Cảm nhận về đoạn trích Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống...bay phấp phới

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 19 Tháng mười một 2022.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đề 3: Cảm nhận về đoạn trích "Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên.. Trong óc Tràng vãn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới". Từ đó, nhận xét sự mới mẻ của nhà văn Kim Lân khi viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

    Bài làm

    Có ai từng đặt câu hỏi rằng: Liệu câu chuyện có thực sự kết thúc hay không khi dấu chấm văn bản cuối cùng đã xuất hiện? Ta tìm gặp ý kiến của Aimatop "tác phẩm văn học chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện". Tác phẩm văn học là sự đan xen, trong đó xuất hiện nhiều khoảng mờ nhạt mơ hồ, bất kì tác phẩm nghệ thuật nào cũng có những đoạn bị bỏ ngỏ trong tình thế lửng lơ giữa đôi bờ hư thực do quy luật cảm xúc, cùng những đòi hỏi nghiêm ngặt của nghề văn. Vì tác phẩm không chỉ chứa những con chữ thẳng đơ trên trang giấy mà là những con chữ có hồn, nó bay ra khỏi trang giấy, sống dậy cùng cảm xúc người đọc và gieo ở họ những nhận thức về hiện thực cuộc sống, những cảm xúc chưa bao giờ có. Hơn nữa, nó còn mở ra một lối thoát, gieo ở họ sự hy vọng, những ước mơ khao khát về cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu xa, hướng họ đến những chân lý cuộc sống. Tìm kiếm trong kho tàng văn học, trở về năm 1954, có một tác phẩm như vậy ra đời với cách kết thúc mở bằng dòng suy nghĩ của nhân vật, là cách kết thúc mà tất cả các truyện hiện thực phê phán không đạt đến trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân. Thông qua đoạn trích

    "Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên.. Trong óc Tràng vãn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới".

    Từ đó, ta thấy được sự mới mẻ của nhà văn Kim Lân khi viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

    Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về người nông dân và làng quê Việt Nam – mảng hiện thực mà từ lâu ông đã có sự hiểu biết sâu sắc. Ông viết về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của dồng ruộng. Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung trong khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Qua tác phẩm, ông đã thể hiện không khí nông thôn Việt Nam và đời sống nhân dân, tuy còn nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, tài hoa, tha thiết gắn bó với quê hương cách mạng. Nguyên Hồng nhận xét: Kim Lân là nhà văn "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy".

    Tác phẩm được viết vào năm 1945 theo "đơn đặt hàng" của Báo Văn nhân dịp kỉ niệm 10 năm cách mạng tháng Tám thành công. Tác giả đã dựa vào cốt truyện "Xóm ngụ cư" để viết thành "Vợ nhặt". Truyện được bắt nguồn từ nạn đói năm 1945 và chủ yếu là những con người trong nạn đói ấy. Thông qua truyện, Kim Lân muốn khẳng định: "Trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng". Truyện kể về nạn đói năm 1945, một anh tên là Tràng nhà nghèo, dân ngụ cư, không lấy được vợ. Một lần, anh kéo xe thóc lên tỉnh, một người phụ nữ đã theo anh về nhà và họ đã trở thành vợ chồng – anh "nhặt" được vợ một cách dễ dàng chỉ với vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Anh đưa vợ về ra mắt người mẹ già trong sự ngạc nhiên của mọi người vì thêm một miệng ăn trong cảnh đói khát, người chết khắp nơi. Cảnh đêm "tân hôn" của hai người còn văng vẳng tiếng khóc. Bữa ăn đầu tiên sau "ngày cưới" đơn giản chỉ có cám cháo loãng với rau chuối thái. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác.

    Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà ở đây, chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và cái chết: Buổi chiều là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban đêm là tiếng hờ khóc người chết.. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe dọa và chết chóc: "Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen" hồi trống dồn đập, vội vã. Đây chính là âm thanh ám ảnh, gánh nặng sưu thuế đã tàn phá biết bao gia đình, kéo cong tấm lưng, vùi lấp số phận của biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh. Ngô Tất Tố đã có một tiểu thuyết "Tắt đèn" để phản ánh nỗi đau của người nông dân dưới chế độ sưu thuế. Trong tác phẩm "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu lại có những vần thơ thấm đẫm máu và nước mắt:

    "Ôi nhớ những năm nào thuở trước

    Xóm làng ta xơ xác héo hon

    Nửa đêm thuế thúc trống dồn

    Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy"

    Đàn quạ "bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen" như là một hình ảnh mang tính biểu tượng cho cái đói, cái chết, cho tử khí. Trong cảnh đằng bắt giồng đay, đằng bắt đóng thuế sao có sức ám ảnh ghê gớm, hai hình ảnh tưởng đơn giản những đã gây nên bao nỗi đau chồng chất. Chính vì những chính sách dã man ấy, bà cụ Tứ bị mất chồng và mất con gái, phải tha hương cầu thực trong danh phận dân ngụ cư đầy chua xót. Cho nên, khi nghe tiếng trống thúc thuế, lòng người mẹ giàu nua từng trải lại nhói đau thương, nỗi đau se sắt, quặn thắt lại. Nỗi đau đã khiến một người như bà cũng phải buông lời nghẹn ngào "không chắc đã sống qua được đâu các con ạ". Ngay cả người lạc quan nhất, bà cụ Tứ cũng phải nói ra lời chua xót, bi quan, hiện thực tối sầm của nạn đói cùng gánh nặng sưu thuế đã kéo bà cụ Tứ và gia đình trở lại với thực tại đau xót. Hoàn cảnh éo le, chua xót đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi ám ảnh của những con người trong nạn đói.

    Nghe thấy tiếng trống thúc thuế này "Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lẩm bẩm – Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?". Thị hoàn toàn ngạc nhiên, bởi "cuộc đời cơm vãi cơm rơi", "tối đâu là nhà ngã đâu là giường" đã đem cho thị những trải nghiệm sâu sắc. Thị đã mắt thấy, tai nghe đoàn người Việt Minh đã phá kho thóc Nhật chia cho người đói, người nông dân không còn phải đóng thuế, thực tại ở đây hoàn toàn khác với những gì thị đã biết. Trong sự ngạc nhiên ấy, thị đã băn khoăn và không ngần ngại kể cho mọi người nghe về đoàn người Việt Minh "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy". Câu chuyện rất ngắn gọn nhưng lại có ý nghĩa rất lớn đối với Tràng. Nó như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối" bị dồn đến cùng đường của Tràng.

    Chính nhờ điều này, đã khiến Tràng thầm nhớ tới cái hình ảnh "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp ." rồi hắn tự nhiên thấy "tiếc rẻ vẩn vơ", càng tiếc rẻ bao nhiêu chắc chắn Tràng lại càng chắc mẩm nếu Tràng gặp lại họ, Tràng sẽ không bỏ lỡ cơ hội. Bởi đi theo đoàn người Việt Minh là đi thep cách mạng, là hướng tới cơm áo, hướng tới sự sống. Khi nghe xong câu chuyện của Thị, Tràng tiếc rẻ vẩn vơ khó hiểu, tiếng trống lại một hồi vang lên dồn dập. Nghe tiếng trống ấy, Tràng lại càng khao khát mãnh liệt hơn bao giờ hết được tham gia cùng đoàn người Việt Minh đi cứu đói. Đó là niềm khao khát cùng những con người đứng bên bờ vực cái đói nên niềm khao khát càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nhất là đối với Tràng, hạnh phúc vừa mới nảy nở nhưng lại có nguy cơ bị bóp chết từ trong trứng nước. Nên anh hiểu rằng chỉ có đi theo Việt Minh mới có cơ hội thoát khỏi cái đói, cái chết cận kề, mới có cơ hội bảo vệ hạnh phúc gia đình mình. Trong niềm khao khát hạnh phúc ấy "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới". Đây là một kết thúc rất đẹp, hợp lí và logic, một kết thúc mới để lại nhiều liên tưởng thú vị, sâu sắc. Hình ảnh kết thúc này tươi rói trong màu đỏ sao vàng, trong hình ảnh những người nông dân vùng lên hăm hở đi phá kho thóc Nhật. Nó tươi rói lên niềm tin, niềm hi vọng của Tràng, của những nạn nhân khốn khổ của nạn đói năm 1945. Một xu hướng vận động tích cực được mở ra:

    "Anh em đi trọn con đường nhé

    Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai"

    Mang đến một âm hưởng lạc quan của cuộc đời, một trái tim ấm và nhen nhóm lên những mầm hy vọng tươi xanh. Từ đó truyện được mở ra một âm hưởng lạc quan và niềm tin tất thắng. Cảm ơn Kim Lân, và qua cách kết thúc truyện này ta còn biết rõ hơn về một nhà văn nhân đạo và tha thiết với con người là Kim Lân.

    Đoạn kết rất đặc sắc khi tạo ra kết thúc mở, trong đoạn văn ánh lên niềm khao khát giữ gìn hạnh phúc mỏng manh của Tràng và thị. Góp phần làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của truyện: Thông qua số phận con người trong nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân khẳng định trong cái đói, cái khát, cái chết cận kề con người ta vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, vẫn hướng đến sự sống khao khát hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình.

    Nét đặc sắc của đoạn trích chính là việc tác giả đã tạo ra một kết thúc mở rất hay. Kết thúc đã thể hiện niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai tươi sáng của người nông dân dưới sự soi rọi của ánh sáng cách mạng. Đây là điểm sáng nhân văn, thứ ánh sáng cách mạng đủ sức nâng giấc cho những con người cùng đường tuyệt lộ

    Để tạo nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phảm nói chung, tác giả đã tạo nên một tình huống truyện độc đáo, éo le, xây dựng đối thoại sinh động, hấp dẫn, ngôn ngữ quê kiểng nhưng sử dụng rất đắc địa, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Điều đặc sắc nhất của đoạn trích là tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế bằng sự hiểu biết của một con người vốn là con đẻ của đồng ruộng, bằng tấm lòng của một nhà văn "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy".

    Nhà văn Sê – khốp từng khẳng định: Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy. Quả đúng như vậy, văn là người, cho nên con người như thế nào thì văn chương cũng vậy. Nhà văn chân chính phải đứng trong lao khổ để đón những vang vọng cuộc đời. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm, nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Kim Lân đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo.

    Cách tiếp cận là thể hiện quan điểm, tư tưởng, cách nhìn nhận của nhân vật về con người và cuộc sống. Ví dụ như Nguyễn Tuân luôn tiếp cận con người dưới tư cách người nghệ sĩ, nhà văn Nam Cao có xu hướng đi sâu khám phá con người trong con người. Cách tiếp cận con người bị ảnh hưởng bởi quan điểm và phong cách của mỗi nhà văn. Đối với các tác phẩm trước đó, "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, chị Dậu chạy ra trong đêm tối như tiền đồ của chị; "Bước đường cùng" của Nguyễn Công Hoan, anh Pha từ người có ruộng vườn, trở thành kẻ trắng tay trở thành dân cùng; Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về làm người lương thiện và lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao đã chết đau đớn, cái chết đau đớn, cái chết của một con chó. Như vậy, các nhà văn lớn, nhà văn gạo cội của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 đã phản ánh chân thực số phận của người nông dân trước cách mạng tháng Tám bằng sự đồng cảm, xót thương, sự trân trọng những bản tính đẹp. Tuy nhiên, các nhà văn chỉ nhìn thấy con đường tăm tối, bế tắc của họ. Điều đó đã được thể hiện ở phần kết. Cái kết góp phần tạo nên bản cái trạng đanh thép chế độc thực dân phong kiến phi nhân đạo. "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân đã xây dựng một kết thúc mở. Mở đầu câu chuyện là cảnh tối sầm bên xóm ngụ cư người chết như ngả rạ, người sống xanh xám dật dờ như những bóng ma. Kết thúc tác phẩm là buổi sáng hôm sau với ánh nắng chói chang của mùa hè trong niềm hân hoan, hạnh phúc ngập tràn, trong niềm ân hận, tiếc rẻ của Tràng khi nghe thị kể chuyện và đọng lại ở hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới. Việc tạo dựng thời gian nghệ thuật rất nhiều ẩn ý của nhà văn Kim Lân. Một ngày mới đến, một trang đời mới đến cho gia đình bà cụ Tứ. Kim Lân nhìn thấy hiện thực của nạn đói, nhưng cùng trông thấy một tương lai tươi sáng hơn cho gia đình bà cụ Tứ. Nói tóm lại, cùng là đề tài chung nhưng tác phẩm có cái nhìn lạc quan hơn, tươi sáng hơn.

    Đọc xong tác phẩm tự dưng trong đầu tôi cứ hiện lên hình ảnh bà cụ Tứ tham gia đậy nắp hầm, thị và Tràng cùng đoàn người Việt Minh hăm hở đi phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Không biết tại sao, tôi cứ tin vào điều đó, cứ thấy trào dâng niềm tin như nhảy múa trong lòng khi nghĩ về họ, sự vùng lên thoát khỏi cái đói. Bởi tôi tin rằng, những con người như Tràng, như thị, như bà cụ Tứ có một nội lực rất mạnh và niềm tin đó được thắp lên từ một kết thúc đẹp, chân thực. Do tác phẩm được viết theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa nên nhìn thấy con người không chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh mà còn là người cải tạo hoàn cảnh sống; tác phẩm được viết năm 1954 khi cách mạng tháng Tám đã thành công. Tác phẩm đã nhìn thấy vai trò của người nông dân vùng lên trong cách mạng tháng Tám, họ đã "Rũ bùn đứng dậy sáng lòa" trong cuộc kháng chiến. Điều này đã cho thấy sự sáng tạo của nhà văn Kim Lân, khi ông đã "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" khiến văn học phong phú và đa dạng. Với kết thúc rất mới mẻ đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, sâu sắc và cao cả đã tạo nên thành công cho tác phẩm.

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
    Tác phẩm "Vợ nhặt" xứng đáng được coi là một kiệt tác của văn xuôi kháng chiến. Từ điểm nhìn cận cảnh về cuộc sống tối sầm của những con người trong đói khát, Kim Lân đã mở ra ánh sáng chói chang, người đọc đã thấy được tấm lòng nhân đạo bao la của ông vào con người, luôn mang niềm tin tưởng vào sự cảm hóa qua tình yêu thương. Trong truyện ngắn Vợ nhặt còn một điểm nhìn rất nhân văn, điểm nhìn này đã tạo nên sức sống và giá trị của tác phẩm, nó đủ sức để soi đường, chỉ lối, dẫn dắt đến tương lai tươi sáng đối với những ai đang lầm đường lạc lối như Kim Lân từng viết: "Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống".
     
    Last edited by a moderator: 28 Tháng sáu 2023
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...