Bạn được Duyuyen mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
144 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
61 0
Kiếm tiền
mrgu21 đã kiếm được 610 đ
Giang Sơn Mỹ Nhân Chí

Tác giả:
Thụy Căn

Thể loại: Huyền ảo – Lịch sử – Quân sự – Tranh bá vương triều

Dịch giả: Mr. Gu

600.webp

Giới thiệu:

Trên một đại lục thần kỳ, nơi tụ hội vô số dân tộc, các quốc gia hùng cứ, chư hầu tranh bá, anh hùng xuất thế - phong vân biến ảo, thiên hạ phân hợp, hợp rồi lại phân.

Vì sự tồn vong của dân tộc, vì sự cường thịnh của quốc gia, vì lý tưởng và hoài bão của bản thân - vô số anh hùng kiệt xuất đã nổi lên trong thời loạn, mỗi người đều có chí hướng và con đường riêng, cùng viết nên huyền thoại máu và lửa của mình.

Hươu chết về tay ai, thiên hạ thuộc về ai, tất cả hãy cùng chờ xem.

Hãy cùng chứng kiến một đời truyền kỳ của thiết huyết hoàng đế Lý Vô Phong, kẻ đã dùng trí tuệ và dũng khí của mình viết nên chương sử oanh liệt trên mảnh đất rộng lớn này - nơi giang sơn và mỹ nhân, quyền lực và mưu kế, lý tưởng và hiện thực đan xen thành một bức tranh hùng vĩ của thời đại.
 
144 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 01: Hồi Hương

Năm Công lịch Đại Lục 671, Lý Vô Phong – nhà chính trị, nhà quân sự, nhà hùng biện kiệt xuất, người sáng lập ra Huy Hoàng Vương Triều, và là vị Hoàng đế đầu tiên của Huy Hoàng Đế quốc – sinh ra trong một gia đình sĩ tộc sa sút ở Trung Châu, thủ đô của Đường Hà Đế quốc tại phía Đông Đại Lục.

--- Trích từ 《Huy Hoàng Đế Quốc Sử》 ---​

"A, cố hương, cuối cùng ta cũng đã trở về." Nhìn tòa thành cao sừng sững, chàng trai hít một hơi thật sâu. Dù nơi cố hương không còn một người thân, nhưng dù sao đây cũng là nơi đã nuôi dưỡng mình mười mấy năm, là nơi mình đã trưởng thành. Tình cảm cố hương sâu đậm ấy, dù có đi đâu, chàng cũng chẳng thể nào quên được.

Gần nhà lại càng thêm e sợ. Càng đến gần nơi đã rời xa, lòng chàng lại càng thêm bồn chồn. "Có lẽ mình đã thực sự lớn rồi." Chàng nhớ lại hai năm trước, khi rời nhà với tâm trạng muốn nhìn thấu thiên hạ, ngao du khắp bốn bể, hoàn toàn khác biệt với tâm trạng lúc này. "Không biết cỏ trên mộ song thân đã xanh sâu đến đâu rồi, cũng nên đi thăm một chuyến." Một thanh niên đầy phong trần đứng cạnh cổng thành, hướng mắt nhìn dòng người qua lại trên con đường lớn, lẩm bẩm một mình. Chàng không vội về nhà, mà phủi đi lớp bụi bặm trên người, một tay kéo dây cương, leo lên ngựa, phi thẳng ra ngoại ô.

"Phụ thân, Mẫu thân, hài nhi đã về rồi." Đến trước hai ngôi mộ bình thường trong nghĩa địa ngoại ô, chàng xuống ngựa, quỳ gối trước mộ, mãi không muốn đứng dậy. Nghĩa trang tĩnh lặng lạ thường, chỉ thỉnh thoảng vang lên vài tiếng chim hót.

Sau khi bái lạy mộ song thân, chàng trai đứng lên, ngửa mặt nhìn trời, thở phào một hơi dài. "Giờ mình nên làm gì đây? Thôi, cứ về nhà xem sao đã, không cần nghĩ nhiều vội."

Đường Hà Đế quốc tọa lạc ở khu vực Trung bộ và Đông bộ của Đông Đại Lục, đất đai rộng lớn, dân số đông đúc. Thủ đô Trung Châu nằm trên vùng bình nguyên Phiến Giang ở Trung bộ Đế quốc, nơi đây đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi phát triển, giao thông thuận tiện, vật phẩm phong phú, dân cư đông đúc, là một trong những khu vực sản xuất lương thực, bông vải quan trọng và là nơi kinh tế phát triển của Đế quốc, đồng thời cũng là trung tâm chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa và nghệ thuật.

Thủ đô Trung Châu có khoảng năm triệu dân, là thành phố lớn nhất Đông Đại Lục, và cũng là một trong những thành phố lớn nhất toàn bộ Lạp Á Đại Lục. Mấy trăm năm gần đây, nơi đây chưa từng chịu cảnh chiến tranh, nên đã trở thành thành phố phồn hoa nhất Đông Đại Lục. Thành phố được xây dựng từ đầu thời kỳ Đường Hà Đế quốc, năm Công lịch Đại Lục 286. Trải qua hơn hai mươi năm mới hoàn thành cơ bản, sau đó qua các đời lại dần dần hoàn thiện, đến đầu thế kỷ này mới hoàn thành trọn vẹn.

Thành phố chia làm hai phần: Nội thành và Ngoại thành. Nội thành là Hoàng Cung, nơi Hoàng đế, phi tần và các con chưa trưởng thành sinh sống, cũng như nơi Hoàng đế làm việc. Nội thành nằm ngay giữa trung tâm thành phố, bao quanh Nội thành là khu vực làm việc của các cơ quan chính phủ. Tiếp đến là dinh thự của các quan lại, quý tộc, rồi đến khu dân cư và khu thương mại.

Toàn bộ thành phố có hình vuông vắn, chín con đường lớn rộng rãi chia thành phố thành ô bàn cờ từ Đông sang Tây và từ Nam ra Bắc, xen kẽ là vô số ngõ hẻm, lối đi nhỏ và quảng trường. Tường thành kiên cố cao mười lăm mét, rộng mười mét bao bọc toàn bộ thành phố, bên ngoài còn có một con hào rộng bao quanh. Bốn cửa thành Đông, Tây, Nam, Bắc đều có một cổng lớn rộng mười mét, thường ngày không mở, chỉ khi có trường hợp đặc biệt mới mở. Hai bên cổng lớn có hai cổng nhỏ rộng năm mét, mở từ sáu giờ sáng đến tám giờ tối, phục vụ việc đi lại thường ngày của người dân trong và ngoài thành.

Gần bốn cửa thành, cả bên trong và bên ngoài thành đều có một doanh trại quân đội. Bốn doanh trại bên trong thành đóng bốn sư đoàn của Cấm Vệ Quân Đoàn Đế quốc, bốn doanh trại bên ngoài thành đóng bốn sư đoàn của Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc.

Khu công nghiệp và khu thương mại chủ yếu tập trung ở phía Bắc thành phố, nơi đây tập trung các xưởng sản xuất, nhà kho, chợ đầu mối của các loại hàng hóa, cũng như các bang hội ngành nghề, trụ sở hoặc chi nhánh của nhiều thương hiệu lớn. Tổng Cục Tài chính Đế quốc và Tổng Cục Thuế vụ trực thuộc cũng đặt ở đây.

Mỗi ngày, các loại hàng hóa từ khắp nơi trong Đế quốc và thậm chí khắp Đại Lục được vận chuyển liên tục bằng đường bộ hoặc đường thủy qua bến Phiến Giang nằm ngoài cổng Bắc vào thành, và các sản phẩm của thủ đô cũng được vận chuyển từ đây đi khắp cả nước. Các thương hiệu nổi tiếng khắp Đại Lục đều đặt trạm trung chuyển và kho tạm ở bến tàu.

Khu thương mại và khu giải trí chủ yếu tập trung ở phía Đông thành phố. Đây là nơi phong thủy tốt để kinh doanh, các cửa hàng san sát nhau, trên các con phố lớn nhỏ xe cộ tấp nập, thương nhân và du khách từ khắp Đại Lục có thể thấy khắp nơi. Phần lớn các tiệm vàng, ngân hàng, tửu lầu, khách sạn, chốn phong nguyệt, sòng bạc, tiệm cầm đồ, trung tâm đấu giá nổi tiếng đều nằm trong khu vực này. Đây cũng là khu vực có an ninh xã hội phức tạp nhất thủ đô, Tổng Cục Cảnh sát Đế quốc và Cục Cảnh sát Thủ đô cũng đặt ở đây.

Phía Nam thành phố là trung tâm văn hóa nghệ thuật của Đế quốc. Đại học Đế quốc, Học viện Nghệ thuật Đế quốc, Học viện Quân sự Đế quốc – ba trường đại học cao nhất Đế quốc – đều tọa lạc tại đây. Sinh viên từ khắp nơi trong Đế quốc học tập các kỹ năng và kiến thức khác nhau tại đây, nhiều sinh viên từ các quốc gia khác ngoài Đế quốc cũng không ngại ngàn dặm xa xôi đến đây cầu học. Nơi đây còn có Thư viện Đế quốc, Viện Bảo tàng Đế quốc, Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật Đế quốc, Kỳ viện Đế quốc, Nhà hát lớn Quốc gia Đế quốc, Viện Thư họa Đế quốc, Thái Y Phủ và nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng khác.

Vì khu vực này có cảnh quan đẹp, không khí văn hóa nghệ thuật đậm đà, các tòa đại sứ quán của các nước ở Đường Hà Đế quốc cũng chọn nơi đây. Nhiều vương công quý tộc cũng xây dựng dinh thự hoặc biệt thự của mình tại đây, đồng thời còn có không ít thư viện tư nhân, trường tư thục nổi tiếng cũng được xây dựng tại khu vực này.

Phía Tây thành phố là khu vực sinh sống chính, phần lớn người dân thường của thủ đô đều sống ở khu vực này. Ra khỏi cổng Tây Hoàng Cung là Khải Hoàn Môn và Quảng trường Khải Hoàn nổi tiếng, nơi Đế quốc tổ chức các đại lễ và nơi Hoàng đế duyệt binh.

Xung quanh quảng trường có trụ sở của Cấm Vệ Quân Đế quốc và Thành Vệ Quân Đế quốc, lần lượt đóng Sư đoàn thứ nhất của Cấm Vệ Quân Đoàn và Sư đoàn thứ nhất của Thành Vệ Quân Đoàn. Bộ Tư lệnh Hiến Binh Đế quốc và Tổng bộ Vũ Lâm Quân Đế quốc cũng nằm xung quanh quảng trường.

Bái lạy xong mộ phần song thân, chàng thanh niên lại lên ngựa, phi vào thành. Vào thành từ cổng Tây, vừa qua cổng là Đại lộ Khải Hoàn lừng danh. Đi dọc theo đại lộ này sẽ dẫn thẳng tới Khải Hoàn Môn và Quảng trường Khải Hoàn ngoài cổng Tây Hoàng Cung. Vào thành, chàng trai xuống ngựa, dắt ngựa đi chầm chậm dọc theo đại lộ, nhìn những cảnh vật quen thuộc xung quanh. Cảnh tượng hai năm trước rời nhà cứ như vừa mới xảy ra hôm qua. Xung quanh vẫn như cũ, không có nhiều thay đổi: Dòng người tấp nập, các cửa hàng buôn bán phát đạt, khách lữ hành đến từ Nam, Bắc, các tiểu thương rao hàng bên đường. Mọi cảnh tượng sinh động và chi tiết hiện rõ trong mắt. "Xem ra cuộc sống của người dân Đế đô vẫn không tệ, khác xa so với cuộc sống của người dân ở mấy quận phía Tây Đế quốc." Chàng vừa đi vừa nghĩ.

Dắt ngựa, chàng rẽ phải vào một con phố khác, đi thêm một đoạn, rồi rẽ trái vào một con hẻm nhỏ. Đi nhanh vài bước, chàng đã thấy cánh cửa nhà mình. Đây là một con hẻm không lớn, có thể thấy những người sống ở đây đều là dân thường. Thật khó mà tưởng tượng được vài chục năm sau, nơi đây sẽ thu hút hết đợt du khách này đến đợt du khách khác đến tham quan cố cư của Hoàng đế Đế quốc.

"Dì Ngô, Dì Ngô!"

"Ai đấy?"

"Là cháu đây."

"Ai cơ?" Cùng với tiếng "kẽo kẹt" của cánh cửa, một phụ nữ trung niên khoảng bốn mươi tuổi bước ra từ cánh cửa vừa mở bên cạnh. Chàng trai nhận ra ngay đó là Dì Ngô, người hàng xóm đã nhìn mình lớn lên từ nhỏ.

"Là cháu đây, Dì Ngô, cháu là Vô Phong đây."

"Vô Phong, thật sự là cháu sao? Hai năm nay cháu chạy đi đâu rồi? Vừa đi là hai năm, chẳng gửi lấy một lời về, làm người ta lo chết đi được, nhỡ có chuyện gì, dì làm sao đối mặt được với mẹ cháu lúc lâm chung đã gửi gắm cháu cho dì?"

"Dì Ngô, chẳng phải cháu đã về rồi sao? Hơn nữa, cháu cũng đâu còn nhỏ nữa, cháu tự lo được cho mình. Lúc cháu đi, chẳng phải cháu đã nói với dì rồi sao?"

Dì Ngô kéo chàng hỏi han ân cần một hồi, Vô Phong phải rất khó khăn mới kể sơ lược được tình hình hai năm qua của mình. "Vô Phong à, mới mười sáu tuổi mà cháu đã đi nhiều nơi thế này rồi, thật không đơn giản. Ở ngoài chắc là khổ lắm hả?" "Quen rồi, cũng chẳng thấy có gì." Dù nói vậy, nhưng nhớ lại lúc mình vừa tròn mười bốn tuổi đã một mình rời nhà đi du lịch khắp thế gian, "đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường," "Trời giao đại nhậm cho người này, ắt trước phải đày đọa tâm chí, nhọc mệt gân cốt, bắt thân thể chịu đói khổ," lời sư phụ vẫn còn văng vẳng bên tai. Chớp mắt đã hai năm trôi qua, chàng cũng đã làm theo lời dặn của sư phụ, hoàn thành chuyến du lịch. Bản thân chàng cũng đã từ một thiếu niên gầy gò trở thành một thanh niên vóc dáng cao ráo, đồng thời mở mang tầm mắt, tăng thêm kiến thức, và võ công cũng tiến bộ vượt bậc. Hai năm chịu khổ này thực sự mang lại lợi ích lớn cho sự trưởng thành của chàng.

"À, phải rồi, sao cháu không thấy Đại Ngưu và Nhị Nữu đâu?"

"Đại Ngưu đi kéo hàng với cha nó ở bến tàu rồi. Nhị Nữu thì năm ngoái đã gả cho Trương lão tứ ở con phố phía trước rồi, Trương lão tứ làm chân chạy việc ở một tiệm thuốc phía Đông thành, cuộc sống cũng coi như tạm ổn. Nghe nói gần đây phía Tây đang đánh nhau, phía Bắc thì có giặc cướp quấy phá, xem ra cuộc sống ngày càng không được yên bình rồi. Chú của cháu họ cũng sắp về rồi. Dì đi làm vài món ăn, chờ họ về cả nhà mình sum họp một bữa."

Sự quan tâm chân thành của người hàng xóm khiến Lý Vô Phong vô cùng cảm động. Nằm trong căn nhà đã hai năm chưa về, Lý Vô Phong miên man suy nghĩ. Giờ đã về nhà rồi, sau này mình nên đi đâu, làm gì đây? Có lẽ đã đến lúc phải đưa ra quyết định rồi. Nghĩ đến đây, Lý Vô Phong chợt nhớ đến lúc ăn tối, Chú Ngô có nhắc đến việc Quảng trường Khải Hoàn trong thành đang tuyển quân. Có lẽ đây là một cơ hội. Tại sao không bắt đầu từ đây để thực hiện ước mơ từ thuở nhỏ của mình?

Sư phụ hai năm trước đã từng nói, hiện nay trên Đại Lục, Đường Hà Đế quốc ở phía Đông có nỗi lo tiềm ẩn từ các phiên trấn bên trong, bên ngoài thì bị các nước xung quanh rình rập, biên cương Tây Bắc lại bị các dân tộc du mục phương Bắc xâm lược, quấy nhiễu hàng năm. Nội bộ Đế quốc cũng có rất nhiều vấn đề, các cuộc khởi nghĩa nhỏ của nông dân, nô lệ thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Nhiều người nghèo vì mưu sinh mà trở thành giặc cướp. Quốc lực Đế quốc ngày càng suy yếu, sớm đã không còn được khí thế như thời kỳ cường thịnh nhất.

Ở Trung Đại Lục, thế lực của các dân tộc du mục trên thảo nguyên phía Bắc rất mạnh mẽ, liên tục phát động chiến tranh xâm lược ra bên ngoài, nội bộ cũng không ngừng tranh chấp. Khu vực Trung bộ và Nam bộ thì các quốc gia, thành bang san sát nhau. Do không có sự can thiệp của thế lực lớn nào, nên mười năm gần đây không xảy ra chiến tranh lớn, cục diện có vẻ tương đối yên bình, nhưng các cuộc xung đột nhỏ vẫn xảy ra, và do sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia và thành bang, khả năng bùng phát chiến tranh vẫn luôn tồn tại.

Tây Đại Lục thì là cuộc tranh bá của bốn thế lực mạnh. Ba cường quốc và một liên minh quốc gia không ngừng chiến đấu vì lợi ích riêng của mình, trong khi các dân tộc du mục phía Bắc cũng năm này qua năm khác nam tiến xâm lược, đổ thêm dầu vào lửa cho Tây Đại Lục vốn đã chìm trong khói lửa chiến tranh.

Nghĩ đến đây, Vô Phong cảm thấy sâu sắc rằng, muốn làm nên chuyện lớn trong thời thế hiện nay, không có thực lực thì chỉ là si tâm vọng tưởng. Có thực lực mới có quyền lên tiếng. Vô Phong không nhớ rõ là triết gia nào đã từng nói câu này.

Giờ tham gia quân đội, vừa hay có thể thi triển tài năng của mình, gây dựng nên sự nghiệp. Nghĩ đến đây, chàng không khỏi hạ quyết tâm, rồi mới yên tâm ngủ. Sáng sớm, vừa tỉnh giấc, trời còn chưa sáng. Đã lâu lắm rồi chàng mới được ngủ một giấc thoải mái như vậy. Chàng đứng dậy đi ra sân, vận động thân thể, rồi luyện tập quyền cước. Tục ngữ có câu: "Quyền không rời tay, khúc không rời miệng." Luyện công như chèo thuyền ngược nước, không tiến ắt lùi. Chàng đã sớm hình thành thói quen dậy sớm luyện công mỗi ngày. Nếu không có tình huống đặc biệt, chàng đều kiên trì tập luyện.

Ngoài cửa truyền đến tiếng Dì Ngô gọi chàng sang ăn sáng. Lý Vô Phong sửa soạn lại rồi đi qua. Sau bữa cơm, Vô Phong nói với gia đình Dì Ngô về quyết định của mình. Dì Ngô có chút lo lắng, nhưng Chú Ngô thì hết lòng ủng hộ, cho rằng chí làm trai là ở bốn phương, nên đi thử sức một phen.
 
144 ❤︎ Bài viết: 0 Tìm chủ đề
Chương 2: Mầm mống

Quảng trường Khải Hoàn là công trình lớn nhất và quan trọng bậc nhất trong toàn đế đô. Giữa quảng trường, Khải Hoàn Môn sừng sững như một biểu tượng của đế quốc hùng cường, xung quanh là các cơ quan trọng yếu cùng hàng loạt tòa nhà quyền lực. Bên cạnh Khải Hoàn Môn, cờ quân phần phật trong gió, vài chiếc lều dã chiến dựng san sát, khung cảnh vừa hùng tráng vừa trang nghiêm.

Theo luật của đế quốc, mọi nam nhân từ mười sáu đến bốn mươi lăm tuổi đều có thể nhập ngũ. Một khi đã gia nhập quân đội, nếu không được quân bộ phê chuẩn mà tự ý rời bỏ, sẽ bị xem là đào binh và xử theo quân pháp.

Đế quốc dân đông, binh nguồn dồi dào, vì thế thi hành chế độ tuyển mộ tự nguyện. Với nhiều người dân tầng lớp trung hạ, nhập ngũ không chỉ là vinh dự, mà còn là một con đường đổi đời, dẫu cơ hội chẳng nhiều.

Đế quốc vốn là một quốc gia phân tầng nghiêm ngặt:

Đẳng cấp thứ nhất là hoàng tộc - huyết thống trực hệ và thân cận của hoàng đế.

Đẳng cấp thứ hai là sĩ tộc, tức tầng lớp quý tộc - những người được phong tước nhờ công lao quân sự, chính trị, hoặc kế thừa tước vị tổ tiên.

Theo quy định, tước vị chỉ được truyền cho một người ở đời kế tiếp. Nếu đời thứ ba không có công trạng hiển hách, danh vị sẽ bị thu hồi. Nhờ vậy, số quý tộc có tước phong không nhiều, song hậu duệ của họ vẫn được ưu tiên tuyệt đối trong việc làm quan, nhập ngũ hay thăng tiến - đó là quyền lợi của sĩ tộc.

Đẳng cấp thứ ba, gọi là thứ tộc, bao gồm quan lại bình dân, thương nhân, địa chủ, chủ xưởng, hay người có cống hiến đặc biệt được địa phương báo lên trung ương công nhận.

Đẳng cấp thứ tư là dân tự do, tức tầng lớp dân thường mưu sinh bằng đủ mọi nghề nghiệp.

Hai đẳng cấp này gộp chung gọi là bình dân.

Ngoài ra, còn có một tầng lớp không được pháp luật công nhận nhưng tồn tại khắp nơi - nô lệ.

Họ là tù binh, tội nhân, con nợ hay hậu duệ của những người ấy, sống ở tận cùng đáy xã hội.

Muốn trở thành dân tự do, nô lệ phải có chủ nhân chứng nhận và nộp phí xác lập thân phận cho chính quyền địa phương, được phê chuẩn mới coi là hợp pháp. Duy chỉ có hoàng đế là người có quyền đặc xá nô lệ ngay tức khắc.

Chính vì sự phân tầng khắt khe này, những người thuộc tầng lớp bình dân muốn đổi số phận phải nỗ lực gấp bội.

Ngay cả khi có tài năng xuất chúng, công lao hiển hách, họ vẫn khó vượt qua rào cản huyết thống.

Ngược lại, những kẻ xuất thân sĩ tộc dù tầm thường hay thậm chí thối nát, vẫn ngồi trên đầu người khác.

Lý Vô Phong từng nhiều lần nghĩ - đây mới là căn bệnh trầm kha của đế quốc, còn nguy hiểm hơn cả ngoại xâm.

Dẫu vậy, qua các triều đại, lời khuyên cải cách vẫn rơi vào im lặng.

Bởi một khi đụng đến lợi ích của sĩ tộc, tầng lớp quý tộc thượng tầng liền đồng loạt phản đối kịch liệt.

Đa phần quan viên cao cấp trong triều đều xuất thân từ chính sĩ tộc ấy.

Mọi đề nghị cải cách đều "chết yểu" trong im lặng.

Vô Phong nhớ lại lần luận bàn cùng sư phụ:

"Người muốn làm nên đại nghiệp, điều quan trọng nhất là gì?"

Câu trả lời cuối cùng - không phải võ công, không phải đức hạnh, không phải mưu lược, mà là biết dùng người, biết trọng người hiền, có lòng bao dung và tầm nhìn thiên hạ.

Đáng tiếc, đế quốc này lại đang bóp chết chính những nhân tài của mình.

Bao người có chí đành rời bỏ quê hương, sang nước khác tìm đường sống, thậm chí trở thành mối họa tiềm ẩn cho quốc gia.

Đến chỗ chiêu binh bên cạnh Khải Hoàn Môn, nơi đây đã sớm đông nghịt người.

Do Đế quốc từ trước đến nay coi trọng quân công, đặc biệt là trong mấy chục năm gần đây, Đế quốc liên tục thất bại trong các cuộc chiến tranh đối ngoại, đã ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của Đế quốc trong mắt các nước Đại Lục.

Hoàng đế đương nhiệm lại càng có ý muốn chấn hưng hình ảnh Đế quốc, đối với những người lập được quân công đều ban thưởng trọng hậu.

Trong khi đó, việc Đế quốc xét duyệt những người xuất thân Thứ tộc và Dân tự do muốn tham gia chính trị lại rất nghiêm ngặt, việc thăng tiến cũng khó khăn hơn so với trong quân đội.

Dù sao, trong quân đội, đã lên chiến trường, chỉ cần có can đảm và tài trí, cơ hội sẽ nhiều hơn rất nhiều, nên người dân tầng lớp trung và hạ lưu đều rất tích cực gia nhập quân ngũ.

Vô Phong xem qua yêu cầu tuyển quân bên ngoài lều.

Đợt tuyển quân này chủ yếu là để bổ sung biên chế cho mấy sư đoàn của Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc, nhằm đối phó với tình hình ngày càng nghiêm trọng.

Vì Thành Vệ Quân Đoàn đóng quân ngay trong thành và vùng ngoại ô Thủ đô, nên người dân Thủ đô càng tích cực tham gia nhập ngũ hơn.

Chàng phải đợi đủ hai giờ đồng hồ mới đến lượt Lý Vô Phong đăng ký.

Khi Vô Phong đưa giấy tờ thân phận cho viên quân quan trung niên phụ trách đăng ký, viên quân quan nhìn giấy tờ, rồi dùng ánh mắt kinh ngạc đánh giá Vô Phong, sau đó lại kiểm tra kỹ lưỡng một lần nữa, rồi mới theo quy định yêu cầu Vô Phong báo tên, tuổi, quê quán và các thông tin liên quan khác.

Vô Phong biết viên quân quan kinh ngạc vì điều gì, bởi vì những người xuất thân Sĩ tộc rất hiếm khi gia nhập quân đội ở cấp cơ sở như thế này.

Họ thường thông qua các mối quan hệ và kênh khác nhau để vào cơ quan quân đội hoặc tầng lớp trên.

Những người như Vô Phong trực tiếp đến điểm tuyển quân đăng ký gia nhập cấp cơ sở là điều thực sự hiếm thấy.

Sau một cuộc kiểm tra thị giác và kiểm tra sức khỏe đơn giản, phòng tuyển quân nhanh chóng đưa ra quyết định chấp thuận nhập ngũ.

Cứ như vậy, Lý Vô Phong trở thành một tân binh của Sư đoàn thứ ba, Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc.

Sau ba tháng huấn luyện tân binh cơ bản, nhờ những màn thử tài của Vô Phong trong quá trình huấn luyện, chàng đã nhận được lời khen ngợi nhất trí từ các quân quan huấn luyện tân binh.

Cộng thêm xuất thân Sĩ tộc của Vô Phong, chàng nhanh chóng được bổ nhiệm làm Tiểu đội trưởng của Tiểu đội thứ hai, Trung đội thứ ba, Đại đội thứ năm mới thành lập, Liên đội thứ tư, Sư đoàn thứ ba, Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc.

Khi biết mình được bổ nhiệm làm Tiểu đội trưởng, Vô Phong không khỏi dâng lên một cảm giác phấn khích.

Dù sao, đây là bước thành công đầu tiên trên con đường mà chàng đã chọn.

Tuy nhiên, con đường phía trước không hề bằng phẳng.

Thông thường, một tân binh rất khó được thăng chức trực tiếp làm quân quan, huống hồ là nhảy vọt qua cấp Phân đội trưởng để trực tiếp lên làm Tiểu đội trưởng, mà Vô Phong còn chưa tròn mười bảy tuổi.

Một tiểu đội có năm phân đội, ba mươi lăm người.

Liệu mình có thể thực sự đứng vững trong tiểu đội, có thể thực sự giành được sự tin phục của mọi người trong đội hay không, vẫn cần phải được kiểm chứng.

Trong đội chắc chắn sẽ có không ít người, đặc biệt là một số lính cũ và những người tự cho mình là có bản lĩnh, muốn gây khó dễ cho mình.

Thay vì ngồi chờ, chi bằng nói thẳng, giải quyết một cách công khai, minh bạch.

Nghĩ đến đây, Lý Vô Phong nở một nụ cười đầy tự tin.

"Mọi người, trước khi về vị trí của mình, tôi xin tự giới thiệu một chút. Sau này chúng ta là anh em cùng chiến đấu, cùng sinh hoạt, hy vọng mọi người sẽ ủng hộ công việc của tôi. Tôi tên là Lý Vô Phong, năm nay mười bảy tuổi, người Trung Châu, sau này sẽ là Tiểu đội trưởng của các bạn."

Vô Phong đứng trước hàng quân của toàn bộ tiểu đội, bình thản tự giới thiệu đơn giản về bản thân.

Bên dưới, khuôn mặt các binh sĩ lộ rõ vẻ kinh ngạc, không phục, ghen tị lẫn lộn, nhưng tất cả đều giữ im lặng, bởi vì quân kỷ Đế quốc rất nghiêm khắc, kẻ nào coi thường cấp trên sẽ bị xử lý theo quân luật.

Sau đó, Vô Phong chuyển giọng.

"Có lẽ trong lòng mọi người đang nghĩ: Cái tên nhóc ranh chưa ráo máu đầu này chắc chắn là bà con thân thích của ai đó cấp trên, ăn no rửng mỡ nên chạy đến quân đội để 'mạ vàng' thân mình, chỉ là không hiểu sao lại chạy xuống tận cấp cơ sở này.

Tôi có thể thẳng thắn nói rõ với mọi người, tôi, Lý Vô Phong, xuất thân Sĩ tộc, nhưng tuyệt đối không phải dựa vào cái gọi là quan hệ để kiếm chén cơm.

Tục ngữ nói rất hay: 'Là lừa hay là ngựa, cứ lôi ra chạy thử.'

Hiện tại, tôi vẫn chưa phải là đội trưởng của mọi người, nếu ai nghi ngờ năng lực của tôi, xin cứ thoải mái chỉ giáo.

Ở đây là cấp cơ sở nhất trong quân đội, cái hơn nhau chính là bản lĩnh giết địch.

Tôi xin lấy danh dự cá nhân mà thề, tuyệt đối sẽ không vì chuyện này mà ôm hận trả thù người khiêu chiến tôi, bất kể thắng hay bại.

Nếu vi phạm, trời tru đất diệt.

Nếu ai đánh bại tôi, tôi sẽ tiến cử người đó lên cấp trên để thay thế vị trí đội trưởng của tôi, còn tôi sẽ làm một binh sĩ bình thường."

Những lời này của Vô Phong lập tức gây ra một làn sóng lớn trong các binh sĩ.

Chẳng phải chỉ là một đứa nhóc ranh sao? Đánh bại nó thì có hy vọng làm Tiểu đội trưởng, dù không làm được Tiểu đội trưởng thì ít nhất cũng làm được Phân đội trưởng.

Mà dù có thua, cũng chẳng ảnh hưởng gì, dù sao hắn ta cũng đã thề độc trước công chúng, không thể nuốt lời được.

Các binh sĩ không khỏi nhìn nhau, ai nấy đều có chút háo hức muốn thử.

"Sao? Không ai dám thử sao?"

Quả nhiên, câu nói này vừa thốt ra, lập tức có người bước ra đáp lời.

"Tôi xin đến! Binh nhì Khang Kiến Quốc xin thỉnh giáo Đại nhân!"

Vô Phong đánh giá người hán tử vừa nhảy ra: Chừng hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, dáng người vạm vỡ, lưng hổ vai gấu, mặt vuông trán rộng, toát ra khí chất của một anh hùng đánh hổ.

Hắn ta tay trái vác khiên, tay phải cầm đao.

Sau khi chào Vô Phong một cái, hắn lùi lại hai bước, chờ đợi.

Vô Phong cũng tiện tay lấy cây trường thương từ một binh sĩ cầm thương bên cạnh, nói: "Mời!"

Đối phương cũng không khách sáo, khiên trái hộ thân, xông lên.

Vô Phong nghiêng người, trường thương nhân thế đâm thẳng vào hạ thân đối phương.

Đối phương cũng không yếu thế, khiên trái nhấn xuống, động tác dứt khoát, gọn gàng.

Một tiếng "cang!" vang lên, cả hai đều lùi lại một bước.

Vô Phong thầm cảm thấy đối thủ có thực lực không tồi.

Nhưng đâu biết rằng chính chiêu thương này đã khiến gần như tất cả những người có mặt đều kinh ngạc.

Bởi vì Khang Kiến Quốc là người nổi bật nhất trong số tân binh của toàn bộ Sư đoàn thứ ba, vậy mà lại bị Vô Phong dùng thương đánh vào khiên mà chấn lui.

Cần biết rằng khiên thép nặng hơn trường thương rất nhiều, lấy nhẹ đánh nặng, hơn nữa khiên được đeo vào cánh tay, tương đương với sức mạnh của nửa người.

Mà chỉ ngang sức nhau, rõ ràng là thực lực không tương xứng, trong khi đó, Khang Kiến Quốc đã là người giỏi nhất trong số tân binh rồi.

Khang Kiến Quốc càng cảm thấy nỗi khổ trong lòng mình.

Toàn bộ cánh tay trái bị chấn đến tê dại, hoàn toàn không thể dùng sức.

Nhưng giờ đây đã ở thế cưỡi hổ rồi, chỉ đành cắn răng xông lên.

Lắc lư khiên trái một cái, Khang Kiến Quốc nhanh chóng lăn người về phía trước, đã đến trước mặt Vô Phong.

Hắn ta nhân thế vung đao phải chém mạnh vào hai chân Vô Phong.

Vô Phong đã sớm đề phòng, lùi lại một bước, trường thương xiên ngang, đỡ được nhát đao hung hiểm này.

Rồi trường thương hất lên, đâm thẳng vào cổ họng đối phương.

Đối phương nghiêng đầu né tránh, khiên sắt đẩy thẳng tới, đập mạnh vào ngực Vô Phong, đồng thời thu đao về phòng thủ.

Vô Phong dùng thân thương gạt cú đập của khiên sắt, rồi lùi lại hai bước, trường thương đâm thẳng vào cánh tay phải đang cầm đao của đối phương.

Khang Kiến Quốc dựng lưỡi đao phải lên đỡ.

Vô Phong nhân đà nhấn xuống, dùng sức xoắn.

Đối phương chỉ cảm thấy một lực lớn truyền đến từ tay, không thể cầm chắc thanh phác đao nữa, bị trường thương xoắn bay xa hơn một trượng.

Khang Kiến Quốc ngẩn người đứng đó, mặt đầy xấu hổ, không biết phải làm sao.

Vô Phong cắm thương xuống đất, đi tới nhặt đao lên giao cho hắn.

Khang Kiến Quốc như tỉnh cơn mơ, hành lễ với Vô Phong.

"Thuộc hạ cuồng vọng, không biết trời cao đất dày, xin đội trưởng trách phạt."

"Tôi đã nói rồi, hoan nghênh mọi người chỉ giáo. Cậu không hề có lỗi gì, lấy gì mà trách phạt."

Đánh bại đối thủ khiêu chiến một cách dứt khoát, lập tức trấn áp được gần như tất cả mọi người.

Ai nấy đều tự cân nhắc bản thân, liệu mình có thể dễ dàng đánh bại Khang Kiến Quốc như vậy không, bản lĩnh của mình rốt cuộc lớn đến đâu.

Trong lòng mỗi người đều tự rõ, đội ngũ im lặng như tờ.

"Còn ai muốn thử nữa không?"

Ánh mắt của vài lính cũ đều đổ dồn về người đứng đầu tiên bên trái.

Đó là một hán tử lớn hơn Khang Kiến Quốc một hai tuổi, về vóc dáng thì không bằng Khang Kiến Quốc, nhưng khí chất đứng đó rõ ràng hơn hẳn đám tân binh như Khang Kiến Quốc.

Vô Phong cũng không nói thêm, chỉ mỉm cười nhìn hắn.

Hán tử kia rõ ràng có chút do dự, nhưng cuối cùng dường như không chịu nổi áp lực từ ánh mắt mọi người, hắn vẫn bước ra, hành lễ.

"Thuộc hạ, Hạ sĩ Lương Sùng Tín, Phân đội trưởng Phân đội thứ nhất, Tiểu đội thứ hai, xin Đại nhân chỉ giáo nhiều hơn."

Lời nói rõ ràng lịch sự hơn hẳn lúc nãy.

"Mời." Vô Phong cũng không nói nhiều.

Xem ra thực lực của Lương Sùng Tín này cao hơn Khang Kiến Quốc không chỉ một bậc.

Lương Sùng Tín từ từ bước ra khỏi hàng, trên tay là cây kích thương.

Vô Phong thì lấy chiếc khiên sắt và phác đao mà Khang Kiến Quốc vừa dùng từ tay một binh sĩ bên cạnh.

Các binh sĩ xung quanh không khỏi xì xào bàn tán.

Vừa rồi Vô Phong dùng trường thương dễ dàng đánh bại Khang Kiến Quốc dùng đao khiên, chứng tỏ Vô Phong phải giỏi các loại trường binh như thương kích.

Giờ đối phương cầm kích thương, mà hắn lại đổi sang đao khiên, chẳng lẽ trường đoản binh đều tinh thông?

Nếu là như vậy, e rằng mình cũng chẳng hơn Khang Kiến Quốc được bao nhiêu.

Lương Sùng Tín vốn đã không còn tự tin mấy, sắc mặt lại càng thêm nặng nề.

Thôi kệ, cứ dốc hết sức mình, cũng coi như không phụ lòng mong đợi của anh em.

Nghĩ đến đây, Lương Sùng Tín không khỏi phấn chấn tinh thần.

Một tiếng quát khẽ, Lương Sùng Tín tiến lên xung phong một cách đẹp mắt, chủ động tấn công.

Chiêu này giành được tràng pháo tay tán thưởng từ các binh sĩ ngoài vòng chiến.

Vô Phong cũng không chậm trễ, cánh tay trái ôm khiên, thân hình nghiêng chuyển, một cú va nhẹ nhàng đã hóa giải đòn tấn công sắc bén của đối thủ thành hư vô.

Tiếng reo hò của các binh sĩ chưa dứt, lại không khỏi reo hò thán phục cho màn hóa giải nhẹ nhàng của Vô Phong.

Hóa giải chiêu thức của Lương Sùng Tín, Vô Phong xông lên, phác đao tay phải bổ thẳng xuống đầu.

Đối phương giơ vũ khí lên đỡ, kích thương thuận thế xiên ngang chém xuống.

Vô Phong giơ khiên đỡ.

Đao phải của Vô Phong đâm mạnh về phía trước.

Đối phương nghiêng người né tránh.

Kích thương từ dưới lên trên hất mạnh vào bụng dưới Vô Phong.

Vô Phong lùi lại một bước, tránh được chiêu hiểm độc này.

Đối phương mượn thế lại là một nhát xốc ngang, mũi kích nhắm thẳng vào eo sườn Vô Phong.

Vô Phong thấy đối phương tấn công hung mãnh, không lùi nữa, nếu không đối phương sẽ càng thêm khí thế.

Chàng không lùi mà còn tiến lên, khiên sắt nghiêng ép chặn đứng kích thương của đối thủ, phác đao tay phải là một nhát "Chém ngang eo" hiểm ác.

Đối phương không ngờ Vô Phong không lùi mà tiến, liên tiếp tung ra sát chiêu, có phần bất ngờ không kịp trở tay, đành phải mượn lực va chạm giữa khiên sắt và kích thương mà chạm nhẹ rồi lùi lại.

Vô Phong thừa thế không tha, từng bước áp sát, khiên sắt tay trái bổ lên đập xuống, phác đao tay phải múa như tuyết rơi cuồng loạn, chiêu nào cũng nhắm thẳng vào yếu hại.

Lương Sùng Tín bị chế ngự ngay từ chiêu đầu tiên, bước nào cũng bị mắc kẹt, kích thương trong tay hoàn toàn không thể phát huy ưu thế của trường binh, rơi vào thế phòng thủ liên tục.

Vô Phong thì phát huy tối đa đặc điểm của đoản binh, không cho đối phương thoát thân.

Cuối cùng, lợi dụng sơ hở trong phòng thủ của đối phương, đao phải của chàng xẹt ngang, cắt đứt dây đeo vai của đối thủ.

Đây cũng là do Vô Phong nương tay, nếu ở trên chiến trường, một cánh tay của đối phương đã coi như phế bỏ rồi.

Lương Sùng Tín cũng không bất ngờ, vì ngay từ đầu hắn đã chuẩn bị tâm lý thất bại.

Có thể cầm cự được lâu như vậy, thua cũng không quá mất mặt, coi như đã làm tròn ý nguyện của anh em.

Đối phương rõ ràng vẫn còn giữ sức, cũng coi như đã nương tay với mình, nếu mình còn không biết tiến thoái, thì quả là không biết điều.

Hắn hành lễ, cung kính nói: "Thuộc hạ đã bại, đa tạ Đại nhân đã nương tay."

"Đâu có, đâu có, đều là giao lưu, không cần để ý, sau này mọi người đều là anh em." Vô Phong đi tới, nhiệt tình nắm lấy tay Lương Sùng Tín nói.

Thấy Vô Phong thắng mà vẫn khiêm nhường như vậy, hoàn toàn khác với vẻ kiêu ngạo, hống hách của những Sĩ tộc khác mà hắn từng thấy, Lương Sùng Tín và tất cả binh sĩ đều có chút cảm động, và cũng chẳng có lý do gì để không phục nữa.

Cứ như vậy, Vô Phong đã dùng sự thật để chứng minh thực lực của mình, và phẩm chất khiêm tốn "thắng mà không kiêu" của chàng cũng giành được sự tôn trọng của toàn bộ tiểu đội.

Uy tín của chàng nhanh chóng được thiết lập trong Tiểu đội thứ hai, và không còn ai dám coi chàng là một đứa trẻ nữa.
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back