Bạn được vuthimyhanh2k4 mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
2,221 ❤︎ Bài viết: 589 Tìm chủ đề
CHƯƠNG 18

Tôi quyết định hoạt động quan trọng cuối cùng trước khi kết thúc năm học là lớp tôi sẽ tổ chức một chương trình để mừng Ngày của Mẹ. Một trong những bi kịch lớn nhất trong ngành giáo dục đặc biệt đó là những đứa trẻ đặc biệt hầu như không bao giờ được tham gia vào các hoạt động vui chơi truyền thống dành cho trẻ em bình thường. Với những đứa trẻ đặc biệt, chỉ cần lây lất qua ngày đã là một thành quả đáng kể đối với chúng rồi. Tôi ghét điều này. Chỉ "lây lất qua ngày" là một cuộc sống không đáng sống. Chúng ta đều biết rằng người ta muốn ăn một cái bánh đơn giản vì lớp kem phủ trên bánh chứ không hẳn do chính cái bánh đó. Thế nên tôi cố gắng bù đắp sự thiếu hụt này bằng cách tạo ra một số hoạt động phổ biến trong chương trình học của trẻ em bình thường cho lớp của mình.

Nghĩ ra một chương trình để những đứa trẻ như Susannah, Freddie và Max có thể tham gia là một nhiệm vụ không hề dễ dàng. Nhưng với sự giúp đỡ của những người bạn chuyên tham gia các hoạt động xã hội của cha mẹ tôi, chúng tôi đã chọn được vài bài hát, một hai bài thơ, và một vở kịch về rất nhiều loại hoa và nấm vẫn thường nở rộ vào mùa xuân.

Bọn trẻ rất háo hức với sự kiện này, chỉ có Peter là tỏ ra không mặn mà lắm vì nó muốn thực hiện một vở kịch khác mà theo nó là hấp dẫn hơn. Hầu hết bọn trẻ đều đã xem bộ phim Phù thủy xứ Oz được chiếu đi chiếu lại trên ti-vi hàng năm, và cứ khăng khăng đòi chúng tôi phải tập vở này. Tôi giải thích rằng chỉ với năm diễn viên có thể tin tưởng được, lại thêm chuyện chỉ có Sheila là có thể đọc thuần thục, thì việc này hơi khó thực hiện. Peter kiên quyết bảo rằng nó sẽ không đóng vai bất cứ đóa hoa nào cả, và thay vào đó nó muốn đóng vai Người Thiếc. Sarah đồng ý. Bọn trẻ đã từng đóng vở Phù thủy xứ Oz ngoài sân chơi rồi, và con bé nghĩ vở kịch đã thành công tốt đẹp. Cuối cùng tôi đành đầu hàng, bảo rằng nếu Peter và Sarah có thể phát triển một kịch bản trong đó bao gồm vai diễn cho Freddie và cả những đứa khác nữa, kể cả Guillermo, thì tôi sẽ để chúng diễn vở này.

Thế là chúng tôi bắt đầu tập. Thật ra chúng tôi đã tập những bài hát từ hồi tháng Tư, nhưng mãi đến khi Sheila quay trở lại trường học vào tháng Năm thì mới có sự thay đổi kịch bản từ phía Peter. Như vậy rõ ràng là vở kịch mừng Ngày của Mẹ của chúng tôi sẽ được diễn hơi muộn một chút. Tôi thường xuyên cảm thấy mình phải biết ơn Sheila vì cái trí nhớ tuyệt vời của con bé. Nó có một giọng hát khá ổn và có thể nhớ được bất cứ phần việc nào mà nó được giao. Thế nên tôi giao cho nó rất nhiều nội dung của chương trình, và cho cả Max nữa, bởi chính sự khiếm khuyết của thằng bé đã giúp nó có khả năng lặp lại rất nhiều lần những câu hát hay câu thoại, mặc dù nhiều lúc người ta không yêu cầu nó làm thế.

Tôi hỏi Sheila xem liệu con bé có muốn cha nó đến xem không. Phụ huynh của rất nhiều học sinh khác sẽ đến, vì mặc dù vở kịch này là để mừng Ngày của Mẹ, nhưng đây là một cơ hội hiếm hoi để các bậc cha mẹ có thể nhìn thấy con mình tham gia vào một hoạt động vui vẻ và sôi nổi của trường. Bên cạnh đó, tôi muốn gia đình của tất cả các học sinh đều có thể tham gia vào bất cứ hoạt động nào của trường. Thế nên tôi hỏi Sheila về cha nó, và tôi biết rằng nếu con bé muốn ông có mặt, thì chúng tôi sẽ phải có những sự sắp xếp đặc biệt để ông ta có thể tham gia.

Con bé nhăn mặt một lát để suy nghĩ:

- Ông ấy sẽ không đến đâu.

- Nếu ông ấy muốn đến dự thì chú Anton có thể đi đón ông ấy. Chỉ cần chúng ta biết trước thì việc này không khó lắm đâu.

- Dù có như thế thì con nghĩ ổng cũng không đến đâu. Ông ấy không có thích mấy thứ của trường học lắm.

- Nhưng cha con có thể thấy con diễn kịch và nghe con hát. Cô tin là cha con sẽ tự hào lắm khi thấy con làm tất cả những chuyện đó.

Tôi ngồi xuống một cái ghế nhỏ để có thể nói chuyện dễ hơn với nó.

- Con biết không, Sheil, con đã thực sự tiến bộ rất nhiều so với hồi con mới đến đây hồi tháng Giêng. Cứ như con đã trở thành một đứa trẻ hoàn toàn khác vậy. Con không còn gặp nhiều rắc rối như hồi trước nữa.

Con bé gật đầu một cách dứt khoát:

- Hồi đó lúc nào con cũng đập phá đồ đạc. Nhưng mà bây giờ thì con không có như thế nữa. Và con từng không có nói chuyện khi con tức giận. Con từng là một đứa trẻ hư.

- Con đã tiến bộ nhiều lắm, cưng à. Và con biết gì không? Cô tin chắc là cha của con sẽ muốn thấy con đã làm tốt như thế nào. Cô nghĩ ông ấy hẳn sẽ rất tự hào về con, bởi cô nghĩ ông ấy chưa nhận thấy được rằng con quan trọng như thế nào trong lớp học này.

Sheila lại ngẫm nghĩ một thoáng trước khi quan sát tôi với đôi mắt linh lợi của nó.

- Cũng có thể ông ấy sẽ đến.

Tôi gật đầu.

- Có thể ông ấy sẽ đến.

Buổi sáng hôm diễn ra chương trình, Chad đến lớp và mang theo một cái hộp rất to. Anton đang chuẩn bị đạo cụ, còn Sheila thì đang đánh răng. Nhìn thấy anh, tôi vô cùng ngạc nhiên.

- Anh đang làm gì ở đây vậy?

- Anh đến để gặp Sheila.

Sheila phấn khích nhảy xuống khỏi cái ghế nó đang đứng và chạy lại chỗ Chad.

- Nhổ kem đánh răng ra đã. - Chad dặn nó. Nó chạy vội trở lại chỗ bồn rửa mặt và vài giây sau đã quay lại, môi vẫn dính đầy kem đánh răng. - Chú nghe nói hôm nay con sẽ diễn một vở kịch đúng không?

- Đúng rồi! - Nó hét toáng lên, nhảy nhót xung quanh anh vì quá phấn khích. - Con sẽ đóng vai Dorothy và Torey sẽ tết bím cho con. Và con sẽ hát một bài hát và đọc một bài thơ, và cha con sẽ đến đây và xem con diễn!

Nói xong câu này thì nó hết hơi, và phải nói câu cuối thật nhanh.

- Chú sẽ đến xem chứ?

- Không. Nhưng chú có mang theo một món quà để chúc cho buổi diễn đầu tiên của con được may mắn.

Mắt Sheila mở to:

- Cho con sao?

- Phải, cho con.

Trong niềm hân hoan, con bé ôm lấy hai đầu gối của anh với một sự khoái trá đến mức Chad loạng choạng suýt ngã.

Tôi biết trong cái hộp ấy có gì - một chiếc đầm dài màu đỏ, trắng và xanh với viền đăng ten quanh đường xẻ phía trước. Cái đầm này rất đẹp và đắt tiền. Chad đã mua nó trong chuyến công tác đến New York mới đây. Tôi đã kể cho Chad nghe chuyện về cái đầm cũ, về cái cảm giác bị tổn thương của con bé khi nó thấy những chiếc đầm tương tự như vậy. Vì thế anh đã mua một cái đầm dài chứ không phải đầm ngắn. Hôm anh ghé qua để cho tôi xem cái đầm, mắt anh lấp lánh niềm vui hệt như một cậu bé. Tôi nhìn anh, có thể hình dung ra cảnh anh đứng trong những cửa hàng ở New York, thân hình to cao như một cầu thủ bóng bầu dục của anh lóng ngóng giữa những dãy móc nhỏ xíu treo những bộ đầm dành cho bé gái; tay anh huơ huơ để cố gắng miêu tả cho các nhân viên bán hàng hình dung được cô bé đặc biệt ở Iowa, và anh cần một cái đầm cũng phải thật đặc biệt cho cô bé ấy. Trông anh ngời lên sự tự tin vững chắc rằng mình đã tìm ra được điều mà Sheila luôn mơ ước. Anh tin nó sẽ xóa sạch vết tích kinh hoàng của chuyện xảy ra hồi tháng trước, giúp con bé tận hưởng được niềm hạnh phúc mầu nhiệm như lần kết thúc phiên tòa vừa rồi.

Sheila xé lớp giấy gói và mở nắp thùng ra. Con bé lưỡng lự một thoáng, nhìn vào lớp khăn giấy vẫn còn che một phần món quà đang nằm trong hộp. Nó chậm chạp cầm cái đầm lên. Mắt con bé mở to và tròn xoe. Chad quỳ xuống cạnh nó. Con bé quay sang nhìn anh.

Rồi nó thả chiếc đầm trở vào hộp, cúi đầu thì thầm bằng giọng khàn khàn:

- Con sẽ không mặc đầm nữa đâu.

Chad bối rối quay sang nhìn tôi, sự thất vọng hiện rõ trên gương mặt anh. Tôi bước đến và quỳ xuống cạnh hai chú cháu.

- Con không nghĩ lần này sẽ ổn sao? Nó lắc đầu.

Tôi nhìn Chad.

- Nếu được, em nghĩ anh cứ để em nói chuyện riêng với Sheila một lúc.

Tôi đứng dậy và bế Sheila ra chỗ để mấy cái chuồng thú. Tôi biết hẳn lúc này Chad đang cảm thấy vô cùng bối rối. Tôi cũng biết rằng Sheila đang rất đau khổ. Con bé rất yêu những thứ đẹp đẽ, và cái đầm mà Chad mua thật là tuyệt vời, nó còn đẹp hơn cái đầm đỏ trắng mà anh đã mua cho nó hồi tháng Ba nhiều. Tuy nhiên, những điều đã xảy ra với con bé vẫn còn quá mới mẻ, vết thương của nó vẫn chưa liền miệng.

Mặt con bé nhăn nhó khổ sở, mắt nó ngân ngấn nước. Nó lại ấn ngón tay vào hai bên thái dương để cố ngăn không cho những giọt nước mắt trào ra. Nhưng lần đầu tiên kể từ ngày vào lớp học của tôi, con bé không thể làm được điều này. Nước mắt lăn dài trên má con bé như những dòng suối nhỏ, và nó òa khóc nức nở.

Cuối cùng cũng đến lúc này. Điều mà tôi chờ đợi suốt những tháng qua, điều tôi biết sớm muộn gì cũng phải xảy ra, giờ đã xảy ra.

Tôi ngồi lặng im bên nó chừng vài phút. Tôi vẫn nghĩ rồi cũng sẽ có ngày này, nhưng khi nhìn thấy con bé thật sự khóc, tôi không khỏi ngạc nhiên, ngạc nhiên đến mức tôi chẳng biết làm gì ngoài việc cứ ngồi nhìn nó. Tôi kéo nó vào lòng, ôm nó thật chặt. Con bé bấu chặt lấy áo tôi, tôi có thể cảm nhận được cơn đau nhè nhẹ khi những ngón tay của nó bấu vào da thịt mình. Khi nó đã hoàn toàn mất kiểm soát và rõ ràng là sẽ không thể bình tĩnh trở lại, tôi bế nó lên rồi bước ra khỏi chỗ mấy cái chuồng thú. Tôi cần phải đi đâu đó, một nơi yên tĩnh để khi bọn trẻ đến chuẩn bị cho chương trình thì chúng tôi không bị làm phiền.

- Anh đã làm gì sai sao? - Chad lo lắng hỏi, gương mặt hiền lành của anh nhăn lại khổ sở. - Anh không có ý...

Tôi lắc đầu.

- Đừng lo. Anh cứ để cái đầm ở đó. Em sẽ sớm quay lại với anh, được chứ?

Rồi tôi quay sang Anton:

- Anh có thể lo liệu mọi thứ ở đây một lúc được không?

Nơi duy nhất hoàn toàn yên tĩnh mà tôi có thể nghĩ đến là nhà kho chứa sách. Tôi vừa bế Sheila vừa mang theo một cái ghế nhỏ dành cho trẻ con đến chỗ nhà kho. Tôi mở khóa bước vào và đóng chặt cửa lại. Tôi đặt cái ghế tựa vào một chồng sách và ngồi xuống, chỉnh lại tư thế cho Sheila để nó thoải mái hơn.

Con bé vẫn còn khóc nức nở, tuy không còn dữ dội như lúc đầu nữa. Nhưng nó vẫn khóc, khóc hoài, khóc mãi. Tôi chỉ biết ôm nó, đung đưa cái ghế để nó cảm thấy được vỗ về hơn. Ban đầu, tâm trí tôi vẫn còn suy nghĩ vơ vẩn, tự hỏi không biết làm sao mà Anton có thể xoay xở khi chỉ có mình anh với bọn trẻ, chúng đang vô cùng phấn khích với vở kịch. Rồi tôi nghĩ đến chương trình sắp diễn ra, không biết rồi nó sẽ thế nào khi Sheila đang ở trong tình trạng như thế này.

Cuối cùng Sheila cũng ngưng khóc. Giờ con bé chỉ còn phát ra những tiếng nấc run rẩy. Cơ thể nó nhũn ra vì mệt. Căn phòng nhỏ ấy thật ẩm ướt và nóng nực. Người cả hai chúng tôi đều ướt đẫm, cả mồ hôi, nước mắt và nước dãi hòa lại với nhau. Tôi vuốt mái tóc mềm mại của nó cho gọn gàng, tự hỏi điều gì đã xảy ra trong đầu nó khi chính món quà của Chad là cột mốc cuối cùng khiến nó bật khóc như thế này.

- Con cảm thấy khá hơn chút nào chưa? - Tôi nhẹ nhàng hỏi nó.

Con bé không trả lời mà dựa hẳn vào người tôi. Cơ thể nó run lên với những tiếng nấc nghẹn ngào.

- Con muốn nôn quá.

Tôi đứng bật dậy, bế thốc nó lên, chạy ào vào cái toa-lét ở góc phòng. Con bé trông mệt lả, mặt nó đỏ bừng và sưng vù, bước chân nó loạng choạng. Những vết kem đánh răng trắng nhờ nhờ vẫn còn hiện loáng thoáng trên cằm nó. Tôi bế nó lên.

- Thỉnh thoảng khi con khóc thật nhiều, thì con sẽ cảm thấy như vậy đó.

Con bé gật đầu:

- Con biết.

Giữa chúng tôi có một cái ghế, nhưng nó vẫn bám vào tôi, dựa hẳn vào cái áo ướt đẫm của tôi. Chúng tôi ngồi yên như thế một lúc, không nói gì cả.

- Con có thể nghe thấy tiếng tim cô đập ở đây nè. - Con bé khẽ khàng.

Tôi xoa nhẹ đầu nó.

- Con có nghĩ chúng ta nên quay trở lại lớp không? Chắc bây giờ đang là giữa tiết toán rồi.

- Không.

Sự im lặng lại bao trùm quanh chúng tôi. Hàng triệu suy nghĩ quay cuồng trong đầu tôi, không có suy nghĩ nào có thể diễn tả được thành lời cả.

- Tor?

- Sao cưng?

- Tại sao chú Chad lại mua cho con cái đầm đó?

Tôi giật mình. Phải chăng Sheila nghĩ rằng Chad mua cho nó cái đầm với mục đích là làm cái trò gớm ghiếc kia như chú Jerry của nó sao? Nếu quả là như vậy thì cái suy nghĩ đó hẳn phải rất kinh khủng đối với con bé. Đó chỉ là suy đoán của tôi, nhưng nó khiến tôi quyết định sẽ không trả lời con bé rằng Chad làm như thế vì "tình yêu".

- Vì cô đã kể cho chú ấy nghe rằng cái đầm kia của con bị hư rồi. Chú ấy nghĩ có lẽ con sẽ thích một cái gì đó thật đẹp để mặc khi diễn kịch. - Tôi vừa nói vừa luồn ngón tay vào mái tóc mượt như lụa của con bé. - Cô đã quên không kể cho chú ấy nghe rằng con không mặc đầm nữa. Đó là lỗi của cô.

Con bé không trả lời.

- Con biết mà, đúng không? Con biết chú Chad sẽ không bao giờ làm những chuyện như chú Jerry của con đã làm với con. Chú ấy biết rằng không được làm như thế với những đứa bé gái. Chú ấy mang cái đầm đến không phải để làm tổn thương con. Chú ấy sẽ không bao giờ làm tổn thương con đâu.

- Con biết. Con không có ý khóc đâu.

- Ôi, cưng ơi, không sao đâu mà. Chú Chad biết mọi việc đã rất khó khăn đối với con. Không ai thấy phiền khi con khóc đâu. Đôi khi đó là cách duy nhất để làm mọi thứ dễ chịu hơn. Tất cả chúng ta đều biết như thế. Nên không ai thấy phiền gì khi con khóc đâu.

- Con muốn cái đầm đó. - Con bé khẽ nói, ngập ngừng. - Con rất thích nó. Con chỉ sợ, thế thôi. Và con không thể kiềm chế được mình.

- Được rồi. Không sao hết. Chú Chad hiểu những bé gái thì thế nào mà. Tất cả chúng ta đều hiểu mà.

- Con cũng không biết tại sao con lại khóc nữa. Con không biết chuyện gì đã xảy ra...

- Con đừng lo về việc này nữa.

Chúng tôi lại ngồi đấy, im lặng. Sau cùng, khi cảm thấy nó đã khá hơn, tôi khẽ nói:

- Sheil, mình phải quay về lớp. Tất cả các bạn đều đang trong lớp, và chỉ có một mình chú Anton ở đó thôi. Giờ cô có hai gợi ý này nè. Một là con có thể quay về cùng với cô, còn nếu con không muốn thế, thì con có thể vào phòng y tế và nằm nghỉ một chút.

- Con có phải về nhà vì đã bị nôn không? - Không. Con không bị ốm hay gì hết. Con bé tuột khỏi lòng tôi.

- Con có thể nghỉ một chút được không? Con mệt quá.

Tôi giải thích với nhân viên trực phòng y tế rằng Sheila cần phải nằm nghỉ một chút, nhưng không cần phải về nhà, và tôi sẽ quay lại trong vòng nửa tiếng nữa khi gần đến giờ chơi. Cô ấy đưa cho chúng tôi một cái chăn. Tôi bế con bé và đặt nó lên giường, đắp chăn cho nó.

- Torey? - Con bé gọi khi tôi dém chăn cho nó.

- Cô có nghĩ là con vẫn có thể có cái đầm không? Con thực sự không phiền khi mặc nó đâu.

Tôi gật đầu và mỉm cười.

- Được chứ. Chú Chad đã để lại nó cho con mà. Tôi quay lại phòng y tế vào giờ ra chơi và thấy Sheila đang ngủ. Nó ngủ suốt buổi sáng. Đến trưa, tôi quay lại một lần nữa để đánh thức nó dậy.

Cả L. Frank Baum và Judy Garland(10) hẳn sẽ phải đội mồ sống dậy vào cái buổi chiều tháng Năm ấy. Ngoại trừ việc có cùng tên và các nhân vật với câu chuyện nổi tiếng của họ, thì vở kịch của bọn trẻ thật ra chẳng ăn nhập gì với quyển sách hay bộ phim này.

Sheila đóng vai Dorothy chủ yếu là vì con bé có khả năng suy nghĩ nhanh và chế ra lời thoại rất mau lẹ. Cả Tyler và Sarah đều muốn đóng vai này, và việc này dẫn đến một cuộc cãi vã không lấy gì làm hay ho lắm, đến mức suýt nữa thì nhóm sản xuất Sarah -Tyler đã phải rã đám. Nhưng có vẻ như Peter có toàn quyền phân vai cho vở kịch, và nó đã chọn Sheila. Tyler được giao cho một nhiệm vụ không mấy tốt đẹp là đóng vai tất cả những mụ phù thủy độc ác. Sarah thì biến thành con Bù nhìn. William đóng vai con sư tử hèn nhát, và Guiller đóng vai thầy phù thủy. Lạ lùng thay, Peter đã chọn Susannah đóng vai phù thủy Glenda tốt bụng, một vai cũng bị tranh giành rất nhiều. Lý do duy nhất giải thích cho lựa chọn này của thằng bé mà tôi có thể nghĩ đến đó là vì Susie quá xinh xắn nên con bé sẽ hóa thân thành một cô tiên rất dễ dàng mà thậm chí không cần mặc đồ hóa trang; nhưng Peter có những lý do của riêng mình mà nó không chịu tiết lộ. Freddie là Munchkin đơn độc và Max là một con khỉ cô đơn có cánh. Peter, dĩ nhiên, là Người Thiếc.

Chỉ có những bậc phụ huynh, giáo viên hay những người có một tình thương kỳ lạ đối với những đứa trẻ khôi-hài-một-cách-không-cố-ý này mới có thể nhận thức đúng giá trị của vở kịch Phù thủy xứ Oz của những học sinh lớp tôi. Sheila đã hoàn toàn bình phục sau những rắc rối ban sáng của mình và đã diện bộ váy mà Chad mang đến chứ nhất quyết không chịu mặc bộ đồ hóa trang mà Whitney đã làm cho nó. Con bé đã hoàn toàn tươi tỉnh trở lại sau hai tiếng đồng hồ nghỉ ngơi, và đang vừa nhảy nhót khắp nơi vừa huyên thuyên nói, hết đụng cái phông màn này lại va vào món đạo cụ khác. Còn Freddie thì không chịu nhúc nhích. Thằng bé chỉ ngồi yên một chỗ, trên đầu đội một cái mũ Munchkin kỳ dị, và thỉnh thoảng nó vẫy chào mẹ nó đang ngồi dưới hàng ghế khán giả. Có lần hai cẳng chân núc ních của nó đã gạt Sheila khiến con bé ngã nhào vào lòng nó. Cuối cùng Anton phải lôi nó ra khi vai diễn của nó trong vở kịch đã xong. Vai con sư tử hèn nhát là một vai đã được đo ni đóng giày cho William, và có lẽ bởi vì thằng bé biết rất rõ cảm giác sợ hãi là như thế nào, nó đã đóng vai đạt hơn hết thảy, thằng bé cứ run lẩy bẩy trên sân khấu suốt. Ngạc nhiên hơn cả là Susannah Joy đóng vai Glenda khá đạt. Con bé lướt đi trên sân khấu và nhún nhảy xung quanh, nó đang sống trên mây như thường lệ, tự lẩm bẩm nói một mình bằng một chất giọng có âm vực cao chót vót. Nhưng trong bối cảnh của vở kịch, việc này trông vô cùng tự nhiên.

Vấn đề lớn duy nhất trong suốt quá trình vở kịch diễn ra đó là khi Sheila trở nên vô cùng dài dòng trong những câu thoại của mình và thường cảm thấy có nhiệm vụ phải giải thích những phân đoạn của vở kịch phòng trường hợp khán giả không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Việc này khiến các diễn viên còn lại đứng ngây ra như phỗng, trong khi Sheila thì tỉnh bơ bắt đầu những tràng độc thoại dài đằng đẵng của mình. Cuối cùng, trong một lần con bé đang lảm nhảm nói như thế, Peter bước lên sân khấu và bảo nó hãy thôi đi.

Phần còn lại của chương trình rất tuyệt. Không ai quên lời thoại, bài thơ được đọc rất truyền cảm và bài hát thì được thể hiện với một niềm hân hoan cuồng nhiệt. Sau đó chúng tôi ăn bánh nướng và uống rượu punch, trong khi bọn trẻ cho cha mẹ chúng xem những thứ mà chúng đã làm ở trường.

Hôm ấy cha của Sheila đã tới xem. Ông vẫn mặc bộ quần áo nhàu nhĩ hôm nọ, cái bụng to tướng của ông khiến cái áo như muốn bục ra đến nơi, và người ông vẫn nồng nặc mùi nước hoa rẻ tiền. Ông cố gắng yên vị thân hình kềnh càng của mình trên một cái ghế bé tí. Suốt quãng thời gian chương trình diễn ra tôi cứ thầm cầu mong cái ghế ấy sẽ không gãy, vì nó cứ kêu cót két một cách đáng sợ mỗi lần ông cựa quậy. Lần đầu tiên tôi thấy ông cười với con gái mình khi con bé nhảy tưng tưng đến chỗ ông sau tiết mục biểu diễn của nó. Tôi nghĩ ông đã rất tử tế khi đến dự với tình trạng còn tỉnh táo, và trông ông cũng rất thích thú khi được tham gia cùng chúng tôi. Ông không nói lời nào về cái đầm mới của Sheila cả. Sau cùng, lúc buổi tiệc gần kết thúc, tôi đến chỗ ông và nói với ông rằng Chad đã mua cái đầm đó cho con bé. Ông nhìn con gái mình thật kỹ rồi quay sang tôi, đoạn lấy cái ví cũ sờn từ túi áo khoác ra.

- Tôi cũng chẳng có nhiều nhặn gì. - Ông khẽ nói. Tôi sợ đến cứng đờ cả người khi nghĩ rằng ông ta đang đề nghị được trả tiền cho cái đầm. Nhưng thực ra ông lại có ý khác. - Nếu tôi đưa cô ít tiền, cô sẽ đưa Sheila đi sắm vài bộ quần áo mặc hằng ngày hộ tôi chứ? Tôi biết con bé cần một cái gì đó để mặc và... ừ thì... phải có bàn tay phụ nữ lo những việc như thế...

Giọng của ông lạc đi, mắt ông nhìn sang chỗ khác:

- Nếu tôi giữ tiền... thì...cô biết đấy. Tôi không biết liệu... - Ông ngập ngừng. Trong tay ông là tờ mười đô-la nhăn nhúm.

Tôi gật đầu.

- Được, tuần sau tôi sẽ đưa cháu đi.

Ông mỉm cười với tôi, môi ông mím chặt vào nhau để nặn ra một nụ cười khó nhọc và buồn bã. Nói rồi ông quay lưng đi. Tôi nhìn theo, rồi nhìn xuống tờ tiền trong tay mình. Với số tiền này thì cũng không mua được gì nhiều. Nhưng ông ấy đã cố gắng, theo cách riêng của mình. Ông muốn đảm bảo số tiền đó sẽ được dùng để mua đồ cho con gái, chứ không phải là nướng vào vài chai bia. Tôi thấy mến người đàn ông này, và lòng tôi ngập tràn sự hối tiếc. Sheila không phải là nạn nhân duy nhất; cha con bé chắc chắn cũng cần và xứng đáng nhận được sự quan tâm giống như nó. Hẳn ông từng là một cậu bé mà nỗi đau và sự khổ nhục chưa lúc nào nguôi ngoai trong tim. Và bây giờ cậu bé ấy đã trở thành một người đàn ông. Giá như trên đời này có đủ người biết quan tâm, đủ người biết thương yêu người khác mà không toan tính, thì sẽ tốt biết mấy - tôi buồn bã nghĩ.

Còn nữa...
 
2,221 ❤︎ Bài viết: 589 Tìm chủ đề
CHƯƠNG 19

Thấm thoát chỉ còn ba tuần nữa là năm học kết thúc. Đầu óc tôi quay cuồng với những việc còn tồn đọng. Thời gian này tôi cũng bắt đầu chuẩn bị cho những kế hoạch sắp tới của mình. Những buổi tối nhàn nhã của tôi giờ đây lại tất bật với việc gói ghém đồ đạc và thu dọn rác rến tích tụ lại trong suốt mấy năm qua.

Tôi vẫn chưa nói cho bọn trẻ biết về việc lớp học sẽ bị giải tán. Nhưng vài đứa đã biết rằng chúng sẽ quay về với môi trường học tập bình thường vào năm tới. William sẽ vào học lớp năm, một lớp học bình thường, nhưng sẽ được quan tâm đặc biệt hơn một chút. Trong ba tháng qua thằng bé đã học môn tập đọc và toán với một lớp bốn ở khu nhà chính của trường. Tyler cũng sẽ theo học một chương trình mới. Con bé sẽ vẫn theo học một lớp dành cho học sinh đặc biệt khác, nhưng nó sẽ có cơ hội tiếp xúc gần hơn với cuộc sống của một học sinh bình thường.

Chúng tôi vẫn chưa quyết định sẽ giải quyết trường hợp của Sarah thế nào. Mặc dù trong lớp tôi con bé học rất tốt, nhưng nó vẫn khá nhút nhát nếu học trong một lớp nhiều học sinh hơn. Tôi nghĩ rằng con bé cần học trong lớp dành cho trẻ đặc biệt ít nhất là một năm nữa, nhưng hầu như nó cũng đã sẵn sàng để hòa nhập vào một lớp học bình thường. Còn Peter, tôi sợ rằng nó sẽ không bao giờ thoát khỏi môi trường dành cho trẻ đặc biệt được. Cách cư xử của thằng bé ngày một đáng lo, như thể thần kinh của nó đang ngày càng sa sút. Nó quá bạo lực, thường phá phách, những hành động của nó quá bốc đồng nên tôi không nghĩ là nó có thể theo học bất kỳ một lớp bình thường nào. Gia đình của Guillermo đang có kế hoạch chuyển đi. Còn Max, Freddie và Susannah đều sẽ tiếp tục một chương trình giáo dục đặc biệt khác. Freddie sẽ được đưa vào một lớp dành cho trẻ thiểu năng ở mức độ trầm trọng, và giáo viên mới của thằng bé hy vọng rằng mọi chuyện sẽ không quá khó khăn. Cô ấy đã ghé qua lớp tôi vài lần để quan sát cách cư xử của thằng bé như thế nào. Max cũng có những biểu hiện rất tốt. Nó đã dùng những câu nói bình thường nhiều hơn và ít nói lắp hơn. Cả nó và Susannah sẽ theo học một chương trình đặc biệt dành cho trẻ bị chứng tự kỷ.

Thế còn Sheila? Ôi Sheila! Tôi vẫn chưa cho con bé biết việc lớp học này sắp bị giải tán. Tôi đã cố tình trì hoãn việc này, bởi tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi nó biết chuyện. Nói ngắn gọn là tôi sợ. Con bé đã tiến bộ rất nhiều. Nó không còn là đứa bé đầy sợ hãi khi bị lôi vào lớp tôi hồi tháng Giêng; cũng đã khác xa con bé lúc nào cũng bám lấy thắt lưng tôi, dựa dẫm tôi hồi tháng Hai. Jimmie đã hoàn toàn chìm vào quên lãng, và hầu như con bé cũng không còn nhắc đến việc nó đã bị bỏ lại trên đường cao tốc nữa. Nhưng nó vẫn rất dễ bị tổn thương. Và riêng tôi, tôi không nghĩ con bé cần theo học một lớp dành cho trẻ em đặc biệt nữa. Thực ra, tôi còn sợ nó sẽ bị lờ đi trong một lớp như thế, bởi vì nó rất nhanh mồm nhanh miệng và có thể tự chăm sóc bản thân mình. Tôi sợ rằng giờ đây nếu cho con bé vào một lớp dành cho trẻ em đặc biệt, nó sẽ lại có những cách cư xử tiêu cực chỉ để lôi kéo sự chú ý của mọi người. Tôi nghĩ con bé chỉ cần một ai đó thật sự quan tâm đến nó. Tôi đã nghĩ đến việc đề nghị Ed cho con bé được lên thẳng lớp ba, mặc dù nó chưa đủ tuổi, để phù hợp sức học của con bé hơn cũng như tạo điều kiện cho nó thiết lập mối quan hệ xã hội với những đứa trẻ khác. Mặc dù có một số vấn đề về rối loạn cảm xúc, nhưng trông con bé vẫn già dặn hơn so với tuổi thực của nó. Ngoài ra, tôi còn có một người bạn thân dạy lớp ba ở một ngôi trường phía bên kia thành phố. Nếu được, quận sẽ cho xe buýt đưa đón con bé đến đó. Nơi đó gần trại tập trung của dân nhập cư hơn so với trường của tôi, và việc con bé học trong một lớp học bình thường sẽ ít tốn kém hơn rất nhiều so với một lớp đặc biệt. Tôi biết rằng Sandy sẽ chăm sóc tốt Sheila giúp tôi. Tôi cần sự bảo đảm đó.

Nhằm giúp Sheila dần làm quen với cuộc sống của một học sinh bình thường, tôi quyết định cho con bé theo học môn toán trong một lớp hai ở trường tôi. Trước đó tôi từng tiếp xúc nhiều với cô Nancy Ginsberg. Cô là một người phụ nữ dễ mến, lịch thiệp, và là một trong những người đầu tiên mời tôi và lớp của tôi tham gia chung với lớp của cô trong các hoạt động ngoại khóa. Thế là một buổi chiều nọ, tôi đến phòng giáo viên gặp cô và hỏi xem liệu cô có sẵn sàng nhận Sheila vào học trong giờ Toán không. Tôi giải thích rằng Sheila có trình độ vượt hơn mức toán lớp hai rất nhiều, và tôi muốn cô cho con bé tham gia vào giờ toán lớp cô mỗi ngày để nó có thể dần thích ứng khi phải học trong một lớp dành cho học sinh bình thường. Toán là môn nó học vững nhất, cho nên có vẻ như đó là môn tốt nhất để bắt đầu quá trình thích nghi này. Nancy đã đồng ý.

- Con đoán xem sắp có chuyện gì xảy ra nào?

- Tôi hỏi Sheila khi chúng tôi đang cất đồ chơi đi sau giờ giải lao.

- Gì cơ?

- Từ giờ trở đi sẽ có một chuyện rất tuyệt. Mỗi ngày con sẽ học một hoặc hai tiết trong một lớp học bình thường.

Con bé vội nhìn lên.

- Sao cơ?

- Cô đã nói chuyện với cô Ginsberg và cô ấy nói con có thể đến học tiết Toán trong lớp của cô ấy mỗi ngày.

- Giống như William ấy ạ?

- Đúng rồi.

Con bé chồm người qua bộ lắp ráp mà nó đang chuẩn bị cất đi.

- Con không muốn thế.

- Con chỉ chưa quen với chuyện này thôi. Rồi con sẽ thích mà. Con cứ nghĩ đi, đó là một lớp bình thường. Mà con có nhớ có lần con đã nói với cô là con muốn học trong một lớp bình thường không? Bây giờ con sẽ được như thế.

- Con không đi đâu.

- Tại sao lại không?

- Chỗ này thì là lớp của con. Con không đi học trong lớp của ai khác hết.

- Chỉ môn toán thôi mà. Mũi con bé nhăn lại.

- Nhưng đó là tiết học yêu thích của con ở đây. Thật không công bằng khi cô bắt con bỏ tiết học yêu thích của con ở đây.

- Con cũng có thể học toán ở đây nữa, nếu con muốn. Nhưng con sẽ học toán cả trong lớp của cô Ginsberg nữa, bắt đầu từ thứ Hai này.

- Không.

Sheila không hề thích thú với cái ý tưởng này chút nào. Với mỗi lý do tôi đưa ra, nó đều có một lý do bác lại. Suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó, con bé hết giận dỗi rồi lại la hét, không để cho tôi đề cập đến bất cứ chủ đề nào khác. Đến chiều thì tôi chịu hết nổi và kiên quyết nói rằng tôi đã nghe con bé nói đủ lý do rồi. Nó sẽ phải đi, nó còn hai ngày nữa để chuẩn bị sẵn sàng và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để cho sự thay đổi này dễ dàng hơn, nhưng nó sẽ phải đi.

Sheila giận dữ dậm chân thình thịch, nó còn chạy đến lay mạnh mấy cái thanh sắt trong chuồng của con Onions. Khi nghe tiếng lanh canh không dứt, tôi bước vội đến và lôi nó ra một cái bàn, cho nó lựa chọn giữa việc cư xử đàng hoàng hơn hoặc phải ngồi im trong góc lớp. Thế là Sheila đứng bật dậy, đùng đùng bước về phía góc lớp. Nó đập cái ghế xuống đất thật mạnh và ngồi xuống.

Tôi để nó ngồi đó, rồi quay lại để giúp William làm bài tập vẽ. Sheila ngồi đó suốt cả buổi chiều, mặc cho Anton và tôi đã bảo là nó có thể đi chỗ khác chơi nếu đã bình tĩnh lại.

Vì tôi thấy rõ ràng là con bé muốn chọc giận tôi, nên sau khi tan học, tôi để nó lại với Anton và xuống phòng giáo viên để soạn giáo án. Tôi cũng hiểu rõ ràng một khi Sheila bắt đầu có thái độ khó chịu, thì tốt nhất là hãy để con bé một mình. Khoảng trước năm giờ, tôi quay lại, thấy con bé đang nằm ườn trên một cái gối và đọc sách.

- Con giận dỗi xong chưa? - Tôi hỏi.

Nó gật đầu tỉnh bơ, mắt vẫn không rời quyển sách.

- Cô sẽ hối tiếc vì đã bắt con đi.

- Con nói vậy là sao đây?

- Con thì sẽ không ngoan nếu con phải đi. Con sẽ hư và cô ấy sẽ phải trả con về đây. Lúc đó thì cô sẽ không bắt con đi được nữa.

- Sheila! - Tôi cáu tiết. - Con hãy nghĩ lại về chuyện này một chút đi. Đó không phải là chuyện con muốn làm.

- Có, con muốn làm thế. - Con bé đáp, vẫn không chịu nhìn lên.

Tôi liếc đồng hồ. Sắp đến giờ con bé phải về. Tôi rất ghét mỗi khi nó cư xử thế này. Tôi bước đến chỗ nó đang ngồi, quỳ xuống cạnh nó.

- Có chuyện gì vậy, cưng? Tại sao con không muốn đi? Cô nghĩ con sẽ thích khi được học trong một lớp học bình thường mà.

Con bé nhún vai.

Tôi nhấc quyển sách ra khỏi tay nó để buộc nó phải nhìn tôi.

- Sheil, cô muốn nghe ý kiến của con. Con biết cô không thể gửi con vào lớp đó nếu con lại gây rắc rối. Con đã bắt bí được cô chỗ đó, bởi vì cô không muốn cô Ginsberg gặp rắc rối. Nhưng con không thể nào làm vậy được.

- Con sẽ làm vậy mà.

- Sheil...

Cuối cùng nó cũng nhìn thẳng vào mắt tôi, đôi mắt xanh biếc của nó đã rơm rớm.

- Sao cô lại không muốn có con trong lớp này nữa vậy?

- Cô chưa bao giờ nói thế cả. Cô muốn có con trong lớp này. Dĩ nhiên là cô muốn có con trong lớp này rồi. Nhưng cô muốn con biết được điều gì xảy ra trong một lớp học bình thường, để sau này con có thể hòa nhập vào một lớp như thế.

- Con biết một lớp học bình thường là thế nào rồi. Con đã ở đó trước khi đến đây mà. Con muốn được ở trong cái lớp điên khùng này.

Đồng hồ điểm năm giờ.

- Sheila, nghe này, chúng ta không còn thời gian nữa. Con sẽ phải chạy đi đón xe buýt kẻo nhỡ mất. Cô sẽ nói thêm với con về việc này vào sáng mai.

Sheila không chịu bàn bạc thêm về việc này nữa, và con bé đã làm đúng những gì nó nói. Sáng thứ Hai, tôi gửi nó sang lớp cô Ginsberg để nó học ba mươi lăm phút toán. Chỉ sau mười lăm phút đầu tiên Anton đã phải vào lôi nó ra. Con bé đã xé vụn mấy tờ giấy, ném bút chì đi lung tung và ngáng chân mấy đứa học sinh lớp hai ngờ nghệch đến tội nghiệp to gấp đôi nó. Anton lôi con bé ra lúc nó đang vùng vẫy và la hét. Nhưng ngay khi Anton lôi nó về lớp tôi, nó lập tức ngừng quấy phá. Một nụ cười thỏa mãn nở trên môi nó. Tôi ngồi phịch xuống một cái ghế bên cạnh Max và che mắt lại khi Anton đưa con bé đến chỗ góc lớp và bắt nó ngồi yên đó.

Tôi giận run. Nhưng tôi biết giờ không phải thời điểm để trách mắng nó. Khi đã bình tĩnh lại, tôi bảo nó có thể ra khỏi chỗ góc lớp và tham gia cùng chúng tôi, rồi tôi tiếp tục làm việc theo thời gian biểu bình thường của lớp.

Sau khi có những hành động coi thường tôi như vậy, Sheila cũng tỏ ra hoảng sợ. Suốt ngày hôm đó con bé cứ nhìn tôi, lẽo đẽo theo tôi để đảm bảo rằng tôi không ghét bỏ nó. Ngoài ra, việc tôi không hề trách mắng gì nó về chuyện nó đã gây ra ở lớp cô Ginsberg khiến nó thêm hoang mang. Một lần nó hỏi tôi khi nào thì tôi sẽ nổi giận với nó. Tôi mỉm cười. Vì không muốn nó nghĩ rằng sự thờ ơ đột ngột của tôi là một dấu hiệu khác cho thấy tôi muốn từ bỏ nó, thế nên tôi bảo nó rằng chúng tôi sẽ nói về vấn đề này sau khi có nhiều thời gian hơn. Nhưng cả ngày hôm ấy nó vẫn đứng ngồi không yên, lẽo đẽo đi theo tôi như một cái bóng, nhưng vẫn giữ khoảng cách.

Sau giờ tan học, tôi đưa bọn trẻ ra trạm xe buýt. Khi quay lại lớp học, tôi thấy Sheila đang đứng dựa vào một bức tường cạnh chỗ để chuồng thú, mắt nó mở to và đầy sợ hãi. Tôi hất đầu về phía một cái bàn.

- Đến đây nào cưng. Cô nghĩ đã đến lúc chúng ta nói chuyện rồi.

Con bé lưỡng lự bước đến, ngồi trên một cái ghế ở đối diện tôi. Mặt nó lộ rõ vẻ lo lắng, mắt nó vẫn mở to.

- Cô giận con à?

- Về chuyện sáng nay ư? Chắc chắn là sáng nay cô có giận, nhưng bây giờ thì không. Cô chỉ muốn biết có chuyện gì đang xảy ra với con. Cô thực sự không hiểu tại sao con lại không muốn đi. Tuần trước con đã không chịu nói chuyện với cô về việc này. Thế nên cô muốn biết tại sao. Con thường có những lý do thỏa đáng để giải thích những điều con làm; cô tin là con có lý do chính đáng.

Nó nhìn tôi chăm chăm.

- Sao nào?

- Đây thì là lớp của con. - Con bé đáp, dùng từ "thì" theo một cách gần như đã trở thành bản năng của nó.

- Đúng vậy. Cô không muốn loại con ra khỏi đây. Đó chỉ là ba mươi lăm phút trong cả một ngày dài mà thôi. Ngoài ra, cô thấy đã đến lúc con bắt đầu nghĩ đến một lớp học bình thường cho năm tới rồi đó.

- Con không học lớp học bình thường nào cả. Đây thì là lớp của con.

Tôi nhìn nó một lúc lâu.

- Sheil, đã tháng Năm rồi. Chỉ còn vài tuần nữa là năm học kết thúc. Cô thấy đã đến lúc suy nghĩ cho năm học tới rồi.

- Con sẽ ở đây vào năm tới.

Tim tôi thắt lại. Tôi khẽ đáp lời nó:

- Không.

Mắt nó như tóe lửa.

- Con sẽ ở đây vào năm tới! Con sẽ là đứa trẻ hư nhất trên đời này. Con sẽ làm những điều khủng khiếp và sau đó họ sẽ để cho cô giữ con. Họ sẽ không để cho cô đuổi con đi đâu.

- Ôi trời ơi, Sheil... - Tôi rền rĩ.

- Con sẽ không đi đâu hết. Con sẽ lại hư hỏng cho coi.

- Chuyện này không phải như thế đâu, cưng ơi. Cô không đuổi con đi đâu cả. Lạy Chúa, Sheila, nghe cô nói được không?

Con bé lấy tay bịt chặt hai tai lại.

Nó nhướn đôi mắt bừng bừng lửa giận nhìn tôi. Ánh mắt đầy phẫn nộ và tổn thương. Cái tia sáng của sự trả thù đang lấp lóe trong đó.

- Năm sau lớp học này sẽ không còn ở đây nữa. - Tôi nói khẽ đến mức dường như không thành riếng. Vậy mà con bé vẫn nghe được, dù nó đang bịt chặt tai lại.

Như bị một đợt sóng tràn qua, vẻ mặt giận dữ của nó biến mất, nó buông tay ra. Cơn giận đã bị rút đi hết, giờ trông nó tái mét.

- Ý cô là sao? Thế nó dời đi đâu?

- Lớp học này sẽ không còn ở đây nữa. Hội đồng nhà trường đã quyết định rằng họ không cần nó nữa. Mọi người có thể chuyển sang những lớp học khác.

- Không cần nó nữa? - Con bé thét lên. - Dĩ nhiên là họ cần nó! Con cần nó! Con vẫn còn khùng điên mà. Con cần một lớp học dành cho trẻ bị khùng điên. Peter cũng vậy. Và Max. Và Susie nữa. Tụi con vẫn là những đứa trẻ điên khùng mà.

- Không, Sheil ạ, con không điên. Cô cũng không biết hồi trước con có bị không nữa hay chỉ giả vờ thôi. Nhưng mà con không có điên. Đã đến lúc thôi không nghĩ như thế nữa rồi đấy.

- Vậy thì con sẽ phát điên. Con sẽ lại làm thật nhiều chuyện tồi tệ. Con sẽ không đi đâu cả.

- Sheil, cả cô cũng không ở đây nữa. Mặt nó đông cứng lại.

- Cô sẽ chuyển đi vào tháng Sáu. Sau khi năm học này kết thúc, cô sẽ đi. Thật khó để cô có thể nói chuyện này với con, vì cô biết chúng ta đã trở thành những người bạn tốt của nhau. Nhưng đã đến lúc rồi. Cô vẫn yêu con, không bớt đi một chút nào cả. Và không phải cô đi vì bất cứ điều gì con đã làm hay không làm. Đó là một quyết định của riêng cô. Một quyết định của người lớn.

Con bé vẫn đau đáu nhìn tôi. Nó chống cùi chỏ trên mặt bàn, hai bàn tay nhỏ xíu của nó đan vào nhau; nó nghiêng đầu tì má lên đôi bàn tay bé nhỏ ấy. Đôi mắt xanh thẳm của nó nhìn tôi đờ đẫn.

- Chuyện gì cũng kết thúc cả, Sheil ạ. Chúng ta đã có những khoảng thời gian thật tuyệt với nhau, và cô sẽ không đổi chúng lấy bất cứ thứ gì trên đời này. Con đã thay đổi rất nhiều, và cô cũng vậy, thật đấy. Chúng ta đã cùng nhau trưởng thành, và bây giờ là lúc để xem sự trưởng thành ấy tốt đẹp như thế nào. Cô nghĩ chúng ta đã sẵn sàng. Con cũng vậy. Cô nghĩ con đã sẵn sàng để tự mình thử làm việc đó. Con đã đủ lông đủ cánh rồi.

Những giọt nước mắt bỗng dâng lên mắt con bé và trào ra ngoài, lăn nhanh trên hai gò má bầu bĩnh của nó rồi chảy xuống cằm nó. Nhưng nó vẫn ngồi bất động và không chớp mắt, mặt vẫn tì vào tay. Tôi không còn biết phải nói thêm nữa. Tôi thường quên mất là con bé chỉ mới sáu tuổi. Thậm chí đến tháng Bảy này nó mới được bảy tuổi. Tôi đã quên mất, vì đôi mắt của nó trông mới già dặn làm sao.

Nó từ từ đặt tay lên bàn và gục xuống. Nó ngồi đó một lúc, vẫn không gạt những giọt nước mắt đang rơi lã chã. Tuyệt nhiên không nghe một tiếng khóc nào. Sau đó nó đứng dậy, quay lưng đi về góc phòng và ngồi xuống giữa đống gối ngổn ngang trên sàn nhà. Con bé thừ người ra, lấy tay che mặt lại. Vẫn không có tiếng khóc nào.

Tôi ngồi đó trong im lặng, cảm nhận được sâu sắc nỗi đau của con bé, mà tôi nghĩ cũng là nỗi đau của chính tôi. Phải chăng tôi đã dính vào chuyện này quá sâu? Cho dù con bé thật sự có tiến bộ, nhưng phải chăng tôi đã để nó quá phụ thuộc vào tôi? Liệu có tốt hơn không khi cứ để con bé như lúc tôi vừa biết nó hồi tháng Giêng, chỉ đơn giản là dạy dỗ nó một cách bình thường, thay vì tập cho nó quen với những thử thách hàng ngày của việc yêu thương một ai đó? So với tất cả đồng nghiệp của mình, tôi luôn là kẻ không tuân theo nguyên tắc. Tôi thuộc dạng thà-yêu-thương-rồi-mất-mát, một khái niệm không phổ biến lắm trong lĩnh vực giáo dục. Tôi từng kinh qua nhiều khóa học dành cho giáo viên, và các chuyên gia đều nhấn mạnh rằng đừng để mình dính quá sâu vào bất kỳ trường hợp nào. Tôi không thể làm như thế được. Tôi không thể giảng dạy hiệu quả nếu không dính vào quá sâu, và trong tim mình tôi biết rằng bởi vì tôi thuộc tuýp người thà-yêu-thương-rồi-mất-mát như thế, cho nên khi mọi chuyện kết thúc tôi có thể ra đi. Chuyện đó luôn rất đau đớn. Càng yêu thương một đứa trẻ bao nhiêu, thì tôi càng đau đớn bấy nhiêu. Nhưng khi đến lúc chúng tôi buộc phải chia tay nhau, hay tôi thực sự phải đầu hàng trước một trường hợp nào đó sau khi đã cố gắng hết sức, tôi sẽ ra đi. Tôi có thể làm được như thế, bởi vì tôi luôn mang theo những kỷ niệm vô giá về những điều mà chúng tôi đã có, tin rằng con người không thể cho nhau cái gì tuyệt vời hơn là những kỷ niệm đẹp. Tôi không thể làm được gì hơn để đảm bảo Sheila sẽ có được hạnh phúc, ngay cả khi tôi có ở bên Sheila trong suốt quãng đời học sinh còn lại của con bé. Chỉ có nó mới có thể làm được điều đó. Tất cả những gì tôi có thể cho nó là tình yêu và thời gian của tôi. Khi đến lúc phải kết thúc, thì cuộc chia tay này chỉ có thể đau đớn đến thế là cùng. Cuối cùng thì những nỗ lực của tôi sẽ chỉ còn là những kỷ niệm.

Vậy mà khi nhìn con bé, tôi vẫn lo rằng chúng tôi đã không có đủ thời gian để làm lành những vết thương của nó, rằng nó vẫn chưa đủ mạnh mẽ để chịu đựng được cách giáo dục đầy đau đớn của tôi. Dù tôi có nghĩ rằng cách làm của mình là đúng đắn, thì có thể tôi đã không công bằng với con bé khi không cho nó bất kỳ lựa chọn nào khác. Nhưng tôi phải làm gì đây? Tim tôi đau nhói khi nghĩ rằng rốt cuộc thì người ta đã sai lầm khi giao cho tôi đứa trẻ này, đứa trẻ mà tôi đã làm nó tổn thương thay vì giúp đỡ nó.

Tôi chậm rãi đứng dậy và đến chỗ con bé. Nó vẫn không phát ra âm thanh nào, ngoại trừ những tiếng nức nở.

- Đi đi. - Nó nói khẽ khàng nhưng quả quyết qua hai bàn tay đang che mặt.

- Tại sao? Vì con đang khóc ư?

Nó bỏ tay xuống và thoáng nhìn tôi.

- Không. - Nó ngừng lại. - Bởi vì con không biết phải làm gì.

Tôi ngồi đối diện nó, lấy một cái gối và tựa lưng vào. Lần đầu tiên tôi không muốn vòng tay ôm nó để dỗ dành cho nó vơi bớt nỗi đau. Thái độ chững chạc của nó trở nên hữu hình đến mức nó giống như một cái áo khoác đang choàng lên người con bé. Lúc đó chúng tôi ngang nhau, không có người lớn, không có trẻ con. Tôi không còn là người thông thái hơn, khôn lanh hơn, mạnh mẽ hơn nữa. Về bản chất chúng tôi đã ngang nhau.

- Sao cô không ở lại để làm con vui? - Cuối cùng nó hỏi.

- Bởi vì cô không phải là người có thể làm con vui. Mà là chính con. Cô chỉ ở đây để cho con biết có người quan tâm đến con khi con tốt hay con xấu. Rằng có người quan tâm đến những chuyện xảy ra với con. Và dù cô có ở đâu đi chăng nữa, cô sẽ luôn quan tâm đến con.

- Cô cũng giống mẹ con mà thôi. - Nó nói. Giọng của nó rất nhẹ nhàng và không có vẻ gì là buộc tội cả, như thể nó đã hiểu được mọi chuyện xảy ra thế nào và tại sao lại như thế.

- Không, cô không giống, Sheil ạ. - Tôi nhìn nó. - Hoặc cũng có thể là cô giống bà ấy. Có thể lúc mẹ con để con lại, bà ấy cũng cảm thấy khó khăn như cô lúc này. Có thể bà ấy cũng đã rất đau đớn.

- Bà ấy chưa bao giờ thực sự yêu con. Bà ấy yêu em trai của con hơn. Bà ấy bỏ con lại trên đường cao tốc như một con chó vậy. Cứ như là con chẳng liên quan gì đến bà ấy vậy.

- Cô không biết nữa. Cô không biết bất cứ điều gì về mẹ con, cô cũng không biết lý do vì sao bà ấy lại làm điều đó với con. Sheila à, thật sự là con cũng không hiểu được đâu. Con chỉ biết là chuyện này khiến con có cảm giác thế nào. Nhưng con phải hiểu mẹ con và cô khác nhau. Cô không phải là mẹ con. Dù con có muốn như thế thì cô cũng không phải bà ấy.

Những giọt nước mắt lại tuôn trào. Con bé bâng quơ nghịch cái cạp quần mình.

- Con biết.

- Cô biết là con biết. Nhưng cô cũng biết là con đã mơ như thế. Cô nghĩ có những lúc cô cũng đã mơ như thế. Nhưng chuyện đó cũng chỉ là ước mơ của chúng ta thôi. Cô là cô giáo của con, và khi năm học kết thúc, cô chỉ còn là bạn của con mà thôi. Nhưng cô sẽ là bạn con. Chỉ cần con vẫn muốn cô là bạn con, thì cô sẽ luôn là thế.

Con bé nhìn lên.

- Điều con không hiểu được đó là tại sao những điều tốt đẹp luôn phải kết thúc.

- Chuyện gì rồi cũng phải kết thúc thôi.

- Một số thứ thì không. Những chuyện xấu xa không kết thúc. Chúng không bao giờ biến mất cả.

- Có, chúng sẽ biến mất. Nếu con để chúng biến mất, chúng sẽ biến mất. Dĩ nhiên là thỉnh thoảng nó không nhanh như chúng ta muốn, nhưng rồi chúng sẽ kết thúc. Điều không bao giờ kết thúc là cách chúng ta cảm nhận về nhau. Thậm chí khi con đã lớn và ở một nơi nào đó cách xa nơi đây, con vẫn có thể nhớ về những quãng thời gian tuyệt vời mà chúng ta đã có khi ở bên nhau. Thậm chí khi con đang gặp rất nhiều chuyện tồi tệ và có vẻ như chúng sẽ không bao giờ thay đổi, thì con vẫn có thể nhớ đến cô. Và cô sẽ luôn nhớ đến con.

Bỗng con bé mỉm cười, chỉ là một nụ cười nhẹ, và rất buồn bã.

- Đó là bởi vì chúng ta đã cảm hóa nhau. Cô nhớ cuốn sách đó không? Cô có nhớ hoàng tử bé đã tức giận như thế nào vì cậu ấy đã phải vượt qua tất cả những rắc rối như thế để cảm hóa con cáo, và bây giờ con cáo lại khóc bởi vì cậu ta phải đi không?

Con bé cười khi tự ngẫm lại những luồng ký ức đang diễn ra trong đầu nó, hầu như không còn biết đến sự hiện diện của tôi nữa. Nước mắt trên má nó đã khô.

- Và con cáo đó đã nói rằng dù sao đi nữa thì chuyện này cũng rất tuyệt, vì nó sẽ luôn nhớ đến những cánh đồng lúa mì. Cô có nhớ không?

Tôi gật đầu.

- Chúng ta đã cảm hóa nhau, có phải không?

- Chắc chắn rồi.

- Khi cảm hóa ai đó, cô phải khóc, có phải không? Trong quyển sách đó họ cứ khóc suốt, mà con thì chưa bao giờ biết chính xác tại sao lại như thế. Con luôn nghĩ rằng người ta chỉ khóc khi bị ai đánh.

Tôi lại gật đầu.

- Rất có thể con sẽ phải khóc khi để ai đó cảm hóa mình. Có vẻ như đó là một phần của việc bị cảm hóa.

Sheila mím chặt môi lại và gạt những giọt nước mắt cuối cùng trên mặt mình.

- Chuyện đó vẫn vô cùng đau đớn, có phải không?

- Phải, chắc chắn là nó vô cùng đau đớn chứ.

Còn nữa...
 
2,221 ❤︎ Bài viết: 589 Tìm chủ đề
CHƯƠNG 20

Sáng hôm sau Sheila quay lại lớp học của cô Ginsberg và vượt qua được ba mươi lăm phút ở đó mà không gây ra nhiều rắc rối lắm. Những vấn đề của chúng tôi vẫn chưa thể giải quyết được. Mặc dù Sheila biết rằng năm học sắp kết thúc và chúng tôi sẽ không còn được ở bên nhau nữa, thế nhưng con bé cũng không thể chấp nhận được điều này với một thái độ tích cực. Tôi cũng không nghĩ con bé sẽ khá hơn trong hai tuần còn lại của năm học. Vì tâm trạng con bé cứ dao động giữa việc giận dữ với tôi và sợ tôi sẽ nổi giận với nó nên hành động của nó càng lúc càng trở nên khó đoán. Con bé không thể phân biệt được rõ ràng điều xảy ra giữa tôi và nó hoàn toàn khác điều đã xảy ra giữa nó và mẹ nó. Chúng tôi phải nói chuyện về điều này rất nhiều lần, rất chi tiết, rất rõ ràng. Nó vin vào cuốn Hoàng tử bé như một bằng chứng văn chương cho thấy người ta rồi sẽ chia tay nhau, và họ thấy thật đau đớn, và họ đã khóc, nhưng họ vẫn yêu thương nhau. Con bé không rời quyển sách, nó mang theo quyển sách mọi lúc mọi nơi, và nó có thể trích dẫn nhiều đoạn trong đó mà không cần mở sách ra. Bởi vì đó là điều đã được nói trong một quyển sách, nên có vẻ như nó có hiệu lực với con bé hơn những lời nói của tôi nhiều.

Có một điều chắc chắn là con bé đã biết khóc. Trong hầu hết những ngày tiếp theo, ngày nào tôi cũng thấy nó khóc hoặc sắp khóc. Một thời gian ngắn sau đó thì hai mắt nó gần giống như cái vòi nước bị rò vậy; những giọt nước mắt cứ lăn dài trên má nó ngay cả khi nó đang cười hay đang chơi đùa. Khi tôi hỏi đến, con bé thường cũng không biết vì sao nó lại như vậy. Tôi cứ để nó như thế và cũng không lo lắng gì lắm. Đã lâu rồi con bé mới khóc được, và tôi tin rằng nó phải làm quen với việc khóc, phải hiểu được ý nghĩa của hành động thể hiện cảm xúc, và nếu việc khóc như thế giúp con bé chuẩn bị cho những điều đang chờ đón nó phía trước, thì thật tốt biết mấy. Nhưng rồi những giọt nước mắt cũng dần biến mất.

Đằng sau tất cả những biểu hiện đó, cái bản chất vui vẻ và can đảm tuyệt vời của con bé vẫn luôn lấp lóa đâu đó. Đây là nhiệm vụ khó khăn nhất của nó. Tất cả những chuyện đã xảy ra trong cuộc đời nó không phải là chủ quan, và con bé không có lựa chọn nào khác ngoài việc để chúng xảy ra và cố gắng vượt qua mọi chuyện. Nó biết sự chia tay này đang tới gần, và nó phải đấu tranh vô cùng vất vả để tự kiểm soát được bản thân mình. Khi tôi quan sát nó đương đầu với những giọt nước mắt, tay ôm quyển Hoàng tử bé nhàu nát ghì vào ngực và không ngừng tra vấn tôi với những câu hỏi về những chuyện đang xảy ra và tại sao chúng lại xảy ra như thế, tôi biết con bé sẽ vượt qua được. Con bé thật mạnh mẽ; có thể là mạnh mẽ hơn cả tôi. Trong quá trình tiếp xúc với những đứa trẻ bị rối loạn về cảm xúc, tôi vô cùng ấn tượng trước sự kiên cường của chúng. Dù phải hứng chịu nhiều định kiến, nhưng chúng không hề mong manh yếu đuối. Khi được trao cho những lợi khí mà rất nhiều người chúng ta xem thường, được yêu thương và giúp đỡ, được tin tưởng, được thừa nhận giá trị bản thân, bọn trẻ này không chỉ vượt qua được khó khăn mà còn trở thành những người chiến thắng. Điều này thể hiện rất rõ nơi Sheila. Con bé sẽ không bao giờ bỏ cuộc.

Sinh nhật của tôi rơi vào khoảng thời gian cuối cùng của năm học, giữa tất cả những ngổn ngang của công việc và cảm xúc. Ở lớp chúng tôi, chúng tôi rất xem trọng những ngày sinh nhật, phần vì hầu hết bọn trẻ không được ăn mừng ngày này ở bất kỳ nơi nào khác, phần vì tôi rất thích tiệc tùng. Tôi muốn bọn trẻ cùng ăn mừng sinh nhật của Anton, Whitney và cả của tôi nữa. Tôi không muốn giả vờ rằng việc đó không quan trọng, thế nên vào sinh nhật của mình, tôi mang đến lớp một cái bánh màu vàng rất lớn hình con voi và kem chocolate.

Thế nhưng ngày hôm ấy diễn ra không mấy tốt đẹp. Thật ra cũng không có chuyện gì đặc biệt kinh khủng xảy ra cả, chỉ là có những chuyện phiền phức nho nhỏ mà bọn trẻ vẫn thường gây ra. Peter đã dính vào một vụ đánh nhau trên xe buýt và vào lớp với một cái mũi đầy máu và một thái độ hằn học. Trong giờ giải lao Sarah đã nổi giận với Sheila, và sau đó đến lượt Sheila lại nổi sùng lên với Tyler khiến con bé khóc lóc ầm ĩ. Rồi sau đó Sheila đá cát vào Sarah, Sarah khóc. Cái góc lớp trở thành một nơi ra vào tấp nập suốt cả ngày hôm ấy. Dù vậy, mãi đến chiều tôi mới thật sự mất kiên nhẫn. Khi Whitney xuống phòng giáo viên để lấy kem, cô phát hiện ra rằng một trong những lớp năm của trường đã nghĩ nhầm rằng chỗ kem ấy là của chúng, thế là chúng lấy chỗ kem đó đi mất. Tuy thế tôi vẫn bày bánh ra. Trong lúc chúng tôi chuẩn bị đồ ăn, Peter và William rượt đuổi nhau chạy lăng quăng trong phòng. Chúng còn ném qua ném lại mấy khối đồ chơi. Tôi đã bảo chúng ngừng lại nhưng chúng không chịu nghe. Một đứa khác kéo tay tôi, và trong một thoáng tôi đã bị phân tâm. Rồi Rầm. William đã ném một khối đồ chơi vào Peter, và khi thằng bé lùi lại để bắt, nó đã va vào Sheila đang ngồi trên sàn nhà. Nó ngã nhào lên người con bé và cả hai đứng bật dậy rồi lao vào tẩn nhau. Trước khi tôi kịp nhìn thấy thì Sheila đã vơ lấy một khối đồ chơi khác và ném về phía Peter. Thằng nhóc nhặt một cái ghế lên và giận dữ ném trả lại con bé. Cái ghế va vào cái bàn, rồi sau đó là Max, và cuối cùng là cái bánh. Con voi màu vàng của tôi vỡ tung tóe.

- Được rồi, bọn nhóc này, thế là đủ rồi đấy! - Tôi thét lên. - Từng người một hãy ngồi xuống ghế của mình và úp mặt xuống bàn!

- Nhưng đó đâu phải là lỗi của con. - Guillermo phản đối. - Con đâu có làm gì đâu.

- Tất cả mọi người.

Tất cả, ngay cả Max và Freddie, mỗi đứa đều tự tìm cho mình một cái ghế và ngồi úp mặt xuống bàn. Tất cả, trừ Sheila.

- Đó đâu phải lỗi của con, mà tại thằng Peter ngu xuẩn này ngã lên người con đấy chứ.

- Hãy ngồi vào một cái ghế và úp mặt xuống như mọi người đi. Cô chịu đựng mấy đứa đủ lắm rồi. Suốt cả ngày nay tụi con chẳng biết làm gì khác ngoài cãi nhau. Thì đây, hậu quả của việc đó đây. Hãy ngồi vào ghế và úp mặt xuống bàn.

Sheila vẫn ngồi lì trên sàn.

- Sheila, đứng dậy!

Con bé thở dài một tiếng rõ to, rồi lấy một cái ghế ra. Nó đặt cái ghế kế bên chỗ của Tyler và ngồi vào, rồi úp mặt xuống.

Tôi nhìn chúng. Thật là một lũ nhóc nhếch nhác. Whitney và Anton đang thu dọn chỗ bánh rớt trên thảm trải sàn. Anton đảo mắt ngán ngẩm khi tôi bước đến chỗ anh. Tôi mỉm cười mệt mỏi. Lúc đó tôi thật sự muốn òa lên khóc. Tôi muốn khóc không vì lý do gì cụ thể cả, mà chỉ bởi vì hôm nay tôi muốn có một ngày đặc biệt nhưng lại nhận được một ngày bình thường như bao ngày khác. Và tôi muốn khóc vì tiếc cái bánh màu vàng hình con voi mà tôi đã tốn rất nhiều thời gian để làm, giờ nó chỉ còn là một đống bầy nhầy trên sàn nhà.

Khi tôi quay lại quan sát bọn trẻ, tôi thấy Peter đang nhìn lén xung quanh qua kẽ hở trên hai cánh tay đã vòng lại của nó. Tôi chỉ tay về phía thằng bé và trừng mắt nhìn nó. Nó lại che mặt lại. Tôi nhìn đồng hồ và quan sát bọn trẻ thêm một lúc nữa.

- Được rồi, tất cả nghe đây, nếu có thể cư xử như người bình thường thì các con có thể ngồi dậy. Chỉ còn mười phút nữa là hết giờ học. Giờ các con hãy phụ nhặt chỗ bánh này lên và tìm một việc gì đó im lặng mà làm. Tốt hơn là đừng để cô nghe thấy một tiếng cãi vã nào nữa.

Sheila vẫn ngồi úp mặt xuống bàn.

- Sheil, con có thể ngồi dậy.

Con bé vẫn không nhúc nhích, đầu gục lên hai cánh tay. Tôi ngồi xuống một cái ghế cạnh nó.

- Cô không giận tụi con lắm đâu. Con có thể đứng dậy và đi chơi được rồi.

- Ứ ừ. - Con bé đáp. - Đây là món quà sinh nhật của con dành cho cô. Con sẽ không gây thêm rắc rối nào trong ngày hôm nay nữa đâu.

Sau khi tan học, Whitney đưa Sheila ra xe buýt còn Anton và tôi xuống phòng giáo viên. Tôi ngồi trên một cái ghế êm ái, đầu ngả về phía sau, chân gác lên mặt bàn, tay tì lên mặt, che kín mắt.

- Thật là một ngày kinh khủng. - Tôi nói. Không nghe tiếng Anton đáp, tôi nhỏm dậy và mở mắt ra. Anh đã đi đâu mất. Thậm chí tôi còn không nghe thấy tiếng anh đi. Ôi, cũng chả sao, tôi nhủ thầm rồi dựa người vào ghế. Tôi gần như ngủ thiếp đi.

- Tor?

Tôi nhìn lên. Anton đã quay lại và đang đứng cạnh chỗ tôi.

- Chúc mừng sinh nhật. - Anh vừa nói vừa đưa cho tôi một cái phong bì khá dày.

- Này, anh không nên làm thế này đâu. Chúng ta đã thỏa thuận rồi mà.

Anh cười:

- Hãy mở nó ra đã.

Bên trong là một tấm thiệp hoạt hình trông rất vui nhộn có in hình một con rắn lục. Ngoài ra còn có một tờ giấy được gấp làm đôi.

- Cái gì vậy? - Tôi hỏi anh.

- Quà của tôi dành cho cô.

Tôi mở tờ giấy ra xem. Đó là bản sao của một lá thư.

Kính gửi ông Antonio Ramirez:

Trường đại học cộng đồng hạt Cherokee xin trân trọng thông báo rằng ông đã được chọn là một trong những người nhận được học bổng Dalton E. Fellows.

Xin chúc mừng. Chúng tôi rất mong được gặp ông trong chương trình đào tạo của trường mình vào mùa thu này.

Tôi nhìn anh. Dù rất cố gắng, nhưng anh vẫn không thể giấu nổi nụ cười của mình. Nụ cười của anh thật rạng rỡ. Tôi muốn chúc mừng anh. Muốn nói với anh rằng tờ giấy này làm tôi vui mừng như thế nào. Nhưng tôi chẳng nói được gì cả. Chúng tôi chỉ nhìn nhau. Và mỉm cười.

Tôi đã gọi cho Ed để bàn về việc sẽ sắp xếp như thế nào cho Sheila trong thời gian tới, và chúng tôi quyết định tổ chức một cuộc họp nhóm. Tôi vẫn muốn giao Sheila cho bạn tôi, cô Sandy McGuire ở trường tiểu học Jefferson. Sandy là một giáo viên trẻ tuổi và rất sâu sắc mà tôi có thể tin tưởng. Chúng tôi đã nhiều lần nói chuyện với nhau về Sheila từ hồi tôi vừa mới nảy ra cái suy nghĩ là đưa Sheila hòa nhập vào môi trường học tập bình thường.

Ban đầu Ed không hưởng ứng kế hoạch này cho lắm. Ông ấy không thích để trẻ con học vượt lớp. Hơn nữa, Sheila khá nhỏ bé so với tuổi của nó. Hầu hết những đứa trẻ khoảng tám, chín tuổi đều cao hơn nó gần nửa cái đầu. Chúng tôi đã tự vấn lương tâm mình rất nhiều. Con bé có học lực vượt hơn trình độ lớp hai ít nhất là hai lớp, nhưng nó lại nhỏ hơn những học sinh lớp hai nhiều. Với trường hợp của con bé thì không có cách giải quyết nào hoàn hảo cả. Tôi muốn giao nó cho một giáo viên mà tôi có thể tin tưởng là sẽ tiếp tục giúp đỡ nó về mặt phát triển tình cảm thay vì chỉ lo về vóc dáng hay chỉ số IQ của nó. Rõ ràng là con bé trội hẳn về mặt học vấn so với bọn trẻ đồng lứa, cho nên chẳng có lý gì khi tạo cho nó cơ hội để nó lại tiếp tục gây rắc rối. Tôi sợ với đầu óc đi mây về gió của mình thì Sheila sẽ trở nên quá rảnh rang khi học lớp hai, điều này sẽ khiến nó tìm việc gì đó để làm và sẽ lại gây rắc rối. Cuối cùng, chúng tôi nhất trí sẽ thử xếp Sheila vào lớp của Sandy. Con bé cũng sẽ có thêm hai tiếng đồng hồ mỗi ngày theo học một lớp đặc biệt để được đáp ứng những nhu cầu về tình cảm cũng như tình trạng học vấn phát triển sớm của nó.

Khi chỉ còn một tuần nữa là năm học kết thúc, tôi bảo Sheila rằng năm sau nó sẽ học ở trường Jefferson. Tôi nói với nó rằng tôi biết giáo viên năm tới của nó rất rõ, và chúng tôi đã là bạn bè của nhau trong một thời gian dài. Tôi hỏi Sheila lúc nào đó có muốn ghé ngang lớp cô Sandy để thăm cô không. Có vẻ như Sheila không thể chấp nhận được tất cả những chuyện này cùng một lúc, thế nên con bé tuyên bố chắc nịch rằng nó không bao giờ muốn gặp Sandy, dù là bây giờ hay sau này cũng thế. Nhưng sau đó, khi bọn trẻ biết về việc này và tất cả đều rất phấn khởi vì Sheila sẽ được học vượt một lớp, Sheila quyết định rằng nó sẽ không thấy phiền lắm nếu phải đi gặp Sandy.

Vào chiều thứ Tư, ngay sau khi chuông báo tan học vang lên, tôi chở Sheila đến trường tiểu học Jefferson ở phía bên kia thành phố. Vì biết còn hơn nửa tiếng nữa lớp Sandy mới tan học, nên tôi đã ghé cửa hàng Baskin-Robbins để mua mấy cây kem ốc quế. Sheila ăn một cây kem vị cam thảo. Sai lầm của tôi là đã không mang theo một miếng khăn giấy nào cả.

Khi chúng tôi đến trường Jefferson, trông Sheila như thể nó đã thay đổi sắc tộc vậy. Trên khắp má và cằm nó đều dính kem màu đen, trên tóc và trên áo nó cũng thế. Tôi ngạc nhiên nhìn nó, bởi vì mới mười lăm phút trước nó vẫn còn sạch sẽ. Không có một miếng khăn giấy nào, tôi đành lấy tay chùi cho nó. Chúng tôi bước vào trường, Sheila bám chặt lấy tôi.

Sandy bật cười khi nhìn thấy Sheila. Cũng không trách cô ấy được. Trông con bé như một đứa trẻ bốn tuổi với đống kem dính bê bết trên người, và sự sợ hãi của con bé làm cho nó trông như một đứa lang thang không nhà cửa. Nó bám chặt lấy chân tôi.

- Chà, nhóc, trông con thì có thể đoán chắc là con vừa xơi món gì ngon lắm. - Sandy mỉm cười và hỏi. - Món gì thế?

Sheila nhìn vào đôi mắt to của cô ấy. - Kem. - Nó thì thầm đáp.

Tôi tự hỏi không biết lúc ấy Sandy đang nghĩ gì. Tôi đã thuyết phục được cô ấy nhận Sheila chủ yếu là nhờ đã kể cho cô ấy nghe về khả năng thiên bẩm và cách nói chuyện rất thông minh của con bé. Thế nhưng lúc đó Sheila chẳng có vẻ gì là thông minh xuất chúng như thế một chút nào.

Lẽ ra tôi nên tin tưởng ở Sandy nhiều hơn. Cô ấy mang lại mấy cái ghế, mời chúng tôi ngồi và tiếp tục hỏi về tất cả những chi tiết liên quan đến niềm đam mê đối với món kem của Sheila. Sau đó cô ấy dẫn chúng tôi đi tham quan lớp học. Đó là một lớp học bình thường như bao lớp học khác. Jefferson là một ngôi trường cổ xưa, bề thế, được xây bằng gạch, với những phòng học rộng rãi. Căn phòng có thể chứa hết hai mươi bảy cái bàn mà vẫn còn dư diện tích. Lớp của Sandy khá bừa bộn. Những chồng sách bài tập nằm chất đống trên một góc bàn, mấy miếng giấy làm bài vứt ngổn ngang trên lối đi. Tôi đã mang tiếng là không được ngăn nắp, gọn gàng, nhưng sự bừa bộn của Sandy còn hơn cả tôi. Ở góc phòng còn có một tủ sách chật cứng và một cái chuồng nuôi chuột nhảy.

Sheila dần trở nên thoải mái hơn và hoạt bát trở lại. Chính những quyển sách đó đã thu hút con bé và cuối cùng đã chế ngự được sự nhút nhát của nó. Chẳng lâu sau đó, con bé đã dám đi một mình, cẩn thận xem xét từng ngóc ngách của căn phòng. Sandy nhìn tôi cười vui vẻ khi chúng tôi im lặng quan sát Sheila. Con bé sẽ làm được.

Sheila đang đứng nhón gót để nhìn những bìa sách bài tập, rồi nó lấy một quyển ở trên cùng xuống và mở ra xem. Con bé cầm quyển sách bước lại chỗ tôi và nói:

- Quyển này khác với những quyển sách bài tập của cô, Torey ơi.

- Đó sẽ là loại sách bài tập mà con sẽ dùng ở đây.

Con bé tiếp tục xem xét quyển sách. Sau đó nó quay sang Sandy.

- Con không thích làm bài tập lắm. Sandy mím môi và khẽ gật đầu.

- Cô cũng nghe nhiều học sinh khác nói như vậy. Làm bài tập cũng không vui gì lắm, phải không nào?

Sheila nhìn Sandy một lát.

- Dù sao con cũng sẽ làm. Torey đã bắt con làm thế. Lúc trước con không có làm, nhưng mà bây giờ thì con làm. Cuốn này thì trông không đến nỗi tệ lắm. Chắc chắn con sẽ làm cuốn này.

Con bé kiểm tra cuốn sách cẩn thận.

- Bạn này làm sai rồi. Nhìn nè, có một dấu gạch đỏ trong đây. - Nó đưa cho tôi xem.

- Đôi khi người ta cũng làm sai. - Sandy nói.

Tôi khẽ ra hiệu cho cô ấy biết việc Sheila không thích bị chỉnh những lỗi sai của nó. Đó sẽ là một trong những việc cần làm trong năm học sắp tới: làm sao để Sheila bớt căng thẳng về những sai lầm của nó hơn.

- Cô làm gì với những bạn ấy? - Sheila hỏi.

- Khi các bạn ấy mắc lỗi hả? - Sandy đáp.

- Ồ, cô chỉ đề nghị các bạn ấy làm lại thôi. Nếu các bạn ấy không hiểu, cô sẽ giúp các bạn ấy. Ai cũng có lúc phạm sai lầm mà. Chuyện đó đâu có gì nghiêm trọng.

- Cô có đánh đòn trẻ con không?

Sandy cười và lắc đầu.

- Không, chắc chắn là không rồi.

nhìn tôi và gật đầu.

- Torey cũng không có như thế.

Chúng tôi ở lại với Sandy gần bốn mươi lăm phút. Sheila ngày càng trở nên dạn dĩ với những câu hỏi của nó. Cuối cùng, tôi bảo có lẽ chúng tôi nên về để bắt kịp xe buýt cho Sheila. Khi chúng tôi bước ra cửa, Sandy nói rằng hôm nào đó trước khi năm học kết thúc, Sheila nên ghé qua để xem học sinh lớp ba học như thế nào. Tôi cảm ơn cô ấy vì đã dành thời gian cho chúng tôi. Rồi chúng tôi đi ra chỗ đậu xe.

Trên đường quay về, hầu như Sheila chỉ im lặng. Mãi đến lúc tôi rẽ vào bãi đỗ xe, Sheila mới quay sang tôi.

- Cô ấy không đến nỗi tệ lắm, con cho là như thế.

- Tốt. Cô rất vui khi thấy con thích cô ấy.

Chúng tôi ra khỏi xe. Sheila nắm lấy tay tôi khi chúng tôi bước về phía khu nhà chính.

- Tor, cô có nghĩ thỉnh thoảng con có thể ghé thăm lớp của cô Sandy không?

- Con muốn thế hả?

- Con thực sự không thấy phiền gì hết.

Tôi gật đầu, rồi với tay hái một đóa hoa sơn thù du từ một cành cây đang chìa xuống trước cổng trường. Tôi gài đóa hoa lên tóc con bé.

- Được rồi, Sheil, cô nghĩ chúng ta có thể sắp xếp việc đó cho con.

Vào ngày thứ Hai của tuần cuối cùng, Anton lái xe chở Sheila đến lớp của Sandy. Con bé đã quyết định ở lại đó suốt cả ngày, dù tôi đã bảo nó chỉ nên ở đó trong buổi sáng thôi. Nhưng con bé muốn ăn trong tiệm bán đồ ăn của trường, tự trả tiền cho bữa trưa của nó và có thể tự chọn những món ăn mà nó muốn như những đứa trẻ khác. Ở trường của tôi thì lớp tôi là lớp cuối cùng ăn trưa, và khay thức ăn của bọn trẻ đã được chuẩn bị và bày ra sẵn trên bàn. Sheila muốn xem làm một đứa trẻ bình thường là như thế nào. Tim tôi đập hơi nhanh một chút khi nhìn con bé đi cùng với Anton, bàn tay nhỏ bé của nó nằm gọn trong tay anh. Hôm ấy nó mặc cái váy màu đỏ, trắng và xanh mà Chad đã mua cho nó, thay vì mặc cái quần jeans và áo thun mà tôi đã mua bằng số tiền cha nó đưa cho tôi. Con bé nhờ tôi cột tóc đuôi ngựa, và cột bằng một cái dây nơ mà nó đã tìm thấy trong hộp đựng đồ cột tóc. Nhìn con bé đi bên cạnh Anton, trông nó mới bé bỏng và mỏng manh làm sao.

Chiều hôm đó, Sheila quay về với một tâm trạng hài lòng. Ngày hôm ấy đã trôi qua mà không có trục trặc gì, và nó mỉm cười đầy tự hào khi kể tôi nghe việc nó đã mang khay đựng bữa trưa của mình mà không làm đổ cái gì hết. Còn có một bạn tên là Maria học trên nó một lớp, bạn ấy có mái tóc đen dài nhất, óng mượt nhất, đẹp nhất mà nó từng thấy, và bạn ấy đã chừa chỗ cho nó ngồi bên cạnh để cùng ăn chung. Cũng có một số khó khăn. Nó đã đi lạc sau khi đi vệ sinh xong. Nghe giọng con bé kể lại chuyện đó, tôi đoán rằng nó đã rất sợ hãi khi bị lạc ở một nơi xa lạ như thế. Nhưng cuối cùng nó đã tìm được đường quay về. Và, nó mỉm cười đầy tự hào, nó không để cho ai biết là nó bị lạc cả. Vào giờ giải lao nó phát hiện ra rằng khi mặc váy thì sẽ rất bất tiện khi chơi đùa. Con bé đã vấp ngã khi đang chạy và đã bị trầy đầu gối. Nó vén váy lên để cho tôi xem. Những vết trầy không rõ lắm, nhưng chúng làm nó khá đau, con bé nói như thế. Nhưng nó không khóc. Sandy đã nhìn thấy và đã dỗ nó. Con bé cười rạng rỡ và kể tôi nghe rằng khi Sandy ôm nó, nó thấy cô rất thơm. Cô còn thổi vào đầu gối nó cho đến khi nó cảm thấy đỡ hơn. Nói chung, hôm ấy là một ngày rất thành công. Sheila khẳng định rằng nó sẽ ổn thôi khi học trong lớp đó. Ngoài ra nó còn hy vọng Maria sẽ bị lưu ban để năm sau hai đứa có thể làm bạn với nhau. Tôi vội nói với nó rằng Maria và nó vẫn có thể là bạn của nhau mà không cần phải mong Maria gặp một chuyện xui xẻo như thế. Lần đầu tiên Sheila không có cái nhìn quá khắt khe về việc không được học trong lớp của tôi nữa; thậm chí con bé còn không nhắc đến việc đó. Thay vào đó, nó hầu như chỉ nói những câu đại loại như "Năm sau, cô McGuire nói là con có thể..." hay "Cô McGuire sẽ để cho con khi con học trong lớp của cô ấy". Đó là một khoảnh khắc ngọt ngào mà buồn bã đối với tôi, bởi tôi biết mình đã bị bỏ lại đằng sau.

Ngày bế giảng, chúng tôi tổ chức một chuyến dã ngoại. Một số phụ huynh đã tham gia cùng chúng tôi tại một công viên cách trường vài dãy phố. Chúng tôi mang theo đồ ăn trưa và nguyên liệu để làm kem nước quả, còn những bậc phụ huynh thì lo phần bánh nướng và những thứ đồ cần thiết khác. Công viên ấy rất rộng, đã khá cũ và hơi ngổn ngang. Ở đó có một sở thú nhỏ và một cái ao khá rộng để thả vịt. Ngoài ra còn có những vườn hoa rực rỡ khoe sắc trong ánh mặt trời ấm áp của tháng Sáu. Bọn trẻ ríu rít túa ra khắp mọi hướng cùng với cha mẹ của mình.

Cha của Sheila không đến; chúng tôi cũng không thực sự mong ông ấy sẽ đến. Nhưng lúc sáng khi Sheila đến lớp, con bé đã thật rạng rỡ trong bộ quần áo tắm nắng màu cam và trắng. Con bé có vẻ bối rối vì mặc đồ "hở hang" như vậy và cứ che chắn cơ thể mình trong suốt nửa tiếng đồng hồ đầu tiên nó đi với chúng tôi. Anton khen màu trắng đi với màu cam như thế là rất đẹp, anh còn đùa với con bé rằng nếu có cơ hội thì anh sẽ ăn trộm bộ đồ đó. Điều này làm con bé cảm thấy thoải mái hơn, nó khúc khích cười khi nghĩ đến cảnh Anton mặc bộ đồ tắm nắng của nó. Trong lúc chúng tôi đợi những học sinh khác đến, con bé đã nhảy múa vòng quanh lớp cho chúng tôi xem. Tối hôm trước, cha con bé đã mua cho nó bộ đồ tắm nắng này ở cửa hàng giảm giá, và đó là món đồ mới đầu tiên ông mua cho nó trong suốt mấy năm qua. Con bé phấn khích đến nỗi không thể ngồi yên được. Trên đường đến công viên nó cứ nhảy chân sáo trên vỉa hè, mái tóc vàng của nó bay chấp chới trong gió.

Khi đã đến công viên, con bé vẫn nhảy nhót đầy hân hoan. Sau khi dùng bữa trưa, Anton, Whitney và tôi ngồi ở chỗ ao vịt quan sát con bé dưới ánh mặt trời ấm áp. Con bé cách chúng tôi chừng mười mét, tung tăng ở cái lối đi rải đầy sỏi quanh ao. Dường như nó đang lắng nghe giai điệu từ tâm hồn mình, nó cứ nhảy nhót như một chú chim non. Những người đi chung lối với nó phải tránh nó ra, mặt họ lộ vẻ thích thú khi nhìn con bé. Một bước nhảy, một cú xoay người, rồi sau đó là vài cú nhún nhảy theo nhịp điệu. Mái tóc nó như tỏa ra một vầng sáng lấp lánh màu bạch kim. Nó hoàn toàn không nhận thấy sự hiện diện của những người cũng đi chung đường với mình, cũng không để ý đến những đứa trẻ khác, đến Anton, Whitney và tôi, mà chỉ nhảy múa để thỏa mãn một giấc mơ nào đó của tâm hồn mình. Dường như ai cũng cảm thấy một sự hấp dẫn khó lý giải. Anton im lặng ngắm nhìn con bé. Whitney thì gật gù như thể đang bắt nhịp với điệu nhạc mà không ai trong chúng tôi nghe được.

Anton quay sang tôi.

- Con bé trông như một thiên thần vậy, phải

không? Cứ như thể nếu cô chớp mắt quá mạnh, nó sẽ biến mất.

Tôi gật đầu.

- Nó tự do. - Whitney khẽ nói. Thật sự là như vậy.

Ngày hôm ấy trôi qua thật nhanh. Chúng tôi gói ghém đồ đạc và quay trở lại lớp học để phát cho bọn trẻ những thứ giấy tờ cuối cùng và nói lời tạm biệt nhau. Căn phòng chật chội lót ván gỗ giờ gần như trống trơn. Những bức tranh, những mẩu chuyện kể đã được gỡ xuống khỏi tường. Mấy con thú nuôi đã được mang về căn hộ của tôi. Những cái bảng tên đã được tháo ra khỏi tủ đựng đồ cá nhân.

Sheila cuối cùng cũng nhận thức được những gì đang xảy ra, và tâm trạng hân hoan trước đó của con bé biến mất. Khi chúng tôi đã phát cho bọn trẻ tất cả những thứ giấy tờ cần thiết xong, tôi thấy Sheila chui vào góc lớp. Cái góc quen thuộc của nó giờ trống trơn, không ghế, không gối, cũng không chuồng thú. Con bé ngồi xổm trên sàn nhà. Tất cả những đứa trẻ khác đều đang nói chuyện huyên thuyên, háo hức với kỳ nghỉ hè sắp đến và những thay đổi của chúng trong năm học kế tiếp. Khi Anton bắt nhịp cho chúng hát, tôi tách ra để đến bên cạnh Sheila.

Những giọt nước mắt đang lặng lẽ chảy dài trên hai gò má lúc này đã rám nắng của nó. Không có khăn giấy, nó lấy tóc chùi mặt. Đôi mắt con bé tràn ngập sự đau đớn và buồn bã.

- Con không muốn đi. - Nó rên rỉ. - Con không muốn chuyện này kết thúc. Con muốn quay lại, Torey ơi.

- Cưng ơi, dĩ nhiên là con muốn thế rồi. - Tôi ôm nó vào lòng. - Nhưng bây giờ thì con cảm thấy thế thôi. Chỉ một lúc nữa thôi là con sẽ có cả một mùa hè đang chào đón mình, và sau đó con sẽ được lên lớp ba, là một đứa trẻ bình thường. Bây giờ thì mọi chuyện chỉ hơi khó khăn một chút, thế thôi.

- Con không muốn đi, Torey ơi. Và con không muốn cô đi.

Tôi vuốt tóc nó.

- Con có nhớ không, cô đã nói là cô sẽ viết thư cho con. Chúng ta sẽ vẫn biết điều gì đang xảy ra với người kia. Chúng ta sẽ không thật sự bị chia cắt đâu. Rồi con xem.

- Không, con không muốn thế. Con muốn ở lại. Con bé phải khó khăn lắm mới giữ được bình tĩnh, và cơ thể gầy gò của nó run rẩy trong vòng tay tôi.

- Con sẽ hư. Con sẽ không ngoan chút nào trong lớp học của cô McGuire và sau đó cô sẽ phải quay lại.

- Này, cô không muốn nghe con nói như thế. Đó là cách nói của Sheila hồi trước.

- Con sẽ không ngoan. Con sẽ không ngoan. Và cô sẽ không thể bắt con ngoan được.

- Không, Sheil, cô không thể làm thế được. Đó là quyết định của con. Nhưng con biết như thế cũng chẳng thay đổi được gì cả đâu. Nó sẽ không làm cho năm học này quay trở lại, hay lớp học này quay lại. Hay cô. Cô cũng phải đi học, như cô đã nói với con đấy. Những gì con làm với bản thân mình là quyết định của riêng con. Nhưng nó sẽ không làm cho năm học này trở lại được.

Con bé nhìn chằm chằm xuống sàn nhà, môi dưới trề ra.

Tôi mỉm cười.

- Con có nhớ không, con đã cảm hóa cô. Con có trách nhiệm với cô. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ quên rằng chúng ta yêu thương nhau. Điều đó có nghĩa là chắc chắn ngay bây giờ chúng ta sẽ khóc một chút. Nhưng không lâu sau chúng ta sẽ chỉ nhớ rằng mình đã hạnh phúc thế nào khi ở bên nhau mà thôi.

Con bé lắc đầu.

- Con sẽ không bao giờ hạnh phúc.

Ngay lúc đó thì chuông báo tan học vang lên, và căn phòng như vỡ tung với những tiếng la hét. Tôi đứng dậy và đi về phía bọn trẻ. Sheila cũng lưỡng lự bước theo tôi. Giờ chia tay đã đến. Tyler và William đang ngân ngấn nước mắt. Peter thì nhảy tưng tưng vì sướng quá. Tất cả chúng tôi ôm nhau, hôn nhau và rồi bọn trẻ ra về, trong tiết trời tháng Sáu ấm áp.

Sheila sẽ đón chiếc xe buýt của trường phổ thông để quay về trại tập trung dành cho dân nhập cư. Vào ngày bế giảng năm học này, chuyến xe buýt của nó sẽ khởi hành sau xe buýt của trường tiểu học một thời gian ngắn. Tôi biết rằng sau khi nói lời tạm biệt với Anton và Whitney rồi thu dọn đồ đạc của mình, con bé chỉ có đủ thời gian để đi bộ qua hai dãy phố để đến được trạm xe buýt.

Việc chia tay với Anton rất khó khăn với con bé. Ban đầu nó lấy tay che mặt và thậm chí không chịu nhìn anh. Anh vẫn vỗ về cho nó mỉm cười, nói một câu gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha mà tôi không hiểu nhưng Sheila lại hiểu. Anh nhắc nó rằng họ vẫn sẽ gặp nhau ở trại tập trung. Anh hứa sẽ đón nó sang chơi với hai đứa con trai nhỏ của anh. Cuối cùng tôi phải đưa ra một tối hậu thư. Tôi sẽ tiễn nó ra chỗ xe buýt, nhưng con bé phải đi ngay. Thế là nó quay sang Anton rồi ôm chầm lấy anh, hai cánh tay nhỏ bé của nó ghì siết anh thật chặt. Rồi nó vẫy tay chào Whitney và nắm tay tôi. Khi đã ra đến cửa, nó ngừng lại, rồi chạy ào đến ôm Anton một lần nữa. Nó hôn lên má anh rồi chạy lại chỗ tôi. Những giọt nước mắt của nó tuôn rơi khi nó nhặt nhạnh mấy thứ đồ đạc của mình: vài món giấy tờ và cuốn Hoàng tử bé nhàu nhĩ, một ký ức hữu hình để nhắc lại những điều đã qua. Chúng tôi bước xuống những bậc cấp rồi đi trên vỉa hè về phía trường phổ thông.

Suốt quãng đường đi con bé không nói câu nào. Tôi cũng thế. Giữa chúng tôi không cần nói gì nữa. Những câu nói ra có thể làm hỏng những điều mà chúng tôi đã có với nhau. Xe buýt đang đợi, nhưng đám học sinh vẫn chưa lên xe. Người tài xế vẫy tay với chúng tôi. Sheila chạy lại để cất đồ đạc của nó lên. Sau đó nó lại ra khỏi xe, quay lại chỗ tôi đứng.

Con bé nhìn tôi, lấy tay che mắt cho khỏi chói. Tôi nhìn nó, cảm thấy như thời gian là vô tận trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, dưới ánh mặt trời chói chang.

- Tạm biệt cô. - Nó nói thật khẽ.

Tôi quỳ xuống, ôm chặt lấy nó. Tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình đang đập, cổ họng tôi nghẹn lại không nói được thành lời. Rồi tôi đứng dậy, và nó chạy ù đến chỗ xe buýt. Con bé chuẩn bị bước lên xe, nhưng khi đang bước lên thì nó ngừng lại. Những học sinh khác đang vào xe, và nó phải chờ đến lượt mình. Nó quay lại nhìn tôi, rồi đột ngột chạy lại chỗ tôi một lần nữa.

- Con không có ý như thế. - Nó nói mà không kịp thở. - Con không có ý làm như thế khi con nói là con sẽ hư. Con sẽ là một đứa bé ngoan. - Nó nghiêm nghị nhìn tôi. - Vì cô.

Tôi lắc đầu.

- Không, không phải vì cô. Con sẽ ngoan, vì chính bản thân con.

Con bé khẽ cười, một nụ cười gượng gạo. Rồi tích tắc, nó lại chạy về phía xe buýt, vội vàng bước lên xe, len lỏi giữa những đứa học sinh lớn hơn. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi nhìn thấy gương mặt nó qua ô cửa kính, nó đang áp chặt mặt vào lớp kính, hai bàn tay bấu vào thành kính. Người tài xế đóng cửa xe lại. Chiếc xe bắt đầu lăn bánh.

- Tạm biệt. - Tôi thấy con bé nhép miệng, cái môi nó hình như đang trề ra, mũi vẫn đang bẹt vào cửa kính xe. Tôi không biết nó có đang khóc hay không. Chiếc xe buýt rẽ ra đường lớn. Một bàn tay nhỏ bé vẫy tôi, ban đầu còn hối hả, nhưng sau chậm dần rồi ngưng hẳn. Tôi giơ tay lên và mỉm cười. Chiếc xe buýt dần biến mất khỏi tầm mắt.

- Tạm biệt. - Tôi nói, những từ ngữ như quện vào với nhau trong họng tôi và phát ra không thành tiếng. Rồi tôi xoay người bước đi.

Còn nữa...
 
2,221 ❤︎ Bài viết: 589 Tìm chủ đề
LỜI KẾT


Mới năm ngoái, tôi tìm thấy trong thùng thư của mình một tờ giấy được xé ra từ một quyển sổ. Tờ giấy nhàu nát, loang vết nước, trên đó là một bài thơ được viết bằng bút lông màu xanh. Ngoài ra không còn thư từ gì nữa.

Gửi đến Torey với rất nhiều

"Tình yêu"

Tất cả những người còn lại đã đến

Họ cố làm cho con cười

Họ chơi những trò chơi của họ với con

Vài trò để cho vui và vài trò để giữ con ngồi yên

Và rồi họ ra đi

Để con lại với đống hoang tàn của những trò chơi

Không biết cái nào để giữ con ngồi yên và

Cái nào để cho vui và

Bỏ con lại một mình với những âm vọng của

Những tiếng cười không thuộc về con.

Rồi cô đã đến.

Với cách sống vui vẻ của mình

Không hoàn toàn chỉ có tình người

Và cô đã làm con khóc

Dường như cô cũng không quan tâm khi con như thế

Cô chỉ nói rằng những trò chơi đã kết thúc

Và chờ đợi

Cho đến khi tất cả những giọt nước mắt của con biến thành

Niềm vui.

Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
 
Chia sẻ bài viết
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back