Đêm Tối Và Ánh Sáng - Torey Hayden

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Chiracat, 22 Tháng sáu 2018.

  1. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589

    Tác giả: Torey Hayden



    Thể Loại: Tiểu Thuyết Nước Ngoài.

    [​IMG]

    Số chương: 20.


    Nội dung:


    Đến với "Đêm tối và ánh sáng", bạn sẽ cảm nhận mình như một người đang lặng lẽ chứng kiến những gì xảy ra trong một lớp học đặc biệt. Ở đó có: Torey – một cô giáo trẻ; Anton – anh chàng cao to mang trong mình hai dòng máu Mexico – Mỹ, mới vào nghề và vẫn chưa tốt nghiệp trung học; Whitney – cô gái tình nguyện chỉ mới học cấp hai. Với những đứa trẻ bị rối loạn và bị khiếm khuyết về mặt tâm thần: Một cậu bé với hệ thần kinh bất ổn và thường xuyên có hành vi bạo lực, một cô bé chỉ mới tám tuổi nhưng đã hai lần tự sát, những đứa trẻ mắc bệnh tự kỷ bẩm sinh, một bé gái bảy tuổi từng là nạn nhân của nạn lạm dụng thể xác, một cô bé xinh xắn nhưng bị mắc bệnh tâm thần phân liệt từ nhỏ.. Và Sheila – cô bé bị mẹ bỏ rơi trên đường cao tốc khi mới bốn tuổi, đã bắt cóc và thiêu sống một bé trai ba tuổi khi em lên sáu.

    Trong "Đêm tối và ánh sáng", bạn sẽ thấy được ý nghĩa của sự chân thật, ý nghĩa của những việc làm xuất phát từ trái tim của cô giáo Torey, để rồi những đứa trẻ dần dần thích nghi, bắt đầu trò chuyện, biết làm chủ phần nào cảm xúc của mình. Riêng đối với Sheila, với ánh mắt hoang dại và tính tình kỳ dị đầy bí ẩn là một thử thách gay go cho cô trong suốt thời gian em theo học để chờ một chỗ trống trong bệnh viện liên bang - nơi mà rất nhiều người có thầm quyền cho rằng đó là nơi tốt nhất đối với em. Sheila là cô bé thông minh và ở em sự thông minh trái ngược với cái thân thể nhỏ bé nhưng cân đối, với những hiểu biết vượt hẳn những đứa trẻ đồng trang lứa. Nhưng suốt sáu năm trời từ lúc được sinh ra, em đã bị vùi lấp bởi cái quá khứ kinh hoàng. Hạnh phúc mới thật sự đến khi em tin vào người mà em cho rằng đã "cảm hóa" em và phải có trách nhiệm với em.

    Với ý thức về vai trò, trách nhiệm và lòng yêu trẻ của một giáo viên, Torey đã từng bước, từng bước chinh phục cô nhóc Sheila. Điều này không dễ dàng chút nào, trái lại nó là một chặng đường đầy gian nan vất vả mà ít có người giáo viên nào làm được. Sheila bắt đầu chịu nói chuyện sau những ngày ngồi thu mình trên một chiếc ghế, em đã bớt sợ hãi, bớt đập phá và bắt đầu nhận thấy rằng sự quan tâm của cô Torey dành cho em không như những người khác, nó là sự yêu thương thật sự.

    Đọc "Đêm tối và ánh sáng" bạn như lạc vào thế giới của trẻ thơ. Sự ngây thơ, trong trẻo của những tâm hồn vẫn đang hiện hữu bên trong những biểu hiện kỳ lạ của các em. Rất nhiều lần bạn sẽ phải mỉm cười khi bắt gặp những ý nghĩ ngu ngơ tự nhiên mà chỉ ở trẻ thơ mới có. Sheila, cô bé với những suy nghĩ vượt hẳn tuổi của em, những ý nghĩ ganh tỵ pha lẫn nét nũng nịu, đáng yêu.

    Bệnh viện liên bang đã có chỗ trống, trong khi Sheila bắt đầu có những tiến bộ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu em bị đưa vào đó? Và không! Em sẽ vẫn được "điều trị" ở cái "lớp học điên khùng" mà em yêu mến, trước sự ủng hộ của rất nhiều người. Ngày mà phiên tòa "định mệnh" được mở ra và kết thúc bằng nụ cười vui sướng của chàng luật sư dễ mến là ngày mà Sheila hạnh phúc nhất, em cảm nhận được sự ấm áp của một gia đình, được ủ ấm trong tình thương của "cha Chad" và "mẹ Torey"

    Trong lúc đau đớn tận cùng, Sheila vẫn cố níu chặt áo cô Torey, và thét lên: "Đừng bỏ con! Đừng để họ bắt con đi mất. Con muốn cô ôm con" . Bạn sẽ thấy mình rất lạ khi đồng hành cùng cô trò họ đến lúc này, mắt bạn ướt là một điều hết sức bình thường khi chứng kiến cái nhu cầu bình thường của một đứa trẻ; em cần sự chở che, cần tình yêu thương và vì cần tất cả điều đó, em rất cần cô Torey.

    Cuối cùng thì Sheila cũng sẵn sàng cho việc hòa nhập vào lớp học dành cho những trẻ bình thường. Và như bao người giáo viên khác, với cô Torey "Đó là một khoảnh khắc ngọt ngào nhưng buồn bã đối với tôi, bởi tôi biết mình đã bị bỏ lại đằng sau" . Và niềm vui trọn vẹn đã đến vào một ngày cô nhận được một lá thư, bên trong là bài thơ với tựa đề: Gửi đến Torey với rất nhiều "tình yêu" do chính tay cô Sheila viết.

    Xuyên suốt quyển sách, đặc biệt kể từ lúc Sheila vào lớp, bạn sẽ thấy nhịp thở của mình gần như bị phụ thuộc vào những chuyển biến tâm lý trong đó. Thật lạ khi đọc quyển sách này, bạn có cảm giác không dám thở mạnh vì sợ nếu như thế sẽ làm không khí trong lớp học đặc biệt này càng thêm căng thẳng, sợ nó có thể làm đứt sợi tơ mong manh vừa mới hình thành từ rất nhiều những cố gắng không ngừng của cô Torey.

    Tôi đọc và cảm nhận rất rõ tim mình phát ra từng đợt sóng dâng tràn ở ngực, lan ra hai bên vai rồi làm mắt âng ấng nước. Lúc trước tôi rất sợ phải yêu thương một ai đó, tôi đã từng như thế, yêu thương là hạnh phúc nhưng bạn vẫn cảm nhận đâu đó một nỗi đau, sự lo lắng khi sợ họ gặp những điều không vui thậm chí là rất đau khi một nỗi bất hạnh nào đó đến với họ. Và chính "Đêm tối và ánh sáng" đã xua tan nỗi sợ hãi đó.

    Tôi đã đọc ở đâu đó câu nói đại khái rằng sẽ rất vui khi ta có thể diễn tả "trúng phóc" ý nghĩ của mình, nhưng tôi vẫn chưa thật sự thấy vui vì trong lòng vẫn còn điều gì đó chưa thể hiện ra được, một phần do khả năng tôi chưa đủ, phần vì điều đó sẽ đầy đủ và chính xác hơn khi bạn dùng chính trái tim mình để cảm nhận. Và để biết điều đó là gì? Dành ít thời gian tìm đọc "Đêm tối và ánh sáng", bạn sẽ cảm nhận rất rõ. Ngay cả khi bạn không muốn biết đi nữa, tôi nghĩ bạn cũng nên đọc vì quyển sách này sẽ là một người bạn hữu ích với bạn hôm nay và cả đến sau này.
     
    Ánh Trăng SángThanh Bình thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 28 Tháng sáu 2018
  2. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    Giới thiệu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    "Hayden hoàn toàn có thể trở thành một nhà văn giỏi, nhưng thật may cho chúng ta khi cô đã quyết định trở thành giáo viên của những trẻ em bị rối loạn và khiếm khuyết về mặt tâm thần. Tuy vậy, các mô tả của Torey Hayden về những đứa trẻ này trong các tác phẩm của mình hoàn toàn không nặng tính mô phạm mà chúng chỉ giúp chúng ta hiểu được rằng con người không phải lúc nào cũng đúng như những định kiến và các chẩn đoán đưa ra... Hayden thật tài tình khi miêu tả con người thật sự bên trong của những đứa trẻ này dù cho mỗi cá nhân đều có những tính cách đặc thù. Đó là những nỗi sợ về thế giới bên ngoài, cảm giác không được yêu thương trọn vẹn, cảm giác bất lực trong việc bày tỏ nỗi đau của chính mình."

    Theo Washington Post Book World

    "Quyển sách này sẽ có một số đoạn khiến bạn tức giận. Một số đoạn khác khiến bạn phải bật khóc. Và sẽ có một số đoạn khiến bạn vui thích, đắm chìm trong thế giới trong sáng của trẻ thơ. Nhưng cho dù phản ứng của bạn là gì đi nữa thì chúng tôi nghĩ bạn sẽ phải thừa nhận với chúng tôi rằng đã từ lâu rồi chúng ta mới đọc được một cuốn sách mang lại cho ta nhiều cung bậc cảm xúc như cuốn Đêm tối và ánh sáng này."

    Theo New York Times

    "Cuốn sách thật sự viết về tất cả trẻ em ở mọi nơi... những đứa trẻ đang cần phép nhiệm màu về tình yêu thương vô điều kiện của cô giáo trẻ này, người sẵn sàng trao tặng tình yêu thương của mình cho chúng. Tôi ước gì các bậc phụ huynh và quý thầy cô đều có cơ hội đọc được cuốn sách này."

    Eda LeShan, tác giả của In Search of Myself - and Other Children

    Tặng con, Sheila R.,

    Mọi người đều hỏi cô về bài thơ dán trên bức tường trong phòng làm việc của cô.

    Và cô nghĩ là tốt hơn hết nên kể cho họ biết về cô bé đã làm bài thơ đó.

    Cô chỉ hy vọng mình có thể viết hay bằng một nửa các nhà văn mà thôi.

    Còn nữa...
     
    Chỉnh sửa cuối: 23 Tháng sáu 2018
  3. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    Lời nói đầu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ lúc trưởng thành, phần lớn thời gian làm việc của tôi đều dành cho những trẻ em bị rối loạn cảm xúc. Mùa thu năm thứ nhất đại học, tôi đã tình nguyện tham gia vào một chương trình dành cho trẻ em chưa đến tuổi đến trường bị rối loạn và khiếm khuyết về mặt tâm thần. Tôi nhanh chóng bị cuốn hút vào những khía cạnh đa dạng của chứng rối loạn tâm thần ở trẻ nhỏ. Từ đó đến nay, tôi đã đạt được ba tấm bằng, dành ra mấy năm làm giáo viên trợ giảng, rồi làm giáo viên, rồi trở thành giáo viên hướng dẫn cho sinh viên đồng thời nghiên cứu về tâm thần. Tôi đã từng sống ở năm tiểu bang khác nhau, làm việc trong những trung tâm chăm sóc sức khỏe tư nhân, trường học công lập, phân khoa thần kinh biệt lập và những học viện của tiểu bang trong khi vẫn luôn theo đuổi một đáp án mơ hồ về những đứa trẻ ấy - một chiếc chìa khóa thần kỳ sẽ khiến chúng cởi mở hơn, giúp tôi có thể hiểu được chúng. Tuy vậy, tận trong sâu thẳm, tôi vẫn luôn biết rằng không hề có chiếc chìa khóa nào tồn tại, và đối với một số trẻ, ngay cả tình yêu cũng không bao giờ đủ. Thế nhưng niềm tin vĩnh hằng trong tâm khảm con người vượt qua tất cả những lý lẽ, vươn xa khỏi tầm với hạn hẹp của những tri thức thông thường.

    Mọi người vẫn thường hỏi thăm tôi về công việc tôi đang làm. Và tôi thường nghe những câu hỏi đại loại như "Có chán lắm không?", "Có thấy nản không khi ngày ngày phải đối mặt với tình trạng bạo hành, những cảnh thiếu thốn, tình trạng nghiện ngập, rượu chè, lạm dụng thể xác, sự thiếu quan tâm chăm sóc và cả kỳ thị chủng tộc?". Một giáo viên từng hỏi tôi: "Cô có thấy nản lòng không khi phải làm việc cật lực mà chẳng nhận được gì?". Một số người thân thì lại hỏi: "Cô có thấy nản lòng không khi biết rằng dù mình có cố gắng thế nào đi nữa thì những đứa trẻ đó cũng đã bị xã hội nhìn nhận là sẽ phải sống một cuộc đời - mà theo tiêu chuẩn của chúng ta - không bao giờ mang lại lợi ích và đóng góp cho xã hội, hay thậm chí chỉ là một cuộc sống bình thường? Có thấy nản lòng không?".

    Không. Hoàn toàn không. Chúng chỉ là những đứa trẻ, đôi lúc cũng khiến mình cảm thấy bực bội như bao đứa trẻ khác, nhưng chúng cũng có lòng trắc ẩn và sự tinh tế như mọi người. Vấn đề là dường như mọi người chỉ nhận thấy những cơn nổi loạn điên cuồng của chúng mà thôi, và thế là họ cứ cho rằng bọn trẻ chỉ biết có vậy.

    Nhưng thật ra những đứa trẻ ấy đâu phải hoàn toàn như thế. Chúng rất can đảm. Nhưng không may, lòng dũng cảm của chúng lại bị những sự kiện bên ngoài khác làm cho lu mờ. Một số trẻ sống với những cơn ác mộng ám ảnh thường trực đến nỗi bất kỳ hành động nào của chúng cũng hàm chứa nỗi kinh hoàng mơ hồ. Có trẻ sống trong bạo lực và hoàn cảnh éo le không thể tả thành lời. Số khác bị đối xử còn thua cả súc vật. Một số sống không có tình thương, số khác sống không hy vọng. Nhưng chúng vẫn chịu đựng và chấp nhận, bởi chúng không còn cách nào khác.

    Cuốn sách này chỉ nói về một đứa trẻ. Cuốn sách không dùng để kêu gọi lòng thương hại; cũng không có ý định ca ngợi một cô giáo. Cũng không chỉ trích những người sống thản nhiên không để tâm đến những gì xảy ra xung quanh. Thật ra, đây chỉ là một đáp án cho câu hỏi liệu người ta có chán ngán không khi cứ phải tiếp xúc và làm việc với các bệnh nhân tâm thần. Đây là một bài ca về nhân tâm, bởi đứa trẻ này cũng như con cái chúng ta, như tất cả chúng ta - Cô bé là một con người.


    Còn nữa...
     
    Chỉnh sửa cuối: 23 Tháng sáu 2018
  4. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    CHƯƠNG 1

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lẽ ra tôi phải biết.

    Mẩu tin được đưa rất ngắn gọn, chỉ vài đoạn ngắn nằm lọt trong trang sáu, bên dưới mấy mẩu tranh hoạt hình. Mẩu tin viết về một bé gái sáu tuổi đã bắt cóc một đứa bé hàng xóm. Vào một buổi chiều tháng Mười một se lạnh, con bé bắt cóc một bé trai ba tuổi, cột vào gốc cây trong một sân chứa củi gần đó và thiêu cậu bé. Cậu bé đang phải nằm trong bệnh viện địa phương trong tình trạng rất nguy kịch, còn con bé đã bị đưa đi giám hộ.

    Tôi đọc mẩu tin một cách bình thản như khi đọc các mục còn lại của tờ báo và cảm thấy cái thế- giới-chẳng-biết-đang-đi-về-đâu này thật đáng chán. Thế rồi một buổi chiều nọ, tôi chợt nhớ lại chuyện đó trong lúc đang rửa bát đĩa. Tôi tự hỏi không biết cảnh sát đã làm gì với đứa bé gái. Liệu người ta có thể tống một đứa bé sáu tuổi vào tù không? Thỉnh thoảng tôi lại hình dung ra khung cảnh tuyệt vọng đáng sợ của nó khi bơ vơ trong trại giam bẩn thỉu cũ kỹ của thành phố. Tôi chỉ nghĩ đến chuyện đó một cách bâng quơ, hết sức tình cờ. Nhưng lẽ ra tôi phải biết.

    Lẽ ra tôi phải biết rằng sẽ không một giáo viên nào muốn có một đứa bé sáu tuổi với lý lịch như vậy xuất hiện trong lớp của mình. Không một bậc phụ huynh nào lại muốn một đứa trẻ như thế cùng đến trường với con em mình. Không ai muốn buông tha cho đứa trẻ ấy. Lẽ ra tôi phải biết cuối cùng con bé sẽ đến với lớp học của tôi.

    Tôi đang dạy một lớp mà trường tôi vẫn gọi một cách trìu mến là "lớp cá biệt". Đó là năm cuối cùng trước khi chương trình hội nhập vào cộng đồng dành cho những trẻ em đặc biệt được khởi động, là năm cuối cùng để xóa bỏ những lớp học dành cho trẻ bất thường. Có những lớp dành riêng cho trẻ bị rối loạn cảm xúc, khiếm khuyết thân thể, rối loạn hành vi, thiểu năng trí tuệ, và cuối cùng là lớp tôi. Lớp tôi nhận tám đứa bé còn lại - tám đứa không thể phân loại được. Lớp tôi là nơi dừng chân cuối cùng của các em trước khi các em bị đưa vào viện. Đó là lớp học dành cho những sinh linh nhỏ bé bị chối bỏ.

    Đầu năm ngoái, tôi từng dạy với tư cách là một giáo viên dự phòng, hỗ trợ những trẻ bị rối loạn cảm xúc và tìm hiểu những trẻ khuyết tật học nửa buổi trong các lớp bình thường. Tôi đã đến đây một thời gian và đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau nên tôi không hề ngạc nhiên khi một ngày tháng Năm, thầy Ed Somers, Trưởng ban Giáo dục đặc biệt, tìm đến tôi và hỏi tôi có muốn nhận dạy lớp cá biệt vào mùa thu tới không. Ông biết tôi đã có nhiều kinh nghiệm với những trẻ em bị rối loạn nghiêm trọng, rất yêu thích trẻ nhỏ, và cũng thích thử thách nữa. Ông mỉm cười gượng gạo sau khi nói ra điều đó vì biết sự tâng bốc ấy nghe rất giả tạo, nhưng ông đã tuyệt vọng đến nỗi bất chấp tất cả để thử đề nghị với tôi.

    Tôi đã trả lời đồng ý, nhưng vẫn không khỏi e dè. Tuy vậy, thật tâm tôi vẫn khao khát được đứng lớp dạy những đứa trẻ của riêng mình. Tôi cũng muốn thoát khỏi vị hiệu trưởng hà khắc một cách vô tâm của mình. Ông là một người tốt bụng, nhưng quan điểm của chúng tôi rất khác nhau. Ông khó chịu trước trang phục hàng ngày của tôi, với lớp học bừa bộn của tôi, với cách bọn trẻ gọi tôi bằng tên(1). Đó chỉ là những chuyện vụn vặt, nhưng cũng như tất cả những điều vụn vặt khác, chúng dần dần trở thành những xung đột lớn. Tôi biết rằng nếu nhận lời dạy lớp này cho thầy Ed, tôi sẽ có thể mặc quần jeans, tha hồ bừa bộn và thân mật với bọn trẻ. Thế là tôi nhận lời, hoàn toàn tự tin mình sẽ có thể vượt qua mọi trở ngại.

    Sự tự tin của tôi bị lung lay đáng kể chỉ trong thời gian từ sau khi ký hợp đồng đến hết ngày khai trường. Cú sốc đầu tiên là khi tôi biết mình sẽ được bố trí trở lại vào đúng ngôi trường cũ tôi từng dạy, với chính vị hiệu trưởng cũ. Giờ đây ông không chỉ phải lo ngại về tôi mà còn phải lo tám đứa trẻ lập dị. Ngay lập tức, chúng tôi được bố trí vào một căn phòng trong dãy nhà phụ, kế bên chẳng có gì khác ngoài phòng thể thao. Chúng tôi hoàn toàn biệt lập với toàn thể ngôi trường. Lớp học của tôi hẳn sẽ đủ rộng nếu bọn trẻ lớn hơn một chút và biết tự chủ hơn. Nhưng với tám đứa nhỏ và hai người lớn, thêm mười cái bàn học sinh, ba cái bàn, bốn kệ sách và hàng đống ghế, căn phòng chật chội đến ngột ngạt. Thế là cái bàn giáo viên, hai kệ sách và một tủ hồ sơ ra đi, chỉ chừa lại chín cái ghế nhỏ và toàn bộ số bàn học sinh. Chưa hết, căn phòng dài và hẹp mà chỉ có một cửa sổ ở cuối phòng. Vốn dĩ nó được thiết kế để làm phòng nghiên cứu và hội ý nên tường được ép ván và sàn có lót thảm. Tôi rất sẵn lòng đổi tất cả những phần hào nhoáng ấy lấy một căn phòng không cần thắp đèn suốt ngày hay một căn phòng lót vải sơn chống thấm, vốn chịu được nước đổ và vết ố tốt hơn.

    Luật tiểu bang quy định rằng tôi phải có một trợ tá làm việc toàn thời gian vì số trẻ em bị rối loạn nghiêm trọng tôi phải chăm sóc đã đạt đến mức tối đa. Tôi đã rất hy vọng được cộng tác với một trong hai cô trợ tá rất thạo việc mà năm trước tôi đã cùng làm việc; nhưng không, tôi chỉ nhận được một người mới vào nghề. Ở chỗ chúng tôi, vốn nằm khá gần với bệnh viện tiểu bang, trại giam tiểu bang và một khu trại rộng lớn của dân nhập cư, danh sách những người nhận trợ cấp xã hội luôn dài dằng dặc. Hệ quả là những công việc chân tay thường được dành cho những người thất nghiệp trong danh sách của Ủy ban Xã hội. Mặc dù tôi không nghĩ vị trí trợ tá của mình là một công việc chân tay, nhưng ủy ban trợ cấp lại nghĩ vậy và ngay ngày khai giảng, tôi tiếp nhận một anh chàng cao to, bặm trợn mang hai dòng máu Mexico-Mỹ, nói tiếng Tây Ban Nha nhiều hơn tiếng Anh. Anton hai mươi chín tuổi và chưa tốt nghiệp trung học. Anh thú nhận anh chưa bao giờ làm công việc tiếp xúc với trẻ nhỏ và cũng không đặc biệt yêu thích việc đó. Rồi anh giải thích - nhưng cô biết đấy, cô phải nhận công việc họ giao cho, nếu không cô sẽ mất phúc lợi. Anh vừa thả thân hình to lớn xuống một chiếc ghế nhỏ xíu dành cho trẻ mẫu giáo, vừa nói rằng nếu công việc này diễn ra suôn sẻ, đây sẽ là lần đầu tiên anh ở lại phương Bắc suốt mùa đông thay vì theo những công nhân nhập cư khác di chuyển xuống California. Vậy là chúng tôi có hai người. Sau đó, khi năm học bắt đầu, tôi tìm được thêm một học sinh trung học mười bốn tuổi đồng ý dành hai tiếng mỗi ngày để đến hỗ trợ tôi. Với bấy nhiêu thứ, tôi đón lũ trẻ.

    Tôi không có kỳ vọng đặc biệt nào đối với tám đứa nhỏ này. Kinh nghiệm trong nghề đã khiến tôi không còn quá ngây thơ. Từ lâu tôi đã học được rằng ngay cả khi tôi sửng sốt hay thậm chí bị sốc thì cách tự vệ tốt nhất là không thể hiện điều đó ra ngoài. Như vậy an toàn hơn.

    Đứa đầu tiên đến lớp vào buổi sáng tháng Tám ấy là Peter. Peter là một cậu bé tám tuổi có mái tóc đen bù xù như rễ tre, vóc người to khỏe hoàn toàn trái ngược với hệ thần kinh bất ổn khiến cậu bé bị co giật nghiêm trọng và thường xuyên có những hành vi bạo lực. Peter hùng hổ lao vào phòng, luôn miệng la hét và chửi rủa. Thằng bé ghét trường học, ghét tôi, ghét lớp học này và có lẽ nó sẽ không ở lại căn phòng bẩn thỉu này lâu, và tôi cũng sẽ không thể giữ nó.

    Kế đến là Tyler, đứa khiến tôi giật mình khi biết đó là một bé gái. Con bé có mái tóc xoăn sẫm màu, khẽ nép vào sau lưng mẹ, đầu cúi gằm. Tyler cũng tám tuổi và đã hai lần tự sát. Lần vừa rồi, số thuốc chống ẩm mà con bé uống vào đã hủy mất một phần thực quản của nó. Lúc này con bé đang phải mang một ống dẫn nhân tạo ở cổ và rất nhiều vết sẹo do phẫu thuật còn ửng đỏ như một bằng chứng hùng hồn về thành tích của mình.

    Max và Freddie đều la hét khi bị lôi vào lớp. Max là một bé trai sáu tuổi tóc vàng mạnh khỏe, mắc chứng tự kỷ bẩm sinh. Thằng bé la khóc và vừa kêu quàng quạc, vừa vỗ tay lượn vòng khắp phòng. Mẹ cậu cho biết cậu luôn phản ứng hết sức bất ngờ và kỳ lạ trước những thay đổi. Bà nhìn tôi mệt mỏi, nhưng sự nhẹ nhõm khi được giải thoát khỏi thằng con quái gở trong vài giờ thể hiện rất rõ qua ánh mắt bà. Freddie bảy tuổi và nặng hơn 40kg. Quần áo cậu bé bó sát người, để lộ những ngấn mỡ. Khi được thả xuống sàn, cậu bé bắt đầu bớt khóc, bớt la hét, trên thực tế là ngồi một đống bất động. Một báo cáo cho biết cậu bé cũng bị tự kỷ. Một báo cáo khác thừa nhận không rõ nguyên nhân.

    Còn Sarah năm nay bảy tuổi, và tôi đã biết con bé từ ba năm trước. Tôi đã chăm sóc Sarah từ năm nó học mẫu giáo. Sarah là nạn nhân của nạn lạm dụng thể xác. Con bé tỏ ra ương bướng và nóng nảy. Năm học trước, khi được đưa vào lớp Một đặc biệt ở một ngôi trường khác, nó đã im lặng suốt năm học. Con bé tuyệt đối không trò chuyện với bất kỳ ai ngoài mẹ và chị gái. Chúng tôi mỉm cười khi gặp lại nhau, cả hai đều cảm thấy may mắn được gặp lại gương mặt quen thuộc.

    Một phụ nữ trung niên ăn mặc tinh tươm đưa một đứa nhỏ xinh xắn như búp bê vào. Trông cô bé xinh như những hình ảnh trên trang bìa tạp chí thời trang trẻ em, mái tóc vàng óng được chải chuốt cẩn thận, chiếc đầm xinh xắn sạch sẽ tươm tất. Con bé tên Susannah Joy, sáu tuổi và đây là lần đầu tiên bé đến trường. Tim tôi thắt lại. Được xếp vào lớp tôi khi lần đầu đặt chân đến trường không phải là một dấu hiệu tốt. Các bác sĩ nói với gia đình rằng bé Susannah sẽ không bao giờ cư xử như người bình thường, con bé bị tâm thần phân liệt từ nhỏ. Con bé có những ảo giác hết sức rõ ràng cả về thị giác và thính giác. Nó ủ rủ suốt ngày, hầu như chỉ ngồi đong đưa tới lui. Con bé hiếm khi lên tiếng và ngay cả khi nói thì những gì nó nói cũng chẳng mấy khi có ý nghĩa. Ánh mắt bà mẹ như thể van nài tôi thực hiện một nghi thức thần bí cần thiết nào đó để đưa con bà trở lại bình thường. Tim tôi nhói đau khi bắt gặp ánh mắt đau thương ấy. Nó thể hiện nỗi niềm không muốn tin vào sự thật. Tôi hiểu rõ nỗi đau đớn và xót xa đang chờ đón cha mẹ bé khi họ hiểu ra rằng không ai trong chúng tôi có được phép mầu để giúp Susannah của họ.

    Cuối cùng là William và Guillermo. Cả hai đều chín tuổi. William là một cậu bé cao gầy, xanh xao bị ám ảnh bởi nỗi sợ nước và bóng tối và xe ô tô và máy hút bụi và cả bụi dưới gầm giường. Để tự bảo vệ mình, William tập trung vào những nghi thức tỉ mỉ, lúc nào cũng cẩn thận phủi thân thể mình hay lầm bầm những câu thần chú. Guillermo là dân nhập cư gốc Mexico - một cộng đồng đông đảo cư dân làm việc trên những cánh đồng nước Mỹ. Cậu bé khá nóng tính nhưng chưa đến mức không thể kiểm soát. Không may, cậu lại bị khiếm thị nữa. Lúc đầu tôi rất bối rối khi cậu được đưa vào lớp tôi, nhưng họ nói với tôi rằng lớp dành cho trẻ khiếm thị không thể đối phó với những hành vi hung hăng của cậu. Ôi, tôi nghĩ thầm, thế thì tôi cũng có khác gì; tôi cũng không biết cách đối phó với tình trạng khiếm thị của thằng bé.

    Thế đấy, vậy là chúng tôi có mười người, và nếu thêm cả Whitney, cô học trò cấp hai tình nguyện đến giúp, chúng tôi có tất cả mười một người. Khi tôi lướt qua đám trẻ con hỗn tạp và nhìn lại nhóm giáo viên cũng hỗn tạp không kém, tôi cảm thấy tuyệt vọng não nề. Làm sao chúng tôi có thể trở thành một lớp học được? Làm sao tôi có thể dạy chúng làm toán hay đạt được những kỳ công khác chỉ trong chín tháng? Ba đứa không biết đi vệ sinh đúng chỗ, hai đứa phải đối mặt với tai biến. Ba đứa không biết nói, một đứa không thèm nói. Hai đứa không thể giữ yên lặng. Một đứa không thấy đường. Rõ ràng đây là một thử thách vượt hơn cả dự đoán của tôi.

    Nhưng chúng tôi cũng cố thu xếp. Anton học cách thay tã lót. Whitney học cách tẩy sạch nước tiểu trên thảm. Còn tôi học chữ nổi Braille(2). Còn thầy hiệu trưởng Collins học được một điều: không nên ghé qua dãy nhà phụ. Thầy Ed Somers cũng học được cách lánh mặt. Chúng tôi đã trở thành một lớp học như thế đấy.

    Đến kỳ nghỉ Giáng sinh, chúng tôi đã rất gắn bó với nhau và tôi bắt đầu hào hứng đón chờ từng ngày mới. Sarah bắt đầu trò chuyện thường xuyên hơn, Max học đánh vần, Tyler thỉnh thoảng mỉm cười, Peter không còn đột nhiên nổi nóng thường xuyên như trước, William đã có thể đi ngang qua tất cả những công tắc đèn trong hội trường để đến phòng ăn mà không tự yểm bùa để bảo vệ mình nữa, còn Guillermo đã hăm hở học chữ Braille. Vậy còn Susannah Joy và Freddie thì sao? À, chúng tôi vẫn đang phải nỗ lực với chúng.

    Tôi đã đọc mẩu tin đăng trên báo hồi cuối tháng Mười một và đã quên bẵng đi. Nhưng lẽ ra tôi không nên quên. Lẽ ra tôi phải biết rằng không sớm thì muộn, chúng tôi sẽ thành mười hai người.

    Ngay khi trường học mở cửa trở lại sau kỳ nghỉ Giáng sinh, thầy Ed Somers xuất hiện trong lớp tôi. Ông đến rất sớm, gương mặt hiền lành lộ vẻ áy náy khiến tôi bắt đầu lờ mờ nhận ra mình sắp gặp rắc rối. Đó là một nét mặt gắn liền với những chuyện như không tìm được người hướng dẫn đặc biệt cho riêng Guillermo, hay một báo cáo vô vọng khác từ vị bác sĩ mới nhất mà cha mẹ Susannah đã tìm đến. Ed muốn mọi việc khác đi, tôi hoàn toàn tin điều đó, và đó cũng chính là nguyên nhân khiến tôi không thể nổi nóng với ông được.

    Ông lên tiếng:

    - Lớp cô sắp nhận thêm một em nữa. - Gương mặt ông thể hiện rõ sự ngập ngừng.

    Tôi nhìn ông chằm chằm một lúc lâu, bối rối không hiểu. Tôi đã nhận số học sinh tối đa mà tiểu bang cho phép và không hề lường trước sẽ đón nhận thêm một học sinh nữa.

    - Thầy Ed, tôi đã có tám đứa rồi!

    - Tôi biết, Torey ạ. Nhưng đây là một trường hợp đặc biệt. Chúng tôi không có chỗ nào khác cho con bé. Lớp của cô là lựa chọn duy nhất của chúng tôi.

    Tôi vẫn lẩm bẩm:

    - Nhưng tôi đã có tám đứa rồi. Tôi chỉ có thể lo được bấy nhiêu thôi.

    Trông thầy Ed rất đau khổ. Ông là một người vạm vỡ, cao lớn và cơ bắp rắn chắc như một cầu thủ bóng bầu dục nhưng đã điểm thêm những nét mềm mại của tuổi trung niên. Tóc ông đã rụng gần hết, số còn lại được ông cẩn thận chải ngược lên mái đầu bóng láng. Nhưng trên tất cả, thầy Ed rất tốt bụng, và đó là lý do tôi không khỏi mềm lòng khi nhìn ông phải khổ tâm đến thế.

    Tôi ngập ngừng hỏi:

    - Đứa bé này có gì đặc biệt vậy?

    - Đây chính là đứa nhỏ đã thiêu cậu bé hàng xóm hồi tháng Mười một. Họ đuổi con bé khỏi trường và thu xếp để đưa nó đến bệnh viện tiểu bang. Nhưng ở đó lại chưa có khoa nhi. Cho nên con bé đã ở nhà một tháng nay và gặp đủ thứ rắc rối. Bây giờ các nhân viên xã hội lại hỏi tại sao chúng ta không làm gì cho con bé.

    Tôi hỏi:

    - Họ không thể để con bé ở nhà sao?

    Nhiều học trò của tôi từng phải học tại gia, tức là được một giáo viên đến nhà dạy khi trẻ không thể đến trường vì một lý do nào đó. Thông thường, một đứa trẻ bị rối loạn nghiêm trọng sẽ được xử lý theo cách này cho đến khi họ tìm được một nơi phù hợp cho trẻ.

    Thầy Ed cúi mặt chau mày:

    - Không ai muốn dạy đứa bé.

    Tôi thốt lên ngạc nhiên:

    - Nó chỉ sáu tuổi thôi mà! Họ sợ một đứa bé sáu tuổi ư?

    Ông nhún vai. Thật lạ là sự im lặng của ông khiến tôi hiểu về trường hợp này nhiều hơn bất kỳ lời nói nào.

    - Nhưng tôi đang phải xoay xở với tám đứa rồi, đó là số lượng tối đa rồi còn gì?

    - Vậy cô hãy chọn một đứa để chuyển đi. Torey, chúng ta phải đưa đứa trẻ này đến đây. Chỉ là tạm thời thôi. Cho đến khi bệnh viện tiểu bang mở ra một khoa phù hợp. Nhưng bây giờ chúng ta phải đưa nó đến đây. Đây là nơi duy nhất có thể thu xếp được cho con bé. Đây là nơi duy nhất thích hợp với nó.

    - Ý thầy là chỉ mình tôi đủ ngu ngốc để nhận nó! - Cô có thể chọn đứa nào cô muốn chuyển đi.

    - Khi nào con bé đến? - Ngày 8.

    Ngay lúc đó bọn trẻ đến lớp và tôi phải chuẩn bị cho ngày đầu tiên trở lại trường sau kỳ nghỉ lễ. Thầy Ed cũng cảm thấy tôi cần quay lại với công việc, nên ông gật đầu chào và quay đi. Ông biết rằng nếu cho tôi thời gian, tôi sẽ chấp nhận lời yêu cầu của ông. Thầy Ed biết rằng dù rất gan góc nhưng tôi cũng rất dễ bị thuyết phục.

    Sau khi cho Anton biết tin, tôi quay sang đám trẻ. Suốt ngày hôm đó, tôi luôn tự hỏi nên chuyển đứa nào đi. Guillermo là lựa chọn rõ ràng nhất, đơn giản vì tôi không đủ khả năng dạy cậu bé nhất. Nhưng còn Freddie và Susannah Joy thì sao? Không đứa nào có tiến bộ đáng kể cả. Ai cũng có thể kéo tai chúng đi vòng quanh và lột quần chúng. Hay có lẽ là Tyler. Giờ đây con bé không còn khuynh hướng tự sát nữa, nó rất ít khi nhắc đến việc tự sát, và con bé cũng thôi không còn vẽ những bức tranh bằng màu đen nữa. Chỉ cần một giáo viên khéo xoay xở một chút cũng có thể lo được cho con bé khá tốt. Tôi nhìn từng đứa một, băn khoăn không biết chúng sẽ đi về đâu và sẽ ra sao. Và lớp học của chúng tôi sẽ ra sao nếu thiếu chúng. Từ trong sâu thẳm, tôi biết rằng không đứa nào chịu nổi sự khắc nghiệt của bất kỳ một lớp học nào nếu chúng không thể coi nơi đó là nơi ẩn náu của mình. Chưa đứa nào sẵn sàng cho việc đó. Mà tôi cũng chưa sẵn sàng đưa chúng đi, hay từ bỏ chúng.

    Tôi cầm ống nghe chặt hơn vì nó cứ trơn tuột trong lòng bàn tay đẫm mồ hôi:

    - Thầy Ed ạ? Tôi không muốn chuyển đứa nào đi cả. Chúng tôi hợp tác với nhau rất tốt. Tôi không thể chọn được đứa nào cả.

    - Torey, tôi đã nói với cô rằng chúng ta phải nhận bé gái đó. Tôi thật sự rất tiếc. Tôi rất ghét phải làm thế này với cô, nhưng không có chỗ nào khác cả.

    Tôi rầu rĩ nhìn tấm bảng thông báo bên cạnh cái điện thoại với chi chít thông tin về các sự kiện mà học trò tôi không bao giờ có thể tham dự. Tôi cảm thấy mình bị lợi dụng.

    - Tôi có thể nhận cả chín đứa được không?

    - Cô nhận cả chín đứa?

    - Làm vậy là trái luật. Tôi có được thêm một trợ tá không?

    - Chúng tôi sẽ xem xét.

    - Vậy tức là được hả?

    - Tôi hy vọng là được. Nhưng chúng tôi phải xem đã. Cô có cần thêm bàn không?

    - Tôi chỉ cần thêm một giáo viên nữa, hoặc là một cái phòng khác cũng được.

    - Nhưng cô cần thêm bàn không?

    - Không! Tôi không cần thêm bàn. Phòng đã không đủ chỗ cho tám đứa đầu tiên rồi. Chúng tôi chỉ toàn ngồi trên thảm hay trên bàn dài thôi. Tôi không cần thêm bàn. Thầy cứ đưa đứa bé ấy đến đây.





    Còn nữa...
     
    Chỉnh sửa cuối: 23 Tháng sáu 2018
  5. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    CHƯƠNG 2

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày tám tháng Giêng, con bé xuất hiện. Từ lúc tôi đồng ý nhận con bé cho đến buổi sáng con bé đến lớp, tôi không hề nghe tin tức gì, không nhận được hồ sơ nào, cũng không có được thông tin cơ bản nào. Tất cả những gì tôi biết được là những điều tôi đã đọc trong mẩu tin ngắn chỉ có 2 đoạn nằm dưới mục tranh vẽ trên trang sáu từ một tháng rưỡi trước. Nhưng tôi nghĩ điều đó không quan trọng, vì dù sao thì tôi cũng không thể chuẩn bị đầy đủ để đón nhận những gì sắp xảy đến.

    Thầy Ed Somers đưa con bé đến. Thầy nắm chặt cổ tay con bé và kéo nó đi theo sau. Thầy Collins cũng đến dãy nhà phụ cùng thầy Ed. Thầy

    Ed nói với con bé:

    - Đây là cô giáo mới của con. Và đây sẽ là lớp học mới của con.

    Chúng tôi nhìn nhau. Tên con bé là Sheila. Con bé gần được sáu tuổi rưỡi, một bé gái nhỏ nhắn với mái tóc rối bù, ánh mắt thù địch và cơ thể bốc mùi kinh khủng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy nó quá nhỏ. Tôi cứ nghĩ con bé phải lớn hơn. Có lẽ nó chỉ cao bằng một đứa bé ba tuổi. Con bé mặc chiếc quần yếm bằng vải bông cũ sờn và một chiếc áo thun sọc dành cho bé trai đã bạc màu, trông hệt như mấy đứa bé xuất hiện trong những chương trình tuyên truyền Hãy cứu lấy trẻ em.

    - Chào con, cô tên là Torey.

    Tôi nói bằng giọng thân thiện nhất và đưa tay nắm lấy tay con bé. Nhưng con bé không phản ứng gì cả. Cuối cùng tôi đành đón lấy cánh tay buông thõng của nó từ Ed.

    - Đây là chị Sarah. Chị là người tiếp đón học sinh của lớp mình. Chị ấy sẽ chỉ con mọi thứ chung quanh.

    Sarah đưa tay ra nhưng Sheila vẫn dửng dưng bất động, ánh mắt nhìn thẳng vào từng người chúng tôi. Sarah nắm lấy cổ tay con bé:

    - Lại đây nào, nhóc.

    Tôi lên tiếng:

    - Cô bé tên Sheila.

    Nhưng Sheila phản ứng đầy giận dữ trước những cử chỉ thân mật ấy và giật mạnh tay lại, bước lùi ra sau. Con bé xoay người bỏ chạy nhưng thật may mắn, thầy Collins đang đứng ngay cửa ra vào và con bé lao thẳng vào người ông. Tôi tóm lấy cánh tay và lôi con bé trở lại phòng học.

    Thầy Ed nói với vẻ lấy làm tiếc:

    - Chúng tôi sẽ để cho cô trò làm quen với nhau. Tôi đã để hồ sơ của con bé trong văn phòng cho cô.

    Ngay khi thầy Ed và thầy Collins đi khỏi, Anton lập tức đóng cửa lại và khóa trái. Tôi lôi Sheila đến chỗ ngồi của tôi, nơi chúng tôi vẫn tụ tập cùng nhau để trò chuyện mỗi buổi sáng rồi đặt con bé xuống sàn nhà ngay phía trước tôi. Mấy đứa khác thận trọng tiến về phía chúng tôi. Giờ đây chúng tôi có mười hai người.

    Chúng tôi luôn bắt đầu buổi sáng với màn "trò chuyện". Trường chúng tôi thường tổ chức tuyên thệ trước cờ và hát quốc ca trước giờ học, nhưng tôi cảm thấy chủ nghĩa yêu nước không phải là một chủ đề thích hợp với những đứa trẻ thậm chí không thể bộc lộ những nhu cầu cơ bản của mình. Thế nên tôi đã thu xếp và tổ chức những buổi trò chuyện gần gũi hơn. Bọn trẻ đều xuất thân từ những gia đình phức tạp và bị tan vỡ nên mỗi buổi sáng chúng tôi cần làm gì đó để hòa hợp với nhau dễ dàng hơn sau một đêm chia cách. Tôi cũng muốn làm gì đó để khuyến khích sự trao đổi và phát triển kỹ năng nghe hiểu của chúng. Trước tiên chúng tôi tiến hành tuyên thệ và tôi tận dụng điều đó rất hiệu quả bằng cách cho một đứa chịu trách nhiệm dẫn đầu, nghĩa là buộc cậu nhóc phải học thuộc lời tuyên thệ. Ngay cả việc học thuộc này cũng rất có ích vì nó sắp xếp từ ngữ theo một trật tự nhất định và có nghĩa. Sau đó tôi bắt đầu trò chuyện theo một "chủ đề". Chúng tôi thường thảo luận về những chủ đề có liên quan đến cảm xúc, chẳng hạn như nói về những điều khiến chúng ta vui vẻ, thoải mái, hay những chủ đề giúp bọn trẻ cùng nhau trao đổi cách giải quyết một vấn đề nào đó, chẳng hạn như ta sẽ làm gì khi thấy một người tự làm mình tổn thương. Những chủ đề gần gũi như vậy khiến mọi người dễ dàng tham gia vào câu chuyện hơn. Lúc đầu, tôi phải đưa ra chủ đề nhưng sau một hai tháng, bọn trẻ bắt đầu đề nghị những chủ đề chúng thích và lâu lắm rồi tôi không còn phải mở đầu buổi trò chuyện nữa.

    Sau khi trò chuyện theo chủ đề, tôi dành cho mỗi đứa một khoảng thời gian để kể về những gì xảy ra với chúng sau giờ tan học vào ngày hôm trước. Hai cách thảo luận này vào buổi trò chuyện mỗi sáng ngày càng sống động hơn, ngay đến Susannah thỉnh thoảng cũng nói những câu có nghĩa. Bọn trẻ đều có rất nhiều điều muốn nói và nhiều hôm tôi phải khó khăn lắm mới chấm dứt được hoạt động này. Sau đó, tôi vạch ra một thời gian biểu trong ngày và chúng tôi kết thúc bằng một bài hát. Tôi có một kho những bài hát vui nhộn có thể hát ngẫu hứng chứ không cần thuộc giai điệu và tôi thường kéo tụi nhóc nhảy nhót theo tôi. Bọn trẻ rất thích như vậy và khi kết thúc, tất cả chúng tôi đều cười lăn ra, ngay cả trong những ngày chúng tôi không mấy vui vẻ khi đến lớp.

    Sáng hôm nay, tôi cũng tập họp bọn trẻ lại:

    - Các con, đây là bạn Sheila, bạn ấy sẽ vào học lớp chúng ta.

    Peter ngờ vực:

    - Vậy là sao? Cô đâu có nói chúng ta sẽ có thêm một bạn gái đâu.

    - Có mà Peter. Con có nhớ thứ Sáu tuần trước chúng ta đã chuẩn bị những gì sẽ giới thiệu với Sheila để bạn ấy biết chúng ta rất vui khi có bạn ấy tham gia vào lớp học không? Con có nhớ chúng ta đã làm gì không?

    Peter trả lời:

    - Con không vui khi bạn ấy tham gia vào lớp học. Con chỉ thích lớp chúng ta như bây giờ thôi.

    Rồi cậu bé đưa tay lên bịt tai để không nghe tôi nói và bắt đầu lắc lư thân người.

    Tôi khẽ vỗ nhẹ vai Sheila, con bé giật mạnh vai tránh đi.

    - Cô nghĩ là các con cần phải làm quen. Nào, ai có chủ đề gì nào?

    Tất cả ngồi vây quanh tôi trên sàn nhà. Không đứa nào lên tiếng.

    - Không ai có chủ đề nào hả? Nếu vậy, cô có một chủ đề này: các con sẽ cảm thấy như thế nào khi các con vừa vào lớp và các con không biết ai, hay khi các con muốn tham gia vào một nhóm mà không ai muốn con tham gia? Việc đó sẽ mang lại cảm giác như thế nào?

    Guillermo trả lời:

    - Tệ lắm. Có lần con đã bị như vậy và con cảm thấy rất tệ.

    Tôi gặng hỏi:

    - Con có thể kể cho mọi người nghe không?

    Đột nhiên Peter đứng bật dậy:

    - Cô ơi, bạn ấy hôi quá. Cậu bé lùi ra xa Sheila.

    - Bạn ấy hôi khủng khiếp và con không muốn bạn ấy ngồi chung với chúng ta. Bạn ấy sẽ làm con hôi rình cho xem.

    Sheila lườm cậu bé nhưng không hề lên tiếng hay nhúc nhích. Con bé co người lại, ngồi thành một đống nhỏ, đôi tay quấn chặt quanh đầu gối.

    Sarah cũng đứng lên tiến lại chỗ Peter mới ngồi xuống.

    - Cô Torey, nó hôi thật. Nghe như mùi nước tiểu ấy.

    Cư xử lịch thiệp chắc chắn không phải là sở trường của chúng tôi. Tôi không hề ngạc nhiên vì sự thiếu tế nhị ấy, nhưng cũng như mọi khi, tôi cảm thấy xuống tinh thần ghê gớm. Không thể buộc chúng không được nói ra những nhận xét hết sức ngây thơ về thế giới chung quanh. Mỗi khi tiến thêm một bước trong việc dạy chúng cách cư xử lịch sự, tôi phải lùi lại hai bước và lệch đi sáu bước.

    - Peter, con sẽ cảm thấy thế nào nếu có người nói con hôi rình?

    Peter trả đũa:

    - Nhưng mà bạn ấy hôi thật mà!

    - Cô không hỏi chuyện đó. Cô hỏi con cảm thấy thế nào nếu có ai nói con như vậy?

    - Chắc chắn là con không muốn mọi người phải bỏ chạy ra khỏi lớp vì con hôi quá.

    - Đó cũng không phải điều cô hỏi con.

    Tyler nhanh nhảu quỳ lên:

    - Con sẽ cảm thấy bị tổn thương.

    Bất kỳ dấu hiệu của sự giận dữ hay bất đồng ý kiến nào cũng khiến Tyler sợ chết khiếp và khiến con bé trở nên hết sức nhún nhường, hòa hoãn, hành động ra vẻ rất già dặn so với tuổi lên tám và tỏ vẻ ủi an những ai đang bất đồng ý kiến.

    Tôi hỏi Sarah:

    - Còn con thì sao, Sarah? Con sẽ cảm thấy thế nào?

    Sarah nhìn xuống mấy đầu ngón tay của mình, e dè không nhìn thẳng vào tôi.

    - Con sẽ cảm thấy không tốt lắm.

    - Cô nghĩ sẽ không ai cảm thấy thích như thế. Vậy có cách nào khác để giải quyết vấn đề này không nào?

    William đề nghị:

    - Cô có thể nói riêng với bạn ấy rằng bạn ấy hôi quá. Như vậy bạn ấy sẽ không bị xấu hổ.

    Guillermo thêm vào:

    - Cô có thể nói bạn ấy không cần phải xấu hổ.

    Peter nói:

    - Tất cả chúng ta có thể bịt mũi lại.

    Cậu bé không hoàn toàn chấp nhận rằng cư xử như vừa rồi là không phải phép.

    William nói:

    - Làm vậy không được đâu Peter. Lúc đó cậu không thể thở được.

    - Được chứ. Cậu có thể thở bằng miệng mà!

    Tôi bật cười:

    - Nào, mọi người hãy thử làm theo đề nghị của Peter xem. Peter, con cũng làm đi.

    Tất cả bọn trẻ ngoại trừ Sheila đều bịt mũi lại và thở bằng miệng. Tôi giục Sheila làm theo, nhưng con bé kiên quyết không nhúc nhích. Đến một lúc, tất cả chúng tôi - kể cả Freddie và Max - đều bật cười vì vẻ mặt ngộ nghĩnh của mọi người. Tất cả, ngoại trừ Sheila. Tôi bắt đầu lo rằng con bé sẽ xem việc này như một trò cười nhắm vào mình và vội vã giải thích rằng không phải như thế. Con bé làm ngơ tôi, thậm chí không nhìn tôi. Tôi nói với còn bé rằng đây là cách chúng ta giải quyết vấn đề.

    Cuối cùng tôi hỏi con bé:

    - Con cảm thấy việc này thế nào?

    Một khoảng yên lặng kéo dài chứa đựng sự chờ đợi của tất cả chúng tôi. Mấy đứa trẻ khác bắt đầu cảm thấy mất kiên nhẫn.

    Guillermo hỏi:

    - Bạn ấy không nói chuyện ạ?

    Sarah gợi ý:

    - Lúc trước tớ cũng không nói chuyện, nhớ không? Hồi tớ lên cơn giận dữ, tớ cũng không nói chuyện với ai cả.

    Rồi con bé nhìn sang Sheila:

    - Sheila này, tớ cũng từng không nói chuyện. Thế nên tớ rất hiểu cảm giác đó.

    - Nào các con, cô nghĩ là chúng ta tập trung vào Sheila bấy nhiêu là đủ rồi. Chúng ta hãy dành cho bạn ấy một chút thời gian để làm quen, được không nào?

    Chúng tôi lại tiếp tục buổi trò chuyện sáng đang dở dang và kết thúc bằng giai điệu sôi nổi của bài "You are my sunshine". Freddie vỗ tay đầy hoan hỉ, Guillermo giơ tay bắt nhịp cho mọi người, Peter cố gắng hát to hết sức mình còn tôi điều khiển Tyler như điều khiển một con búp bê. Nhưng Sheila chỉ ngồi đó, gương mặt lạnh băng, cơ thể nhỏ bé ngồi một đống ngay giữa những người đang nhảy múa.

    Sau buổi trò chuyện, chúng tôi tản ra để làm bài tập toán. Anton đưa bọn trẻ về góc nhà còn tôi dắt Sheila đi nhìn quanh căn phòng. Nói cho đúng ra, tôi không giới thiệu gì với con bé cả. Tôi phải bế con bé lên và bồng đi khắp phòng vì nó chẳng thèm nhúc nhích lấy một chút. Tôi cảm thấy thật may mắn khi không dạy lớp dành cho thanh thiếu niên. Đến khi tôi bồng con bé đến nơi tôi muốn nó xem, con bé lại lấy tay che mặt lại, không chịu nhìn. Mặc kệ, tôi vẫn cứ kéo con bé đi vòng quanh, buộc con bé phải trở thành một thành viên của lớp. Tôi chỉ con bé chỗ dành riêng cho nó và nơi nó treo áo. Tôi giới thiệu con bé với chú kỳ đà Charles, chú rắn Benny và chú thỏ Onions. Tôi còn nói là thỏ Onions sẽ cắn nếu con bé làm phiền nó quá. Tôi chỉ con bé những cây con mà chúng tôi đã trồng trước lễ Giáng sinh - tôi đã phải đến trường trong những ngày nghỉ để tưới nước cho chúng, những quyển truyện mà chúng tôi sẽ đọc trước giờ ăn trưa hàng ngày và cả đống bát đĩa chúng tôi vẫn dùng vào những buổi nấu ăn chiều thứ Tư. Tôi chỉ con bé xem hồ cá và đồ chơi của chúng tôi. Tôi bồng con bé cao lên để ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài từ ô cửa sổ duy nhất trong phòng. Để hoàn thành tất cả những việc đó, tôi phải kéo lê con bé khắp nơi và liến thoắng chuyện trò như thể con bé rất thích thú lắng nghe những điều tôi nói. Nhưng dù con bé có thích chăng nữa, nó cũng không thể hiện cho tôi biết. Con bé vẫn chỉ là một khối nặng bất động trong tay tôi, co quắp và căng thẳng tựa vào người tôi. Và con bé hôi như một cái nhà xí bốc mùi vào một chiều tháng Bảy oi nồng.

    Cuối cùng, tôi đặt Sheila vào chiếc ghế cạnh bàn và lấy bài tập toán ra. Việc này đánh thức phản ứng đầu tiên của con bé. Con bé tóm lấy tờ giấy, vo tròn lại rồi ném về phía tôi. Tôi lấy ra một tờ khác. Con bé lại tóm lấy, vo tròn, ném về phía tôi. Tôi lại lấy một tờ nữa. Tờ giấy lại bay vào mặt tôi. Tôi biết tôi sẽ hết giấy trước khi con bé mệt mỏi hay chán ngấy trò này. Thế là tôi bồng nó đặt vào lòng mình, một tay ôm quanh thân hình mảnh dẻ của nó để nó không thể vói tay ra. Tôi lại đặt một bài tập toán xuống. Chỉ là phép cộng đơn giản: hai cộng một, một cộng bốn, chẳng có gì quá khó. Tôi dùng tay còn lại lấy một khay đầy những khối vuông đổ ra bàn.

    Tôi giảng giải:

    - Được rồi, giờ chúng ta làm toán nào. Trước tiên: hai cộng một.

    Tôi đưa con bé hai khối vuông và thêm vào một khối thứ ba.

    - Vậy là bao nhiêu? Chúng ta đếm xem nào.

    Con bé quay mặt sang chỗ khác, người căng cứng lại trong lòng tôi.

    - Con biết đếm không, Sheila? Không có phản ứng.

    - Nào, để cô giúp con nhé! Một, hai, ba... Hai cộng một là ba.

    Tôi cầm viết chì lên:

    - Đây này, chúng ta sẽ điền vào giấy.

    Mỗi cử động là một cuộc đấu tranh. Tôi phải lôi một tay con bé ra, duỗi mấy ngón tay nó ra rồi đặt viết chì vào đó. Nhưng rồi những ngón tay đang nắm rất chặt ấy đột nhiên mất hết sức lực, buông lỏng và cây viết chì tuột ra, rơi xuống sàn. Ngay lúc tôi cúi xuống để nhặt cây viết chì thì con bé đã dùng một tay còn tự do để tóm lấy hai khối vuông ném đi thật mạnh. Tôi tóm lấy bàn tay, nhét cây viết chì vào đó lần nữa và cố gắng nắm tay con bé lại quanh cây viết, đồng thời vẫn giữ nó trong tay tôi để con bé không thả cây viết rớt xuống lần nữa. Tuy nhiên con bé đã đẩy tôi vào tình thế rất bất lợi: tôi thuận tay trái và đã buộc phải dùng tay đó để giữ chặt con bé trong lòng mình. Khi phải dùng tay không thuận để thực hiện những cử động phức tạp kia, tôi không thể làm nhanh. Thậm chí có lẽ ngay cả tay trái của tôi cũng sẽ không đủ nhanh. Con bé rất giỏi trong cuộc chiến nho nhỏ này và cây viết chì lại rơi xuống. Sau một hồi cố gắng nữa, tôi đành bỏ cuộc.

    - Rõ ràng con chưa muốn học toán. Được rồi, con có thể ngồi đây. Cô muốn con biết rằng mọi người ở đây đều phải làm việc của mình và phải cố hết sức. Nhưng chúng ta sẽ không ép buộc gì cả. Nếu con muốn ngồi, con cứ ngồi.

    Tôi lôi con bé vào góc phòng, nơi tôi vẫn thường cách ly bọn trẻ khi chúng quá phấn khích và cần lấy lại tự chủ hay khi chúng tỏ ra thật thê thảm để đòi hỏi được chú ý đến. Tôi kéo ghế lại và đặt Sheila vào đó. Rồi tôi quay lại với mấy đứa khác.

    Một lúc sau, tôi nhìn lên:

    - Sheila, nếu con muốn tham gia cùng các bạn, con có thể qua đây.

    Con bé ngồi yên, mặt quay vào tường và không hề nhúc nhích. Tôi cứ để con bé ngồi đó. Một lát sau, tôi lại hỏi dò lần nữa. Rồi lát sau lại hỏi nữa. Rõ ràng con bé không muốn làm theo những gì tôi nói. Tôi bước đến, khiêng chiếc ghế đặt vào giữa phòng. Rồi tôi lại quay lại với mấy đứa khác. Nếu con bé muốn ngồi, cứ ngồi. Tuy vậy, tôi sẽ không để con bé tự cô lập mình. Nếu con bé muốn ngồi, nó sẽ ngồi ngay giữa chúng tôi.

    Buổi sáng của chúng tôi vẫn diễn ra như lệ thường. Sheila không tham gia vào bất cứ hoạt động nào. Khi đã ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế gỗ nhỏ xíu ấy, con bé không hề nhúc nhích mà chỉ co người, gập đầu gối lại đến tận cằm rồi vòng tay quanh đó. Có một lần con bé leo xuống ghế để đi vệ sinh nhưng nhanh chóng quay lại chỗ ngồi của mình và lại tiếp tục ngồi co ro như thế. Ngay cả trong giờ giải lao con bé cũng ngồi như thế, chỉ khác là ngồi trên sàn xi măng lạnh ngắt. Tôi chưa từng gặp một đứa bé nào bất động đến mức đó. Thế nhưng đôi mắt con bé lại luôn dõi theo tôi. Ánh mắt đong đầy những ủ ê, giận dữ và cay đắng dường như không bao giờ rời khỏi tôi.

    Đến giờ ăn, Anton giúp bọn trẻ chuẩn bị di chuyển qua dãy nhà phụ để đến căng tin. Sheila cũng bị lôi vào hàng nhưng tôi đã đến bên con bé, nắm lấy cánh tay mảnh khảnh của nó và kéo ra khỏi hàng. Chúng tôi chờ cho đến khi mọi người đi khỏi. Tôi nhìn con bé, và nó cũng ngước mắt nhìn tôi. Tôi tin rằng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi đã thấy những cảm xúc không phải thù ghét thoáng qua đôi mắt ấy, một cảm xúc không phải giận dữ. Sợ hãi chăng?

    - Lại đây với cô nào.

    Tôi lôi con bé đến bàn và đặt nó ngồi trên ghế đối diện với tôi.

    - Cô trò mình cần nói chuyện thẳng thắn với nhau.

    Con bé trừng mắt nhìn tôi, đôi vai nhỏ xíu co lại dưới lớp áo cũ sờn.

    - Trong căn phòng này, chúng ta không có nhiều quy định lắm. Thật ra chỉ có hai quy định, ngoại trừ những quy định đặc biệt vào những thời điểm nhất định. Nhưng nói chung chỉ có hai quy định thôi. Một là con không được làm tổn thương ai ở đây. Bất kỳ ai. Và kể cả chính con nữa. Hai là con phải luôn cố gắng hết sức làm tốt nhiệm vụ của mình. Đó là quy định mà cô nghĩ là con chưa hiểu rõ.

    Con bé khẽ cúi đầu nhưng vẫn nhìn chằm chằm vào tôi. Đôi chân con bé co lại, và một lần nữa, con bé lại bắt đầu ngồi co rúm người.

    - Con biết không, một trong những việc con phải làm ở đây là trò chuyện. Cô biết là khi con không quen làm việc đó, nó sẽ rất khó khăn. Nhưng ở đây con phải trò chuyện, đó là một phần nhiệm vụ con cần phải làm thật tốt. Lần đầu tiên luôn là lần khó khăn nhất, thậm chí đôi khi nó khiến con muốn khóc. Không sao, việc đó là bình thường ở đây. Nhưng con phải nói chuyện. Không sớm thì muộn rồi con cũng phải nói. Nếu con chịu nói chuyện sớm thì tốt hơn.

    Tôi nhìn con bé, cố giữ ánh mắt thản nhiên như nó.

    - Con hiểu cô nói gì không?

    Mặt con bé đanh lại giận dữ. Tôi cảm thấy lo sợ về những gì có thể xảy ra nếu những hận thù chất chứa trong con bé bộc phát ra, nhưng tôi cố gắng ghìm nỗi sợ đó lại, không để nó hiện lên trong mắt tôi. Con bé có năng khiếu đọc ánh mắt rất giỏi.

    Tôi luôn cảm thấy việc đặt ra những kỳ vọng cho học trò của mình là một việc hết sức cần thiết. Một số đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ sự thẳng thắn mà tôi đối với học trò của mình. Họ muốn bảo vệ cái tôi yếu đuối của chúng. Tôi không đồng ý. Mặc dù tất cả chúng đều là những sinh linh nhỏ bé bị chà đạp nhưng không đứa nào yếu đuối. Hoàn toàn ngược lại là khác. Thực tế là chúng đã sống sót đến ngày hôm nay sau những gì đã phải trải qua chính là minh chứng cho sức mạnh của chúng. Tuy vậy, bọn trẻ đều có cuộc đời sóng gió và chính sự rối loạn của chúng mang đến rắc rối cho người khác. Tôi cảm thấy mình không có quyền khiến mọi thứ thêm phức tạp bằng cách bắt bọn trẻ phải đoán xem tôi mong muốn điều gì ở chúng. Tôi nhận thấy việc thiết lập lộ trình là một phương pháp hữu dụng và hiệu quả với tất cả các em vì nó xóa bỏ sự mơ hồ trong mối quan hệ của chúng tôi. Rõ ràng bọn trẻ đã cho thấy là mình không thể xoay xở tốt nếu không được giúp đỡ, nếu không chúng đã không phải vào lớp tôi. Ngay khi bọn trẻ có thể tự xoay xở, tôi sẽ bắt đầu quá trình truyền sức mạnh cho chúng. Nhưng trong giai đoạn đầu, tôi muốn bọn trẻ hiểu rõ tôi mong đợi điều gì ở chúng.

    Tôi và Sheila ngồi im lặng bất động trong khi con bé sắp xếp lại những thông tin vừa nghe. Tôi không đủ nhẫn nại để cứ ngồi nhìn con bé mãi, mà thật ra tôi cũng cảm thấy không cần thiết phải làm thế. Thế là một lúc sau, tôi đứng lên và đi lấy xấp bài tập toán.

    Bỗng con bé lên tiếng:

    - Cô không thể bắt con nói.

    Tôi vẫn tiếp tục lục lọi trong mớ bài tập để tìm cây viết đỏ. Ba phần tư bí quyết của một giáo viên giỏi là canh đúng thời điểm.

    - Con vừa nói là cô không thể bắt con nói.

    Không thể, không cách nào cô làm được vậy.

    Tôi nhìn con bé.

    - Cô không thể bắt con nói.

    Tôi mỉm cười:

    - Đúng vậy, cô không thể. Nhưng con sẽ nói.

    Đó là một trong những nhiệm vụ của con ở đây.

    - Con không thích cô.

    - Con không cần phải thích cô.

    - Con ghét cô.

    Tôi không trả lời. Đó là một trong những câu nói mà tôi thấy tốt nhất là không nên trả lời. Thế là tôi tiếp tục tìm cây viết, thầm thắc mắc không biết lần này đứa nào đã cầm đi mất.

    - Cô không thể bắt con làm bất cứ điều gì ở đây hết! Cô không thể bắt con nói.

    - Có lẽ là không.

    Tôi đặt mấy tờ bài tập trở lại vào rổ bài và bước đến bên con bé:

    - Chúng ta đi ăn trưa chứ?

    Tôi giơ tay ra cho con bé. Dường như một phần giận dữ trong con bé đã tan biến, thay vào đó là một cảm xúc rất khó nhận ra. Tôi không cần giục thêm lần nào nữa, con bé leo xuống ghế và đi theo tôi, cẩn thận tránh không chạm vào tôi.




    Còn nữa...
     
    Chỉnh sửa cuối: 23 Tháng sáu 2018
  6. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    CHƯƠNG 3

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau khi đưa Sheila đến phòng ăn, tôi về văn phòng nghỉ ngơi và xem hồ sơ của con bé. Tôi muốn biết người ta đã làm gì với đứa bé khó hiểu này. Khi quan sát con bé, rõ ràng nó không bị khiếm khuyết hay rối loạn lạ lùng nào như Max và Susannah. Ngược lại, con bé có thể kiểm soát hành vi của mình hết sức giỏi, giỏi hơn hầu hết những học trò trong lớp tôi. Ẩn sâu trong đôi mắt đầy thù hằn ấy, tôi nhìn thấy một cô bé tinh tế và có vẻ rất thông minh. Con bé đã phải loay hoay trong thế giới này bằng một nỗ lực hoàn toàn có ý thức. Và tôi muốn biết người ta đã từng thử những cách nào với nó.

    Dù đã trải qua một hành trình dài trước khi đến tay tôi, nhưng xấp hồ sơ của con bé mỏng đến đáng ngạc nhiên. Hầu hết học sinh của tôi đều có những tập hồ sơ dày, đầy giấy tờ và những ý kiến dài dòng của hàng chục bác sĩ và chuyên gia rồi thẩm phán cùng nhân viên xã hội... Mỗi khi đọc một hồ sơ như thế, tôi lại nhận thấy rất rõ rằng họ chưa từng chăm sóc một đứa trẻ nào trong vài tiếng đồng hồ liền, chứ đừng nói là trong vài ngày. Ngôn từ trong đó rất uyên thâm mạch lạc, nhưng nó không giúp một giáo viên tuyệt vọng hay một phụ huynh đang lo sợ biết phải làm gì. Tôi chẳng tin tưởng những người đã viết ra những lời đó. Trong thực tế, mỗi một đứa trẻ đều rất khác nhau và phát triển theo một cách không thể đoán trước. Sẽ không một cuốn sách hay khóa học nào được thiết kế riêng cho trường hợp của Max hay của William hay của Peter.

    Thế nhưng hồ sơ của Sheila lại rất mỏng, chỉ có vài mảnh giấy: một tờ tiểu sử gia đình, kết quả xét nghiệm và mẫu đơn của Sở Phúc lợi Đặc biệt. Tôi lướt qua báo cáo của Sở Lao động Xã hội về gia đình con bé. Cũng như nhiều học sinh khác trong lớp tôi, báo cáo này chứa đầy những chi tiết khủng khiếp đến nỗi dù đã có nhiều kinh nghiệm nhưng tôi gần như không thể hiểu hết. Sheila sống một mình với cha trong một lán trại tạm bợ ở khu trại của dân nhập cư. Trong nhà không có lò sưởi, không điện nước. Mẹ con bé đã bỏ rơi nó hai năm trước nhưng lại mang theo đứa em trai. Báo cáo cho biết hiện giờ mẹ con bé đang sống ở California mặc dù không ai biết chính xác nơi ở của cô. Người mẹ chỉ mười bốn tuổi khi Sheila chào đời, hai tháng sau một vụ cưỡng hôn, trong khi cha con bé lại đến ba mươi tuổi. Tôi khẽ lắc đầu không thể tin nổi. Đến nay người mẹ chắc cũng chỉ hai mươi tuổi, gần như chính cô vẫn còn là một đứa trẻ.

    Trong những năm đầu đời của Sheila, phần lớn thời gian cha con bé phải ngồi tù vì tội hành hung người khác. Từ sau khi được thả ra vào hai năm rưỡi trước, ông lại phải nằm trong bệnh viện tiểu bang vì nghiện rượu và ma túy. Sheila được họ hàng và bạn bè của gia đình, hầu hết là từ bên mẹ con bé, thay nhau chăm sóc trước khi bị bỏ rơi bên đường, nơi người ta tìm thấy con bé đang bám vào dải phân cách trên xa lộ. Sheila, khi đó vừa lên bốn, được đưa đến trung tâm thanh thiếu niên và người ta thấy con bé bị xây xước khắp người; ngoài ra còn có nhiều chỗ xương gãy đã lành, hậu quả của việc bị hành hạ. Con bé được đưa về cho cha chăm sóc và một nhân viên bảo vệ trẻ em được giao nhiệm vụ theo dõi trường hợp của em.

    Phán quyết của tòa án kèm trong hồ sơ nói rằng vị thẩm phán thấy tốt nhất là trả em về với gia đình thật sự của mình. Một bác sĩ được chỉ định của hạt ghi chú bên dưới rằng vóc người nhỏ bé của em có lẽ là hệ quả của tình trạng thiếu dinh dưỡng, ngoài ra con bé hoàn toàn là một bé gái da trắng khỏe mạnh có nhiều vết sẹo và xương gãy đã lành lặn. Bên dưới bản đánh giá đó còn có ghi chú của một chuyên gia tâm thần học đang làm cố vấn của hạt, phần ghi chú chỉ có vỏn vẹn một dòng: lệch lạc mãn tính thời niên thiếu. Tôi không nén được cười. Gã này đã đưa ra một kết luận thật là khôn khéo làm sao. Có ích cho chúng tôi làm sao. Phản ứng bình thường duy nhất đối với một tuổi thơ như của Sheila hẳn nhiên
    phải là lệch lạc mãn tính. Nếu ai có thể thích nghi với một cuộc sống tệ hại như thế, thì hẳn là người đó bị thần kinh.

    Kết quả xét nghiệm thậm chí còn mù mờ hơn. Bên cạnh mỗi mục trong phần bạo hành chỉ là một chữ in đậm khiến người đọc nản lòng: bị từ chối. Phần nhận xét chung chỉ ghi rằng họ không thể kiểm tra con bé được và gạch dưới chi tiết đó đến hai lần.

    Bảng câu hỏi của Sở Phúc lợi Đặc biệt chỉ có phần lý lịch nhân thân. Cha con bé đã điền phần nội dung vào nhưng ông lại ở tù trong suốt những năm tháng cay nghiệt đó. Con bé chào đời hoàn toàn bình thường tại một bệnh viện địa phương. Không có thông tin gì về sự phát triển giai đoạn đầu đời của con bé. Con bé đã chuyển đến ba ngôi trường khác nhau trong con đường học tập ngắn ngủi của mình, không tính đến ngôi trường hiện nay. Tất cả những lần chuyển trường đều là hệ quả của những hành vi thiếu kiểm soát của con bé. Báo cáo cho biết ở nhà con bé ăn ngủ bình thường, nhưng đêm nào con bé cũng tè dầm và luôn mút ngón tay. Con bé không chơi với ai trong đám trẻ là con của những lao động nhập cư ở khu trại, cũng không có quan hệ rõ ràng với một người lớn nào. Cha con bé ghi rằng nó thích một mình, luôn chống đối và thiếu thân thiện ngay cả với ông. Ở nhà thỉnh thoảng con bé cũng có lên tiếng, thường là khi nó giận dữ. Con bé không bao giờ khóc. Tôi dừng lại và đọc lại câu đó. Con bé không bao giờ khóc? Tôi không thể tin nổi một đứa bé sáu tuổi lại không khóc. Hẳn là ông muốn nói nó hiếm khi khóc. Chắc hẳn đó là sự nhầm lẫn.

    Tôi đọc tiếp. Cha con bé cho rằng nó rất bướng bỉnh vì thế ông ta thường phải nghiêm khắc với nó, chủ yếu là bằng đòn roi hoặc bắt phạt. Ngoài vụ thiêu người kể trên, con bé còn bị khiển trách vì đốt lửa trong khu trại của dân nhập cư và bôi phân khắp nhà vệ sinh của một trạm xe buýt. Chỉ mới sáu tuổi rưỡi, Sheila đã phải đối mặt với cảnh sát ba lần.

    Tôi nhìn chằm chằm vào xấp hồ sơ và những thông tin rời rạc trong đó. Con bé thường tỏ ra khó gần. Nó cũng không phải là một đứa dễ dạy dỗ. Nhưng như thế không có nghĩa là không thể tiếp cận nó. Trái với vẻ bề ngoài, thật ra Sheila có vẻ dễ tiếp cận hơn Susannah Joy hay Freddie bởi vì em không có dấu hiệu rối loạn chức năng nào như chậm phát triển hay thiểu năng trí tuệ hay những bí ẩn nào khác của trí óc. Từ những gì tôi thu thập được, Sheila là một đứa bé hoàn toàn bình thường trên phương diện đó. Điều đó càng khiến cho trận chiến trước mắt tôi trở nên gian nan hơn vì tôi biết nó hoàn toàn phụ thuộc vào chúng tôi. Chúng tôi không có những lời lẽ văn hoa bóng bẩy, cũng không thể viện ra những lý do tưởng chừng rất chính đáng như bệnh tâm thần hay tự kỷ hay tổn thương thần kinh nếu chúng tôi thất bại với trường hợp của Sheila. Chỉ có chính chúng tôi. Sâu thẳm bên trong đôi mắt thù hằn ấy là một bé gái bé bỏng đã học được rằng cuộc sống không phải là một cuộc vui cho bất kỳ ai và cách tốt nhất để không bị hắt hủi là tự biến mình thành càng khó ưa càng tốt. Khi đó con bé sẽ không bao giờ phải bất ngờ khi nhận ra mình không được yêu thương. Một sự thật quá rõ ràng.

    Khi tôi đang xem hồ sơ thì Anton đến. Anh kéo ghế lại cạnh tôi và cầm lên đọc những hồ sơ tôi đã xem xong. Mặc dù khởi đầu của chúng tôi rất tệ nhưng tôi và Anton đã trở thành một nhóm rất ăn ý. Đối với bọn trẻ, anh chăm sóc rất chu đáo. Từ trước đến nay, Anton đã sống cả cuộc đời trên nông trường và hiện giờ vẫn sống với vợ và hai con trai trong một ngôi lều nhỏ ở khu trại của dân nhập cư nên anh hiểu rõ về thế giới mà bọn trẻ sinh sống hơn tôi nhiều. Tôi được đào tạo, có kinh nghiệm và kiến thức nhưng Anton lại có bản năng và sự từng trải. Có những khía cạnh trong cuộc sống của bọn trẻ mà có lẽ tôi không bao giờ hiểu được vì suốt cuộc đời mình, tôi chỉ sống trong những ngôi nhà ấm cúng và hoàn toàn không biết đến bạo lực, đói khát và côn trùng. Tôi không còn mong gì hơn thế. Là một người trưởng thành, tôi đã hiểu ra rằng có những người sống rất khác và sự khác biệt trong lối sống đó cũng là bình thường đối với họ. Tôi chấp nhận thực tế đó nhưng vẫn không thể hiểu rõ nó. Tôi không tin một người chưa từng trải qua cuộc sống thực tế như thế lại có thể hiểu được, nếu có ai khẳng định hiểu biết của mình kiểu đó thì hoặc anh ta đang tự lừa dối mình hoặc anh ta chỉ ba hoa khoác lác mà thôi. Nhưng Anton lại bổ khuyết cho điểm yếu của tôi và chúng tôi đã cùng nhau xây dựng mối quan hệ hỗ trợ khắng khít. Anh biết khi nào, đứa nào và cần làm gì để giúp đỡ bọn trẻ mà không cần tôi lên tiếng. Một điều hữu ích khác là Anton nói tiếng Tây Ban Nha, việc tôi không thể làm được. Nhờ đó, anh đã cứu tôi không biết bao nhiêu lần khi Guillermo thiếu hụt ngôn từ tiếng Anh vốn đã có hạn của nó. Lúc này Anton ngồi cạnh tôi, lặng im đọc hồ sơ của Sheila.

    - Con bé dùng bữa trưa thế nào?

    Anh gật đầu, mắt không rời xấp giấy tờ.

    - Tốt. Con bé ăn như chưa bao giờ được thấy thức ăn. Mà có lẽ vậy thật. Và - ôi thôi - tác phong rất tệ! Nhưng con bé ngồi chung với bọn trẻ và không làm ồn.

    - Anh có biết cha con bé ngoài khu trại không? - Không. Họ ở bên kia khu trại, nơi người da trắng sống. Bọn nghiện ngập đều tụ tập ở đó. Chúng tôi không bao giờ đến đó.

    Whitney bước vào và tựa người vào bàn. Cô là một thiếu nữ xinh xắn theo một cách rất khó mô tả: cao, mảnh khảnh, có đôi mắt màu hạt dẻ và mái tóc dài suôn mượt vàng óng ả. Dù Whitney là một học sinh ưu tú của ngôi trường cấp hai mà cô đang theo học, có xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất trong cộng đồng nhưng cô lại vô cùng cả thẹn. Từ khi cô tham gia cùng chúng tôi vào mùa thu, cô luôn thực hiện tất cả công việc một cách hết sức lặng lẽ, không bao giờ nhìn vào mắt tôi, luôn cười gượng ngay cả khi mọi việc đang rối tung. Việc duy nhất khi cô mở miệng là để chê trách kết quả công việc của mình, để hạ thấp bản thân hay để xin lỗi vì đã làm hỏng mọi thứ. Không may là thời gian đầu, tất cả những điều đó dường như đều đúng. Whitney phạm mọi lỗi lầm kinh điển trong sách vở. Cô làm đổ gần hai lít sơn màu xanh vừa pha xong xuống sàn phòng tập. Cô bỏ quên Freddie trong nhà vệ sinh nam ở chợ. Cô để cửa phòng học khép hờ sau một buổi chiều tan học và thế là chú rắn Benny thoát ra và ghé thăm cô Anderson, một giáo viên lớp một. Đối với tôi, có thêm Whitney cũng như phải giám sát thêm một đứa trẻ nữa vậy. Nếu như tôi không quá khó khăn vào những tháng đầu tiên và rất cần có thêm người hỗ trợ, có lẽ tôi đã không đủ kiên nhẫn với cô. Vào những tuần đầu tiên ấy tôi luôn phải giải thích lại, luôn phải dọn dẹp, luôn mồm "không sao đâu, em đừng bận tâm" trong khi tôi không thật sự nghĩ vậy. Còn Whitney cứ khóc luôn.

    Nhưng cũng như Anton, Whitney rất quan tâm đến bọn trẻ. Whitney đã cống hiến hết mình cho chúng tôi. Tôi biết cô bé thỉnh thoảng cúp học để ở lại với chúng tôi lâu hơn và thường ghé qua vào giờ cơm trưa hay sau khi tan học để giúp tôi. Cô mang những đồ chơi lúc nhỏ của mình đến cho bọn trẻ. Cô mang đến cho tôi những ý tưởng mà cô đọc thấy trong các tạp chí giáo dục cô thường đọc khi rảnh rỗi với ánh mắt khao khát, đau đáu mong chờ nhận thấy sự hài lòng của tôi. Whitney rất hiếm khi nói về cuộc sống riêng của mình. Tuy thế, trái với sự giàu có và danh tiếng của gia đình mình, Whitney - theo tôi nghĩ - không hơn gì các học trò của tôi trên một số phương diện. Vì vậy tôi cố chịu đựng sự vụng về hậu đậu của cô bé và cố gắng khiến cô cảm thấy mình là một phần quan trọng trong nhóm chúng tôi. Mà sự thật là vậy.

    Whitney nhoài người trên bàn khiến tóc cô rũ lên trang giấy tôi đang đọc và hỏi:

    - Chị đã đón cô bé mới đến chưa ạ?

    - Rồi em.

    Tôi trả lời và kể lại ngắn gọn những gì đã xảy ra vào buổi sáng. Ngay khi đó, tôi nghe thấy tiếng thét.

    Tôi biết đó là học trò của mình. Không một đứa trẻ bình thường nào có thể có tiếng thét chất chứa nỗi tuyệt vọng bao trùm như thế. Tôi nhìn sang Anton, thầm hỏi anh chuyện gì đang xảy ra. Whitney chạy lại nhìn ra ngoài cửa văn phòng.

    Tyler khóc lóc ầm ĩ lao vào. Con bé chỉ ra ngoài cửa nhưng lời nói bị tắc nghẹn bởi tiếng nấc. Rồi con bé xoay người lại chạy vụt đi.

    Cả ba chúng tôi vội đuổi theo con bé về phía cánh cửa dẫn đến dãy nhà phụ. Thường thường, vào giờ trưa, những cô bảo mẫu sẽ chịu trách nhiệm về đám trẻ. Vào những tháng trời lạnh, toàn bộ bọn trẻ đều chơi trong phòng và các cô bảo mẫu chỉ cần đi lại trong phòng để giữ trật tự. Tôi vẫn luôn nói với họ rằng mấy đứa học trò của tôi phải luôn được chú ý theo dõi mọi lúc mọi nơi nhưng mấy cô bảo mẫu rất ghét phải trông nom phòng tôi và né tránh việc đó bằng cách tụ tập với nhau bên ngoài dãy nhà phụ và chỉ thỉnh thoảng dỏng tai theo dõi tình hình. Học trò của tôi dùng bữa trưa sau cùng, nghĩa là trên thực tế mấy cô bảo mẫu chỉ cần trông chừng chúng thêm khoảng hai mươi phút mà thôi. Nhưng họ vẫn không chịu và từ chối không ở lại trong phòng với bọn trẻ. Thường thì tôi vẫn mặc kệ mấy cô bảo mẫu vì tôi cũng đã cố hết sức để bọn trẻ hiểu rõ cách tự sinh hoạt khi không có tôi. Giờ ăn trưa chỉ là một bài kiểm tra hàng ngày những kỹ năng này mà thôi. Hơn nữa, cả tôi và Anton đều rất cần nửa giờ giải lao ấy. Tuy vậy đôi khi mọi việc cũng diễn ra ngoài ý muốn.

    Vừa chạy, Tyler vừa thút thít kể với chúng tôi điều gì đó có liên quan đến cặp mắt và cô bạn mới đến. Tôi lao vào căn phòng hỗn loạn.

    Sheila đang ngổ ngáo đứng trên một chiếc ghế cạnh hồ cá. Hình như con bé bắt từng con cá vàng lên và dùng bút chì chọc vào mắt chúng. Bảy tám con cá nằm giãy đành đạch dưới sàn nhà quanh chỗ chiếc ghế, cặp mắt đã bị phá hỏng. Sheila tóm chặt một con trong bàn tay phải và tay kia cầm cây viết chì đứng lầm lì đầy đe dọa. Một cô bảo mẫu đứng gần con bé, loay hoay quanh đó một cách căng thẳng nhưng sợ chết khiếp không dám thử vô hiệu hóa Sheila. Sarah khóc ré lên, Max lại bay lượn vòng vòng trong phòng, đôi tay vỗ loạn xạ và hét lên thất thanh.

    - Bỏ nó xuống!

    Tôi hét lên bằng ngữ điệu quyền uy nhất của mình. Sheila lườm tôi và khẽ lắc lư cây viết chì đầy ngụ ý. Tôi không hề nghi ngờ con bé sẽ đâm xuống nếu bị kích động. Ánh mắt con bé ánh lên vẻ hoang dại của một con thú bị dồn vào đường cùng. Mấy con cá vẫy đuôi trong tuyệt vọng, để lại những đốm máu li ti trên sàn ở những nơi mà hốc mắt trống rỗng của chúng va phải. Max nghiền nát một con trong lúc bay vòng vòng khắp phòng.

    Bỗng nhiên một tiếng thét chói tai ré lên. Susannah vừa bước vào phòng. Con bé bị một dạng thần kinh là rất sợ máu, sợ bất kỳ chất lỏng màu đỏ nào và con bé sẽ la hét điên cuồng trong khi lao đầu chạy hoảng loạn nếu con bé nghĩ rằng mình thấy máu hay thậm chí chỉ cần bị ảo giác về máu. Lúc này đây, nhìn mấy con cá, con bé lao vọt ngang qua căn phòng. Anton vội đuổi theo con bé còn tôi nắm lấy khoảnh khắc bất ngờ ấy để tước vũ khí của Sheila - con bé không hề mất cảnh giác như tôi tưởng. Em đâm thẳng cây viết chì vào cánh tay tôi thật mạnh khiến nó ghim vào tay, đung đưa một lúc trước khi rơi xuống sàn.

    Tâm trí tôi đã bấn loạn quá mức đến nỗi không thật sự cảm thấy đau.

    Freddie đã tham gia lượn vòng quanh phòng cùng Max. Tyler đang ré lên, Guillermo núp dưới gầm bàn, William đứng khóc trong một góc phòng. Whitney đang đuổi theo tóm lấy Max và Freddie khi chúng vừa loạng choạng đảo quanh phòng vừa la hét. Sự ồn ào thật không thể chịu nổi.

    Chợt tiếng khóc của William vang lên:

    - Cô Torey! Peter đang bị lên cơn co giật kìa!

    Tôi quay sang và thấy Peter đang nằm co quắp trên sàn nhà. Chuyển vội Sheila cho Whitney, tôi lao về phía Peter.

    Sheila đá thật mạnh vào cẳng chân Whitney, vang lên một tiếng rõ to và con bé thoát được. Chỉ trong vài giây con bé đã lao ra khỏi cửa. Tôi nhoài người xuống sàn bên cạnh Peter, thằng bé vẫn còn quằn quại trong cơn co giật. Tôi có thể cảm nhận rất rõ áp lực về mọi việc đang xảy ra đè nặng lên mình. Tất cả chỉ diễn ra trong vòng vài phút. Tất cả mọi người đều mất đi khả năng kiểm soát mong manh mà chúng tôi đã chiến đấu rất vất vả để có được. Tất cả bọn trẻ ngoại trừ Peter đều đang khóc. Sarah, Tyler và William ngồi túm tụm lại với nhau khóc thét trước thảm họa đang diễn ra. Guillermo sụt sùi khóc trong nơi ẩn náu dưới gầm bàn. Cậu bé giơ tay ôm đầu và khóc lóc đòi mẹ bằng tiếng Tây Ban Nha. Susannah vùng vẫy cuồng loạn trong tay Anton. Max và Freddie vẫn bay điên cuồng quanh phòng, lao cả vào đồ nội thất và những đứa khác rồi lại đứng lên tiếp tục bay. Peter nằm gục trong tay tôi. Tôi nhìn quanh. Whitney đã đuổi theo Sheila. Cô bảo mẫu đã bỏ đi từ đời nào. Chúng tôi rất lúng túng. Sau bao nhiêu tháng trời đằng đẵng tỉ mỉ nỗ lực, mọi thứ đang sụp đổ trước mắt chúng tôi.

    Thầy Collins và thư ký trường xuất hiện trước cửa phòng. Nếu như bình thường có lẽ tôi đã sợ run lên khi để ông thấy cảnh tượng tan hoang trong lớp mình. Nhưng giờ đây mọi việc đã vượt quá tầm kiểm soát và tôi cần được giúp đỡ. Tôi phải thừa nhận điều đó. Sau tất cả những năm tháng làm việc cùng ông, tôi đã xoay xở rất tốt với những học trò ngớ ngẩn của mình và chúng tôi chưa bao giờ sơ sẩy. Nhưng giờ đây tôi đã thất bại. Đúng như ông vẫn luôn dự báo. Cuối cùng thì những học trò điên khùng của tôi cũng xổng chuồng. Tôi biết chắc ông đang tạ ơn Chúa vì đã đưa chúng tôi vào dãy nhà phụ, nơi không ai khác có thể thấy được.

    Cô thư ký đưa Peter đến phòng y tế để đưa thằng bé về nhà vì nó luôn cần được ngủ sau một cơn động kinh mạnh. Thầy Collins giúp tôi tóm Freddie và Max lại và buộc chúng ngồi trên ghế. Tôi lôi Guillermo tội nghiệp ra khỏi gầm bàn và ôm chầm lấy thằng bé. Đối với một đứa không được tận mắt chứng kiến như thằng bé, thì những việc này nghe sẽ thế nào nhỉ Anton vẫn đang cố xoa dịu Susannah Joy. Khi chúng tôi có thể kiểm soát lại được tình huống chút ít, Tyler và Sarah đã chịu ngồi vào góc trò chuyện và an ủi lẫn nhau. Nhưng William vẫn còn dính chặt ở chỗ cũ, run rẩy khóc thút thít. Thầy Collins đã cố gắng xoa dịu em, nhưng thầy không thể nào đến gần để ôm lấy thằng bé được. Chúng tôi cứ đạp phải và trượt chân trên xác mấy con cá vàng, khiến cho mấy cái vảy vàng vàng vương vãi khắp thảm. Cuối cùng tôi cũng gom được bọn trẻ lại với nhau và tiếng khóc đã chấm dứt. Whitney và Sheila vẫn chưa về nhưng tôi không cho phép mình nhớ đến điều đó trong giây phút hãi hùng ấy.

    Thầy Collins tỏ ra rất lịch thiệp khi không hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Ông chỉ làm những gì tôi nhờ, gương mặt không biểu lộ chút gì. Khi tôi đã ổn định bọn trẻ lại, tôi ra cửa cảm ơn ông đã giúp đỡ và hỏi ông có thể đưa Mary - một cô bảo mẫu của trường từng là trợ thủ đắc lực của tôi năm trước - đến giúp tôi hay không. Tôi giải thích là mình vẫn còn thiếu một người và rằng buổi chiều sẽ rất vất vả. Thêm một người lớn nữa, tôi sẽ có thể chăm nom từng đứa nhiều hơn và cố gắng làm mọi việc ổn thỏa trở lại.

    Khi Mary đến, cô đọc truyện cho chúng nghe, còn tôi đi tìm Sheila. Hiển nhiên khi con bé lao đi, nó đã bối rối trước vô số cửa và hành lang dẫn từ nơi chúng tôi sang tòa nhà chính của trường học. Whitney đã kịp khóa cửa ngoài trước khi Sheila tìm được đường ra và con bé bị kẹt, buộc phải chạy vào phòng thể dục. Whitney đứng trước cửa căn phòng rộng lớn với nhiều cửa thông còn Sheila ở tít đầu bên kia.

    Whitney đứng giữ vị trí mà nước mắt ròng ròng. Tim tôi thắt lại khi trông thấy cô. Điều này quá sức chịu đựng của một cô bé mười bốn tuổi. Lẽ ra tôi không nên đặt cô vào tình huống này. Tuy vậy, tôi không còn biết bám víu vào bất kỳ phép mầu nào khác. Chỉ có hai người lớn, không đủ để xoay xở với quá nhiều trẻ bị rối loạn như thế này. Tôi đã tồn tại được đến nay nhờ may mắn, và giờ đây sự may mắn đó đã kết thúc.

    Tôi bước vào phòng thể dục, khẽ vỗ vai động viên Whitney rồi tiến đến phía Sheila. Rõ ràng con bé không hề có ý định để bị bắt lại. Ánh mắt con bé hoang dại, gương mặt đau đáu nét kinh hoàng. Mỗi lần tôi tiến lại gần hơn, con bé lại lao đi một hướng khác. Tôi dịu dàng lên tiếng, cố lấy giọng điệu nhẹ nhàng vỗ về nhưng nó vẫn run run vì cơn giận của chính tôi. Tôi chầm chậm tiến từng bước lại gần. Không ăn thua. Con bé có thể tránh tôi mãi trong phòng tập thể dục rộng lớn này.

    Tôi dừng lại, nhìn quanh, vắt óc tìm cách. Tôi phải bắt con bé lại. Đôi mắt con bé thể hiện sự hoảng loạn không thể kiểm soát nổi. Con bé không còn khả năng nhận thức được về tình hình hiện tại, và giờ đây nó chỉ phản ứng theo bản năng của thú vật. Đến mức này, con bé trở nên nguy hiểm đối với chính mình và đối với mọi người hơn rất nhiều so với lúc trong lớp học với mấy con cá.

    Tôi không thể nghĩ được mình phải làm gì. Đầu tôi căng ra. Cánh tay tôi, chỗ bị cây viết chì cắm vào, đập từng nhịp nhức buốt. Máu thấm ướt cánh tay áo tôi. Nếu tôi huy động nhiều người cùng tiến lại con bé, chắc chắn sẽ càng khiến con bé hoảng loạn hơn. Nếu tôi dồn con bé vào góc, nó sẽ khiếp sợ. Con bé phải được giải tỏa và giành lại tự chủ. Như thế này quá nguy hiểm. Dù con bé nhỏ tuổi và thân hình bé choắt, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết trong tình hình này, con bé đang là mối đe dọa rất lớn, nếu không phải đối với tôi thì cũng là đối với chính nó.

    Tôi quay lại chỗ Whitney và bảo cô bé trở lại lớp học, nói với Anton cố gắng hết sức hợp tác với Mary để thu xếp bên đó. Sau đó tôi đóng cửa lối vào phòng thể dục lại. Tôi kéo tấm ngăn nặng nề chia phòng thể dục ra làm hai. Tôi không thể để Sheila chạy thoát lần nữa. Sau đó, chỉ còn lại hai chúng tôi ở nửa trong của phòng thể dục, tôi tiến gần con bé hơn một chút rồi ngồi xuống.

    Chúng tôi phán đoán suy nghĩ của nhau. Nỗi sợ hãi cùng cực ẩn sâu trong mắt con bé. Tôi có thể thấy nó đang run rẩy.

    - Cô sẽ không làm con đau đâu, Sheila. Cô sẽ không làm con đau. Cô chỉ muốn chờ đến khi con không sợ hãi nữa và khi đó chúng ta sẽ lại trở về lớp học. Cô không giận đâu. Và cô sẽ không làm con đau.

    Nhiều phút trôi qua. Tôi len lén tiến tới, vẫn không đứng lên. Con bé nhìn tôi chằm chằm.

    Toàn thân con bé run lẩy bẩy và tôi có thể thấy đôi vai gầy nhẳng của nó run mạnh. Nhưng nó không hề nhúc nhích.

    Tôi đã nổi giận với nó. Ôi Chúa toàn năng, tôi đã nổi giận. Khi thấy mấy con cá đáng yêu giãy giụa trên sàn, mắt bị moi ra, tôi đã giận tím gan. Tôi không chịu nổi sự thô bạo với súc vật. Nhưng lúc này cơn giận đã qua đi và khi tôi nhìn con bé, trong lòng tôi dâng lên một niềm thương vô bờ. Con bé đã hết sức ngoan cường. Sợ hãi, mệt mỏi và không thoải mái, con bé vẫn không đầu hàng. Hẳn nhiên thế giới của con bé rất không đáng tin và con bé đã đương đầu với nó theo cách duy nhất mà nó biết. Chúng tôi không biết nhau, không có gì đảm bảo tôi sẽ không làm đau con bé. Chẳng có lý do nào khiến con bé nên tin tưởng tôi và rõ ràng nó sẽ không làm vậy. Thật là một sinh linh bé nhỏ ngoan cường dám đối diện với tất cả chúng tôi, những người to lớn và mạnh khỏe, quyền uy hơn rất nhiều, nhìn thẳng vào chúng tôi mà không hề nao núng sợ hãi, không hề thốt ra một lời hay rơi một giọt nước mắt.

    Tôi tiến lại gần hơn từng chút một. Chúng tôi đã ngồi trong tư thế đề phòng nhau như thế ít nhất là nửa tiếng. Lúc này tôi chỉ còn cách con bé không quá ba mét và con bé bắt đầu quan sát nhất cử nhất động của tôi một cách ngờ vực. Tôi ngừng di chuyển. Từ đầu đến cuối tôi vẫn luôn nói nhỏ nhẹ, vỗ về an ủi con bé rằng tôi sẽ không làm gì tổn hại đến nó, rằng chúng tôi sẽ cùng trở lại lớp học, sẽ không có chuyện gì xảy ra. Tôi cũng nói đến những việc khác, những thứ bọn trẻ thích làm trong lớp chúng tôi, những thứ nó sẽ làm cùng chúng tôi.

    Những giây phút chậm chạp tưởng chừng như vô tận cứ thế trôi qua. Tôi bắt đầu cảm thấy nhức mỏi vì phải ngồi bất động quá lâu. Đôi chân con bé cũng run rẩy vì đứng quá lâu mà không thay đổi tư thế. Tình huống này trở thành cuộc thi sức chịu đựng. Thời gian vô tận như đang trải ra trên khoảng cách ba mét giữa hai chúng tôi.

    Chúng tôi chờ đợi. Cơn cuồng nộ đã tan dần trong mắt em. Sự mệt mỏi đang xâm chiếm dần. Tôi tự hỏi không biết đã mấy giờ nhưng không dám đưa tay lên xem đồng hồ. Chúng tôi vẫn chờ đợi.

    Phần trước chiếc quần yếm của con bé bỗng sẫm màu lại và một vũng nước tiểu lan dần dưới chân em. Con bé cúi xuống nhìn, lần đầu tiên rời mắt khỏi tôi. Con bé khẽ cắn nhẹ môi. Khi con bé ngẩng lên, nỗi sợ hãi về việc vừa xảy ra hiện ra rất rõ ràng.

    Tôi lên tiếng:

    - Sự cố vẫn thường xảy ra mà. Vì nãy giờ con không được đi vệ sinh đó, nên đây thật sự không phải là lỗi của con đâu.

    Điều khiến tôi ngạc nhiên là sau thảm họa mà con bé đã gây ra trong lớp học, hành động này lại khiến em cảm thấy có lỗi.

    Tôi thử đề nghị:

    - Chúng ta có thể lau sạch chỗ đó. Cô có giẻ lau trong lớp để phòng khi những việc thế này xảy ra.

    Con bé nhìn xuống lần nữa rồi lại nhìn tôi. Tôi vẫn im lặng. Con bé thận trọng lùi lại một bước để đánh giá tình hình tốt hơn. Rồi em cất giọng khàn khàn:

    - Cô có phạt roi con không?

    - Không, cô không phạt roi trẻ em. Trán con bé khẽ chau lại.

    - Cô sẽ giúp con lau sạch chỗ này. Chúng ta sẽ không cho ai biết. Việc này sẽ là bí mật của riêng chúng ta, vì cô biết rằng đây chỉ là một tai nạn mà thôi.

    - Con không cố tình.

    - Cô biết.

    - Cô sẽ phạt roi con phải không?

    Tôi bực bội trả lời:

    - Không, Sheila, cô không phạt roi trẻ con. Cô đã nói với con rồi.

    Con bé nhìn xuống chiếc quần yếm:

    - Ba con, ổng luôn phạt roi rất ghê mỗi khi thấy con làm thế này.

    Suốt thời gian trò chuyện, tôi vẫn giữ tư thế bất động tại chỗ, không dám nhúc nhích vì sợ phá vỡ mối liên kết mong manh này.

    - Không sao đâu, con đừng sợ, chúng ta sẽ lo chuyện đó. Mình vẫn còn thời gian trước khi ra về mà. Khi đó quần con đã khô rồi.

    Con bé xoa mũi, nhìn vũng nước, rồi lại ngước nhìn tôi. Lần đầu tiên kể từ lúc đến đây, con bé tỏ ra phân vân. Tôi đứng lên thật chậm rãi. Con bé bước lùi một bước. Tôi giơ tay ra:

    - Lại đây nào, chúng ta sẽ đi lấy đồ lau sạch chỗ đó. Con đừng lo.

    Con bé phán đoán một lúc lâu rồi thận trọng tiến về phía tôi. Con bé làm ngơ cánh tay đang giơ ra của tôi nhưng chịu đi bên tôi hướng về phía lớp học.

    Trong phòng, mọi thứ đã yên tĩnh trở lại. Anton và bọn trẻ đang cùng nhau hát. Whitney đang ôm Susannah và Mary đang dỗ dành Max. Mấy con cá chết đã được dọn đi. Tất cả mọi ánh mắt trong phòng đều quay lại nhìn chúng tôi nhưng tôi ra hiệu cho Anton cứ tiếp tục ca hát với bọn trẻ. Sheila đón lấy mấy cái giẻ lau và cái chậu từ tay tôi và chúng tôi quay lại phòng tập thể dục, lau sạch sàn nhà mà không nói tiếng nào. Sau đó con bé theo tôi quay về lớp học.

    Thật ngạc nhiên, thời gian còn lại của buổi chiều trôi qua rất yên tĩnh. Dường như cảm xúc của bọn trẻ đã dịu lại. Sheila lại lui về chiếc ghế mà con bé đã gắn bó suốt buổi sáng, ngồi co ro một mình và mút ngón tay. Con bé không hề nhúc nhích suốt thời gian còn lại của buổi chiều. Dù vậy, nó có dõi theo chúng tôi. Tôi không thể đọc được điều gì trong ánh mắt con bé. Tôi lần lượt đến với từng đứa trẻ, bồng chúng lên vỗ về, trò chuyện với chúng, cố gắng xoa dịu những cảm xúc không thể diễn đạt thành lời. Cuối cùng tôi mới đến bên Sheila.

    Tôi ngồi xuống sàn nhà bên cạnh chiếc ghế con bé đang ngồi và nhìn lên con bé. Con bé thận trọng dò xét tôi, miệng vẫn ngậm ngón tay. Dư âm của những gì đã xảy ra thể hiện rất rõ qua ánh mắt con bé. Anton đang tiếp tục những bài hát cuối cùng trước khi ra về và không ai chú ý đến chúng tôi. Tôi không muốn làm con bé lo sợ bằng cách tỏ ra quá thân mật nhưng lại muốn nó biết tôi quan tâm đến nó.

    Tôi lên tiếng:

    - Thật là một buổi chiều khó khăn, phải không con?

    Con bé không có phản ứng nào ngoại trừ nhìn tôi chằm chằm. Từ vị trí này, tôi được hưởng toàn bộ mùi hương từ con bé.

    - Cô tin rằng ngày mai sẽ tốt hơn. Ngày đầu tiên bao giờ cũng rất khó khăn mà.

    Tôi cố gắng đọc ánh mắt con bé để tìm hiểu những gì đang diễn ra trong đầu nó. Thái độ thù địch đã biến mất, ít ra là trong lúc này. Nhưng ngoài ra tôi không nhìn thấy điều gì khác nữa.

    - Quần của con khô chưa?

    Con bé duỗi người đứng dậy, kiểm tra lại quần mình. Chúng gần như đã khô, dấu vết chỗ ẩm gần như không phân biệt được với những vết bẩn khác. Con bé khẽ gật đầu.

    - Như vậy đã đủ để con không gặp rắc rối chưa?

    Lại một cái gật đầu rất khẽ, gần như không thể nhận ra.

    - Cô cũng mong là vậy. Mọi người ai cũng bị sự cố mà. Mà việc này cũng không hẳn là lỗi của con. Chỉ vì con không được đi vệ sinh mà.

    Tôi có mấy bộ quần áo để sẵn trong phòng vì những việc như thế này rất thường xảy ra trong lớp tôi. Tôi không nói điều đó vì sợ sẽ làm con bé hoảng sợ với sự thân mật quá mức, nhưng tôi muốn con bé hiểu những vấn đề như thế vẫn được chấp nhận ở đây.

    Ngón tay con bé nhúc nhích trong miệng và nó quay đầu sang dõi theo Anton. Tôi ở bên con bé cho đến lúc tan trường.

    Sau khi bọn trẻ ra về hết, tôi và Anton dọn dẹp căn phòng trong yên lặng. Không ai trong chúng tôi nhắc đến những gì đã xảy ra. Không ai nói tiếng nào. Dĩ nhiên đây không phải là một ngày tươi đẹp của chúng tôi. Khi về đến nhà, tôi rửa sạch vết thương do cây viết chì đâm vào và dán một miếng băng dính Band-Aid lên. Sau đó tôi lên giường nằm khóc.



    Còn nữa...
     
  7. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    CHƯƠNG 4

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Dù tôi có muốn thừa nhận hay không thì cuộc sống diễn ra trong lớp học của tôi vẫn là một trận chiến không ngưng nghỉ. Một cuộc chiến không chỉ đối với bọn trẻ mà còn đối với chính tôi. Để có thể đối mặt với bọn trẻ mỗi ngày, tôi đã khóa chặt mọi cảm xúc của mình trên nhiều mặt vì tôi nhận ra rằng nếu không làm vậy, tôi trở nên thiếu can đảm, dễ bàng hoàng và liên tục nản lòng đến nỗi không thể làm việc hiệu quả được. Ngày ngày tôi phải xua nỗi sợ hãi của chính mình vào những xó xỉnh nhỏ bé, nơi chúng vẫn lẩn khuất. Thường thì cách làm này cũng tỏ ra hiệu quả, nhưng thỉnh thoảng khi một đứa bé xuất hiện thì những bình an trong tôi lại dậy sóng. Hậu quả là tất cả những phân vân, giận dữ và lo âu được kìm nén bấy lâu trong tôi lại bùng nổ và tôi cảm nhận rất rõ cảm giác thất bại.

    Mặc dù vậy, về cơ bản, tôi vẫn là người hay mơ mộng. Bất chấp những hành vi không thể hiểu nổi của bọn trẻ và sự yếu đuối của chính tôi, bất chấp những cảm giác nản lòng và nghi ngờ bản thân, một ước mơ - nói thật là hiếm khi được nhận ra - vẫn chắp cánh bay cao, ước mơ rằng một ngày nào đó mọi thứ sẽ đổi thay. Là một người mơ mộng, giấc mơ đó của tôi rất khó tan biến.

    Lần này cũng không phải ngoại lệ. Nước mắt chỉ chảy một lúc rồi thôi, tôi thiếp đi. Sau đó, tôi bình thản ngồi dậy ăn bánh mì kẹp với cá ngừ và xem bộ phim Star Trek(3). Tôi chưa bao giờ xem ti vi nhiều đến thế và cũng chưa từng xem Star Trek kể từ lần đầu tiên nó xuất hiện trên màn ảnh nhỏ. Nhưng giờ đây, nhiều năm sau lần phát sóng đầu tiên, nó được chiếu lại trên nhiều đài cùng một lúc vào sáu giờ hàng ngày. Hồi đầu năm học, khi khả năng thích nghi của bọn trẻ tiến triển rất chậm và nỗi chán nản của tôi dâng cao, tôi bắt đầu xem chương trình chiếu phim này trong khi ăn tối và dần dần nó trở thành một thông lệ. Nó như dấu mốc chia một ngày của tôi tách bạch thành thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Khoảng thời gian một tiếng ấy chính là thời gian phục hồi của tôi khi tôi tạm gác lại mọi khó khăn và giận dữ đã xảy ra ở trường. Ngài Spock vô cảm tuyệt đối trở thành chỗ dựa tinh thần cho tôi sau giờ làm việc.

    Nhờ đó mà khi Chad ghé qua lúc bảy giờ, tôi đã kịp cân bằng trở lại. Tôi và Chad vẫn thường xuyên gặp nhau suốt mười tám tháng nay. Lúc đầu nó giống như một kiểu hẹn hò kinh điển: những buổi ăn tối, xem phim, khiêu vũ và trò chuyện vô tư không dứt. Tuy nhiên, không ai trong chúng tôi thích hợp với kiểu hẹn hò như thế. Thế là chúng tôi chuyển sang mối quan hệ bạn bè thân thiết, thoải mái. Chad là một thành viên mới vào nghề trong một công ty luật ở khu trung tâm và dành phần lớn thời gian làm luật sư do tòa chỉ định để bào chữa cho những kẻ đua xe và những kẻ chẳng-bao-giờ- làm-gì-tốt bị bắt giữ. Kết quả là lý lịch về quá trình làm việc của anh không có gì nổi bật vì ít khi nào anh thắng kiện. Thế là chúng tôi thường dành những buổi chiều bên nhau để chia sẻ sự xót thương của mình dành cho học sinh của tôi và thân chủ của anh. Cũng có một hai lần chúng tôi nhắc đến hôn nhân nhưng chỉ dừng lại ở đó. Cả hai chúng tôi đều là những người thích độc thân và hài lòng với tình trạng hiện tại.

    Chad đến mang theo một lít kem sô-cô-la Baskin-Robbins. Trong lúc trộn kem với nước trái cây, tôi kể anh nghe về Sheila. Tôi khẳng định chắc chắn với Chad là tôi đã gặp đối thủ rồi. Đứa nhóc đó là một con thú hoang và tôi không nghĩ mình là người có thể thuần hóa được con bé. Tôi mong bệnh viện hãy đi vào hoạt động càng sớm càng tốt.

    Chad cười nhã nhặn và gợi ý tôi thử gọi điện cho giáo viên trước đây của con bé xem sao. Sau cuộc vui cuồng nhiệt với mấy ly kem, khi tôi đã cảm thấy no đủ và sáng suốt hơn một chút về mọi việc, tôi dò danh bạ điện thoại để tìm số điện thoại cô Barthuly.

    - Ôi lạy Chúa! - Cô Barthuly thốt lên khi tôi tự giới thiệu mình là ai và tại sao tôi gọi đến. - Tôi tưởng họ đã tống con bé vào tù vĩnh viễn luôn rồi chứ.

    Tôi giải thích rằng bệnh viện tiểu bang chưa đi vào hoạt động và hỏi xem cô đã xoay xở thế nào khi Sheila còn học với cô. Tôi nghe thấy cô khẽ đằng hắng, nhưng âm thanh khe khẽ đó thể hiện nỗi bất lực mơ hồ.

    - Tôi chưa từng gặp đứa nhỏ nào như thế. Tàn phá, ôi lạy Chúa, mỗi lần tôi rời mắt khỏi con bé là nó lại phá hủy một thứ gì đó. Bài tập của nó, của các bạn, bảng thông báo, bảng dán hình, bất kỳ thứ gì. Có lần con bé lấy tất cả áo khoác của các bạn và nhét vào bồn cầu trong nhà vệ sinh nữ. Ngập cả một tầng hầm.

    Cô thở hắt ra.

    - Tôi đã thử mọi cách để chặn con bé lại. Con bé luôn tiêu hủy bài tập của nó trước khi cô kịp nhìn qua nó. Tôi đã bọc nhựa vở bài tập lại để con bé không thể xé bỏ được. Cô biết nó làm gì không? Nó nhét cuốn tập vào hệ thống làm mát và làm nghẽn máy điều hòa. Và thế là chúng tôi phải trải qua ba ngày không có máy thông gió khi nhiệt độ ở mức 340C.

    Cô Barthuly bắt đầu kể hết chuyện này đến chuyện khác. Lúc đầu cô nói rất nhanh như thể cô chưa từng có cơ hội nào tốt đến thế để kể về những huyên náo và hỗn loạn mà cô đã gặp trong ba tháng đầu năm học. Nhưng sau đó giọng cô trầm xuống, thể hiện rõ sự mỏi mệt. Bất chấp tất cả, cô đã từng yêu thương Sheila, từng bị thu hút bởi sức hút khó hiểu cũng đã hấp dẫn tôi. Con bé trông có vẻ rất mỏng manh nhưng cũng rất gai góc. Cô đã từng muốn làm điều gì đó đúng đắn cho Sheila. Nhưng cô làm gì cũng không thể giúp được. Sheila không chịu nói chuyện với cô. Con bé không muốn ai đụng chạm, cũng chẳng muốn được giúp đỡ hay yêu thương. Ngay từ đầu cô Barthuly đã cố cư xử tốt với con bé. Cô cố gắng tạo ảnh hưởng đến đứa trẻ khó ưa này, cho con bé tham gia vào những hoạt động đặc biệt, chú ý quan tâm đến em nhiều hơn. Các chuyên gia tâm thần học của trường đã đặt ra những chương trình quản lý hành vi để thưởng cho những hành vi tốt của Sheila. Nhưng có vẻ như Sheila vui thích với việc chống lại những gì họ muốn em làm. Cô Barthuly tin rằng Sheila đã chủ ý phá hoại chương trình, bằng chứng là con bé đã cố tình không làm cả những việc mà trước đó nó vẫn làm rất tốt, chỉ vì những việc đó được liệt kê trong danh sách những việc làm được thưởng.

    Kế đến, cô Barthuly cố gắng khống chế những hành vi tiêu cực lạ lùng của con bé. Cô tước bỏ một số quyền lợi của con bé, phạt con bé trong góc và cuối cùng phải đưa Sheila đến phòng hiệu trưởng vì tội nghịch nước. Dù vậy, Sheila vẫn tiếp tục khủng bố lớp học, tấn công các bạn khác, phá hủy mọi thứ và nhất quyết không chịu học. Cuối cùng, cô Barthuly đành bỏ cuộc. Đứa trẻ này làm mất quá nhiều thời gian của những đứa khác. Thế là Sheila bị bỏ mặc và dấu hiệu yên bình lần đầu tiên xuất hiện trong lớp. Được làm những gì mình thích, Sheila dành cả ngày lang thang quanh lớp học hay lật xem mấy trang tạp chí. Nếu bị ngăn cản, Sheila sẽ hét lên và xé nát tờ tạp chí để trả đũa hay phá hủy bất kỳ thứ gì trong tầm tay. Tuy vậy, khi được hoàn toàn ở một mình, con bé khá dễ chịu và sẽ không làm phiền mọi người nếu họ cũng đừng đả động gì đến nó. Con bé vẫn không bao giờ lên tiếng, không làm bài tập, cũng không tham gia vào hoạt động nào trong lớp. Sau đó thì sự kiện tháng Mười một xảy ra và con bé được đưa khỏi trường ngay lập tức để trấn an những lo sợ của các bậc phụ huynh.

    Giọng nói bên kia đầu dây nghe ảo nảo và bi quan. Cô Barthuly rất tiếc vì chẳng làm được gì nhiều. Không ai biết liệu Sheila có biết bảng chữ cái và mấy con số cơ bản nhất hay không. Không ai có thể hiểu chút gì về việc học cũng như cảm xúc của con bé. Cô Barthuly thừa nhận, con bé gần như là đứa bất trị nhất mà cô từng gặp. Những gì có thể làm cho Sheila đều vượt quá khả năng kiên nhẫn, năng lực và thời gian của cô. Cô chúc tôi may mắn và nói thêm rằng cô hy vọng bệnh viện tiểu bang sẽ sớm mở cửa tiếp nhận con bé. Rồi cô cúp máy.

    Những thông tin ấy lại dấy lên nỗi muộn phiền trong tôi vì tôi không biết rồi đây mình có thể làm gì với con bé. Với nhóm học trò của mình, tôi biết tôi sẽ không có cơ hội để dành nhiều thời gian quan tâm đến con bé hơn như cô Barthuly đã làm. Tôi trao đổi vấn đề ấy với Chad và thấy rằng tôi không thể làm gì khác ngoài việc cứ chờ xem sao.

    Sáng hôm sau, trước giờ vào học, tôi và Anton ngồi bàn kế hoạch cho những hoạt động trong ngày. Rõ ràng là không thể để những việc xảy ra ngày hôm trước lặp lại. Mấy đứa trẻ khác sẽ không thể chịu nổi những trải nghiệm như thế. Một vài sự cố cũng tốt cho lớp học vì chúng dạy bọn trẻ cách phản ứng khi mọi việc diễn ra không như mong đợi, tuy nhiên chúng tôi không thể để cho những chuyện tương tự như vậy xảy ra mãi được.

    Mười lăm phút trước khi giờ học bắt đầu, cô nhân viên xã hội đến, kéo theo Sheila phía sau. Cô giải thích rằng tuyến xe buýt duy nhất họ có thể đón để đến nhà Sheila là chuyến xe của trường trung học. Vì vậy, hàng ngày Sheila sẽ đến trường sớm hơn nửa tiếng và buổi chiều sau khi tan trường, con bé phải ở lại đợi hai tiếng mới có chuyến xe buýt về nhà. Tôi hoảng hồn. Trước hết, tôi cảm thấy Sheila không thích hợp đi xe buýt với một đám học sinh trung học. Tôi nghĩ con bé không thể đi trên bất kỳ chuyến xe buýt nào cho yên lành. Kế đến, tôi phải làm gì với con bé trong hai giờ sau khi tan học? Chỉ riêng ý nghĩ đó cũng khiến tôi nôn nao khó chịu.

    Cô nhân viên xã hội mỉm cười bâng quơ. Chúng tôi sẽ phải làm như thế vì không có bất kỳ chế độ đặc biệt nào cho trường hợp này. Cách đơn giản nhất là thu xếp cho con bé ở lại trường. Những tuyến xe buýt về ngoại ô khác cũng đến trễ tương đương và những học sinh khác cũng phải chờ đâu đó trong trường. Sheila có thể cùng chờ với chúng. Cô giao lại cánh tay buông thõng của Sheila cho tôi rồi quay đi.

    Tôi nhìn xuống Sheila và cảm thấy tất cả những lo âu từ ngày hôm trước ùa về. Con bé đang xem xét tôi, đôi mắt mở to cảnh giác, thái độ thù ghét ẩn đi bớt so với hôm trước. Tôi mỉm cười yếu ớt:

    - Chào con, Sheila. Cô rất vui khi hôm nay con lại đến với lớp mình.

    Chỉ còn lại vài phút ngắn ngủi trước khi bọn trẻ đến đông đủ, tôi đưa Sheila đến một chiếc bàn và kéo ghế cho con bé. Con bé đi theo tôi từ cửa lớp mà không hề kháng cự. Tôi ngồi xuống bên con bé và nói:

    - Con nè, chúng ta hãy trao đổi một chút về những gì sẽ diễn ra hôm nay để không phải trải qua một ngày như hôm qua nữa nhé! Cô thấy hôm qua không vui lắm, mà cô nghĩ là con cũng cảm thấy vậy.

    Đôi mày con bé nhíu lại trong một biểu hiện thắc mắc như thể nó không hiểu tôi đang định làm gì.

    - Cô không biết khi học ở những ngôi trường khác thì con thế nào, nhưng cô muốn con biết những gì sẽ diễn ra ở đây. Hôm qua, cô nghĩ là các cô đã làm con sợ một chút vì con không biết ai trong các cô và có thể những gì các cô muốn không được rõ ràng. Cho nên giờ cô sẽ nói cho con biết.

    Con bé lại bắt đầu ngồi thu lu trên ghế, gối co đến tận cằm và tay vòng ôm chặt hai chân. Tôi nhận thấy con bé vẫn mặc chiếc quần yếm cũ sờn và chiếc áo thun cũ. Cả áo và quần đều chưa được giặt và con bé vẫn bốc cái mùi khủng khiếp ấy.

    - Cô sẽ không làm con đau. Cô không làm đau đứa trẻ nào ở đây. Cả chú Anton hay chị Whitney hay bất kỳ ai cũng vậy. Con không phải sợ ai trong các cô chú.

    Con bé ngậm ngón tay cái vào miệng. Trông nó có vẻ sợ tôi. Và lúc này đây tôi thấy nó thật nhỏ bé, mong manh, yếu ớt; điều này khiến tôi cảm thấy hết sức khó khăn khi nhớ lại hình ảnh của nó ngày hôm qua. Vẻ bạo dạn mạnh mẽ đã biến mất, ít ra là tạm thời. Nhưng ánh mắt con bé vẫn không chút e dè khi dõi theo tôi.

    - Con có muốn ngồi vào lòng cô khi cô nói chuyện với con không?

    Con bé lắc đầu rất khẽ, rất khó nhận thấy.

    - Được thôi, vậy thì kế hoạch là thế này. Khi lớp chúng ta làm gì, cô muốn con tham gia cùng cô và các bạn. Tất cả những gì con phải làm chỉ là ngồi với cô và các bạn. Chú Anton hay chị Whitney hoặc cô sẽ giúp con hiểu những gì đang diễn ra đến khi nào con làm quen với những việc đó.

    Tôi tiến tới giải thích thời gian biểu trong ngày cho con bé. Tôi nói con bé không cần phải tham gia nếu nó không muốn hay chưa muốn. Nhưng rồi nó sẽ phải tham gia cùng các bạn và không có lựa chọn nào khác. Hoặc con bé tự làm hoặc một người trong chúng tôi sẽ giúp nó.

    Cuối cùng, tôi nói thêm:

    - Và thỉnh thoảng, nếu mọi việc xảy ra ngoài tầm kiểm soát, cô sẽ đưa con đến góc phòng yên tĩnh đằng kia.

    Tôi chỉ tay về phía chiếc ghế trong góc phòng. - Con đến đó và ngồi cho đến khi nào cô trò mình cảm thấy con đã có thể tự chủ trở lại. Con chỉ cần ngồi thôi. Con hiểu rõ không?

    Cho dù hiểu, con bé cũng không cho tôi biết. Ngay lúc đó những đứa trẻ khác đến. Tôi đứng dậy và vỗ nhẹ vào lưng con bé trước khi ra đón mấy đứa kia. Con bé không né tránh sự đụng chạm của tôi nhưng sau đó con bé cũng phớt lờ, xem như tôi chưa từng chạm vào nó.

    Đến giờ trò chuyện buổi sáng, Sheila vẫn ngồi trên ghế. Tôi chỉ xuống sàn nhà cạnh tôi:

    - Sheila, qua đây nào, chúng ta phải trò chuyện buổi sáng đây.

    Con bé không nhúc nhích. Tôi lặp lại lần nữa. Con bé vẫn ngồi bất động thu mình trên ghế. Tôi có thể cảm thấy ngực mình thắt lại vì lo. Con bé dò xét tôi, ngón tay ngậm trong miệng, mắt mở to. Tôi nhìn sang Anton, anh đang ổn định chỗ ngồi cho Freddie.

    - Anton, anh giúp Sheila cùng tham gia với chúng ta được không?

    Khi Anton tiến về phía Sheila, con bé như bừng tỉnh và phóng ào khỏi ghế. Con bé điên cuồng lao như bay ra phía cửa, va mạnh vào đó khi chốt cửa không bật ra.

    Peter thốt lên lo lắng:

    - Cô Torey, cô bảo bạn ấy dừng lại đi.

    Khi Anton đuổi theo con bé, mấy đứa khác cứ giương mắt nhìn theo. Ánh mắt con bé lại dài dại như con thú hoang bị dồn vào đường cùng và nó cứ lao đi điên cuồng để tránh không bị bắt lại. Nhưng căn phòng quá nhỏ nên mọi nỗ lực của con bé đều không đem lại hiệu quả. Con bé cố ngăn cản Anton bằng cách hất đổ sách khỏi kệ nhưng chỉ giây lát sau anh đã dồn con bé vào góc xa của một chiếc bàn. Họ nhử qua nhử lại, rồi đột nhiên Anton đẩy chiếc bàn về phía con bé, ép con bé vào tường vừa đủ lâu và bất ngờ phóng đến để tóm lấy cánh tay nó.

    Lần đầu tiên con bé gây ra tiếng động. Nó phát ra một tiếng thét làm kinh động tất cả chúng tôi. Susannah bắt đầu khóc còn những đứa khác chỉ im lặng nép mình vào nhau, khuôn mặt lộ rõ sự khiếp hãi khi nhìn Anton đánh vật với Sheila và lôi em trở ra giữa phòng. Tôi vẫn ngồi yên và chỉ tay về phía chỗ ngồi mà trước đó tôi đã ra dấu cho Anton. Tôi đón lấy cánh tay con bé và đặt nó ngồi vào vị trí. Con bé vẫn tiếp tục thét to, một tiếng thét khàn cả giọng, không kèm theo nước mắt, nhưng lúc này con bé đã ngồi yên, không còn vùng vẫy nữa.

    Tôi lên tiếng với sự hào hứng giả tạo:

    - Nào, ai có chủ đề nào?

    William lên tiếng, cố gắng để tiếng nói của mình không bị tiếng thét của Sheila át đi.

    - Dạ con có. Lớp mình sẽ lúc nào cũng như thế này ạ? Bạn ấy sẽ luôn như vậy sao?

    Đôi mắt đen của thằng bé ngân ngấn nỗi sợ hãi. Những đứa khác cũng dõi theo tôi lo lắng. Và đây không phải là lần đầu tiên tôi nhận ra công việc đòi hỏi tôi phải biết lừa bịp như thế nào, vì thành thật mà nói tôi cũng hoảng sợ không kém gì các em. Chúng tôi đã ở bên nhau được bốn tháng, đã tìm hiểu được những khác biệt, những khó khăn của nhau. Tôi biết Sheila sẽ trở thành hiểm họa đối với chúng tôi, ngay cả khi con bé im lặng và tỏ ra hợp tác, đơn giản vì con bé là người mới đến và luôn thách thức khả năng giữ nề nếp vốn mong manh của chúng tôi.

    Thế là chủ đề của chúng tôi ngày hôm đó là về Sheila. Tôi cố hết sức giải thích rằng Sheila vẫn đang thích nghi và cũng như tất cả chúng tôi, em đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Con bé chỉ cần chúng tôi kiên nhẫn và thông cảm.

    Sheila không hoàn toàn làm ngơ khi chúng tôi trao đổi về nó. Tiếng thét của nó giảm dần thành tiếng la rời rạc, chỉ vang lên khi chúng tôi dừng trò chuyện quá lâu hay khi có ai nhìn sang nó và bị nó bắt gặp. Ngoài ra, con bé hoàn toàn im lặng. Tôi để bọn trẻ đặt câu hỏi và thể hiện nỗi sợ hãi của chúng. Rồi tôi cố gắng trả lời chúng thật chân thành. Ngoại trừ Peter, mấy đứa còn lại đều tinh ý không chỉ trích quá gay gắt khi có mặt Sheila. Peter thì ngược lại. Cũng như hôm trước khi than phiền về mùi của con bé, hôm nay thằng bé giận dữ tuyên bố rằng nó muốn cô bạn gái này ra khỏi lớp. Con bé làm hỏng mọi thứ. Tôi không cố bảo vệ Sheila khỏi những lời nhận xét của Peter vì tôi biết đằng nào thì sau đó thằng bé cũng sẽ lại nói thế về cô bạn của mình. Đó là tất cả vấn đề của Peter, và vì thế tôi muốn có mặt mỗi khi thằng bé đưa ra bất kỳ lời nhận xét nào.

    Chúng tôi chuyển sang bàn về những phương cách khác nhau để xử lý những bất tiện mà mình gặp phải, trong khi đó thì Sheila có vẻ đang dần thích nghi với những gì đang diễn ra. Tyler gợi ý đưa con bé sang góc phòng để bảo vệ cho lỗ tai chúng tôi. Sarah chọn cách nghỉ giải lao mỗi khi Sheila gây náo động. Còn Guillermo, đứa có vẻ đặc biệt cao thượng, nghĩ bọn trẻ nên thay phiên ngồi bên Sheila và làm bạn với con bé mỗi khi con bé hét lên để nó không phải cô đơn. Tôi ngờ rằng cậu bé đang phản ánh cảm xúc của chính mình hơn là của Sheila.

    Cuối cùng chúng tôi quyết định rằng mỗi khi Sheila hét lên hay làm bất kỳ điều gì khiến Anton hay tôi phải chú ý và ảnh hưởng đến lớp học, những đứa khác sẽ chăm chú làm việc của mình và những đứa có trách nhiệm sẽ chú ý trông chừng Max, Freddie và Susannah. Tôi thông báo với cả lớp là đến cuối tuần cả lớp sẽ được thưởng nếu mọi người hợp tác tốt. Sau khi trao đổi ngắn gọn, chúng tôi quyết định sẽ làm kem vào thứ Sáu nếu mọi việc tốt đẹp. Quả thật bọn trẻ có rất nhiều ý tưởng.

    Tyler gợi ý:

    - Nếu cô bận với Sheila và Freddie bắt đầu khóc, con sẽ đọc truyện cho bạn ấy nghe.

    - Chúng ta có thể tự hát lên. - Guillermo nói thêm. - Con sẽ nắm tay bạn Susannah lại để bạn ấy không bỏ chạy và làm tổn thương mình.

    Tôi mỉm cười:

    - Các con ai cũng có những ý tưởng rất hay. Cô biết chắc là mọi việc sẽ diễn ra ổn thỏa thôi. Vậy nên các con hãy nghĩ xem các con muốn ăn loại kem nào vào thứ Sáu nhé!

    Tôi nhìn xuống Sheila, con bé vẫn đang gầm gừ giận dữ. Tay tôi vẫn đang nắm lấy quai đeo chiếc quần yếm của con bé, còn nó thì vẫn ngồi im, tỏ ra bình thản.

    - Con có thích ăn kem không? Con bé khẽ nheo mắt lại.

    - Cô nghĩ là con sẽ thích, phải không? Con có thích ăn kem không?

    Con bé thận trọng gật đầu.

    Sheila đã hợp tác hơn khi chịu di chuyển đến chỗ ngồi trong giờ học toán. Con bé leo lên một chiếc ghế và thu mình lại, dõi theo tôi ngờ vực khi thấy tôi đến bên từng đứa một. Thời gian còn lại của buổi sáng trôi qua mà không có sự kiện nào đặc biệt.

    Tôi không dám để bữa trưa diễn ra như hôm qua nữa, không chỉ vì tôi không muốn lặp lại một buổi chiều thảm khốc mà còn vì mấy cô bảo mẫu nói rằng họ dứt khoát không trông con bé đến khi nào nó trở nên bình thường hơn. Cho nên tôi lấy phần cơm trưa của mình và ăn cùng bọn trẻ.

    Tôi ngồi kế bên Sheila, con bé ngồi cách tôi một khoảng nhỏ trên chiếc ghế dài trong nhà ăn. Khi Anton đến và ngồi xuống phía bên kia, con bé liền nhích lại gần phía tôi. Con bé nuốt gọn bữa trưa chỉ trong vài phút bằng cách tọng hết chỗ thức ăn vào mồm và nhai lấy nhai để. Tác phong của con bé hết sức tệ, nhưng nó biết cách sử dụng nĩa, tốt hơn nhiều so với khả năng xoay xở của vài đứa khác.

    Sau bữa trưa, tôi hộ tống con bé trở về phòng học. Tôi về bàn ngồi và chấm bài trong khi bọn trẻ chơi đùa. Sheila trở về chỗ ngồi của mình trên ghế, lại đưa ngón tay lên mút và nhìn tôi không chớp mắt.

    Suốt buổi chiều hôm đó, con bé di chuyển theo đúng yêu cầu, mặc dù nếu được lựa chọn thì con bé sẽ luôn quay về chiếc ghế bên bàn và ngồi thu lu ở đó. Có vẻ như con bé đã ngoan ngoãn đáng kể so với hôm trước. Trông nó thật ủ rũ nhưng tôi cũng không cố gắng tìm hiểu. Dường như con bé sợ tôi quá mức, tôi cũng không hiểu tại sao nên tôi cũng không muốn tăng thêm nỗi sợ của nó bằng cách buộc nó chấp nhận tôi.

    Dường như bọn trẻ hơi thất vọng vì không có chuyện gì gay go xảy ra. Sau khi làm bài tập cuối ngày xong, Peter đến bên tôi và hỏi liệu chúng tôi có còn được ăn kem không nếu Sheila không cư xử kỳ lạ nữa. Tôi bật cười và đảm bảo với thằng bé rằng từ giờ đến thứ Sáu nếu không có vấn đề gì phát sinh, chắc chắn sẽ có kem.

    Buổi chiều, bọn trẻ lục đục ra về, chỉ còn Sheila, Anton và tôi ở lại. Thông thường, thời gian hai tiếng sau khi tan học là khoảng thời gian tôi chuẩn bị cho buổi học ngày hôm sau, nhưng tôi nghĩ ít ra trong vài ngày đầu, tôi nên dùng thời gian đó để có thể quen hơn với Sheila. Con bé vẫn ngồi thu lu trên ghế, thậm chí không hề nhúc nhích khi mấy đứa khác mặc áo khoác vào và chuẩn bị ra về.

    Tôi đến bên bàn và ngồi xuống đối diện với con bé. Con bé nhìn tôi dò xét, đôi mắt cảnh giác.

    - Hôm nay con rất ngoan, nhóc tì ạ. Cô rất thích như thế.

    Con bé quay mặt đi.

    Tôi nhìn con bé. Đằng sau lớp bụi bặm và nhếch nhác là một đứa bé xinh xắn. Thân hình con bé thẳng và cân đối. Tôi muốn được ôm con bé vào lòng, ôm ấp để xoa dịu phần nào nỗi đau hiện rõ trong đôi mắt nó. Nhưng chúng tôi vẫn ngồi cách nhau một cái bàn, khoảng cách gần như cả một vũ trụ. Khi tôi ngồi gần như thế, con bé thậm chí không dám nhìn vào mắt tôi.

    Tôi nhẹ nhàng hỏi:

    - Cô có làm con sợ không, Sheila? Nếu có thì không phải cô muốn vậy đâu. Chắc là con sợ lắm khi phải đến một ngôi trường mới, với những người mà con không hề quen biết. Cô biết như thế rất đáng sợ. Điều đó cũng làm cô sợ nữa.

    Con bé đưa bàn tay lên che một bên má như để tôi không thấy được nó nữa.

    - Con có muốn cô đọc truyện cho con nghe hay làm gì đó trong khi chúng ta chờ xe buýt không?

    Con bé lắc đầu.

    - Được thôi. À, giờ cô sẽ qua bàn bên kia để lên kế hoạch cho ngày mai. Nếu con đổi ý, cô sẽ rất vui khi đọc truyện cho con nghe. Hay con có thể chơi đồ chơi hay làm bất cứ việc gì con thích.

    Tôi đứng dậy rời khỏi bàn.

    Ngay khi tôi vừa ngồi xuống bàn bên kia, con bé bỏ tay xuống và quay sang nhìn tôi chăm chú, theo dõi tôi trong khi tôi viết. Đôi lần tôi ngước lên nhưng không thấy chút phản ứng nào từ cái nhìn bất động ấy.

    Còn nữa...
     
  8. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    CHƯƠNG 5

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày hôm sau, tôi quyết định đã đến lúc Sheila phải tham gia cùng chúng tôi. Xe buýt thả con bé xuống một trường trung học cách đó hai dãy nhà nên Anton phải đến đón và đưa con bé về trường tôi. Khi vừa vào lớp, Sheila cởi áo khoác và tiến thẳng đến ghế của mình. Tôi đến ngồi xuống cạnh con bé và nói rằng hôm nay tôi sẽ yêu cầu nó làm một số việc. Tôi điểm qua thời gian biểu trong ngày với con bé và nói rằng tôi muốn nó tham gia vào các hoạt động như hôm qua, và rằng tôi còn muốn nó làm vài bài tập toán với tôi trong giờ toán. Ngoài ra vào mỗi chiều thứ Tư chúng tôi còn có tiết mục cùng nhau làm thức ăn nên tôi muốn nó giúp chúng tôi làm món chuối nhúng sô-cô-la. Đó là hai việc con bé cần phải làm.

    Trong khi tôi nói, con bé dõi theo nhất cử nhất động của tôi, ánh mắt phủ đầy vẻ ngờ vực hệt như ngày hôm trước. Tôi hỏi con bé có hiểu những gì tôi nói không, nó không trả lời.

    Trong thời gian trò chuyện buổi sáng, Sheila tham gia cùng chúng tôi mỗi khi tôi yêu cầu nó bằng một ánh nhìn nghiêm khắc. Nếu không thì con bé chỉ ngồi bất động dưới chân tôi. Giờ toán lại là một chuyện khác. Tôi dự định cho con bé làm vài bài tập đơn giản. Thế là tôi mang mấy khối vuông ra và gọi con bé đến. Con bé vẫn ngồi yên một chỗ.

    Tôi chỉ vào một chiếc ghế. Đó là chiếc ghế con bé rất thích.

    - Sheila, lại đây nào, ngoan nào.

    Con bé không nhúc nhích. Anton bắt đầu thận trọng di chuyển để tóm con bé trong trường hợp nó lại bỏ chạy khi tôi đến gần. Ngay lập tức con bé nhận ra kế hoạch của chúng tôi, mặt nó sầm lại khiếp đảm. Đứa trẻ này bị ám ảnh với việc bị đuổi bắt. Con bé thét to, mắt lồng lên hoang dại, lao vụt đi, xô ngã mấy đứa khác và hất tung tập vở. Nhưng Anton đã dự trù được tình huống nên đã kịp thời chặn con bé lại. Tôi đến đón lấy con bé từ tay anh.

    - Cục cưng à, cô chú sẽ không làm gì con khi cô chú đến gần con đâu. Con không hiểu điều đó sao?

    Tôi ngồi xuống và ôm con bé thật chặt trong khi nó vẫn vùng vẫy và thở hổn hển vì sợ.

    - Bình tĩnh lại nào, mèo con.

    Peter lớn tiếng đầy phấn khích:

    - Này, mọi người, bình tĩnh nhé.

    Những mái đầu nhỏ hào hứng cúi xuống làm việc của mình còn Tyler lo lắng đứng dậy kiểm tra tình hình của Susannah và Max.

    Sheila lại hét lớn, gương mặt đỏ lên. Nhưng con bé không khóc. Tôi vừa ôm con bé trong lòng vừa đổ mấy khối vuông tập đếm ra. Tôi xếp chúng lại ngay ngắn trong khi chờ con bé bình tĩnh lại.

    - Đây nè, cô muốn con đếm mấy khối vuông cho cô.

    Con bé càng thét to hơn.

    - Nào, đếm đến ba cho cô nhé. Con bé vùng vẫy để thoát ra.

    - Để cô giúp con nhé.

    Tôi điều khiển bàn tay co quắp của con bé về phía mấy khối vuông.

    - Một, hai, ba. Ba. Bây giờ đến lượt con nào.

    Bất ngờ con bé tóm lấy một khối vuông và ném mạnh vào tường. Trong tích tắc con bé lại ném thêm một khối nữa, và lần này đập thẳng vào trán Tyler. Tyler khóc thét lên.

    Tôi tóm lấy tay Sheila giữ sát vào người con bé và đứng dậy, lôi con bé về góc phòng.

    - Ở đây chúng ta không được làm như thế. Không được làm ai ở đây đau cả. Cô muốn con ngồi xuống ghế cho đến khi nào con im lặng trở lại và có thể tiếp tục làm bài tập.

    Tôi ngoắc Anton lại gần.

    - Anh hãy giữ con bé ngồi yên trên ghế nếu con bé muốn vậy.

    Tôi quay lại với bọn trẻ, xoa chỗ sưng của Tyler và khen ngợi mọi người đã chú tâm làm việc. Sau khi đánh dấu lên bảng để ghi lại quá trình tiến tới phần kem ngày thứ Sáu, tôi ngồi xuống bên Freddie để giúp nó xây nhà bằng khối vuông. Ở góc phòng, cả địa ngục đang bùng nổ. Sheila la hét điên cuồng, đá vào tường với đôi giày thể thao và nhấp nhổm trên ghế. Anton im lặng một cách đáng sợ và cứ thế giữ chặt con bé trong chỗ ngồi.

    Suốt giờ toán Sheila vẫn tiếp tục gây náo động. Nửa giờ sau, khi đến giờ chơi tự do, có vẻ như con bé đã mệt mỏi với việc đấm đá và vùng vẫy. Tôi đến gần.

    - Con đã sẵn sàng đến làm toán với cô chưa?

    Tôi hỏi nhỏ. Con bé ngước nhìn tôi và hét không thành tiếng trong cơn giận dữ. Anton không giữ lấy con bé nữa mà chỉ giữ chặt lấy ghế. Tôi ra hiệu cho anh hãy để ý trông chừng mấy đứa trẻ.

    - Khi nào sẵn sàng làm toán, con có thể qua đây. Còn từ giờ đến lúc đó, cô muốn con ngồi yên trên ghế.

    Nói rồi tôi quay người bỏ đi.

    Việc hoàn toàn bị bỏ mặc khiến con bé hoảng hốt một lúc và ngưng la hét. Khi nhận thức rõ ràng rằng cả tôi và Anton đều không còn đứng gần để giữ mình, con bé liền đứng lên.

    - Con đã sẵn sàng làm toán chưa?

    Tôi vừa giúp Peter xây nhà bằng mấy khối vuông vừa hỏi vọng sang chỗ con bé.

    Nghe tôi hỏi, mặt con bé tối sầm lại.

    - Không! Không! Không! Không!

    - Vậy thì con ngồi xuống lại đi.

    Con bé rít lên giận dữ, sự thay đổi cường độ âm thanh đột ngột của nó khiến mọi người chợt dừng cả lại. Nhưng con bé vẫn đứng im bên ghế.

    - Sheila, cô bảo con ngồi xuống. Con không được đứng lên cho đến khi con sẵn sàng làm toán.

    Trong một khoảnh khắc tưởng như vô tận, con bé giận dữ gào thét ầm ĩ đến nỗi tôi cảm thấy đầu mình nhức tưng tưng. Rồi bỗng nhiên mọi thứ trở nên im ắng và con bé trừng trừng nhìn tôi. Ánh mắt nó hằn lên sự thù ghét rõ ràng đến mức một chút sự tự tin còn sót lại trong tôi bỗng chốc cũng tan biến.

    - Sheila, ngồi xuống ghế đi nào.

    Con bé ngồi phịch xuống. Nó xoay ghế lại để dõi theo tôi dễ dàng hơn. Nhưng nó vẫn tiếp tục la hét. Tôi kín đáo thở phào nhẹ nhõm.

    Peter nhìn tôi:

    - Cô Torey ơi, con nghĩ là lần này mình nên tính hai điểm cho hành vi tốt. Thật là khó mà làm ngơ bạn ấy được.

    Tôi cười tươi:

    - Ừ, cô nghĩ là con nói đúng đó Peter. Lần này xứng đáng được hai điểm.

    Sheila la hét suốt giờ chơi tự do. Tính đến lúc đó, sự ầm ĩ đã kéo dài hơn một tiếng rưỡi. Con bé dậm mạnh chân, ngồi nhấp nhổm và cứ lắc lư trên ghế. Con bé cấu xé quần áo và vung vẩy nắm đấm, nhưng vẫn ngồi trên ghế.

    Đến giờ ăn nhẹ, con bé đã khản cả giọng và suốt buổi chỉ ngồi trong góc phòng thều thào. Nhưng cơn giận của con bé chưa qua đi và tiếng hổn hển vẫn tiếp tục vang lên đầy giận dữ. Giờ giải lao, Anton đưa bọn trẻ ra ngoài còn tôi ở lại trong phòng. Điều này càng khiến Sheila bị kích động và con bé cố hết sức hét lên một lúc nữa trước khi kiệt sức hoàn toàn. Đến cuối giờ giải lao thì không còn tiếng động nào vang lên ở góc phòng nữa, và đó cũng là lúc đầu tôi bắt đầu giật tưng tưng.

    Tôi không hề nhắc lại điều kiện để nó được rời khỏi góc phòng. Tôi tin rằng đến lúc đó con bé đã đủ thông minh để hiểu và tôi cũng không muốn mấy đứa khác quá chú ý đến nó. Hết giờ chơi, bọn trẻ trở vào, người phủ đầy bông tuyết và má đỏ ửng lên sau khi chạy nhảy ngoài trời, ríu rít không ngớt về trò trốn tìm trong tuyết với Anton, người lần nào cũng bị bọn trẻ bắt được. Giờ tập đọc bắt đầu suôn sẻ, tất cả chúng tôi ngồi làm việc của mình như thể hình hài nhỏ bé đang thu lu trên chiếc ghế trong góc kia không hề tồn tại.

    Khi giờ tập đọc gần kết thúc, trong lúc đang chăm sóc cho Max, tôi cảm thấy một cái khều nhẹ phớt qua vai mình. Tôi quay lại và bắt gặp Sheila đang đứng phía sau, ánh mắt thể hiện sự lo lắng và căng thẳng thường thấy.

    - Con đã sẵn sàng làm toán chưa?

    Con bé bặm môi lại một lúc rồi từ từ gật đầu.

    - Tốt lắm. Để cô gọi Sarah đến giúp Max. Con sang bên kia nhặt lấy những khối vuông mà khi nãy con đã ném đi và lấy những khối còn lại trong hộc tủ bên cạnh bồn rửa mặt lại đây.

    Tôi nói với vẻ tự nhiên thoải mái như thể việc con bé sẽ nghe lời tôi là bình thường, nhưng trống ngực tôi lại đập dồn dập vì chẳng biết con bé sẽ phản ứng thế nào. Con bé cẩn thận quan sát tôi nhưng rồi vẫn làm như tôi yêu cầu.

    Chúng tôi cùng nhau ngồi xuống sàn nhà và tôi đổ mấy khối vuông ra.

    - Chỉ cho cô ba khối nào.

    Con bé thận trọng nhặt ra ba khối.

    - Cho cô mười khối nào.

    Một lần nữa, mười khối vuông xếp thẳng hàng trên tấm thảm trước mặt tôi.

    - Con giỏi lắm. Con biết đếm số rồi phải không?

    Con bé nhìn lên đầy lo lắng.

    - Cô sẽ ra đề khó hơn nhé. Con đếm cho cô hai mươi bảy nào.

    Chỉ trong vài giây, hai mươi bảy khối vuông đã hiện ra.

    - Con biết làm toán cộng không? Con bé không trả lời.

    - Vậy hai khối cộng thêm hai khối là mấy nào? Bốn khối vuông lập tức hiện ra. Tôi nhìn con bé đắn đo một lúc.

    - Thử ba cộng năm xem nào.

    Con bé đưa ra tám khối vuông.

    Tôi không biết chắc liệu con bé đã biết trước đáp án hay vẫn đang tính trong khi nhặt khối vuông, nhưng rõ ràng nó hiểu rõ cách làm toán cộng. Tôi đắn đo khi phải lấy giấy và viết chì ra vì biết rõ xu hướng xé giấy của con bé. Tôi chẳng muốn phá vỡ mối liên kết mong manh vừa giành được này. Tuy nhiên tôi thật sự muốn biết làm thế nào con bé giải được bài toán. Thế là tôi đổi sang toán trừ để biết rõ hơn.

    - Cho cô ba khối trừ một khối nào.

    Sheila lập tức đưa ra hai khối. Tôi mỉm cười. Rõ ràng con bé biết cách làm toán mà không cần đưa ra ba khối rồi bỏ đi một.

    - Giờ thì sáu trừ đi bốn nào.

    Lần này là hai khối vuông.

    - Ồ, con thông minh thật đấy. Nhưng cô còn một bài nữa cho con. Lần này con sẽ thua cho mà xem. Cho cô mười hai trừ bảy nào.

    Con bé ngước lên nhìn tôi và một nét cười khẽ thoáng qua ánh mắt nó mặc dù đôi môi nó không thể hiện gì cả. Con bé chất một, hai, ba, bốn, năm khối vuông chồng lên nhau. Con bé thực hiện mà thậm chí không cần nhìn xuống mấy khối vuông. Tôi nghĩ thầm: "Đồ quỷ nhỏ!". Dù cho thời gian qua con bé đã ở đâu và làm gì, nhưng tôi nghĩ nó vẫn luôn học hỏi. Khả năng của con bé khá hơn cả một đứa bé bình thường ở độ tuổi ấy. Con bé không có chút chần chừ nào trước khi đưa những khối vuông ra. Tim tôi run lên vì khả năng có được một đứa trẻ thông minh đằng sau lớp vỏ thù địch và lem luốc ấy.

    Con bé tiếp tục giải mấy bài toán nữa trước khi tôi nói đủ rồi và bảo nó có thể đi cất mấy khối vuông đi. Bây giờ đang là giờ tập đọc và từ sáng tôi đã bảo với con bé rằng nó không cần phải tham gia vào việc này. Tôi đứng lên kiểm tra mấy đứa khác và Sheila cũng đứng lên. Con bé vẫn cầm chiếc hộp đựng mấy khối vuông và lẽo đẽo theo sau tôi.

    Tôi quay lại nói với con bé:

    - Cưng à, con có thể cất cái này đi nếu con muốn. Con không cần phải mang nó đi lòng vòng đâu!

    Nhưng chắc là Sheila đã nảy ra ý định gì đó.

    Sau khi loay hoay một lúc tôi nhìn lại thì thấy con bé đang ngồi trên chiếc ghế yêu thích của mình phía bên kia bàn với mấy khối vuông nằm lăn lóc trước mặt. Con bé đang chú tâm làm gì đó với chúng nhưng tôi không biết chắc là cái gì.

    Đến giờ ăn trưa, con bé lại trở về trạng thái cố hữu của mình và tiếp tục thu mình trên ghế. Nhưng đến giờ nấu ăn, tôi dễ dàng dụ được nó với một cái que có xiên một quả chuối.

    Vào mỗi thứ Tư, chúng tôi lại làm một món gì đó. Tôi làm việc này vì nhiều lý do. Với những đứa trẻ tự chủ tốt hơn, đây là một bài tập toán và tập đọc rất tốt. Đối với tất cả bọn trẻ, việc này khuyến khích chúng tham gia hoạt động tập thể, chia sẻ, trò chuyện và làm việc cùng nhau. Hơn nữa, nấu ăn rất vui. Mỗi tháng một lần chúng tôi lại làm món ưa thích nhất mà bọn trẻ chọn ra và chiều hôm nay là món chuối bọc sô-cô-la, một món lộn xộn gồm có một quả chuối xiên qua một cái que nhúng vào sô-cô-la, rắc lớp cốm phủ bên ngoài rồi cho đông lạnh. Tôi quyết định không làm món mới vào ngày đầu tiên Sheila tham gia nấu ăn để mọi việc đơn giản hơn. Hầu hết bọn trẻ đều có thể tự làm tất cả công việc. Ngay cả Susannah cũng có thể làm được gần hết, chỉ còn lại Max và Freddie là cần được giám sát cẩn thận. Dĩ nhiên, sô-cô-la sẽ vương vãi khắp nơi và phần lớn cốm phủ ngoài sẽ hết trước khi kịp bám vào trái chuối nhưng chúng tôi vẫn có khoảng thời gian tuyệt diệu.

    Sheila ngần ngừ không muốn tham gia, tay nắm chặt trái chuối và đứng ngoài quan sát trong khi mấy đứa khác hớn hở trò chuyện với nhau. Tuy vậy, con bé không kháng cự và Whitney dụ nó đến hũ sô-cô-la sau khi mấy đứa khác đã làm xong. Khi Sheila bắt tay vào làm, nó hoàn toàn bị thu hút vào công việc và bắt đầu thử rắc tất cả bốn loại cốm phủ ngoài khác nhau lên quả chuối dinh dính của mình. Tôi đứng bên kia bàn quan sát. Con bé không nói tiếng nào nhưng rõ ràng nó có một ý niệm rõ ràng về việc tại sao lớp cốm lại dính vào chuối khi nó lại nhúng quả chuối vào hũ sô-cô-la lần nữa sau mỗi lần rắc một loại cốm phủ ngoài xong. Mấy đứa trẻ khác bắt đầu dừng tay, quan sát Sheila trong lúc con bé thử nghiệm ý tưởng của mình. Tiếng thì thào vang lên khi chúng không nhịn nổi tò mò. Con bé lăn quả chuối to tướng của mình lên đĩa cốm cuối cùng rồi cẩn thận nhấc nó lên. Con bé ngước lên nhìn tôi, nhoẻn miệng cười, một nụ cười tươi rạng rỡ khoe cả khoảng trống nơi chiếc răng dưới của nó bị sún.

    Cuối giờ học mỗi ngày chúng tôi đều có một số bài tập nhỏ. Những bài tập này cũng giống như các chủ đề trong buổi trò chuyện mỗi sáng, chúng giúp chúng tôi gắn kết với nhau hơn đồng thời chuẩn bị cho một ngày mới sau khoảng thời gian buổi tối chúng tôi không gặp nhau. Một trong những hoạt động đó là Chiếc hộp của con ma tinh nghịch. Tôi rất thích nghĩ ra những câu chuyện để kể cho bọn trẻ. Hồi đầu năm học, có lần tôi đã kể với bọn trẻ rằng những con ma tinh nghịch cũng giống như những nàng tiên thôi nhưng chúng sống trong nhà mọi người và dõi theo họ để giữ an toàn khi họ ngủ. Peter đã nghĩ rằng có thể có một con ma tinh nghịch sống trong phòng chúng tôi để giữ gìn mọi thứ và làm bạn với con Benny, Charles và Onions khi đêm đến. Việc này làm nảy sinh vô số câu chuyện về con ma tinh nghịch của chúng tôi. Thế là một hôm tôi mang đến một chiếc hộp gỗ lớn và bảo bọn trẻ rằng đây là nơi con ma tinh nghịch sẽ để lại lời nhắn. Tôi nói rằng bạn ma luôn quan sát chúng tôi làm việc và rất hài lòng vì mọi người trong phòng đang trở thành những người tốt bụng và chín chắn. Vì vậy, mỗi khi bạn ma thấy một hành động tốt, bạn ấy sẽ để lại lời nhắn trong chiếc hộp. Từ đó, trong giờ bài tập trước khi ra về, tôi lại đọc những mẩu giấy trong Chiếc hộp của con ma tinh nghịch lên. Vài ngày sau, tôi nói với bọn trẻ rằng bạn ma viết mỏi tay quá, cần có người giúp đỡ vì có quá nhiều người làm việc tốt trong phòng. Tôi bảo bọn trẻ quan sát và ghi nhận khi thấy các bạn làm việc tốt và viết ra giấy rồi đặt vào chiếc hộp, hoặc nếu đứa nào không biết viết thì nói với tôi, tôi sẽ viết ra cho chúng. Vậy là một trong những bài tập thường xuyên và hiệu quả nhất của tôi ra đời. Mỗi ngày có khoảng ba mươi nhận xét của bọn trẻ viết cho nhau khi chúng nhận thấy hành vi tốt. Việc này không chỉ khuyến khích bọn trẻ quan sát những hành vi tốt của các bạn mà còn khiến chúng muốn mình sẽ tốt hơn nữa để tên chúng sẽ được xuất hiện trong chiếc hộp vào cuối ngày. Một số ghi chú rất bình thường nhưng cũng có những cái đặc biệt khen ngợi một hành động nhỏ nhưng có ý nghĩa, đôi khi là những việc mà chính tôi cũng không nhận ra. Ví dụ, có hôm Sarah được khen ngợi vì không dùng đến câu nói tục thường ngày trong một lần cãi nhau, còn Freddie được khen vì đã tìm khăn giấy thay vì xịt mũi vào áo. Tôi rất thích mở chiếc hộp đó hàng ngày vì đôi khi tôi cũng tham gia vào đó để mỗi người đều nhận được ít nhất một lời khen. Cảm giác nhìn thấy những gì bọn trẻ cảm nhận thật khiến tôi phấn khích làm sao. Thêm nữa, tôi cũng vui khi thấy một mẩu giấy cho chính mình trong đó.

    Bài tập cuối ngày sau buổi nấu ăn chiều thứ Tư hết sức vui vẻ khi lần đầu tiên tên Sheila xuất hiện dưới một nét bút khác không phải của tôi. Sheila vẫn ngồi xa chúng tôi, không hề ngẩng lên khi bọn trẻ vỗ tay hoan hô những mẩu giấy viết về con bé. Nhưng khi tôi đưa mấy mẩu giấy cho con bé, nó cũng đưa tay ra đón lấy.

    Sau khi giờ học kết thúc, Anton đưa mấy đứa khác ra xe buýt. Tôi ngồi ở bàn để chấm bài tập và cập nhật biểu đồ cách cư xử của một vài đứa tôi đang theo dõi. Sheila đã vào phòng vệ sinh để rửa nốt miếng chuối nhúng sô-cô-la cuối cùng còn lem trên mặt. Con bé đã vào đó được một lúc và tôi thì vẫn đang chú tâm đến công việc của mình. Tôi nghe tiếng xả bồn cầu và con bé đi ra. Tôi không nhìn lên vì tôi đang hoàn tất một biểu đồ bằng bút mực và không muốn bị lỗi. Sheila đến bên bàn và nhìn tôi một lúc. Rồi con bé tiến đến gần hơn, đặt khuỷu tay lên bàn và rướn người về phía trước khiến chúng tôi chỉ còn cách nhau vài phân. Tôi nhướn mắt nhìn con bé. Con bé quan sát gương mặt tôi đầy suy tư.

    - Tại sao các bạn khác không dùng bồn vệ sinh trong phòng tắm?

    Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

    - Sao con?

    - Con nói là, tại sao họ, các bạn khác, các bạn lớn hơn, lại đi trong quần mà không vào nhà vệ sinh?

    - À, đó là những điều các bạn chưa học được.

    - Sao vậy? Họ đúng là to mà. To hơn con.

    - À, chỉ là các bạn chưa được học thôi. Nhưng chúng ta đang xử lý chuyện đó. Mọi người đều đang cố gắng.

    Con bé nhìn xuống biểu đồ tôi đang vẽ.

    - Lẽ ra bây giờ họ phải biết cái đó rồi. Ba con, ổng phạt roi rất dữ nếu con làm vậy.

    - Mỗi người đều khác nhau và ở đây không ai bị phạt roi cả.

    Con bé trầm ngâm một lúc lâu. Ngón tay con bé di di vẽ một vòng tròn nhỏ trên mặt bàn.

    - Đây là một lớp học điên khùng phải không cô?

    - Không hẳn vậy đâu Sheila.

    - Ba con, ổng nói vậy. Ổng nói con thì điên khùng và họ cho con vào một lớp dành cho những đứa điên khùng. Ổng nói đây thì là một lớp học cho nhiều những đứa điên khùng.

    - Không hẳn vậy.

    Con bé cau mày một chút.

    - Con không quan tâm lắm. Ở đây tốt cũng giống như những chỗ khác con đã qua. Ở đây cũng tốt giống mọi chỗ. Con không quan tâm lắm nếu đây là một lớp điên khùng.

    Tôi không biết nói gì nữa, không biết làm thế nào để phủ nhận điều quá rõ ràng. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ dính vào một cuộc trò chuyện kiểu này với học trò mình. Hầu hết chúng không đủ nhận thức để nhận xét sâu sắc đến thế, hoặc là chúng sẽ không đủ can đảm để nói ra điều đó.

    Sheila gãi đầu nhìn tôi thật suy tư:

    - Cô thì có điên khùng không? Tôi bật cười.

    - Cô hy vọng là không. - Sao cô lại làm cái này?

    - Làm cái gì? Làm việc ở đây hả? Vì cô rất yêu quý trẻ con và cô nghĩ rằng dạy học rất vui.

    - Sao cô lại ở với bọn trẻ điên khùng?

    - Cô thích như vậy. Điên khùng không phải là xấu. Chỉ là hơi khác biệt, vậy thôi.

    Con bé lắc đầu đứng lên, không hề cười.

    - Con nghĩ cô thì cũng là người điên khùng luôn.


    Còn nữa...
     
  9. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    CHƯƠNG 6

    Bấm để xem
    Đóng lại
    - Sheila, lại đây nào. Cô có cái này cho con làm nè.

    Tôi chỉ một chiếc ghế gần chỗ tôi đang ngồi. Sheila đang ngồi bên kia phòng, trên chiếc ghế yêu thích của mình. Đến lúc này, buổi sáng đã trôi qua rất suôn sẻ. Cũng như hai ngày trước, tôi dùng khoảng thời gian trước giờ học để cho con bé biết những gì sẽ diễn ra ngày hôm đó. Con bé đã rất hợp tác, tham gia trò chuyện buổi sáng cùng chúng tôi mà không cần đợi nhắc, rồi cùng làm toán. Mặc dù con bé vẫn không lên tiếng nhưng trông nó đã có vẻ thoải mái hơn nhiều khi ở trong lớp. Lúc này con bé đang ngồi trên ghế quan sát tôi.

    - Lại đây nào, cưng. Cô muốn con cùng làm cái này với cô.

    Tôi vẫy tay. Con bé ngập ngừng nhúc nhích. Tôi đã mượn được Bài Kiểm Tra Từ Vựng Bằng Hình của một chuyên viên tâm thần trong trường. Mặc dù tôi chẳng quan tâm mấy đến bài kiểm tra này, nhưng dù sao nó cũng có thể cho biết đại khái mức độ phát triển chức năng ngôn ngữ của trẻ mà không cần đứa trẻ phải lên tiếng. Sau lần chứng kiến vụ mấy khối vuông trong môn toán hôm trước, tôi rất hào hứng muốn biết mức độ phát triển chức năng ngôn ngữ của con bé. Khi bị rối loạn nghiêm trọng như những gì Sheila thể hiện, thì trí tuệ con bé có bị chậm phát triển cũng là điều bình thường. Đơn giản là hầu hết những đứa trẻ bị rối loạn nặng thì đương nhiên không còn đủ năng lượng để học hỏi nữa. Vì vậy khi con bé chứng minh khả năng toán học bình thường, tôi cảm thấy rất tò mò. Tôi cũng cảm thấy hứng thú khi nghĩ rằng có thể con bé thông minh trên mức trung bình. Tôi bắt đầu thích thú nghĩ đến việc thu xếp cho con bé ở lại với lớp mình mà không đưa nó vào bệnh viện tiểu bang nữa. Trong tất cả những thứ con bé cần lúc này, tôi nhận ra bệnh viện không nằm trong danh sách đó.

    Tôi phải đứng dậy bồng con bé đến bên bàn mình.

    - Cô và con sẽ cùng làm cái này. Nào, ngồi xuống đây nhé. Bây giờ cô sẽ cho con xem mấy bức hình và nói một từ. Sau đó cô muốn con chỉ vào hình vẽ thể hiện đúng ý nghĩa của từ đó nhất, được không? Con có hiểu không?

    Con bé gật đầu. Tôi đưa ra bộ bốn tấm hình đầu tiên và yêu cầu con bé chỉ "cái roi". Con bé quan sát bốn bức vẽ, ngước lên nhìn tôi rồi thận trọng chỉ một hình.

    Tôi mỉm cười:

    - Con giỏi lắm. Hình đó hoàn toàn chính xác. Con chỉ "cái lưới" xem.

    Khi tôi đọc từng từ lên, Sheila lại chỉ vào một hình, lúc đầu còn do dự, quan sát thật kỹ từng tấm hình nhưng sau đó đã thoải mái hơn. Sau sáu bảy bộ hình, một nụ cười hiện ra trên gương mặt con bé. Nó ngước lên nhìn tôi:

    - Cái này thì dễ.

    Con bé nhỏ giọng thầm thì để người khác không nghe thấy.

    Con bé sai một từ - "cái bình thủy" - một vật mà có lẽ nó chưa từng gặp trong quãng đời ngắn ngủi và cơ cực của mình. Nhưng hình tiếp theo con bé chỉ đúng. Thông thường, một đứa trẻ phải sai sáu trong số tám hình thì mới dừng bài kiểm tra lại, nhưng con bé không có vẻ gì sẽ sai đến mức đó. Chúng tôi tiếp tục. Từ bắt đầu khó hơn và con bé mất nhiều thời gian hơn để cân nhắc giữa các hình vẽ. Thỉnh thoảng con bé lại sai một, hay có khi hai từ. Tôi có thể nhận ra vẻ lo lắng trong mắt con bé. Nó biết khi nào nó làm sai, ngay cả khi tôi không nhận xét gì.

    Khi đố con bé mấy từ cuối, tôi thôi không nhận xét nữa. Tôi đã nghĩ rằng con bé là đứa thông minh trên mức trung bình, thậm chí có thể là đứa sáng dạ, nhưng sự thật con bé còn vượt qua cả mức mong đợi của tôi. Chúng tôi đã bước vào phần bài kiểm tra mà tôi chưa từng ra bao giờ vì chưa đứa học trò nào của tôi từng làm đến đó. Chúng tôi đang làm những từ như "sự chiếu sáng" hay "đồng tâm". Sheila bắt đầu sai thường xuyên hơn, nhưng chưa bao giờ sai đến sáu trong số tám hình. Chúng tôi trở nên căng thẳng. Rõ ràng con bé đang rất nỗ lực để không phạm sai lầm và tôi rất cảm động trước sự tập trung của nó. Nhưng chúng tôi đã làm đến phần bài dành cho thanh thiếu niên, gồm những từ mà không một đứa trẻ sáu tuổi bình thường nào có thể biết. Con bé khẽ cắn môi, vẫn không ngừng nỗ lực. Tôi có thể thấy con bé đang đắn đo khi em liên tục vặn hai tay.

    Tôi lên tiếng:

    - Bé con à, con giỏi lắm.

    Tôi chưa từng hy vọng con bé sẽ thực hiện bài kiểm tra này nghiêm túc và hết mình như thế, với sự nỗ lực quá sức và kéo dài lâu thế này. Tôi thật sự không thể tin nổi con bé lại biết những từ này.

    Con bé ngước lên nhìn tôi. Đôi mắt nó mở to, làn da mỏng dưới cổ giật giật vì căng thẳng.

    - Con hổng làm đúng hết.

    - Ồ, không sao đâu bé con. Con không cần phải làm đúng hết. Những từ này dành cho những anh chị rất lớn và con không cần phải biết hết. Cái này chỉ để xem thử con biết những từ nào thôi, nếu con làm sai vài từ cũng không sao. Cô rất tự hào vì con đã cố gắng đến như thế.

    Con bé nhăn mặt lại và trông như sắp khóc.

    - Bây giờ mấy chữ này thì khó dữ lắm. Con bé nhìn xuống tay mình.

    - Lúc đầu chúng thì dễ, nhưng mấy chữ này thì khó kinh khủng. Con không biết hết chúng.

    Tất cả, từ giọng nói nhỏ xíu, đến sự cố gắng tối đa để giữ bình tĩnh, đến đôi vai bé nhỏ co ro dưới chiếc áo sờn cũ... tất cả như xé nát tim tôi. Con bé thật ngây ngô. Tất cả chúng đều chỉ là những đứa trẻ bé bỏng.

    Tôi đưa một tay ra.

    - Lại đây nào, Sheila.

    Con bé ngước lên nhìn tôi và tôi cúi xuống kéo con bé vào lòng. Trong vòng tay tôi, cơ thể nhỏ bé của nó căng cứng ra, mùi nước tiểu lâu ngày phảng phất quanh chúng tôi.

    - Mèo con ạ, cô biết là con đã cố gắng hết sức mà. Chỉ cần như vậy thôi. Cô không quan tâm những từ nào con làm đúng hay sai, cái đó không quan trọng. Tại sao, tại vì đó thật sự là những từ rất khó. Cô cá là không ai trong lớp có thể làm giỏi hơn con đâu.

    Tôi ôm chặt con bé, vuốt lại mái tóc lòa xòa trước mặt nó. Trong khi chờ con bé bình tĩnh lại, tôi nhìn vào bảng ghi điểm bài kiểm tra, nhẩm tính trừ ra những chỗ sai. Tôi cho rằng con bé đã gần đạt đến ngưỡng năng lực của mình trong bài kiểm tra này. Con bé đã phạm ba hay bốn lỗi một lúc. Nhưng ngay cả như vậy, con bé cũng đã vượt qua tất cả những đứa trẻ tôi từng kiểm tra trước đó.

    Không kiềm được tò mò, tôi hỏi con bé:

    - Sao con biết được mấy chữ này?

    Con bé nhún vai:

    - Con hổng biết.

    - Có những từ dành cho những anh chị lớn. Cô chỉ không biết con nghe những chữ đó ở đâu thôi.

    - Cô giáo kia, cô cho con mấy cuốn tạp chí. Có khi con đọc chữ trong đó.

    Tôi nhìn xuống con bé. Cơ thể nó vẫn cứng ngắc trong lòng tôi và nhẹ như một chú chim non.

    - Con biết đọc không Sheila? Con bé gật đầu.

    - Con học điều đó ở đâu?

    - Con hổng biết. Lúc nào con cũng đọc.

    Tôi lắc đầu vì kinh ngạc. Chúng tôi đang phải đối đầu với thử thách kiểu gì thế này? Lúc đầu tôi bị kích động với suy nghĩ mình có một đứa học trò thông minh trong lớp, vì hầu hết những đứa trẻ như Sheila rất chậm tiếp thu và hầu như không có khả năng tiến bộ. Một số đứa như Sarah và Peter đạt mức trung bình nhưng hiếm khi tôi gặp một đứa trên mức trung bình. Đúng là ý nghĩ đó đã làm tôi thích thú, nhưng rõ ràng Sheila không chỉ trên trung bình. Khả năng tiếp thu và sự thông minh của con bé vượt xa suy nghĩ và mong đợi của tôi. Nhưng tôi đang sợ rằng điều đó không hề khiến công việc của mình trở nên dễ dàng hơn.

    Không có thang đo nào có thể tính được điểm số của Sheila trong Bài Kiểm Tra Từ Vựng Bằng Hình. Đối với nhóm tuổi của con bé, thang đo dừng ở mức 99, tương đương với 170 điểm IQ. Sheila đã ghi được 102 điểm. Tôi nhìn không chớp vào bài kiểm tra. Chúng tôi không lường đến mức độ thông minh cỡ này. Thống kê cho thấy có chưa đến một trong mười nghìn đứa trẻ đạt đến mức độ ấy. Nhưng việc này là sao? Đây là một số điểm quái dị, một sự bất thường trong xã hội tôn sùng sự đồng nhất. Điều này sẽ khiến con bé bị tách biệt khỏi mọi người, cũng giống như nó đã cô lập vì sự rối loạn của mình.

    Tôi nhìn sang bên kia phòng, nơi Sheila đang ngồi. Lúc này đang là giờ chơi tự do và Sheila đã quay về với chiếc ghế yêu thích của mình. Tôi nhìn con bé đang ngồi, ngón tay ngậm trong miệng, tay chân co ro như đang thủ thế để bảo vệ chính mình. Con bé đang quan sát Tyler và Sarah, chúng đang chơi búp bê trong góc phòng với đống đồ chơi xây nhà. Tôi băn khoăn. Dưới mái tóc dài bết lại ấy, đằng sau đôi mắt cảnh giác ấy, là một đứa bé như thế nào? Ngay lúc này đây tôi cảm thấy lo lắng hơn bao giờ hết vì tôi linh cảm nếu tình hình có chuyển biến chăng nữa thì cũng chỉ theo hướng phức tạp hơn mà thôi.

    Sau bữa trưa tôi đưa bài kiểm tra cho Anton xem. Anh lắc đầu không tin nổi. Anh lầm bầm:

    - Không thể nào. Con bé học những chữ đó ở đâu chứ? Tôi nghĩ con bé chỉ đoán mò và may mắn trúng thôi. Không đứa nào ở khu trại dành cho dân nhập cư có thể biết mấy từ kiểu này đâu.

    Chính tôi cũng không tin nổi điều đó. Do đó tôi gọi điện cho Allan, bác sĩ tâm lý của trường. Allan không có ở văn phòng nhưng tôi đã để lại lời nhắn với cô thư ký rằng tôi có một đứa học trò cần được kiểm tra.

    Còn một chuyện nữa khiến tôi đau đầu. Trong lúc làm bài kiểm tra, khi Sheila nói chuyện với tôi nhiều hơn, càng lúc tôi càng thấy rõ rằng con bé dùng từ ngữ mang một phong cách rất riêng. Tôi chưa nghe con bé nói nhiều lắm nên không đủ để nhận ra chính xác những điểm dị thường, nhưng cú pháp văn phạm rất lạ. Hầu hết bọn trẻ trong khu trại của dân nhập cư xuất thân từ những gia đình nói tiếng Tây Ban Nha thường có vốn từ vựng tiếng Anh ít hơn mức trung bình so với độ tuổi nhưng vẫn trong giới hạn văn phạm thông thường. Trong vùng lân cận cũng không có ngôn ngữ lạ nào khác phổ biến. Sheila không xuất thân từ gia đình nói tiếng Tây Ban Nha, bài kiểm tra IQ cũng chứng minh rằng vấn đề từ vựng của con bé không có gì bất thường. Tôi không thể lý giải tại sao con bé nói kỳ lạ như vậy. Theo tôi thấy cách nói của con bé nghe có vẻ giống những chàng da đen ở phố thị mà tôi từng làm việc chung ở Cleveland. Nhưng Sheila lại không phải người da đen và cộng đồng nông dân nhỏ bé ở Iowa chúng tôi nằm rất xa phố thị Cleveland. Có lẽ đó là nền tảng ngôn ngữ từ gia đình. Tôi dự định sẽ tìm hiểu cho ra vì sự kỳ lạ này khiến tôi rất bối rối.

    Thời gian còn lại trong ngày trôi qua không có sự kiện gì đặc biệt. Tôi vẫn không đặt ra quá nhiều yêu cầu đối với Sheila. Tôi muốn dành cho con bé khoảng thời gian thoải mái để hòa nhập với chúng tôi mà không khiến mấy đứa còn lại quá mệt mỏi. Sau những ngày đầu tiên đầy náo động, sự bình lặng này thật cần thiết. Con bé sẵn lòng tham gia cùng chúng tôi nhưng không thường xuyên trừ khi được dỗ ngọt. Con bé không nói chuyện với đứa nào khác, cả với Whitney. Thường thì con bé cũng không nói chuyện với tôi hay Anton trừ khi chỉ có một mình chúng tôi với nhau. Tuy nhiên, con bé có vẻ đã điềm tĩnh hơn; khi được phép nó sẽ ngồi ngay vào chiếc ghế yêu thích và quan sát chúng tôi với niềm thích thú dè dặt.

    Việc quan trọng kế tiếp cần phải tiến hành đối với Sheila liên quan đến vấn đề vệ sinh của con bé. Hàng ngày nó vẫn đến lớp trong cùng một chiếc quần yếm bằng vải bông và chiếc áo thun của con trai. Hiển nhiên bộ quần áo đó chưa từng được giặt qua kể từ lần mặc đầu tiên và người con bé bốc mùi nước tiểu nồng nặc. Tôi dám cá rằng sáng nào con bé cũng làm ướt giường và quần áo mà không hề tắm rửa hay giặt giũ gì cả. Và hậu quả tất yếu là việc ở gần bên con bé trở thành một điều cực kỳ khó chịu dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn. Cả tôi và Anton đều đã quen với những chiếc quần không thay bốc mùi khủng khiếp vì cả Max, Freddie và Susannah đều chưa được tập đi vệ sinh, nhưng Sheila thậm chí còn bốc mùi hơn cả những gì chúng tôi đã từng cố gắng làm quen. Không chỉ vậy, những vết lấm lem hàng ngày vẫn đóng đầy trên mặt và tay con bé. Hôm nấu ăn, khi tôi đưa con bé vào nhà vệ sinh để rửa sạch vết sô-cô-la, trên cánh tay nó hiện rõ những lằn ngang phân biệt vùng da sạch và bẩn. Những lằn đó vẫn hiện rõ đến nay. Mái tóc dài của con bé buông xuống nửa lưng, bết lại từng đám lớn. Ngay từ bữa đầu tiên tôi đã kiểm tra xem em có chí rận gì không. Chúng tôi đã hai lần vất vả đối phó với chí và tôi không có hứng thú đụng độ thêm lần nào nữa. Tôi từng bị lây chí và phải mất một thời gian khá lâu mới trị dứt hẳn. Nhưng có vẻ như Sheila không bị chí rận gì, chỉ có điều con bé bị lở quanh miệng và tôi hy vọng những đứa khác sẽ không bị lây.

    Mỗi tuần, cô y tá của trường lại ghé qua lớp tôi một lần vào buổi chiều thứ Năm. Tôi đã thử giao mấy đứa học trò của mình cho cô. Hầu hết chúng đều bị lở, bị chuột cắn hay bị những căn bệnh do sống trong hoàn cảnh nghèo khó khác. Nhưng cuối cùng thì cô chỉ đưa tôi thuốc mỡ và dầu gội Kwell rồi tôi cũng phải tự chăm sóc lấy bọn trẻ, đơn giản là chỉ một buổi chiều thứ Năm mỗi tuần thì không đủ để xử lý tất cả những vấn đề của bọn trẻ.

    Sau giờ tan học, tôi đợi mấy đứa khác về hết để giải quyết vấn đề vệ sinh của Sheila. Con bé vẫn ngồi trong ghế trong khi những đứa khác chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng ra về. Tôi đến mở tủ lấy mấy chiếc lược và cọ ra. Tối hôm trước tôi đã ghé qua tiệm tạp hóa để mua một bọc kẹp tóc nhỏ.

    Tôi gọi:

    - Sheila, lại đây nào. Cô có cái này cho con.

    Con bé đứng lên đi đến chỗ tôi. Đôi mày con bé nhíu lại vừa ngờ vực vừa tò mò. Tôi đưa một gói nhỏ cho con bé. Con bé cứ cầm cái gói trong tay một lúc lâu và nhìn tôi bối rối. Tôi giục con bé mở ra và nó nghe theo. Con bé lấy mấy cái kẹp ra, nhìn chúng, rồi nhìn tôi. Trán con bé vẫn nhăn lại vì bối rối.

    - Cái này dành cho con đó, bé con ạ. Cô nghĩ chúng ta có thể chải tóc cho con thật đẹp rồi kẹp lên. Giống như cô vầy nè.

    Tôi vừa nói vừa xoay lại cho con bé thấy mái tóc của mình.

    Con bé tỉ mỉ mân mê mấy cái kẹp qua lớp bọc nhựa. Con bé nhíu mày nhìn tôi chăm chú.

    - Sao cô lại làm vậy?

    - Làm gì?

    - Làm tốt với con?

    Tôi nhìn con bé, không thể tin nổi nó có thể nghĩ và nói ra điều đó.

    - Vì cô thương con.

    - Sao vậy? Con thì một đứa trẻ điên khùng. Con làm đau cá của cô. Sao cô thì lại tốt với con?

    Tôi cười để khỏa lấp sự lúng túng của mình:

    - Chỉ là cô thích vậy thôi, Sheila. Chỉ vậy thôi. Cô nghĩ là con sẽ thích có một thứ đẹp đẹp gắn lên tóc.

    Con bé tiếp tục sờ nắn mấy cái kẹp qua lớp giấy bọc, cảm nhận lớp nhựa thay đổi hình dạng dưới ngón tay mình.

    - Trước giờ chẳng ai cho con không cái gì cả. Chẳng ai thật sự đối xử tốt với con cả.

    Tôi hoang mang đứng đó nhìn con bé. Tôi chưa từng trải qua chuyện gì tương tự như vậy. Tôi chỉ có thể nói với con bé:

    - À, mọi thứ ở đây đều khác cả, nhóc tì ạ.

    Tôi cẩn thận chải mớ tóc rối bù của con bé. Việc đó mất nhiều thời gian hơn tôi nghĩ vì tôi không muốn làm đau con bé dù chỉ một chút. Tôi rất sợ sẽ vô tình phá hoại mối quan hệ mỏng manh đang hình thành giữa chúng tôi vì chúng tôi đến từ những thế giới quá khác biệt. Con bé ngồi yên rất kiên nhẫn, tay vẫn nắm chặt mấy cái kẹp nhưng không hề mở chúng ra khỏi bao. Nó cứ mân mê vuốt ve chúng mãi nhưng vẫn không chịu mở ra. Tóc con bé rất đẹp, mềm và thẳng không thể tưởng, và thật may mắn không có chỗ nào quá rối. Khi chải ra hết, tóc nó buông thành một lớp dày và dài quá nửa lưng. Tôi cũng không quên chải phần tóc mái cho em. Chúng dài quá, phủ xuống cả mắt. Con bé là một bé gái kháu khỉnh với những đường nét thanh mảnh, đáng yêu. Con bé sẽ còn dễ thương hơn nữa sau khi được tắm gội sạch sẽ.

    - Rồi đó con. Nào, đưa cô mấy cái kẹp để cô kẹp lên tóc cho con.

    Con bé thu mấy cái kẹp về ôm trong ngực.

    - Nào, mình cài nó lên tóc con nhé. Con bé lắc đầu.

    - Con không thích kẹp lên hả?

    - Cha con, ổng sẽ lấy mất của con.

    - Cha con sẽ không làm vậy đâu. Con chỉ cần nói với cha là cô tặng chúng cho con.

    - Ổng sẽ nói con ăn cắp chúng. Trước đây không ai cho con không cái gì cả.

    Con bé nắm chặt lấy mấy cái kẹp, ngắm nghía mấy chú chim sơn ca và vịt bằng nhựa qua lớp giấy bọc.

    - Vậy bây giờ mình có thể để mấy cái kẹp ở trường đến khi cô gặp cha con và nói là cô tặng chúng cho con. Vậy được không?

    - Cô có sửa tóc con lại đẹp đẹp nữa không?

    Tôi gật đầu:

    - Sáng mai khi con đến lớp cô sẽ lại chải tóc đẹp cho con.

    Con bé ngắm mấy cái kẹp một lúc lâu rồi ngập ngừng đưa trả chúng cho tôi.

    - Nè, cô giữ cho con nha.

    Tim tôi đập mạnh trong lồng ngực khi tôi nhận lại mấy cái kẹp. Rõ ràng con bé thấy hết sức khó khăn khi phải đưa trả chúng lại cho tôi. Ngay lúc đó, Anton vào phòng, nhắc tôi đã gần đến lúc anh phải đưa Sheila qua trường trung học để đón xe buýt về nhà. Tôi rất ngạc nhiên vì thời gian trôi qua quá nhanh. Thậm chí chúng tôi chưa kịp rửa ráy gì cả và con bé vẫn bốc mùi khinh khủng.

    Tôi hỏi:

    - Sheila nè, ở nhà có khi nào con tự tắm rửa không?

    Con bé lắc đầu:

    - Nhà con không có bồn tắm.

    - Con có rửa mặt không?

    - Cũng không có cái gì để rửa mặt luôn. Cha con, ổng lấy một thùng nước cho hai cha con ở trạm xăng.

    Con bé ngập ngừng nhìn xuống sàn nhà:

    - Cái đó chỉ để uống hết thôi. Ổng sẽ giận con kinh khủng nếu con làm bẩn chúng.

    - Con có bộ quần áo nào khác không? Con bé lắc đầu.

    - Ừm, để mai cô xem thử mình có thể làm gì không, được không bé con?

    Con bé gật đầu rồi đi đến chỗ treo áo tìm chiếc áo khoác mỏng dính của mình. Tôi thở dài nhìn theo con bé. Còn quá nhiều việc phải làm, tôi thầm nghĩ. Còn quá nhiều thứ phải thay đổi.

    - Tạm biệt con, Sheila. Chúc con buổi tối tốt đẹp. Sáng mai cô trò mình lại gặp nhau nhé.

    Anton nắm tay con bé và mở cửa bước ra vùng tối âm u của tháng Giêng lộng gió. Ngay khi Anton chuẩn bị đóng cửa lại, Sheila chựng lại, nhìn qua cánh tay anh về phía tôi. Con bé khẽ mỉm cười:

    - Tạm biệt cô, cô giáo.

    Còn nữa...
     
  10. Chiracat Nhân Ngư Ham Việc

    Bài viết:
    589
    CHƯƠNG 7

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày hôm sau tôi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ. Tôi mang theo ba chiếc khăn tắm, một bánh xà phòng, dầu gội và một chai kem dưỡng da cho em bé. Trước tiên tôi đi kiểm tra thùng đồ từ thiện trong văn phòng. Trong đó chỉ có đồ lót. Phần lớn những thứ trong đó quá to so với cô bé Sheila nhỏ nhắn. Khi tìm được một chiếc quần nhung và một chiếc áo thun khác, tôi trở về phòng.

    Ngay khi Sheila đến, tôi mở nước xả vào chiếc bồn rửa mặt nằm ở phía sau lớp học. Chiếc bồn rửa mặt cỡ lớn, rộng rãi và tôi đoán mình có thể ngâm con bé vào. Chúng tôi còn đang rất thiếu thốn cơ sở vật chất. Ngay khi vừa nhìn thấy tôi, con bé vội cởi bung áo khoác và lon ton chạy tới. Đó là lần đầu tiên tôi thấy con bé di chuyển nhanh như vậy. Đôi mắt con bé mở to hào hứng khi cúi người nhìn xem tôi đang làm gì.

    - Cô sẽ gắn kẹp lên tóc con ngay bây giờ chứ? - Dĩ nhiên rồi. Nhưng trước tiên chúng ta phải cho con qua một quy trình làm đẹp đầy đủ đã. Chúng ta sẽ tắm gội cho con từ đầu đến chân. Vậy được không?

    - Có đau không cô?

    Tôi phì cười:

    - Không, ngốc ạ. Không đau đâu con.

    Con bé cầm chai kem dưỡng da cho em bé tôi để trong giỏ lên và mở nắp.

    - Cái này thì để làm gì cô? Có ăn được không?

    Tôi ngạc nhiên nhìn con bé:

    - Không, đây là kem dưỡng da. Con thoa nó lên người.

    Gương mặt con bé bỗng trở nên thư giãn.

    - Cái này thì thơm, cô giáo ơi. Cô ngửi đi. Nó thơm và cô thoa nó lên người để ngửi cô thơm.

    Ánh mắt con bé thật phấn khích.

    - Giờ đứa con trai kia, ảnh sẽ không nói con hôi nữa hả?

    Tôi mỉm cười với con bé:

    - Không đâu, cô nghĩ là ảnh sẽ không nói vậy nữa. Nhìn đây này, cô đã tìm được mấy bộ đồ cho con mặc nè. Rồi chiều nay khi chị Whitney đến chị sẽ mang đồ của con qua tiệm giặt ủi nha.

    Sheila quan sát chiếc quần nhung, thận trọng cầm lên.

    - Cha con ổng sẽ không cho con giữ nó đâu. Cha không cho con lấy đồ cứu trợ.

    - Ừ, cô hiểu rồi. Vậy con chỉ mặc chúng đến khi nào bộ kia khô thôi. Được không?

    Tôi bồng Sheila đặt lên kệ cạnh bên bồn rửa mặt và cởi giày vớ con bé ra. Trong lúc đó, con bé quan sát tôi cẩn thận. Tôi cảm thấy áp lực về thời gian đè nặng vì mấy đứa khác sẽ đến lớp trong vòng chưa đến nửa tiếng nữa, và mặc dù chúng vẫn thường tắm và nhìn những đứa khác tắm trong bồn, tôi vẫn e Sheila sẽ không chịu được khi có người khác quan sát. Tôi hỏi con bé chuyện đó và em nói không sao, nhưng tôi vẫn cảm thấy tốt hơn hết mình nên xong việc trước khi mấy đứa khác đến.

    Con bé ốm nhom ốm nhách, gầy giơ cả xương sườn. Tôi để ý thấy mấy vết sẹo trên mình con bé.

    - Cái này bị gì vậy?

    Tôi hỏi khi đang rửa một cánh tay cho con bé. Vết sẹo dài năm phân chạy dọc theo bên trong cánh tay.

    - Đó là chỗ con đã làm gãy tay.

    - Sao con lại bị như vậy?

    - Chơi té ngã. Bác sĩ bó bột lại.

    - Con té ngã khi đang chơi hả?

    Con bé gật đầu quả quyết, mắt dõi theo vết sẹo.

    - Con ngã lên vỉa hè. Cha con, ổng nói con thì một đứa hậu đậu tồi tệ. Con hay tự làm mình bị thương lắm.

    Một câu hỏi xẹt ngang đầu tôi, câu hỏi đáng sợ mà tôi đã học cách phải hỏi học trò mình. Tôi cất tiếng:

    - Cha con có từng làm gì khiến con bị mấy vết sẹo như thế này không? Ví dụ như đánh con thật mạnh hay gì đó?

    Con bé nhìn tôi, đôi mắt tối sầm lại. Con bé im lặng cảnh giác tôi một lúc lâu khiến tôi ước giá như mình đừng đặt ra câu hỏi ấy. Đó là một câu hỏi riêng tư và có lẽ tôi chưa tạo ra được mối quan hệ đủ vững chắc để thân mật quá như thế.

    - Cha con ổng không làm vậy. Ổng sẽ không làm con đau. Ổng yêu thương con. Ổng chỉ đánh con một chút để dạy con tốt hơn thôi. Đôi khi phải làm vậy với con nít. Nhưng mà cha con, ổng yêu thương con. Chỉ là con thì một đứa hậu đậu nên bị nhiều sẹo thôi.

    Giọng con bé chứa đầy sự phản kháng.

    Tôi gật đầu và bế con bé ra khỏi bồn rửa mặt để lau khô. Con bé thôi không còn trò chuyện với tôi nữa. Tôi đang đặt con bé trong lòng và lau chân nó cho khô thì nó quay lại nhìn vào mắt tôi.

    - Cô có biết mẹ con làm gì không?

    - Không.

    - Nè, để con chỉ cô xem.

    Con bé giơ chân kia lên và chỉ vào một vết sẹo.

    - Mẹ con mang con ra đường và bỏ con ở đó. Bả đẩy con khỏi xe và con té xuống làm một cục đá cắt vào chân con ngay chỗ này nè. Cô coi nè.

    Con bé chỉ vào một vết trắng.

    - Cha con, ổng yêu thương con. Ổng không bỏ con không trên đường. Đáng lẽ không được làm vậy với em bé nhỏ.

    - Ừ, lẽ ra không được làm vậy.

    - Mẹ con, bả không yêu thương con thật tốt.

    Tôi bắt đầu chải tóc cho con bé trong im lặng. Tôi thật sự không muốn nghe thêm, vì nghe con bé kể thật đau lòng. Giọng con bé thật bình thản và hết sức sự-thật-nó-như-thế khiến tôi thấy như lẽ ra mình không nên nghe những điều đó. Việc đó giống như thể bạn đọc nhật ký của ai đó, sự yên bình thanh thản của con chữ khiến từ ngữ thêm phần thê lương.

    - Mẹ con, bả mang Jimmie đi California. Họ thì đang sống ở đó, Jimmie là em trai của con và được bốn tuổi, tức là chỉ hai tuổi khi mẹ con bả bỏ đi. Suốt hai năm rồi con không được gặp Jimmie.

    Con bé im lặng trầm ngâm.

    - Con hơi nhớ Jimmie. Con ước gì có thể gặp lại em. Em thì một bé trai rất dễ thương.

    Một lần nữa con bé quay lại để nhìn tôi.

    - Cô sẽ thích Jimmie. Em là một bé trai dễ thương và không la khóc hay hư hỏng hay gì cả. Em sẽ là một bé trai dễ thương trong lớp học cho những các đứa trẻ điên khùng này. Mà con không nghĩ em thì điên khùng như con. Cô thích Jimmie. Mẹ con cũng thích. Bả thích Jimmie hơn con nên mang em đi và bỏ con lại. Cô nên có Jimmie trong lớp này. Em không làm những điều xấu như con làm.

    Tôi ôm con bé vào lòng.

    - Mèo con ạ, con chính là đứa cô muốn có. Không phải Jimmie. Một ngày nào đó em ấy sẽ có giáo viên riêng của mình. Cô không quan tâm những gì trẻ con làm, cô chỉ thích trẻ con, vậy thôi.

    Con bé ngồi xuống và nhìn tôi, nét mặt hiện lên vẻ sửng sốt:

    - Cô thì đúng là một cô giáo kỳ lạ. Con nghĩ cô cũng điên khùng như mấy đứa trẻ chúng con.

    Thứ Sáu hôm đó, cũng là ngày thứ năm con bé đến trường, con bé vẫn không trò chuyện với những đứa trẻ khác dù khi được người lớn hỏi đích danh thì em vẫn sẵn sàng trả lời. Đến cuối ngày, sau khi mọi người đã dùng kem và hoàn tất bài tập trước khi ra về, chúng tôi đứng xếp hàng chờ xe buýt đến để đón những đứa trẻ khác. Chúng tôi kết thúc hơi sớm và mọi người phải đứng chờ trong bộ đồ chống lạnh nên tôi đề nghị hát một bài. Max la to bài mình thích "Nếu bạn vui thì hãy vỗ tay", một trong số rất ít những bài thằng bé chịu hát cùng chúng tôi. Đó là một bài hát cần làm động tác đơn giản, chỉ cần bọn trẻ vỗ tay rồi dậm chân rồi gật đầu. Tôi nhìn sang chỗ Sheila đang đứng phía ngoài đám đông, con bé không hát nhưng rất chú ý quan sát. Khi chúng tôi kết thúc những động tác, xe buýt vẫn chưa đến nên tôi lại hỏi bọn trẻ về những động tác mới. Tyler nêu lên "Nếu bạn vui thì hãy nhảy tưng tưng". Thế là chúng tôi hát và làm theo động tác của Tyler. Nhảy tưng tưng. Tôi lại yêu cầu những động tác mới nữa. Sheila rụt rè giơ tay lên. Tôi hiểu lớp học của mình, hiểu những khó khăn của bọn trẻ, và vì cũng có ít học trò nên tôi không bao giờ yêu cầu chúng phải đưa tay lên như thế trừ khi chúng tôi đang trong lúc lộn xộn quá. Nhìn thấy đứa trẻ ấy - đứa cho đến lúc này vẫn không hề trò chuyện với bạn nào, đứa có một tiểu sử bất hợp tác - đứng giơ tay lên quả là một khoảnh khắc khiến tim tôi ngừng đập.

    - Sheila, con có ý kiến gì hả?

    Con bé rụt rè lên tiếng:

    - Quay vòng?

    Thế là chúng tôi vừa hát bài hát vừa quay vòng. Tuần đầu tiên trôi qua trong ngọn lửa chiến thắng.

    Suốt tuần sau, Sheila dần trở nên hoạt bát hơn trong lớp học. Con bé bắt đầu trò chuyện, lúc đầu còn dè dặt, sau đó không còn nữa. Sheila suy nghĩ về mọi thứ và nói rất rõ ràng ý của mình khi có cơ hội. Tôi rất vui thích vì có một đứa học trò liến thoắng trong lớp mình. Những đứa trẻ khác cũng đón nhận Sheila và tôi rất thích thú vì con bé kể tôi nghe rất nhiều thứ.

    Sheila không bao giờ đề cập đến sự việc thiêu cậu bé hồi tháng Mười một, từ lúc chúng tôi bắt đầu mối quan hệ, đến khi thân quen hơn, không bao giờ. Hầu hết những đứa khá tỉnh táo trong lớp đều nhận thức được một vài lý do tại sao chúng lại được đưa vào đây. Chúng tôi vẫn thường nói về những lý do đó vào những khoảng thời gian chúng tôi định trước hàng tuần, đôi khi là trong thời gian trò chuyện buổi sáng hoặc vào những lúc thân mật hơn: trong sân chơi khi chúng tôi đứng núp trong chỗ khuất gió mà run cầm cập, mải mê trò chuyện mà quên không vào lớp, trong bữa trưa hay giờ học vẽ hoặc giờ nấu ăn, nằm riêng với nhau bên gối trong góc tách biệt đặt mấy chiếc lồng thú. Dường như trong mỗi đứa trẻ đều có một nhu cầu mạnh mẽ được nói về những điều đó.

    Những mẩu đối thoại rất tự nhiên và thường không quá sôi nổi. Tôi đã tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm để có thể trò chuyện về những chủ đề như tự sát hay thiêu sống những con mèo một cách tự nhiên như thể tôi vẫn thường lập danh sách đồ cần giặt ủi hay hỏi tỉ số một trận bóng chày vậy. Bọn trẻ không cần biết những hành vi đó là sai trái hay mình đã khiến các bạn cùng lớp sợ hãi hoặc làm cho mọi người khó chịu - chúng đã biết điều đó. Nếu không thì ngay từ đầu chúng đã không phải vào lớp tôi. Thay vào đó, chúng cần khám phá và hiểu rõ bản chất của những hành động đó, cảm giác của chúng khi làm thế và vô số những chi tiết vô nghĩa liên quan đến chuyện đó. Hầu hết tôi chỉ lắng nghe, đặt ra một hai câu hỏi nếu có gì không rõ, ừ ừ để chúng biết tôi vẫn đang lắng nghe. Trong lúc đó tôi vẫn giữ cho chúng tôi bận rộn bằng hàng đống việc không cần suy nghĩ như tô màu hay làm giấy bồi để chúng tôi có thể trò chuyện mà không phải nhìn nhau, không nhận thức được mình đang trò chuyện.

    Sheila biết rõ tại sao con bé ở đây. Bắt đầu từ ngày thứ hai đến lớp, con bé vẫn gọi chúng tôi một cách rất trìu mến là "lớp học điên khùng". Còn con bé là một đứa điên khùng làm toàn những điều xấu. Con bé vẫn thường tham gia trò chuyện cùng chúng tôi. Nhưng sự kiện ấy không bao giờ được nhắc đến. Không nói với bọn trẻ. Không nói với tôi hay người lớn nào khác. Không bao giờ. Tôi cũng không gợi câu chuyện ấy ra. Mặc dù ít khi tôi lảng tránh vấn đề gì, nhưng bản năng tôi cho biết mình nên để yên chuyện này vì một lý do duy nhất là tôi biết mình nên làm vậy. Vì vậy chúng tôi không bao giờ nói đến chuyện đó. Tôi không bao giờ biết được những gì diễn ra trong đầu Sheila vào buổi tối tháng Mười một giá rét ấy.

    Tôi vẫn bối rối về cách diễn đạt của con bé. Con bé càng trò chuyện nhiều, sự khác biệt giữa cách nói của nó và cách tất cả chúng tôi nói càng thể hiện rõ ràng. Không có ghi nhận nào về việc cha con bé nói một loại phương ngữ nào khác. Khác biệt rõ nhất là con bé thường thêm từ khi nói, đặc biệt là "thì" và "làm", ngoài ra con bé cũng không dùng thì quá khứ. "Làm" được con bé sử dụng như một trợ động từ và em thêm vào câu bất cứ lúc nào em thích. Thay vì chia động từ theo chủ ngữ, con bé chỉ dùng đơn giản từ "thì". Đối với Sheila, thì quá khứ dường như không tồn tại trừ một số rất ít ngoại lệ. Mọi điều con bé nói dường như đều trong hiện tại hoặc tương lai. Điều này làm tôi bối rối mờ mịt vì con bé có thể diễn đạt chính xác những thì rất khó như câu điều kiện với "nên" và "sẽ", cũng như khả năng liên kết những câu phức tạp vượt xa hầu hết những đứa bé sáu tuổi. Tôi ghi âm lại những mẩu đối thoại của con bé và gửi cho các chuyên gia để phân tích. Trong khi chờ đợi, tôi để con bé trò chuyện theo cách nó muốn.

    Thầy Allan, bác sĩ tâm lý của trường, đã cho Sheila làm kiểm tra IQ và khả năng đọc. Sheila vượt qua bài kiểm tra IQ với số điểm cao nhất trong giới hạn của bài kiểm tra. Thầy Allan vô cùng kinh ngạc trước chuyện này. Thầy chưa từng gặp đứa trẻ nào làm được như thế trong bài kiểm tra của mình và dĩ nhiên không hề mong đợi điều đó từ một đứa được đưa vào lớp học của tôi. Sheila đọc và hiểu tương đương trình độ lớp năm dù thực tế chưa ai từng dạy con bé đọc cả. Hôm ấy thầy Allan ra về, hứa hẹn sẽ tìm một bài kiểm tra khác đủ đánh giá chỉ số IQ của Sheila.

    Mỗi buổi sáng trước khi giờ học bắt đầu, tôi lại làm vệ sinh cho Sheila. Tôi mua một cái xô nhựa ở cửa hàng giảm giá và cất lược, lược ống, đồ sạch, khăn tắm, xà phòng, kem dưỡng da và bàn chải đánh răng trong đó. Hầu như ngày nào Sheila cũng sẵn sàng tắm rửa và đánh răng nếu tôi đồng ý chải tóc cho con bé. Con bé rất thích mấy cái kẹp tóc. Tôi mua thêm một bộ giống loại tôi đang xài và Sheila canh giữ chúng như kho báu quốc gia. Mỗi buổi sáng con bé lại lấy ra kiểm tra, đếm đủ số và chọn cái nào sẽ dùng. Mỗi buổi chiều con bé lại gỡ kẹp ra khỏi tóc, đặt cẩn thận trong nếp gấp của chiếc khăn tắm. Rồi con bé đếm lại lần nữa để chắc là không ai lấy đi cái nào của mình. Quần áo của con bé lại là một vấn đề khó khăn khác. Tôi giữ sẵn mấy cái quần còn sạch ở trường và bắt con bé phải thay mỗi sáng. Chúng tôi không bao giờ nhắc đến vấn đề này vì sau ngày đầu tiên tôi đã nhận ra đây là một chủ đề nhạy cảm. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn con bé thay đổi. Cứ mỗi thứ Hai hàng tuần, Whitney lại mang đồ của Sheila đến tiệm giặt ủi tự động nằm cuối góc đường gần trường. Đó không phải là giải pháp tốt nhất nhưng ít ra Sheila không còn quá bốc mùi như trước. Dù sao đi nữa, giờ đây con bé cũng đã trở thành một bé gái kháu khỉnh và sạch sẽ. Con bé có mái tóc dài vàng óng, dày và điều khiến tất cả chúng tôi yêu thích là đôi mắt lấp lánh và nụ cười thường trực khoe ba khoảng trống của mấy cái răng sún ở hàm dưới.

    Thật nhẹ cả người vì một vấn đề mà tôi rất lo ngại nhưng đến nay vẫn chưa xảy ra đó là cách cư xử của con bé khi nó đi xe buýt một mình từ khu trại của dân nhập cư đến trường và ngược lại. Với một tiểu sử kinh hoàng về sự mất kiểm soát hành vi như thế, tôi không thể tin nổi là Sheila sẽ hành xử tốt trên xe buýt khi không có người giám sát. Tuy nhiên, nỗi lo sợ của tôi đã được chứng minh là vô căn cứ. Có lẽ việc nhét Sheila vào chung với bốn mươi học sinh trung học cũng đủ làm cho con bé sợ hãi.

    Nhưng có một lần một việc đã xảy ra vào hồi cuối tháng Giêng, lúc đó con bé đã sử dụng tuyến xe buýt ấy được một thời gian. Chiều hôm đó, tôi đưa con bé ra trạm xe buýt như thường lệ. Sau khi chào tôi, nó đi thẳng xuống hàng ghế sau cùng. Tuy nhiên, khi xe về đến khu trại của dân di cư và các học sinh trung học đã xuống xe hết thì không thấy Sheila đâu. Bác tài nhìn xuống hàng ghế phía sau xe nhưng vẫn không thấy con bé. Vì chuyến xe chỉ ghé lại hai trạm trước khi về đến khu trại và bác tài hoàn toàn không thấy Sheila xuống xe nên rất lo ngại và đã gọi cho tôi để chắc rằng con bé có lên xe. Tôi khẳng định là có. Tôi cứ phập phồng lo lắng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra với con bé. Sau đó thì bác tài gọi lại và báo đã tìm thấy Sheila. Thì ra Sheila đã nằm bẹp dưới sàn xe gần chỗ bánh sau, nơi có hơi ấm tỏa ra và cuộn mình ngủ thiếp đi. Sau lần đó, bác tài luôn kiểm tra kỹ để chắc rằng con bé đã thức dậy và xuống xe. Mấy cậu học sinh trung học lúc đầu chỉ cố chịu đựng sự hiện diện của con bé, giờ đã nhường cho nó một chỗ gần máy sưởi, cho nó mượn cặp hoặc áo khoác để gối đầu và đưa con bé về tận nhà vào những đêm con bé quá buồn ngủ.

    Một vấn đề vẫn chưa được giải quyết là chuyện về cha của Sheila. Tôi đã rất cố gắng tìm ông để trao đổi. Ông không có điện thoại nên tôi gửi một giấy mời nhờ Sheila mang về nhà mời ông đến trường. Không có hồi âm. Tôi lại gửi thêm giấy mời thứ hai. Vẫn không có hồi âm. Thế là tôi gửi một bức thư ngắn nói rằng tôi sẽ đến thăm nhà ông. Khi tôi và Anton đến chiều hôm ấy, nhà không có ai. Tôi hơi có cảm giác rằng ông không muốn gặp tôi. Cuối cùng tôi liên hệ với cô nhân viên xã hội phụ trách Sheila. Chúng tôi cùng nhau đến nhà ông một lần nữa, nhưng chỉ có Sheila ra đón chúng tôi. Cha con bé đi vắng.

    Tôi rất muốn gặp ông. Trước hết tôi muốn thu xếp để Sheila được mặc quần áo tử tế. Tôi đã đề cập việc này với cô nhân viên xã hội. Mặc dù Sheila chỉ có một bộ đồ duy nhất, nhưng tôi lại quan tâm đến áo ấm của con bé nhiều hơn. Con bé chỉ có một chiếc áo khoác bằng cotton mỏng dành cho con trai, hơi giống áo khoác của đội bóng chày Windbreaker. Con bé không có găng tay, không nón, không ủng. Mà lúc đó lại là tháng Giêng. Hầu như ngày nào nhiệt độ cũng chỉ quanh 20 độ, thậm chí có lúc xuống dưới 0. Có những hôm Sheila đến trường mặt mày tím tái vì phải đi bộ từ trường trung học cách đó hai dãy nhà. Tình hình cấp bách đến nỗi vào những ngày tệ nhất tôi phải mang xe hơi đến đón em. Vào giờ giải lao, tôi còn mặc thêm cho em vài cái áo. Một lần, tôi đánh bạo gửi mấy bộ đồ để con bé mang về nhà thì ngay ngày hôm sau, em mang tất cả trả lại trong một cái túi giấy. Sheila xấu hổ nói rằng con bé đã bị đánh đòn vì dám nhận "của bố thí". Cô nhân viên xã hội cho biết họ đã nhiều lần cảnh cáo cha con bé về điều này và có lần còn buộc ông phải vào thị trấn để mua quần áo cho Sheila bằng tiền trợ cấp của mình. Nhưng có lẽ sau đó ông đã trả quần áo để lấy tiền lại. Không thể ép buộc ông ta được, cô nhún vai nói. Cô không muốn gây nguy hiểm cho Sheila khi tìm cách giải quyết vấn đề triệt để vì rõ ràng là ông ta sẽ trút giận lên đứa trẻ. Tôi đã hỏi rằng đó chẳng phải là ngược đãi trẻ em hay sao, nhưng câu trả lời là về mặt pháp lý thì không, vì chẳng có chút biểu hiện bị ngược đãi nào ở con bé cả. Sau khi cô nhân viên xã hội ra về, tôi đã giận dữ đóng sầm cửa lại. Không có chút biểu hiện nào ở con bé là sao? Vậy thì con bé làm cái quái gì trong lớp tôi? Nếu đó không phải là ảnh hưởng để lại thì tôi cũng chẳng biết đó là gì nữa.

    Trong suốt thời gian ở lớp, tôi luôn cố hết sức mang đến cho con bé những điều mà nó đã bị tước đi do sự rối loạn và hoàn cảnh sống của mình. Con bé ngày càng trở nên sôi nổi. Từng giây từng phút trong ngày đều tràn ngập những khám phá và tiếng trò chuyện rôm rả. Trong những tuần đầu, con bé quanh quẩn bên tôi suốt ngày. Dù tôi đi đến đâu, khi quay lại đều thấy con bé đứng sau lưng, tay ôm một cuốn sách hay những khối vuông để học toán. Mỗi khi bắt gặp ánh mắt của tôi, con bé lại nở một nụ cười ngây thơ, trong sáng và lon ton chạy đến bên tôi. Tất nhiên tôi vẫn chia đều thời gian dành cho những đứa khác, nhưng điều đó cũng không làm con bé phiền lòng. Con bé kiên nhẫn đứng sau lưng đợi đến khi tôi xong việc. Thỉnh thoảng tôi còn cảm thấy một bàn tay ngập ngừng nắm lấy lưng quần mình khi con bé dạn dĩ hơn và muốn tiếp xúc gần gũi hơn. Anton luôn trêu chọc tôi rằng tôi trông giống một đầu tàu, bởi khi tôi di chuyển quanh phòng để giúp đỡ những đứa khác, Sheila luôn theo sau tôi, tay tóm chặt lưng quần tôi như hành khách đi xe buýt nắm lấy quai treo trên trần xe.

    Suốt những tuần đầu tiên ấy, tôi vừa cảm thấy may mắn vừa cảm thấy không may về hai tiếng đồng hồ chúng tôi ở lại riêng với nhau sau giờ học. Thời gian chuẩn bị giáo án của tôi bị rút ngắn. Ngoài ra, tôi phải mang công việc về nhà và làm thêm vào buổi tối. Điều này khiến Chad cảm thấy như anh bị bỏ rơi. Anton thì cằn nhằn vì không thể trao đổi với tôi những vấn đề về công việc nữa trừ khi cả hai chúng tôi đều đến trường lúc bảy giờ rưỡi sáng. Nhưng đối với Sheila, khoảng thời gian ấy thật lý tưởng. Con bé cần sự quan tâm không san sẻ.

    Suốt sáu năm trong đời mình con bé luôn bị xa lánh, ghẻ lạnh, thờ ơ. Bị tống khỏi xe, bị hất văng khỏi cuộc sống của mọi người. Giờ đây có người ôm con bé, trò chuyện với nó, vỗ về nó. Sheila đón nhận tất cả những cử chỉ yêu thương nhỏ nhất mà tôi có thể dành cho nó. Dù cũng hơi bất tiện khi mất đi hai tiếng dành để soạn giáo án, nhưng tôi cảm thấy bớt lo lắng hơn khi để con bé lò tò đi theo tôi, bám vào thắt lưng tôi khi tôi chưa thể chú ý đến nó vì phải dành thời gian cho những đứa trẻ khác, bởi vì sau giờ học tôi lại dành toàn bộ thời gian của mình cho riêng nó.

    Cũng như Anton và tôi, mấy đứa trẻ khác cũng rất vui thích khi thấy Sheila trở nên tràn đầy sức sống. Chiếc hộp của con ma tinh nghịch ngập tràn các mẩu giấy nhỏ với những nét chữ ngô nghê nhận xét về chuyển biến tích cực này. Hầu hết bọn trẻ đều cảm thấy nhẹ nhõm vì con bé không còn nặng mùi như trước nữa. Không chỉ vậy, chúng còn đón nhận bất kỳ nỗ lực nào của Sheila, dù là nhỏ nhất.

    Rõ ràng Sheila không có nhiều cơ hội để học phép lịch sự hay cách cư xử chừng mực với người khác. Con bé luôn phải cố gắng để tồn tại và lòng vị tha là một khái niệm xa lạ. Hậu quả là con bé đã quen với việc phải tranh đấu để giành được thứ mình muốn. Khi ai đó bước vào chỗ xếp hàng mà con bé đã chọn, con bé liền đấm người đó một phát thật mạnh để giành lại chỗ đó. Nếu đứa trẻ nào có món đồ chơi con bé thích, con bé liền tóm lấy, giật khỏi tay đứa kia và ôm món đồ chơi chạy vụt đi chỗ khác, rít lên giận dữ đe dọa bất kỳ ai muốn lấy lại món đồ. Xét trên nhiều mặt, những phản ứng trực diện như thế của con bé còn thô bạo và kinh khủng hơn cả Peter, nhưng thái độ đó hoàn toàn do bản năng, không một chút ác ý.

    Tôi hiểu rằng sau sáu năm con bé hành xử theo thói quen đó, thì giờ đây việc giảng giải cho em hiểu nên ứng xử khác đi là cả một vấn đề. Những lời quở trách, cảnh cáo và cả phạt con bé đứng ở góc phòng không có ảnh hưởng đáng kể đến thái độ của nó. Vậy mà Chiếc hộp của con ma tinh nghịch lại làm được điều đó.

    Mỗi buổi chiều, Sheila lại chăm chú lắng nghe khi tôi đọc những mẩu giấy và khen ngợi những đứa trẻ nào được nhắc đến. Mỗi lần như vậy, con bé đều hào hứng đếm những lời khen dành cho mình và nếu có thể liền đếm luôn cả lời khen dành cho những đứa khác để so sánh xem mình được nhiều hay ít hơn. Tôi đã cố ngăn hành động đó. Những đứa khác không hề ganh đua và không cảm thấy cần thiết phải đánh giá giá trị của mình bằng số lượng lời khen chúng nhận được. Tôi không muốn chúng như vậy. Nhưng Sheila không thể cưỡng lại điều đó. Cái tôi nhỏ bé của con bé không thể ngồi yên. Hết lần này đến lần khác, con bé luôn muốn chứng tỏ mình là đứa ngoan nhất trong lớp, thông minh nhất, chăm chỉ nhất, được tôi yêu thương nhất. Khi tôi nhất quyết không thừa nhận điều đó, con bé đặt ra mục tiêu sẽ chứng minh bằng những mẩu giấy trong Chiếc hộp của con ma tinh nghịch. Nhưng việc đó thật sự vượt quá khả năng của con bé. Con bé có thể chứng minh với tôi mình đọc giỏi đến mức nào. Rất đơn giản, chỉ cần mang một cuốn sách ra. Con bé có thể chứng minh với tôi mình giỏi toán đến mức nào. Việc đó cũng rất đơn giản. Nhưng con bé không biết làm thế nào để trở nên ngoan ngoãn, lịch sự hay ý tứ trước mọi người để giành được nhiều lời khen.

    Một chiều sau giờ học, con bé rụt rè đến bên bàn nơi tôi đang phân tích một thí nghiệm khoa học và hỏi:

    - Sao Tyler lại có nhiều mẩu giấy khen vậy cô?

    Chị ấy có nhiều hơn tất cả những người khác. Cô viết cho chị ấy phải không?

    - Không, con biết rõ điều đó mà. Mọi người viết giấy khen đấy chứ.

    Con bé nghiêng đầu:

    - Vậy sao chị ấy lại có nhiều hơn? Chị ấy làm thế nào? Sao mọi người lại thích chị ấy nhiều vậy?

    Tôi im lặng cân nhắc một lúc:

    - À, chắc là vì chị lịch sự. Khi chị muốn cái gì, chị hỏi xin và hầu như lúc nào cũng nói "vui lòng". Và "cảm ơn" nữa. Việc đó khiến người khác sẵn sàng giúp đỡ chị và ở bên chị vì chị khiến mình cảm thấy dễ chịu.

    Sheila chau mày, nhìn xuống đôi tay mình. Sau khi im lặng một lúc lâu, con bé nhìn tôi trách móc:

    - Sao cô không bao giờ nói với con là cô muốn con nói vui lòng và cảm ơn? Con không biết cô thích như vậy. Sao cô lại nói với Tyler mà không nói với con?

    Tôi ngẩn người ra nhìn con bé.

    - Sheila ơi, cô không hề nói với chị Tyler. Đó là điều mọi người vẫn làm mà. Mọi người luôn thích người khác lịch sự mà.

    Con bé hờn dỗi:

    - Con không biết chuyện đó. Chưa ai từng nói với con điều đó. Con không biết cô muốn con làm vậy.

    Nghĩ kỹ lại, tôi thấy con bé nói đúng. Có lẽ tôi chưa bao giờ nói thế với con bé. Đó là một trong những điều mà tôi tin chắc đứa trẻ nào cũng biết, nhất là với một đứa thông minh như Sheila. Tôi đã mặc nhiên xem như con bé biết điều đó. Nhưng giờ đây tôi đã nhận ra sai lầm trong giả định của mình. Có lẽ trong cuộc đời mình, Sheila chưa từng được nghe những từ đó. Hoặc trước đây đối với em những từ đó chẳng mang ý nghĩa gì.

    - Cô xin lỗi Sheila nhé, cô tưởng con biết rồi.

    - Con không biết. Con có thể nói những từ đó nếu con biết cô muốn con làm vậy.

    Tôi gật đầu:

    - Ừ, cô rất muốn con làm vậy. Đó là những từ rất tích cực vì nó khiến mọi người cảm thấy dễ chịu. Điều đó rất quan trọng. Việc đó sẽ làm mọi người thích con hơn.

    - Liệu họ có nói với con con là một bé ngoan không?

    - Việc đó sẽ giúp họ nhận ra con là bé ngoan. Thế là từng chút từng chút một, con bé bắt đầu dõi theo cách mọi người làm thế nào để trở nên ngoan ngoãn và thân thiện hơn. Khi con bé không hiểu, nó sẽ hỏi. Nếu tôi nhận thấy con bé chưa biết điều gì, tôi sẽ nói với nó vào những lúc chúng tôi ở riêng với nhau.

    Còn nữa...
     
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...