

Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược lần 2 (1285) - Tường thuật chi tiết Nguyên nhân, Diễn biến, Kết quả, Ý nghĩa và Tên tuổi, Vai trò của các Danh tướng (danh nhân) kiệt xuất nhà Trần
Hơn bảy trăm năm trước, cả Á, Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm trước vó ngựa của giặc Mông. Khắp châu Á, châu Âu chưa có một danh tướng nào cản được. Vậy mà ở bán đảo Đông Nam Á, lũ giặc ấy đã phải kinh hồn, lạc phách trước tinh thần chiến đấu kiên cường, bền bỉ, anh dũng, mưu trí của quân dân Đại Việt thể hiện "Hào khí Đông A" của nước Đại Việt ta thời ấy.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai diễn ra năm 1285, sau cuộc kháng chiến lần thứ nhất khoảng 27 năm.
Cuộc kháng chiến kéo dài khoảng 4 tháng từ cuối tháng Chạp năm Giáp Thân đến cuối tháng Tư năm Ất Dậu (cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 dương lịch).
Trong lần này, quân Nguyên huy động lực lượng đông đảo gấp cả chục lần so với cuộc chiến lần trước. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông đã giành chiến thắng vang dội trong cuộc kháng chiến này, thể hiện "Hào khí Đông A" của nước Đại Việt oai hùng ta thời đó.
1. Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử - nguyên nhân diễn ra cuộc kháng chiến
- Năm 1281, vua Nguyên đòi vua Trần vào chầu. Vua Trần cáo bệnh từ chối và cử chú mình là Trần Di Ái sang thế. Vua Nguyên nhân cơ hội này phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và gửi thư cho vua Trần thông báo việc lập Di Ái thay vua Trần Nhân Tông.
Năm 1283, Hốt Tất Liệt sáp nhập hành tỉnh Kinh Hồ - Chiêm Thành, biến những vùng đất đã chiếm được của Chiêm Thành trở thành căn cứ phía Nam để đánh Đại Việt.
1284, vua Nguyên điều đạo tổng cộng 50 vạn quân chinh phạt Chiêm Thành ở phía Nam, sau đó hợp với cánh phía Bắc của Thoát Hoan tạo ra thế gọng kìm bao vây Đại Việt ở giữa. Đây là lần xuất chinh với quân số lớn nhất mà nhà Nguyên từng thực hiện, so với dân số thời đó thì đoàn quân này có quy mô cực lớn (khi nhà Nguyên tấn công Nhật Bản năm 1281, họ cũng chỉ huy động 14 vạn người, dù dân số và diện tích Nhật Bản lớn gấp đôi Đại Việt thời nhà Trần).
Sau này người Việt có câu ví von "Đông như quân Nguyên" là vì nguyên do này.
- Về phía Đại Việt, các vương tôn nhà Trần được lệnh tuyển thêm quân. Quân đội liên tục được tập trận. Cuối năm 1282, vua Trần đã triệu tập một hội nghị quân sự tại Bình Than để "bàn kế đánh phòng" và "chia quân giữ nơi hiểm yếu". Tất cả các tướng lĩnh phạm tội, như Trần Khánh Dư, đều được tha tội để đến hội nghị bàn việc. Đại Việt sử ký toàn thư chép việc Trần Quốc Toản vì nhỏ tuổi không được dự Hội nghị Bình Than đã tức giận bóp nát quả cam.
Trần Quốc Tuấn đã viết Hịch tướng sĩ để nâng cao tinh thần của quân sĩ. Nhiều chiến sĩ Đại Việt đã xăm hai chữ Sát Thát (Sát nghĩa là "giết", còn Thát chỉ người Mông Cổ) vào tay để thể hiện quyết tâm chiến đấu của mình.
2. Diễn biến trận cuộc kháng chiến
Năm 1285, vua Nguyên chia làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt. Đạo chủ lực do Thoát Hoan và Ariq Qaya chỉ huy từ Ninh Minh tiến vào Lộc Châu (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn). Chống lại đạo quân thứ nhất này của quân Nguyên là lực lượng chủ lực của quân Trần do đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy.
Đạo thứ hai chỉ gồm hơn 1 nghìn quân Mông Cổ và Vân Nam do Nasirud Din từ Vân Nam vào Đại Việt qua vùng Tuyên Quang tiến theo sông Chảy. Vị chỉ huy quân Trần ở vùng này là Trần Nhật Duật.
Đạo thứ ba là đạo quân đang chiến đấu ở Chiêm Thành do Toa Đô chỉ huy, tiến vào Đại Việt muộn hơn hai cánh trên, vào khoảng tháng 3 dương lịch, từ phía Nam.
a. Giai đoạn quân ta phòng ngự và rút lui
Từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 2 năm 1285, do quá chênh lệch về lực lượng và vũ khí, trong khoảng 1 tháng, quân ta chỉ có thể đánh phòng ngự và rút lui để cố gắng bảo toàn lực lượng và chờ đợi thời cơ phản công.
*Trận Sơn Động
Cuối tháng 1, trận giao chiến đầu tiên giữa hai bên là trận tại ải Khả Ly. Quân địch lần lượ vượt qua được ải Khả Ly, ải Động Bản rồi tiến xuống từ Lộc Châu. Rồi chúng tràn qua ải Vĩnh Châu, Thiết Lược, Chi Lăng, ải Nội Bàng. Trong trận này, quân ta bị tổn thất nặng nề; nhiều vị tướng của ta chiến đấu anh dũng nhưng vẫn bị bắt hoặc hi sinh.
Nhờ có Yết Kiêu giữ thuyền đợi, Trần Quốc Tuấn đã thu quân được về Vạn Kiếp.
* Trận Vạn Kiếp:
Từ ngày 11 tháng 2 năm 1285 đến ngày 14 tháng 2, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp và Chí Linh và Bình Than. Nhiều trận thủy chiến lớn đã xảy ra. Trước thế giặc quá đông và mạnh, quân Trần đã quyết định rút lui để tránh thế giặc mạnh, thực hiện nghi binh khiến địch mệt mỏi rồi mới phản công.
(Mời các bạn đọc tiếp phần 2 ở bên dưới. Cảm ơn các bạn ❤)

Hơn bảy trăm năm trước, cả Á, Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm trước vó ngựa của giặc Mông. Khắp châu Á, châu Âu chưa có một danh tướng nào cản được. Vậy mà ở bán đảo Đông Nam Á, lũ giặc ấy đã phải kinh hồn, lạc phách trước tinh thần chiến đấu kiên cường, bền bỉ, anh dũng, mưu trí của quân dân Đại Việt thể hiện "Hào khí Đông A" của nước Đại Việt ta thời ấy.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai diễn ra năm 1285, sau cuộc kháng chiến lần thứ nhất khoảng 27 năm.
Cuộc kháng chiến kéo dài khoảng 4 tháng từ cuối tháng Chạp năm Giáp Thân đến cuối tháng Tư năm Ất Dậu (cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 dương lịch).
Trong lần này, quân Nguyên huy động lực lượng đông đảo gấp cả chục lần so với cuộc chiến lần trước. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông đã giành chiến thắng vang dội trong cuộc kháng chiến này, thể hiện "Hào khí Đông A" của nước Đại Việt oai hùng ta thời đó.
1. Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử - nguyên nhân diễn ra cuộc kháng chiến
- Năm 1281, vua Nguyên đòi vua Trần vào chầu. Vua Trần cáo bệnh từ chối và cử chú mình là Trần Di Ái sang thế. Vua Nguyên nhân cơ hội này phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và gửi thư cho vua Trần thông báo việc lập Di Ái thay vua Trần Nhân Tông.
Năm 1283, Hốt Tất Liệt sáp nhập hành tỉnh Kinh Hồ - Chiêm Thành, biến những vùng đất đã chiếm được của Chiêm Thành trở thành căn cứ phía Nam để đánh Đại Việt.
1284, vua Nguyên điều đạo tổng cộng 50 vạn quân chinh phạt Chiêm Thành ở phía Nam, sau đó hợp với cánh phía Bắc của Thoát Hoan tạo ra thế gọng kìm bao vây Đại Việt ở giữa. Đây là lần xuất chinh với quân số lớn nhất mà nhà Nguyên từng thực hiện, so với dân số thời đó thì đoàn quân này có quy mô cực lớn (khi nhà Nguyên tấn công Nhật Bản năm 1281, họ cũng chỉ huy động 14 vạn người, dù dân số và diện tích Nhật Bản lớn gấp đôi Đại Việt thời nhà Trần).
Sau này người Việt có câu ví von "Đông như quân Nguyên" là vì nguyên do này.
- Về phía Đại Việt, các vương tôn nhà Trần được lệnh tuyển thêm quân. Quân đội liên tục được tập trận. Cuối năm 1282, vua Trần đã triệu tập một hội nghị quân sự tại Bình Than để "bàn kế đánh phòng" và "chia quân giữ nơi hiểm yếu". Tất cả các tướng lĩnh phạm tội, như Trần Khánh Dư, đều được tha tội để đến hội nghị bàn việc. Đại Việt sử ký toàn thư chép việc Trần Quốc Toản vì nhỏ tuổi không được dự Hội nghị Bình Than đã tức giận bóp nát quả cam.
Trần Quốc Tuấn đã viết Hịch tướng sĩ để nâng cao tinh thần của quân sĩ. Nhiều chiến sĩ Đại Việt đã xăm hai chữ Sát Thát (Sát nghĩa là "giết", còn Thát chỉ người Mông Cổ) vào tay để thể hiện quyết tâm chiến đấu của mình.
2. Diễn biến trận cuộc kháng chiến
Năm 1285, vua Nguyên chia làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt. Đạo chủ lực do Thoát Hoan và Ariq Qaya chỉ huy từ Ninh Minh tiến vào Lộc Châu (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn). Chống lại đạo quân thứ nhất này của quân Nguyên là lực lượng chủ lực của quân Trần do đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy.
Đạo thứ hai chỉ gồm hơn 1 nghìn quân Mông Cổ và Vân Nam do Nasirud Din từ Vân Nam vào Đại Việt qua vùng Tuyên Quang tiến theo sông Chảy. Vị chỉ huy quân Trần ở vùng này là Trần Nhật Duật.
Đạo thứ ba là đạo quân đang chiến đấu ở Chiêm Thành do Toa Đô chỉ huy, tiến vào Đại Việt muộn hơn hai cánh trên, vào khoảng tháng 3 dương lịch, từ phía Nam.
a. Giai đoạn quân ta phòng ngự và rút lui
Từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 2 năm 1285, do quá chênh lệch về lực lượng và vũ khí, trong khoảng 1 tháng, quân ta chỉ có thể đánh phòng ngự và rút lui để cố gắng bảo toàn lực lượng và chờ đợi thời cơ phản công.
*Trận Sơn Động
Cuối tháng 1, trận giao chiến đầu tiên giữa hai bên là trận tại ải Khả Ly. Quân địch lần lượ vượt qua được ải Khả Ly, ải Động Bản rồi tiến xuống từ Lộc Châu. Rồi chúng tràn qua ải Vĩnh Châu, Thiết Lược, Chi Lăng, ải Nội Bàng. Trong trận này, quân ta bị tổn thất nặng nề; nhiều vị tướng của ta chiến đấu anh dũng nhưng vẫn bị bắt hoặc hi sinh.
Nhờ có Yết Kiêu giữ thuyền đợi, Trần Quốc Tuấn đã thu quân được về Vạn Kiếp.
* Trận Vạn Kiếp:
Từ ngày 11 tháng 2 năm 1285 đến ngày 14 tháng 2, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp và Chí Linh và Bình Than. Nhiều trận thủy chiến lớn đã xảy ra. Trước thế giặc quá đông và mạnh, quân Trần đã quyết định rút lui để tránh thế giặc mạnh, thực hiện nghi binh khiến địch mệt mỏi rồi mới phản công.
(Mời các bạn đọc tiếp phần 2 ở bên dưới. Cảm ơn các bạn ❤)
Chỉnh sửa cuối: