Vô Phong nói chậm rãi, từng chữ rắn như đinh.

"Ra là vậy.." - Đàm Tiếu gật nhẹ. Khi Lý Vô Phong nói đến "trị quốc an bang", hắn đã linh cảm rằng vận số của mình sắp rẽ sang một hướng khác.

"Tiên sinh chớ e dè, ta thật lòng muốn thỉnh giáo."

"Vậy.. Đại nhân muốn nghe về phương diện nào?" - Đàm Tiếu thu lại vẻ khách sáo, nghiêm túc hỏi.

"Ta muốn nghe tiên sinh nhận định thế nào về cục diện đế quốc hiện nay."

Lý Vô Phong đi thẳng vào vấn đề.

Đàm Tiếu trầm ngâm giây lát, rồi thong thả nói:

"Hiện nay trong đế quốc, nội loạn ngoại xâm, thế lực suy vi, tuy chưa đến mức diệt vong, nhưng đã như mặt trời xế bóng. Tuy nhiên, 'trăm chân con sâu, chết vẫn chưa cứng', nếu không xảy ra biến cố lớn, vẫn còn gắng gượng được đôi phần."

"Về ngoại họa trước - phương Bắc có ba nước lớn, thực lực tương đối hùng mạnh, tuy từng nước chưa thể sánh với đế quốc, nhưng nếu họ liên minh, sẽ trở thành mối đe dọa cực lớn. Thêm vào đó, phía đông bắc còn vương quốc Đa Đốn lăm le, khiến tình hình miền Bắc càng thêm bất ổn."

"Tây Bắc có người La Bối và Mạc Đặc, bản tính hiếu chiến, năm nào cũng quấy nhiễu biên cương. Nếu không cho họ một đòn trí mạng, biên giới Tây Bắc vĩnh viễn chẳng yên. Miền Nam là Mã Kỳ Hãn quốc - hậu duệ dân du mục, tuy đã chuyển sang canh tác, song dã tính chưa mất. Vua đời này lại đầy dã tâm, thường khơi mào chiến sự, khiến phương Nam chẳng được thái bình. Còn miền Tây và Tây Nam nhờ địa thế hiểm trở nên tạm ổn. Riêng vùng biển phía Đông, bọn man di hải ngoại giỏi thủy chiến, thường xuyên quấy phá hải cảng và tuyến vận tải, cần tăng cường lực lượng hải quân. Trong các nước láng giềng, chỉ có vương quốc Milan và công quốc Jellock là thân thiện, không gây uy hiếp đáng kể."

"Nhưng mối họa lớn nhất của đế quốc không nằm ngoài, mà ở trong. Người xưa có câu: 'Họa khởi từ trong nhà.'Nay Hoàng đế Tư Đồ Minh Nguyệt đã gần sáu mươi, tuy thân thể còn khỏe, nhưng tuổi già rồi. Ngài có tới hơn hai mươi con trai con gái, đa số đều trưởng thành, kẻ nào cũng kết giao quyền thần, chư hầu, lập phe cánh riêng để chuẩn bị tranh đoạt ngai vàng. Trong đó, phe Bắc do Đại hoàng tử đứng đầu, phe Nam do Tam hoàng tử, và phe Đông do Thất hoàng tử cầm đầu - thế lực mạnh nhất. Cửu hoàng tử tuy yếu hơn, nhưng nhờ tài hoa và khéo giao thiệp, được nhiều đại thần ủng hộ. Hoàng đế vẫn chưa chỉ định người kế vị, khiến bá quan ai nấy đều dè chừng, không dám tỏ thái độ, sợ chọn sai phe mà mang họa. Các thế lực địa phương cũng nhân cơ hội xen vào, tranh quyền đoạt lợi, khiến lòng người dao động."

"Đó là chưa kể một mối nguy khác - chính là phiên trấn. Từ sau biến cố Tam Giang ba mươi lăm năm trước, quận Tam Giang gần như đã trở thành quốc gia riêng của họ Lâm. Tuy bề ngoài vẫn thuộc đế quốc, hàng năm vẫn nộp chút cống phẩm tượng trưng, nhưng quân quyền, tài quyền, nhân sự - tất thảy đều trong tay họ Lâm. Năm phủ trong quận, đều do người nhà họ nắm giữ, triều đình hoàn toàn không can thiệp được."

"Hiện tại, Lâm Quốc Hùng - chủ nhân họ Lâm, kiêm Tiết độ sứ quân chính Tam Giang, đã tại vị hai mươi năm. Thuở trẻ, ông ta nổi danh 'Quỷ Hồ', nay tuổi cao nhưng vẫn mưu sâu như cũ. Dưới tay ông, Tam Giang hùng thịnh vượt trội, nay đã đứng trong hàng ba quận mạnh nhất, chỉ sau Giang Nam và Ngũ Hồ, ngang ngửa Đông Hải. Quân đoàn Tam Giang mà họ Lâm nắm giữ có sức chiến đấu không thua gì quân chính quy của triều đình, đang giam chân hai quân đoàn lớn của Đế quốc ở Tây vực."

"Con gái ông ta, Lâm Nguyệt Tâm, nay hai tám tuổi, nổi danh 'Ngọc Hồ'. Tương truyền nàng còn mưu trí hơn cả phụ thân, tuyệt đối không thể xem thường.."

"Còn có gia tộc Lang ở Thiên Nam quận, đại nhân cũng biết đây là quân – chính tiết độ sứ thứ hai mà Đế quốc lập ra ba mươi năm trước nhằm kiềm chế Lâm gia ở Tam Giang quận. Tiết độ sứ hiện tại, Lang Vĩnh Tuyền, mới bốn mươi tuổi, đang ở độ chín chắn sung sức. So với Lâm Quốc Hùng thì tài năng chưa bằng, nhưng trong suốt mười năm qua đã giữ chân Lâm gia không thể tiến về phía Tây. Người này công lao hiển hách, lại nghe nói cũng đầy tham vọng, chí lớn, những năm gần đây chuyên tâm chỉnh đốn quân đội, luyện tập võ nghệ, khiến Thiên Nam quân đoàn của y cực kỳ hùng mạnh. Hiện nay, trung ương Đế quốc hoàn toàn không thể kiểm soát, đã trở thành thế lực lớn khó khuất phục, ẩn chứa mầm mống bất tuân. Còn Tây Bắc quận thì do ngoại bang xâm lấn, tình hình hỗn loạn, khó mà thu dọn, như Phủ Ngân Xuyên hoàn toàn không chịu sự kiểm soát của Đế quốc, dù về danh nghĩa vẫn là lãnh thổ của Đế quốc, ngược lại còn quan hệ mật thiết với kẻ thù phương Bắc – Tây Tư La. Quan Tây quận thì dưới mối đe dọa của Lâm gia Tam Giang, nguy nan chồng chất. Một khi Hoàng đế băng hà, bề ngoài tưởng bình yên nhưng chắc chắn sóng gió sẽ nổi lên, cộng thêm lực lượng bên ngoài hối thúc, muôn dặm sơn hà sẽ lửa khói ngút trời, không thể thu phục được."

Nói xong, Đàm Tiếu nhấp cạn chén trà đặc do chính Vô Phong pha, rồi yên lặng chờ đợi phản ứng của Vô Phong.

Vô Phong nghe xong phân tích của Đàm Tiếu, không khỏi thầm gật đầu. Danh tiếng của y quả không hổ danh, nhận định về tình hình Đế quốc thật tinh tường, châm chước chính xác.

"Hay lắm, hay lắm! Một lời của ngài, hơn hẳn mười năm sách vở."

"Đại nhân quá khen, đây chỉ là quan điểm thường ngày của tôi."

"Vậy nếu muốn phát triển, thành đại nghiệp, theo kiến giải của tiên sinh, phải làm thế nào?"

Đàm Tiếu ngẩng đầu, ánh mắt chạm nhau với Vô Phong, tựa như lóe lên tia lửa nhảy múa. Lòng Đàm Tiếu bỗng rùng mình, trước mắt là đôi mắt uy vũ khiến người ta kinh sợ, không giấu giếm chút tham vọng quyền lực nào. Y định thần, từng lời từng chữ nói ra:

"Tìm nơi tốt, xây nền móng, chờ thời cơ."

Vô Phong khoanh tay sau lưng, ngước mắt nhìn lên trần cao, chậm rãi hỏi:

"Theo tiên sinh, hiện nay nơi nào là nơi tốt?"

"Theo sơ kiến của tôi, hiện tại Tây Bắc Đế quốc thích hợp để phát triển hơn cả."

"Làm sao tiên sinh nhận định như vậy?"

Đàm Tiếu suy nghĩ một chút, đáp:

"Tây Bắc Đế quốc, phía Tây nối các quốc gia Tây Vực, Tây Nam giáp Trung đại lục, Bắc và Đông giáp Tây Tư La, Karman và các nước lân cận, Tây Bắc lại tiếp giáp các dân du mục La Tỳ, Mốt, phía Đông và Nam liên thông các vùng khác của Đế quốc, giao thông thuận tiện, vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, từ xưa đến nay luôn là vùng đất tranh giành của binh gia. Hơn nữa, Tây Bắc quận rộng lớn, tài nguyên phong phú: Phủ Khánh Dương đất đai màu mỡ, tọa lạc ở trọng điểm giao thông trung – đông đại lục, nổi tiếng là trung tâm phân phối vật tư; Phủ Kim Châu nổi tiếng gỗ quý và dược liệu; Bác Nam phủ là nơi sản xuất đồ gốm sứ nổi danh; Quy Đức phủ nổi tiếng với rượu vang và muối giếng, xuất khắp đại lục; Phủ Thái Huyền có vị trí chiến lược quan trọng, lại sản xuất nhiều đường và gỗ; Phủ Ngân Xuyên không chỉ có mỏ bạc, sắt phong phú mà còn khai thác than, là trung tâm luyện kim trọng yếu. Điều thuận lợi nhất là Tây Bắc quận hiện đang chịu cảnh chiến loạn từ dân du mục, dân chúng mong mỏi một quyền lực mạnh bảo vệ sinh mạng và tài sản. Chỉ cần đứng vững ở đó, xây nền móng vững chắc, chắc chắn sẽ là nơi lập nên nghiệp lớn, chinh phục thiên hạ."

Những lời này khiến Vô Phong lòng dấy sóng, ánh mắt rực sáng. Nhưng y nhanh chóng bình tĩnh, thầm nghĩ: Quả là bậc anh hùng, nhìn xa trông rộng, suy nghĩ trùng khớp với ta.

"Tiên sinh chỉ nói tới lợi thế, nhưng dường như chưa nhắc tới bất lợi?"

"Trên đời chẳng có việc gì toàn hảo, chỉ cân nhắc lợi hại, chọn phần tốt mà thôi. Bất lợi lớn nhất của Tây Bắc quận là phía Tây Bắc có La Tỳ, Mốt, phía Bắc lại có Tây Tư La và Karman – những láng giềng mạnh. Nhưng Tây Tư La và Mốt kìm chế lẫn nhau, lại có Phủ Ngân Xuyên nằm giữa; Karman hiện bị Phủ Thái Huyền kiềm chế chắc chắn, chỉ còn La Tỳ là phải xử lý nghiêm."

Suy nghĩ một lúc, Vô Phong quyết định:

"Lời tiên sinh nói rất hợp ý, không biết tiên sinh có hứng thú ở lại bên cạnh thiếp thân, tạm nhún nhường không?"

"Người ta vốn chỉ là tử tù, đại nhân đã hạ mình kết giao, nếu không chê bai, tôi nguyện tận lực phục vụ. Chỉ e về quân sự tôi không rành, sợ làm hại đại sự của đại nhân."

"Ha ha, vàng thật sẽ luôn tỏa sáng, sẽ có chỗ để tiên sinh dụng võ."

Hai người siết chặt tay nhau, tất cả đều nằm ngoài lời nói.

Ngay sau đó, Vô Phong sai người dẫn Đàm Tiếu đi thay y phục nghỉ ngơi, đồng thời triệu tập quân hầu, ra lệnh xử tử hai tù binh trước đây canh giữ Đàm Tiếu, giấu kín, thông báo ra ngoài là ngoài số tù binh đã bắt, những người khác đều tử trận chôn cất tại chỗ. Như vậy, Đàm Tiếu – sau này trở thành một trong bốn mưu sĩ hàng đầu của Hoàng đế – hóa danh là Tiêu Đường, ẩn thân dưới trướng Vô Phong.

Tiếp đó, Vô Phong ra lệnh thu gom toàn bộ chiến trường và chiến lợi phẩm của tù binh, tổng trị giá hàng trăm đồng vàng, cùng nhiều vật tư hậu cần khác. Đồng thời, ra lệnh cho các cấp chỉ huy ghi chép thành tích những người dũng cảm, báo cáo lên trên, xét công thưởng.

Trong trận mai phục này, Vô Phong dẫn toàn đại đội, thương vong 33 người, không ai tử trận, tiêu diệt đối phương 189 tên, bắt sống 3.466 tên, thành tích khiến cả Sư đoàn 3 chấn động. Sư đoàn trưởng Hoắc Khắc Nhĩ vui mừng khôn xiết, Sư đoàn 3 lập tức phát thông báo, kêu gọi toàn sư đoàn học tập đại đội thứ năm, liên đội thứ tư dưới quyền Vô Phong, và báo cáo chiến công lên quân đoàn và Bộ quân.

Trong tuần kế tiếp, Sư đoàn 3 vây bắt quân hỗn loạn còn lại, tiêu diệt toàn bộ. Cả chiến dịch, Sư đoàn 3 tiêu diệt 8.645 quân địch, bắt sống nhiều tù binh, tử trận 4.285 người, bị thương 6.157 người. Riêng Liên đội thứ tư của Vô Phong tiêu diệt 1.602 quân địch, bắt 4.987 tù binh, bản thân tử trận 412, thương 1.435 người. Liên đội thứ nhất do tham công, liều lĩnh, bị phản công, thiệt hại nặng, tử trận tại chỗ 1.893 người, may nhờ Liên đội thứ hai kịp tới cứu nguy, mới không gây thiệt hại lớn hơn. Sư đoàn trưởng Hoắc Khắc Nhĩ giận dữ, cách chức Liên đội trưởng, Phó Liên đội trưởng và Trưởng phòng Hậu cần của Liên đội thứ nhất, bắt giam để chuyển quân pháp xử lý tội khinh suất.

Hoắc Khắc Nhĩ sư đoàn trưởng còn ra lệnh bổ nhiệm các vị trí xuất sắc trong trận chiến lần này: Liên đội trưởng, phó liên đội trưởng và trưởng phòng hậu cần của Liên đội thứ tư sẽ chuyển sang Liên đội thứ nhất đảm nhiệm các chức vụ tương ứng. Theo quy định quân đội đế quốc, chỉ huy của đơn vị đứng đầu sẽ là người kế nhiệm cấp trên, nên về thực chất đây là một sự thăng tiến nửa bậc. Đồng thời, Lý Vô Phong được thăng chức liên đội trưởng Liên đội thứ tư, quân hàm nâng một cấp lên đô úy, chờ quân đoàn phê chuẩn.

Khi Vô Phong dẫn đại đội binh sĩ trở về, về tới đế đô, các phần thưởng và lệnh bổ nhiệm đã được quân bộ và quân đoàn ban hành. Ông chính thức được bổ nhiệm làm liên đội trưởng Liên đội thứ tư, Sư đoàn thứ ba, Cấm vệ quân đế quốc, đồng thời được trao tặng Huy chương Danh dự ba sao của đế quốc, thưởng 3.000 đồng vàng và 50 nô lệ [từ số tù binh đang bị giam giữ] . Trước đó, dựa vào thắng lợi này, theo đề xuất vui đùa nhưng hợp lý của Vô Phong, một đợt điều chỉnh nhân sự quy mô lớn đã được tiến hành, và sư đoàn cũng đồng ý với đề cử của ông:

Lương Sùng Tín được bổ nhiệm làm đại đội trưởng Đại đội một của Liên đội thứ tư.

Thôi Văn Tú, người cùng Lương Sùng Tín bắn hạ vài tên sĩ quan gây rối, trước đó là trung đội trưởng Trung đội năm, Đại đội năm, nhờ sự thông minh, được Vô Phong trọng dụng, bổ nhiệm làm đại đội trưởng Đại đội hai.

Những người trung thành và được Vô Phong tin cậy khác cũng được trọng dụng.

Người tóc vàng Lư Mạn được bổ nhiệm làm trợ lý trưởng phòng hậu cần Liên đội thứ tư, thực chất thay mặt trưởng phòng điều hành công việc. Vì trưởng phòng cũ đã được điều chuyển sang Liên đội thứ nhất, Vô Phong muốn không đưa người ngoài vào để giữ quyền kiểm soát, còn Lư Mạn thì quá non kinh nghiệm nên tạm chưa bổ nhiệm chính thức.

Sau đợt điều chỉnh nhân sự này, cộng thêm chiến công trên chiến trường, Vô Phong đã xây dựng quyền uy tuyệt đối trong Liên đội thứ tư, đảm bảo rằng quân đội về sau, lấy Liên đội thứ tư làm nòng cốt, sẽ trung thành và đáng tin cậy.

Tại thủ đô đế quốc Karman, thành phố Budele, trong cung điện trung tâm – Cung Ninh Khang, tể tướng béo mập Gomez đang báo cáo với Hoàng đế Dellica II về cuộc nổi dậy nô lệ nông dân ở phía nam, thuộc Đế quốc Đường Hà.

"Hiện nay, các cuộc nổi dậy cơ bản đã bị dẹp yên. Lão Tư Đồ Minh Nguyệt đã điều hai sư đoàn Cấm vệ quân đóng ở kinh thành phối hợp lực lượng địa phương dẹp loạn. Dù có hỗ trợ tình báo của chúng ta nhưng thực lực chênh lệch quá lớn, thêm nữa chúng không có căn cứ vững chắc nên thất bại là tất yếu. Tuy nhiên, tác động của cuộc nổi dậy này rất lớn, nhiều thị trấn ở ba quận phía bắc bị phá hủy, kinh tế chịu tổn thất nặng nề, mâu thuẫn giữa quan dân cũng gia tăng. Dù sau đó họ có mở kho cứu đói, nhưng đã muộn. Quan trọng hơn, quân Đường Hà cũng thiệt hại không nhỏ. Chúng ta chưa thể can thiệp trực tiếp, nhưng ít ra đã đạt được mục tiêu ban đầu."

Dellica II, người cao gầy, nghe xong chỉ thản nhiên ngáp một cái. "Ta rõ, mọi việc cứ để công tước thu xếp." Gomez cau mày, chỉ biết cáo lui.

Về đến doanh trại, nhậm chức liên đội trưởng Liên đội thứ tư, Vô Phong lập tức chỉnh đốn kỷ luật và phong cách tác chiến, đồng thời thông báo một chiến dịch huấn luyện mùa đông kéo dài ba tháng để nâng cao khả năng chiến đấu. Trong cuộc họp toàn liên đội, ông dặn dò các sĩ quan: Không được để chiến thắng làm mờ mắt, đừng coi đây là trận chiến thật sự, đó chỉ là một lũ quân phiêu dạt, chưa được huấn luyện và mất tinh thần, quân thật sự không bao giờ như vậy. Hãy giữ tinh thần, nhận thức đúng tình hình và rèn luyện chăm chỉ để chuẩn bị cho thử thách khốc liệt hơn.

Tiếp theo, Vô Phong công bố phần thưởng cho toàn liên đội và Đại đội năm: Mỗi binh sĩ Đại đội năm nhận trung bình 30 đồng vàng, các đại đội khác trung bình 12 đồng vàng.

Sau đó, thông qua người trung gian Gia Bố, Vô Phong thuyết phục sư đoàn trưởng Hoắc Khắc Nhĩ, từ đó lập thêm ba trung đội trực thuộc Liên đội thứ tư, ngoài trung đội vệ sĩ: Trung đội trinh sát số một, Trung đội kỵ binh nhẹ số hai, Trung đội kỵ binh nặng số ba. Dĩ nhiên, Vô Phong không quên thưởng cho Gia Bố.

Ông cũng yêu cầu Lư Mạn phối hợp với hậu cần quân đoàn và sư đoàn để nhanh chóng cung ứng nhân lực, vũ khí, trang thiết bị và vật tư hậu cần cho Liên đội thứ tư, nhằm nhanh chóng đưa vào huấn luyện và nâng cao sức chiến đấu. Nhờ sự sắp xếp của Lư Mạn, Vô Phong cùng các lãnh đạo đại đội của liên đội đã tổ chức tiệc tiếp hậu cần tại Viện Binh, khu Đông thành, và sau đó mọi nhu cầu về binh lực, vũ khí, ngựa chiến, vật tư hậu cần đều được cung cấp nhanh chóng, chất lượng đều là hàng tốt nhất.

Tuyết rơi ngày càng dày, Vô Phong một mình bước ra khỏi lều. Năm mới sắp đến, không khí đón Tết tại đế đô ngày càng nhộn nhịp. Cả doanh trại lặng lẽ, các binh sĩ đã ra thao trường luyện tập dưới sự chỉ đạo của sĩ quan. Ông nhìn lại ba năm gia nhập quân đội, cảm giác mình vừa thay đổi nhiều, lại vừa không thay đổi gì. Chỉ là ngoại hình trưởng thành hơn, còn trái tim khao khát quyền lực thì vẫn rực cháy, thậm chí còn dữ dội hơn, dường như ông ngày càng trưởng thành.

"Đại nhân, y phục ngài đã ướt sũng rồi."

Tiếng bước chân vang lên phía sau, phá vỡ dòng suy tư của Vô Phong.

"Chắc là Sùng Tín và Văn Tú." Ông không quay lại.

"Vâng, là bọn tiểu nhân và Lương đại nhân."

"Các ngươi đến đúng lúc, ta đang muốn hỏi một vấn đề. Nói xem, nam nhi đại trượng phu sinh ra nơi thế gian này, khi nào thì gọi là 'có sự nghiệp'?"

Lương Sùng Tín và Thôi Văn Tú bất ngờ trước câu hỏi bất ngờ của Vô Phong, tạm thời không biết trả lời.

"Sùng Tín, ngươi nói trước đi."

"Thuộc hạ là một binh sĩ, thấy mình có thể tung hoành chiến trường, an dân bảo quốc, ắt hẳn là đã làm nên chút gì đó."

"Văn Tú, ngươi thì sao?"

"Tiểu nữ ý kiến cũng chẳng khác gì Lương đại nhân, miễn là việc mình làm đều vì bảo vệ tổ quốc, để lại tên tuổi muôn đời, thì cũng không hổ thẹn với kiếp người này."

"Ồ, các ngươi đều nghĩ như vậy à."

"Không biết đại nhân thấy sao?" Hai người đồng thanh hỏi.

Vô Phong chậm rãi quay người, từng chữ từng chữ phát ra: "Ta cho rằng bảy thước nam nhi nên dũng cảm theo đuổi lý tưởng của mình, muốn làm thì làm, muốn yêu thì yêu, không sợ bất cứ gian nan nào, như vậy mới không phụ một đời."

Lời này sau đó được các sử gia Đế quốc đánh giá cao và gọi là "Thệ nguyện Trại doanh".

Hơn ba mươi năm sau, nguyên soái Lục quân Đế quốc Thôi Văn Tú hồi tưởng: "Khi ấy, hoàng thượng ngẩng mặt nhìn trời, khí thế như muốn bao trùm thiên hạ, bản thân ta và nguyên soái Lương Sùng Tín đều bị khí thế ấy chinh phục, có lẽ từ giây phút đó, ta đã quyết chí theo Hoàng thượng, cùng ngài binh nghiệp một đời."

Nhưng nguyên soái Lương Sùng Tín lại kể khác hẳn trong hồi ký chưa công bố: "Khi ấy, Hoàng thượng cả người đều ướt sũng vì tuyết, lạnh đến tái nhợt, môi thâm đen, nói năng run rẩy, chẳng còn chút uy phong nào."

Sau khi hoàn thành hồi ký, Lương Sùng Tín dâng lên Hoàng thượng để duyệt, nhưng Hoàng thượng ra lệnh nghiêm cấm bất kỳ nhà xuất bản nào phát hành cuốn sách này mà không giải thích lý do, và ngay lập tức, Lương Sùng Tín bị Hoàng thượng bêu lý do, trừ lương một năm.

Do cuốn sách bị cấm, bản thảo lưu hành chép tay trên chợ đen, mỗi bản lên tới giá trị bằng vàng Đế quốc, lại càng khó tìm. Trong cung còn truyền tai rằng các phi tần Hoàng thượng lén đọc bản thảo trong phòng sách của ngài, xem xong không nhịn được cười, trêu rằng thuở trẻ Hoàng thượng thích "diện" hơn "nhiệt", thật ngây ngô, khiến Hoàng thượng trong thời gian dài không dám ngẩng đầu trước phi tần và con cái.

Hoàng thượng từng nhờ Thôi Văn Tú làm chứng, nhưng Thôi Văn Tú được Lương Sùng Tín khích, viện cớ "dám trái ý phi tần là việc ngu xuẩn nhất trần đời", từ chối. Sau nhiều lần Hoàng thượng yêu cầu, Thôi Văn Tú mới đồng ý nhưng đưa ra giá bằng vàng Đế quốc để bù rủi ro, Hoàng thượng tức giận không đồng ý. Sau nhiều lần thỏa thuận, cuối cùng giá cả được chốt bằng vàng Đế quốc. Khi Thôi Văn Tú làm chứng trước phi tần và con cái Hoàng thượng, người nghe cho rằng ông có thể bị tác động từ bên ngoài, chứng từ không thuyết phục. Hoàng thượng yêu cầu Thôi Văn Tú trả lại vàng, nhưng bị từ chối.

Vì tiền riêng của Hoàng thượng do phi tần quản lý, ông đành vay quan trong triều, khoản nợ này kéo dài đến khi Hoàng thượng qua đời mới chưa trả. Hơn một trăm năm sau, tờ giấy nợ có chữ Hoàng thượng viết tay và đóng ấn riêng được một nhà sưu tập mua lại với giá vàng Đế quốc cực cao từ hậu duệ quan trong triều.

Năm mới vừa qua, Vô Phong dẫn toàn liên đội tham gia luyện binh sôi nổi. Ba trung đội trực thuộc mới đã hoàn thành, binh lực và vũ khí đều đầy đủ. Thế nhưng một thông báo nhập học khiến cuộc sống Vô Phong gặp bước ngoặt lớn.

Được đề cử từ sư đoàn, Vô Phong cùng một phó đại đội trưởng và một trung đội trưởng được nhận vào Học viện Quân sự Đế quốc, học tiến修 một năm. Do phó liên đội trưởng và trưởng phòng hậu cần của liên đội thứ tư đang trống, sư đoàn dự kiến điều người khác phụ trách liên đội trong thời gian Vô Phong học.

Vô Phong vốn muốn Lương và Thôi đảm nhận, nhưng cả hai còn non kinh nghiệm, không được sư đoàn duyệt. Sau sự vận động của Gia Bố, sư đoàn đồng ý cho Vô Phong mỗi tuần nửa ngày về liên đội chỉ đạo công việc, còn việc luyện tập hàng ngày tạm giao cho Lương Sùng Tín và Thôi Văn Tú.

Học viện Quân sự Đế quốc tọa lạc ở đoạn phía đông Đại lộ Quang Vinh, nam thành Đế đô, nơi nổi tiếng với các trường học cao cấp: Đại học Đế quốc, Học viện Nghệ thuật Đế quốc và Học viện Quân sự. Học viện Quân sự nhỏ hơn hai trường kia, chỉ đào tạo các sĩ quan quân đội, với dưới một nghìn học viên. Đối diện là Học viện Nghệ thuật, hai trường chỉ cách nhau một con đường. Đại học Đế quốc ở giữa Đại lộ Quang Vinh, lớn hơn Học viện Nghệ thuật, bằng năm Học viện Quân sự.

Ngày 8 tháng 3, năm 690 theo dương lịch, Vô Phong cùng phó đại đội trưởng Mộc Lực Cách và trung đội trưởng Trường Sa Lãng mang hành lý đến Học viện Quân sự Đế quốc làm thủ tục nhập học.

Quy định của học viện nghiêm cấm mọi đặc quyền: Dù trước đây giữ chức vụ cao, học viên khi vào học đều là thành viên bình thường. Khi tới cổng, ba người thấy trường vắng vẻ, trái ngược hẳn với Học viện Nghệ thuật bên kia đường, nơi náo nhiệt hẳn, cổng treo tấm băng rôn lớn "Nhiệt liệt chào mừng tân sinh viên" bằng chữ vàng thêu. Nhiều xe ngựa sang trọng đậu, trên xe là dấu hiệu quý tộc, thậm chí cả dấu Hoàng gia.

Trường Sa Lãng, là đồng hương và cũng là người Đế đô, xuất thân từ gia tộc phú quý, rõ ràng hiểu rõ nơi này hơn cấp trên. Thấy Vô Phong và Mộc Lực Cách đứng ngẩn ngơ, anh giải thích:

"Hai vị đại nhân, đối diện kia là Học viện Nghệ thuật Đế quốc, nổi tiếng khắp lục địa. Hôm nay cũng là ngày khai giảng, con cháu các quan đại thần khắp nơi đều mong được vào học, kể cả con nhà quý tộc các nước khác cũng vượt ngàn dặm tới, nên mỗi năm nơi đây đều đông nghịt."

Vô Phong quan sát một lúc, thấy chuyện lạ liền hỏi Sa Lãng:

"Sa Lãng, sao hình như toàn con gái, mà con trai lại ít thế?"

Sa Lãng vội giải thích:

"Thưa đại nhân, vì Học viện Nghệ thuật Đế quốc chủ yếu giảng dạy hội họa, thư pháp, cờ, nhạc, gia nghệ, cùng các nghi lễ thượng lưu xã hội. Ngày nay, giới thượng lưu đế quốc cực kỳ coi trọng những kỹ năng này, nên không chỉ các quan lại danh giá, mà nhiều gia đình khá giả trung – hạ tầng cũng tìm mọi cách gửi con gái vào học, mong sau này có thể gả vào hàng quý tộc."

"À, ra vậy, hèn chi âm thịnh dương suy. Sao cậu biết rõ mấy chuyện này thế?" - Vô Phong tò mò hỏi.

Vẻ mặt vốn sáng sủa của Sa Lãng chợt buồn xuống:

"Hồi trước, có một cô gái mà tôi để ý, vài năm trước từ chối theo đuổi tôi, rồi nhập học ở ngôi trường này."

Vô Phong hơi hối hận, sợ chạm vào nỗi đau của người khác:

"Cô ấy giờ chắc sống rất tốt rồi nhỉ?"

"Nghe nói đã trở thành nhân tình của một Bá tước" - Sa Lãng cười cay đắng đáp.

Từ bên cạnh, Mộc Lực Cách cất tiếng, giọng khàn khàn, thẳng thừng:

"Loại đàn bà ấy, bỏ đi cũng được."

Mộc Lực Cách xuất thân từ Phủ Ngân Xuyên, Tây Bắc quận, gia đình nông dân nghèo, từ nhỏ mồ côi cả cha lẫn mẹ, may mà có một người chú tốt bụng nuôi nấng. Chú ông từng học vài năm sách vở rồi đi làm đủ nghề, Mộc Lực Cách theo học, đến mười sáu tuổi rời nhà nhập ngũ. Mười mấy năm sau, nhờ chiến công mà thăng lên Phó trung đội trưởng, nhưng vì xuất thân và tính cách thẳng thắn, không nịnh bợ cấp trên, nên không thể tiến xa hơn. Khi Vô Phong nhậm chức Liên đội trưởng thứ tư, thấy ông ta dũng mãnh, vừa thô vừa tinh, nên tận dụng đợt điều chỉnh nhân sự sau chiến tranh thăng ông ta lên Phó đại đội trưởng, chuẩn bị nếu Lương Sùng Tín thăng chức, Mộc Lực Cách sẽ thay thế.

Vô Phong thở dài, vỗ vai Sa Lãng:

"Đại trượng phu, đâu phải thiếu vợ, cứ chuyên tâm làm việc, rồi một ngày, cậu sẽ chứng minh, những tiểu thư quý tộc hay con gái nhà giàu kia đều sẽ hối hận, sao lúc đó không chọn cậu."

Nhiều năm sau, khi đã trở thành Tổng đốc Hành tỉnh Đông Lý Bác Á, Sa Lãng vẫn nhớ như in lời vua trẻ đế quốc năm ấy, xem đó như kim chỉ nam thúc giục bản thân dũng cảm nơi chiến trường.
 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 7: Mỹ Nhân

Những ngày học tập tại trường trôi qua tương đối yên bình. Lý Vô Phong, Mộc Lực Cách và Trường Sa Lãng được xếp vào các lớp thuộc cấp bậc khác nhau. Học viện phân chia học viên dựa theo chức vụ trước khi nhập học thành bốn cấp: Lớp đào tạo sĩ quan sư đoàn, lớp đào tạo sĩ quan liên đội, lớp đào tạo sĩ quan đại đội và lớp đào tạo sĩ quan trung đội. Lớp sĩ quan sư đoàn chỉ có một lớp, dưới 40 người; lớp sĩ quan liên đội có ba lớp, mỗi lớp 50 học viên; lớp sĩ quan đại đội có tám lớp, mỗi lớp 50 người; lớp sĩ quan trung đội cũng tám lớp, mỗi lớp 50 học viên.

Lý Vô Phong theo học lớp sĩ quan liên đội, nơi mà tuổi trung bình của học viên đều trên 35, duy chỉ có mình cậu chưa đầy hai mươi. Khi báo danh, giáo viên phụ trách tưởng rằng cậu đăng nhầm lớp.

Cuộc sống học tập khá khô khan. So với thời gian bán học bán làm ở Đại học Heidelberg trên Tây đại lục, Vô Phong thấy giáo dục ở Đế quốc có phần cứng nhắc, giáo điều. Các môn như rèn luyện quân sự, phân tích chiến lệ, phối hợp binh chủng, hậu cần chiến tranh, nghiên cứu công cụ công-phòng mới.. Đều không khiến cậu hứng thú. Niềm an ủi duy nhất là thư viện của học viện khá phong phú, lại được tự do truy cập thư viện của Đại học Đế quốc và Học viện Nghệ thuật Đế quốc đối diện.

Vô Phong thích cuộc sống quân đội hơn, bởi chỉ ở đó cậu mới cảm nhận được giá trị bản thân. Cho đến một ngày, giờ học Lịch sử Quân sự mới khiến đời sống học tập tẻ nhạt trở nên khác thường.

Ngày 26 tháng 4, năm 690 theo dương lịch, khi giảng viên lịch sử bước vào lớp, gần như mọi học viên đều tròn mắt, nín thở.

"Các học viên, tôi là giảng viên môn Lịch sử Quân sự An Kỳ Nhĩ. Từ hôm nay, tôi sẽ giảng dạy các em về lịch sử quân sự lục địa. Mong các em chăm chú nghe giảng."

Cả lớp lặng im, chỉ nghe tiếng thở đều của từng người. Một lúc lâu, vài học viên lớn tuổi khẽ ho, hầu hết mới hồi tỉnh. Ngồi trong lớp, Lý Vô Phong chỉ nghĩ một câu: Quá đẹp! Một mỹ nhân tuyệt thế, mái tóc vàng như ánh mặt trời, gương mặt trắng nõn với đôi mắt xanh biếc sâu thẳm. Ngay cả người từng đi khắp lục địa như Vô Phong cũng phải nuốt nước bọt. "Nếu không chiếm được người đẹp như vậy, thật là lãng phí trời phú," cậu âm thầm nghĩ.

Từ đó, cuộc sống trở nên nhẹ nhàng hơn. Ngoài giờ học, Vô Phong thường đến thư viện Đại học Đế quốc hoặc Học viện Nghệ thuật Đế quốc đối diện để mượn sách, đồng thời ngắm các nữ sinh xinh đẹp - bởi trong học viện quân sự không có nữ học viên, tuổi của học viên lại cao. Ngoài An Kỳ Nhĩ, không còn ai đẹp như vậy. Cậu tìm cách tiếp cận giảng viên nhưng An Kỳ Nhĩ bận rộn, dạy xong là rời đi ngay. Mọi lần mời uống trà hay ăn cơm đều bị từ chối khéo.

Qua tìm hiểu, Vô Phong biết cô gái trẻ này xuất thân không tầm thường: Thuộc gia tộc Hưu Y, một trong Năm đại gia tộc Đế quốc. Bác của cô là công tước Mã Khắc. Dù bản thân không giữ chức vụ trong triều, nhiều thành viên gia tộc đều nắm quyền trong các cơ quan Đế quốc, thế lực không ai dám coi thường. An Kỳ Nhĩ vừa tốt nghiệp Đại học Đế quốc, tự nguyện đến học viện làm giảng viên. Trong xã hội thượng lưu, cô được xếp cùng Tư Đồ Ngọc Sương - công chúa thứ mười ba của Đế quốc - và Chu Tử Mai - đại lễ quan hoàng cung - trở thành "Tam Hoa Đế đô", khiến nhiều đại gia si tình.

Dù vậy, Vô Phong không bỏ cuộc. Cậu tin chắc: Bất cứ phụ nữ nào cũng cần quan tâm, che chở, và tình yêu chân thành. Chỉ cần kiên trì, phương pháp đúng, nhất định sẽ thành công.

Trong thời gian này, nhờ cơ hội mượn sách tại thư viện Đại học Đế quốc, Vô Phong quen được một số bạn mới, trong đó có Mạc Luân và Tô Dân Thuần. Hai người đều chưa đến 30, xuất thân từ gia tộc giàu có nhưng dòng thứ. Mạc Luân đến từ Hán Trung phủ, từ nhỏ say mê pháp luật, Đại học Đế quốc theo học chuyên ngành này, nghiên cứu luật các nước Đông – Tây – Trung lục địa, từng đề xuất tư tưởng "dựa pháp trị quốc" nhưng không ai để ý. Sau khi ra trường, tưởng có thể phát huy tài năng tại Đế đô, ai ngờ nơi đây trọng xuất thân, tuổi tác, ông chỉ được nhận một chức vụ thấp ở Bộ Nội chính.

Tô Dân Thuần xuất thân từ gia tộc thương nhân Đăng Châu phủ. Dù gia đình định để cậu về tiếp quản nghiệp nhà, cậu vẫn muốn đi quan. Nhưng Đế đô phức tạp, nặng nề chuyện xuất thân, khiến cậu liên tiếp thất bại, cuối cùng phải làm tay sai cho một thương nhân. Cả hai đều ngại về quê, nên ở lại Đế đô học tập, mượn sách thư viện. Vì cùng cảnh ngộ, lại xuất thân cùng trường, hai người nhanh chóng trở thành bạn thân.

Vô Phong quen Mạc Luân và Tô Dân Thuần tại quán cà phê bên ngoài thư viện. Người dân Đế quốc Đường Hà vốn quen uống trà, nhưng nhờ giao thương với Tây đại lục, cà phê trở thành trào lưu trong giới trẻ. Vô Phong, mỗi lần mượn sách xong, thường ngồi đọc tại quán Cầu Ngân, không ai biết cậu là sĩ quan quân đội.

Trong một dịp tình cờ, Lý Vô Phong đã quen biết Mạc Luân và Tô Dân Thuần. Khi đó, hai người đang ngồi trong quán cà phê vừa trò chuyện vừa nhâm nhi cà phê. Đến lúc thanh toán, họ mới phát hiện ra số tiền trên người cũng chẳng đủ, may mà Lý Vô Phong, đứng bên nghe lỏm từ nãy, liền bước tới trả tiền giúp, giải nguy cho họ. Từ đó, ba người trở nên quen biết.

Khi biết chàng trai trẻ này lại là một trung cấp quân nhân trong quân đội Đế quốc và có thu nhập khá, cả hai không khỏi nảy sinh thói quen thường xuyên vay tiền Lý Vô Phong. Họ lợi dụng sở thích uống cà phê tại quán của Vô Phong, thường tìm đến tụ tập cùng chàng, tất nhiên, họ chẳng bao giờ trả tiền mà còn hồn nhiên tự xưng "ăn nhờ nhà giàu".

Một lần, khi Lý Vô Phong đi mượn sách, tình cờ gặp An Kỳ Nhĩ - người từng là giáo viên thỉnh giảng tại trường cũ của anh. Vô Phong nhận thấy cơ hội hiếm có: Trước đây trong trường, thường bị từ chối, nay ở ngoài, không còn ràng buộc thầy trò, chắc sẽ có cơ hội. Khi anh mời An Kỳ Nhĩ uống cà phê lần nữa, cô ngần ngại một chút nhưng cuối cùng cũng đồng ý.

Thực ra, An Kỳ Nhĩ vẫn còn tò mò về học trò này. Dù Lý Vô Phong trẻ tuổi, nhưng trong lớp huấn luyện sĩ quan cấp liên đội, người như anh rất hiếm. Anh xuất thân sĩ tộc, nhưng lại không hề mang dáng dấp phóng túng của những kẻ con nhà quyền quý, khiến cô cảm thấy thiện cảm. Khi An Kỳ Nhĩ theo Vô Phong bước vào quán cà phê, cô âm thầm suy nghĩ như vậy.

Khi Vô Phong khoe khoang dẫn An Kỳ Nhĩ vào Ginza Café, sự xuất hiện của họ lập tức gây xôn xao trong quán, nơi các sinh viên đang nhâm nhi cà phê. Bởi An Kỳ Nhĩ từng là hoa khôi nổi tiếng của Đại học Đế quốc, dù đã tốt nghiệp, thời gian chưa lâu, hầu hết sinh viên vẫn còn nhớ đến cô. Đặc biệt, cô hiếm khi xuất hiện một mình với nam giới nơi công cộng, nên khiến mọi người tò mò.

Bước vào quán, An Kỳ Nhĩ đã hơi hối hận, không ngờ sức ảnh hưởng của mình lớn đến mức dù đã ra trường vẫn gây chú ý đến vậy. Trong khi cô cảm thấy ngột ngạt, Lý Vô Phong lại vô cùng thích thú, đắm mình trong ánh mắt ghen tỵ, ngưỡng mộ của mọi người xung quanh.

"An Kỳ Nhĩ tỷ.."

"Ồ, là Oánh Oánh với Ngọc Mi à, hai cô cũng ở đây nghỉ à?"

"Vâng, chúng em vừa tan học ra hít thở không khí một chút."

Ngay khi Vô Phong hậm hực vì bị làm phiền cơ hội quý giá, vừa ngoái đầu nhìn, anh chợt trông thấy hai cô gái đang chào hỏi An Kỳ Nhĩ. Trời ơi, thiên hạ sao mà tập hợp toàn mỹ nhân thế này? Cô gái đang nắm tay An Kỳ Nhĩ trông rõ ràng là một cô gái lai, mái tóc đỏ rực, gương mặt có nét tương đồng với An Kỳ Nhĩ, mang rõ đặc trưng phương Tây, chỉ khác đôi mắt màu xanh lục. Còn cô gái đứng bên cạnh là hình mẫu mỹ nhân phương Đông, tóc đen dài óng mượt, khuôn mặt thanh tú, khoác áo dài màu be, bên ngoài thêm tấm áo khoác cùng màu, thần thái điềm nhiên, thư thái. Quả là một tuyệt sắc Giang Nam.
 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 8: Giao Du

"Yêu giang sơn, nhưng còn yêu mỹ nhân hơn."

Trích Ngự Ngôn Hoàng Đế

Khi Lý Vô Phong đang mê mẩn trước ba mỹ nhân tuyệt sắc, hai cô gái đang trò chuyện cùng An Kỳ Nhĩ cũng nhận ra cậu.

"Ôi, An Kỳ Nhĩ tỷ, người này là ai vậy? Sao không giới thiệu cho tụi em biết?" Cô gái tóc đỏ lên tiếng đầu tiên.

An Kỳ Nhĩ mỉm cười: "À, cậu ấy là học trò của tôi, tên là Lý Vô Phong."

Những quý ông xung quanh thở phào nhẹ nhõm, may mà chỉ là học trò cô.

Vô Phong không muốn mất thể diện trước các mỹ nhân, đứng lên mời hai cô gái ngồi lại uống cà phê. Hai cô vui vẻ nhận lời, hòa vào bàn cùng Vô Phong và An Kỳ Nhĩ. Vô Phong nhanh chóng đặt trước mặt hai cô những tách cà phê Lục Tông Đen ngon nhất. An Kỳ Nhĩ cũng giới thiệu sơ lược về hai cô: Cô tóc đỏ là Quản Oánh Oánh, cô tóc dài là Hoa Ngọc Mi, đều là sinh viên Đại học Đế quốc. Dù An Kỳ Nhĩ chỉ hơn các cô một tuổi, nhưng học kì trước, cô đã hơn hai khóa, nên trong trường, ba cô gái rất thân thiết.

Quản Oánh Oánh xuất thân từ Hà Sóc quận, thủ phủ Hà Gian phủ, trong gia tộc là một thế gia võ lâm nổi danh, đồng thời kinh doanh quy mô lớn lương thực và dầu ăn. Gia tộc nàng ảnh hưởng rộng khắp địa phương. Hoa Ngọc Mi đến từ Giang Nam quận, Tùng Giang phủ; họ Hoa là gia tộc tơ lụa nổi tiếng, chiếm tới một phần tư thị trường tơ lụa đế quốc, và cha nàng, Hoa Thiên Chính, được mệnh danh "Vua tơ lụa". Những thông tin này sau này Vô Phong mới biết được.

An Kỳ Nhĩ chỉ giới thiệu đơn giản, gọi hai cô là học muội, và ngay lập tức ba người trò chuyện sôi nổi, khiến Vô Phong bị bỏ lại một bên. Cậu lẩm bẩm thầm, tưởng rằng sẽ một lúc "hái ba hoa một lần", ai ngờ các cô hoàn toàn không đoái hoài đến mình. Nhưng Vô Phong không nản chí; cậu hiểu, vội vàng ép buộc chỉ làm mất việc, nên bình thản thưởng thức cà phê dưới ánh mắt ghen tị của đám thanh niên xung quanh.

Ngay lúc đó, cậu nhìn thấy Mạc Luân, Tô Dân Thuần cùng một người trung niên lạ mặt bước vào. Vô Phong lịch sự chào ba cô gái đang say sưa trò chuyện: "Bạn của tôi tới, tôi xin phép rời bàn một lát." Cậu rời đi, đến bàn mới cùng ba người vừa đến, khiến ba mỹ nhân ngạc nhiên pha chút giận dữ. Bình thường, những chàng trai giàu sang hay tài giỏi còn khó có cơ hội uống cà phê với họ, vậy mà người này lại rời bàn giữa lúc hội họp với ba mỹ nhân-thật chưa từng thấy!

Vô Phong ngồi cùng Mạc Luân, Tô Dân Thuần, nhìn sang người trung niên lạ, nhận thấy ông ta vô cùng điềm tĩnh, hoàn toàn không bị thu hút bởi ba mỹ nhân. Cậu chăm chú quan sát, thì người trung niên chủ động giới thiệu:

"Tôi là Cổ Cơ, chủ Thư Tràng Thao Lãng. Mạc Luân và Tô Dân Thuần là bạn tôi. Nghe họ nói có một người bạn mới, tôi tò mò muốn làm quen."

Vô Phong đã được nghe Mạc Luân và Tô Dân Thuần kể về Cổ Cơ: Ông không chỉ học rộng tài cao, mà còn thông tin nhanh nhạy. Thư Tràng Thao Lãng là một thư viện tư nhân nổi tiếng, nhưng chủ nhân thực sự ít người biết. Ai ngờ, lại chính là vị trung niên giản dị trước mắt.

Khi Mạc Luân và Tô Dân Thuần còn đang tiếc nuối nhìn ba cô gái, Vô Phong và Cổ Cơ đã tự giới thiệu và ngầm quan sát nhau. Với Cổ Cơ, đối diện là một chàng trai trẻ tuổi mà khó đoán, sâu sắc đến mức khiến người ta khó nắm bắt.

Nhiều thập kỷ sau, các nhà sử học Đế quốc nhận định đây là một cuộc gặp gỡ vĩ đại. Lúc ấy, bốn người còn chưa nổi danh, nhưng mười mấy năm sau, tất cả đều trở thành những nhân vật lừng lẫy trên toàn đại lục. Nhà sử học nổi tiếng Đường Đột, lúc ấy là sinh viên, đã ghi chép chi tiết cuộc gặp này, đồng thời bực bội lẫn ghen tị với Vô Phong-vì cậu đã bỏ qua cơ hội thưởng thức cà phê cùng ba mỹ nhân mà chưa ai từng thấy.
 
153 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 9: Kết Giao

Thời gian trôi qua thật nhanh, chỉ sau vài lần gặp gỡ, Lý Vô Phong đã trở thành bạn thân của Cổ Cơ. Khi biết Cổ Cơ là trưởng tử của gia tộc Cổ, một trong những thương gia đường bộ lớn nhất Đế quốc, Vô Phong đã mở lòng bày tỏ hết ước vọng của mình. Cử chỉ này khiến Cổ Cơ rất cảm động và anh cũng hứa sẽ hết sức giúp đỡ Vô Phong.

Ngược lại, mối quan hệ với An Kỳ Nhĩ lại không thuận lợi. Ngày hôm đó, Vô Phong thể hiện thái độ khiến An Kỳ Nhĩ cảm thấy anh không hề tôn trọng ba cô gái, vì thế cô trở nên lạnh nhạt và từ chối mọi lời mời của Vô Phong. Tuy nhiên, anh không hề nản lòng, vẫn kiên trì theo đuổi.

Thay vào đó, Quản Oánh Oánh và Hoa Ngọc Mi lại tỏ ra tò mò với Vô Phong. Nhiều lần bắt gặp anh đọc sách ở quán cà phê Ngân Đô, họ chủ động ngồi cùng, khiến nhiều học sinh xung quanh ganh tị đến mức "muốn giết" Vô Phong. Đặc biệt là con nhà quan lại, họ không ngừng khiêu khích, nhưng sau một lần Vô Phong "vô tình" để lại dấu tay trên bàn gỗ sồi cứng cáp của quán, tất cả đều phải biết điều.

Bước vào tháng Tám, thời tiết càng nóng bức, tình cảm giữa Vô Phong và Quản Oánh Oánh tiến triển nhanh chóng. Khi Oánh Oánh biết Vô Phong từng đại thắng quân địch trong cuộc khởi nghĩa nông dân năm đầu tiên, bắt sống hơn ba nghìn binh lính, cô càng thêm ngưỡng mộ.

Hoa Ngọc Mi sau vài lần gặp gỡ và trò chuyện cùng Vô Phong, nhận thấy anh không chỉ tinh thông quân sự mà còn am hiểu văn học, lịch sử và địa lý; lại có tài ăn nói, khiến cô cũng có chút động lòng. Nhưng khi biết bạn thân Oánh Oánh cũng yêu say đắm Vô Phong, Ngọc Mi rơi vào mâu thuẫn và đau khổ.

Với hai cô gái bên cạnh, Vô Phong cảm thấy ngây ngất. Thời gian này, trường học chỉ học buổi sáng, buổi chiều tự học, anh thường mời Oánh Oánh và Ngọc Mi đi chơi: Khi một mình, khi cả hai, lúc thưởng trà, lúc chơi cờ, lúc uống cà phê trò chuyện. Cuộc sống khiến anh như sống giữa chốn thần tiên, đến mức bỏ ngoài tai sự lạnh nhạt của An Kỳ Nhĩ.

Dù vui chơi, anh vẫn không quên quan tâm đến quân đội, tuần nào cũng nghe Lương Sùng Tín và Khúc Ba báo cáo tiến độ huấn luyện, đặc biệt với ba đơn vị trực thuộc mới, Vô Phong yêu cầu nghiêm ngặt để nhanh chóng nâng cao chiến lực, sẵn sàng ứng phó mọi tình huống.

Theo thời gian, hai cô gái ngày càng chấp nhận sự hiện diện của nhau nhưng đều không muốn phá vỡ sự cân bằng mỏng manh, nên tình cảnh trở nên vừa thân mật vừa lúng túng.

Một Chủ Nhật, Vô Phong sớm hẹn Quản Oánh Oánh đi dã ngoại. Lần này, Oánh Oánh chọn một chiếc xe ngựa bốn bánh sang trọng, vốn chỉ có quý tộc mới dùng, với không gian rộng rãi và đệm mềm êm, tiện nghỉ ngơi khi đi đường dài. Hai người tự lái xe, hướng ra hồ Lục Liễu. Trên đường, khung cảnh mùa gặt tràn đầy sắc vàng, cỏ khô chất đống, những chiếc xe bò chậm rãi chở đầy thóc, dù đã gần giữa trưa, trời vẫn nắng nóng, may mắn có làn gió nhẹ.

Khi tới bờ hồ, không gian khác hẳn, gió hồ thổi, xua tan cái nóng và mệt mỏi buổi sáng. Hồ được bao quanh bởi rặng liễu xanh tươi, đúng như tên gọi Lục Liễu Hồ.

Vô Phong lái xe tới bến nước yên tĩnh, Oánh Oánh bỏ tấm áo choàng ngoài, khoe bộ trang phục màu xanh đậm ôm sát cơ thể, mái tóc đỏ rực, thân hình quyến rũ, gương mặt xinh đẹp. Oánh Oánh nhận thấy ánh mắt Vô Phong dõi theo mình, cô không ngại ngùng mà còn hạnh phúc, nhẹ nhàng tựa vào anh, hai người tựa lưng trên ghế xe, ngắm cảnh hồ tĩnh lặng, chỉ thỉnh thoảng có tiếng chim hót.

"Phong ca, em hơi buồn ngủ rồi." Giọng cô nhẹ nhàng, mang chút mũi. Vô Phong cúi đầu, nhìn khuôn mặt nàng, đôi mắt khép lại, hàng mi dài, đôi môi đỏ mọng, không kiềm chế được, anh nâng khuôn mặt nàng lên và hôn.

Trên giường, vừa hồi tưởng về hai cô gái khác nhau, vừa nhận thấy công lực bản thân tăng tiến. Quả nhiên, thầy anh nói đúng, anh sinh ra đã có "vận đào hoa" đa thê, luyện nội công Thập Dương Chân Khí, thuộc loại công lực dương cực thịnh, nhưng còn thiếu âm khí để phối hợp, nếu không sẽ khó thành đại công.

Sau khi cùng Quản Oánh Oánh hòa hợp, công lực anh bước qua một bậc cao hơn; khi cùng Hoa Ngọc Mi, cảm giác lại càng thăng hoa. Thầy anh từng nói, người luyện Thập Dương Chân Khí sẽ có nhu cầu với phụ nữ rất mạnh; may là công lực càng dương thì càng cần âm, anh đương nhiên vui vẻ chấp nhận.

Hồi tưởng lại từng cô gái, Vô Phong nhận ra ham muốn chợt trỗi dậy. Thân hình Oánh Oánh thật tuyệt, chỗ nào cần đầy đặn, chỗ nào thon thả, da trắng mịn, mái tóc đỏ rực, đúng kiểu mỹ nhân lai; còn Ngọc Mi lại thanh thoát, tóc đen óng, gương mặt hiền dịu, thân hình cân đối, là vẻ đẹp đặc trưng của miền Giang Nam.

Tính cách hai cô cũng khác nhau: Oánh Oánh thẳng thắn, dám yêu dám hận; Ngọc Mi dịu dàng, ôn hòa, xử sự điềm tĩnh. Khi Vô Phong đang say sưa hồi tưởng, nghe tiếng động từ phòng bên, anh vội mặc áo sang an ủi cô gái vừa mới thành thân.
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back