Cảm nhận về bài thơ đồng chí

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Cam Thuong, 31 Tháng một 2022.

  1. Cam Thuong My name is Cẩm Thương :)

    Bài viết:
    92
    Cảm nhận về bài thơ đồng chí.

    Bài làm

    Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp không thể không nói đến Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến gian lao.

    Bài thơ "Đồng chí" được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt – Bắc thu đông (1947). Bài thơ là kết quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến.

    Bài thơ ca ngợi tình cảm đồng chí, đồng

    Đội trong gian khổ có nhau chia sẻ với nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, chăm sóc nhau trong những trận sốt rét rừng. Mọi khó khăn thử thách có thể xảy ra nhưng nhờ có tình cảm đồng chí mà họ không cảm thấy cô đơn trống trải.

    "Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".

    Mối quan hệ anh - tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Họ có chung một lý tưởng vĩ đại muốn giải phóng quê hương khỏi bóng quân thù.

    "Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,"

    Từ những con người hoàn toàn xa lạ nhưng

    Họ đã về đây bên nhau cùng nhau đứng dưới lá cờ của tổ quốc. Họ tới nơi đây cùng chung một ước mơ, một ý chí, tinh thần, một mục tiêu phấn đấu. Đó chính là hướng nòng súng của mình tới những kẻ thù để bảo vệ quê hương và những người thân yêu nơi quê nhà đang chìm trong gian khổ, lam lũ bởi sự chà đạp của những bọn người mắt xanh mũi lõ từ đâu tới, bóc lột thống trị đất nước ta. Bọn chúng bắt dân ta phải làm nô lệ, bắt đất nước ta phải sống cảnh thuộc địa lầm than.

    "Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

    Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

    Đồng chí!"

    Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu, thể hiện họ có chung một mục tiêu chiến đấu, có chung lý tưởng lẽ sống của đời mình. Họ có một kẻ thù chung của toàn dân tộc.

    Những người lính thân yêu của chúng ta ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, họ mang trong trái tim mình những hoài bão lớn lao, tình yêu quê hương to lớn. Họ sẵn sàng hiến dâng trái tim và thể xác để bảo vệ mảnh đất, ngọn cỏ dân tộc. Tình yêu quê hương đất nước lớn hơn tất cả khiến họ bỏ lại nơi quê nhà những điều chưa làm xong, những điều còn lo toan trăn trở, nhưng họ quyết tâm ra đi vì lý tưởng bảo vệ nền độc lập của dân tộc, vì tình yêu quê hương đất nước.

    "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

    Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

    Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính".

    Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Câu thơ "Gian nhà không mặt kệ gió lung lay" hết sức tạo hình cả

    Biểu cảm. Những người lính để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng mặc kệ thì đó quả là sự hi sinh lớn lao, quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong lúc gió lung lay và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn các về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội.

    Người lính hiện ra cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương, điểm tựa vững chắc cho người lính,

    Là đồng đội:

    "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

    Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

    Áo anh rách vai

    Quần tôi có vài mảnh vá

    Miệng cười buốt giá

    Chân không giày

    Thương nhau tay nắm lấy bàn tay".

    Đến đây tác giả đưa vào câu thơ của mình hàng loạt những chi tiết chân thực, đó là chiếc áo rách, quần vá và đôi chân không giày, ngoài ra còn là sự cam chịu căn bệnh sốt rét rừng kinh niên. Tất cả làm nổi bật không gian thiếu thốn của người lính. Đây cũng là những khó khăn chung của quân và dân ta trong thời kì dầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng điều chủ yếu mà Chính Hữu muốn nói ở đây không phải là cái khổ mà là sự hiểu nhau trong cái khổ. Những câu thơ có cấu trúc

    Sóng đôi, đối ứng nhau, cộng với các từ

    "Tôi", "anh" cùng xuất hiện đã góp phần diễn tả sự chia sẻ, sự giống nhau trong mọi cảnh ngộ của người lính. Khó khăn gian khổ thế nhưng họ vẫn sáng ngời nụ cười lạc quan "miệng cười buốt giá" và xúc động nhất họ vẫn truyền cho nhau hơi ấm của tình thương "thương nhau tay nắm lấy bàn tay", hình ảnh nắm lấy bàn tay thật giản dị nhưng vô cùng gợi cảm, nó vừa thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của người lính, vừa gián tiếp nói lên sức mạnh của tình cảm ấy, dường như chỉ bằng một cử chỉ "tay nắm bàn tay" mà người lính được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ.

    Ba câu thơ cuối bài thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng đẹp của cuộc đời người lính:

    "Đêm nay rừng hoang sương muối

    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

    Đầu súng trăng treo."

    Trong bức tranh, nổi bật trên nền cảnh rừng đêm sương muối giá rét là ba hình ảnh gắn kết với nhau: Người lính, khẩu súng, vầng trăng.. Ba hình ảnh này đã tạo nên một bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạng, trước hết tính hiện thực được thể hiện ở không gian và tình huống cụ thể, thời gian: Đêm nay, không gian: Rừng hoang sương muối, còn tình huống là hoàn cảnh những người lính: Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới, tất cả đều thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh, không những phải chịu cái rét thấu xương như hàng ngàn mũi kim trâm vào da, thịt mà cái chết còn rình rập bên mình bởi có thể trong chốc lát nữa thôi quân thù sẽ nổ súng và biết đâu một trong số họ sẽ ngã xuống, nhưng tình đồng đội đã tạo lên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi

    Khó khăn gian khổ.

    Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh lính kháng chiến. Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính đang thủ thỉ, tâm tình chân thực, cô đọng và giàu sức biểu cảm. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

    Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng

    Thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.

    Tác giả: DNNY
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...