Cảm nhận đoạn trích: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu... lửng lơ bay ngoài đường - Vợ chồng A Phủ

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 24 Tháng hai 2023.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

    Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà Mị từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

    Anh ném pao, em không bắt

    Em không yêu, quả pao rơi rồi.."

    (Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai,

    NXB Giáo dục Việt Nam, trang 7-8)

    Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn văn bản trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài.

    Dàn ý chi tiết:

    I. MỞ BÀI


    - Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    - Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu.. Em không yêu, quả pao rơi rồi." Là một phần diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Qua đó người đọc thấy được đăc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát:

    - "Vợ chồng A Phủ" chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi. Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    - Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả chân vách buồng. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làm dâu, có đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Đây có thể xem là sự phản kháng của Mị trước thần quyền và cường quyền, không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi vì cha mà cô không đành lòng chết. Từ đây, Mị chấp nhận cuộc sống "không bằng con trâu con ngựa", "đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc", chấp nhận bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói.. Sự đày đọa về thể xác dẫn đến sự tê liệt trong tinh thần nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, cứ lùi lũi như con rùa nới xó cửa. Trong đầu của Mị chỉ còn các các việc lặp đi lặp lại nối nhau vẽ ra trước mắt. Chi tiết về ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị nằm đã thể hiện một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, cho thấy Mị đã tê liệt đến mức không còn ý niệm về thời gian và không gian quanh mình.

    "Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp". (Ai ma tôp). Nhà văn Tô Hoài quả thực đã làm được điều đó khi thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Và chính sức sống tiềm ẩn bên trong một khi sống dậy thì rất mãnh liệt ấy đã giúp Mị từng bước tháo cũi sổ lồng, tìm được hạnh phúc cho cuộc đời mình. Tiếng sáo và những đêm tình mùa xuân đã đánh thức khát vọng sống và giấc mộng lứa đôi, khơi dậy sức sống tiềm tàng ở Mị. Đoạn văn này nằm ngay sau đoạn văn miêu tả thiên nhiên Tây Bắc, tiếng sáo gọi bạn lấp ló nơi đầu núi vào dịp tết đến xuân về và nhằm miêu tả tâm trạng và hành động của Mị.

    2. Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn trích

    2.1. Mị uống rượu

    Tiếng sáo đã dẫn đến hành động "nổi loạn" của Mị. Dịp Tết, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Tồi Mị say" . Đó cũng không phải là cách uống của người thưởng xuân cũng không phải uống vì thèm rượu. Cách uống rượu của Mị là cách uống để giải sầu, uống rượu như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Sức chịu đựng của Mị là có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có những diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Có thể nói rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất, khơi dậy sức sống tiềm tàng vốn bị vùi chôn ở nơi sâu kín nhất trong tâm hồn của Mị. Mị lịm mặt ngồi đấy nhưng tâm hồn Mị đang hồi sinh. Sự hồi sinh trong tâm hồn đã dẫn đến hàng chuỗi các tâm trạng, hành động cả vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật.

    2.2. Lòng Mị sống lại những ngày trước khi còn trẻ

    Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng sáo đang đang «văng vẳng gọi bạn đầu làng», lòng Mị đang sống về ngày trước, hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp thời con gái. Ngày ấy, Mị là người con gái xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, chỉ cần một chiếc lá là "Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo". Ngày ấy, Mị có "biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị" . Những hồi ức thanh xuân tươi đẹp ấy sống dậy cho thấy Mị đã bắt đầu thức tỉnh, Mị đã ý thức được về sự tồn tại, về cuộc đời của mình. Mị như ý thức được mình đang sống giữa hai thế giới: Quá khứ và hiện tại; tỉnh và say; hạnh phúc và bi kịch. Sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị và khát vọng sống như ngọn lửa đã làm bừng sáng lại tâm hồn Mị. Nhà văn Tô Hoài ở đây thực sự đã chứng tỏ sự am hiểu về tâm lí, tính cách của người dân vùng cao Tây Bắc. Tâm lí của Mị không chỉ có lí trí của một người tỉnh táo mà còn phải có sự chếnh choáng trong hơi men nồng nàn của rượu, trong kí ức của tiếng sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật Chí Phèo đang chơi vơi giữa hai bờ say, tỉnh của Nam Cao khi xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tâm trạng lưỡng cực đầy tinh tế ấy của nhân vật «không phải người viết mà là thần viết».

    2.3. Mị đi vào buồng và ý thức rằng mình vẫn còn trẻ


    Sự vượt lên hoàn cảnh của Mị diễn ra không hề dễ dàng. Tô Hoài đã rất tinh tế khi đặt nhân vật Mị vào sự giao tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, một bên là ý thức về thân phận. Ngòi bút của nhà văn như hóa thân vào nhân vật, để nâng niu, để trân trọng những khát vọng của con người, đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín trong tâm hồn nhân vật. Rượu tan, người về hết, Mị ngồi trơ một mình giữa nhà rồi Mị bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng trắng. Căn buồng ấy chính là thực tại, là ngục thất giam cầm tuổi thanh xuân và hủy hoại hạnh phúc của Mị. Cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng kia vốn là những hình ảnh nhiều sức gợi, thể hiện Mị đã tê liệt đến mức quên cả ý niệm về không gian, thời gian. Nhưng giờ đây khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc mãnh liệt khiến Mị có thể phá tan mọi gông cùm, áp chế. Để lúc này "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước". Quá khứ và hiện tại như đan xen khiến Mị trở lại là cô Mị trẻ trung, yêu đời ngày nào để Mị nhận ra bây giờ Mị vẫn còn rất trẻ và Mị muốn được đi chơi "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Mị còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát, còn muốn yêu thương.

    2.4. Tâm trạng phẫn uất khi nhận thức về hiện thực phũ phàng là cuộc hôn nhân không tình yêu

    Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy mãnh liệt bao nhiêu thì Mị lại phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Mị nhớ ra chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi. Mị nhận ra những người phụ nữ có chồng vẫn đi chơi ngày Tết: "Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!" Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như con vật.

    Sức sống tiềm tàng đã được đánh thức, Mị không thể cam chịu mãi kiếp nô lệ, kiếp làm dâu gạt nợ. Nhớ lại kiếp sống trâu ngựa chỉ thấy nước mắt muốn ứa ra. Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh, không chấp nhận cuộc sống trâu ngựa này nữa. Mị muốn chết để không phải đối diện với thực tại, không phải nhớ lại quá khứ cùng với những ước mơ khao khát của mình Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này tiêu cực nhưng dễ thông cảm và hơn hết đã cho thấy sự thay đổi ở Mị. Mị muốn chết chính là biểu hiện của sức sống, của khát vọng sống đích thực là một con người . Đây phải chăng là tình yêu, lòng nhân đạo của tác giả đối với nhân vật.

    2.5. Tiếng sáo một lần nữa thôi thúc sự trỗi dậy của Mị

    Nhưng Mị không có lá ngón trong tay mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ở ngoài đường. Phía sau ô cửa nhỏ kia là cả thiên đường hạnh phúc, là mùa xuân đang nồng nàn:

    "Anh ném pao, em không bắt

    Em không yêu, quả pao rơi rồi.."


    Tiếng sáo của tình yêu tuổi trẻ lại thôi thúc Mị, dìu hồn Mị theo những đám chơi, những cuộc chơi để từ đây khát vọng sống ở Mị vốn đã sống dậy giờ càng trở nên mãnh liệt. Vậy là hóa ra Mị vẫn luôn khao khát tình yêu, tự do và khao khát ấy vẫn âm ỉ ở bên trong, chưa bao giờ bị dập tắt.

    3. Đánh giá

    3.1. Nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài:

    Trong đoạn văn, nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc như: Lối kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo, đặc biệt hành động và diễn biến tâm trạng của Mị được miệu tả, lí giải cụ thể, hợp lí. Đi sâu vào tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã xây dựng nhân vật theo kiểu con người phân lập, có một cô Mị ở hiện tại và một cô Mị ở quá khứ hòa chung vào nhau. Hai con người ấy đan xen, khi tách ra khi hòa vào một tạo nên một nhân vật Mị hết sức sinh động, mới lạ.

    3.2. Nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài.

    Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của nhân vật. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được miêu tả rất tự nhiên như mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình.. Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách. Trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ với ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, câu văn giàu tính tạo hình, biểu cảm cùng với tấm lòng nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm, gấp khúc, tuần tự và đột biết trong tâm trạng Mị.

    3.3. Ý nghĩa của đoạn trích

    Đoạn trích góp phần hoàn thiện chân dung nhân vật Mị. Dù nghèo khó, bị áp bức nhưng trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Qua đó, nhà văn khám phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu, hạnh phúc của con người, thể hiện niềm tin vào sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên cuộc sống con người. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị trong đoạn trích cũng như tác phẩm đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc một ấn tượng khó phai mờ, đã góp phần nêu bật giá trị nhân đạo của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của nhà văn Tô Hoài.

    Bài tham khảo:

    Mở đầu bài thơ "Tiếng hát con tàu", nhà thơ Chế Lan Viên hạ bút:

    "Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

    Khi lòng ta đã hóa những con tàu

    Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

    Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?"

    Tây Bắc – mảnh hồn thiêng của núi sông, miền đất hứa nâng giấc cho biết bao câu bút gạo cội. Nếu Nguyễn Tuân đến đây vì "thứ vàng mười đã qua thử lửa" qua tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập "Truyện Tây Bắc" mà linh hồn của nó là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ". Thưởng thức từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng với "nàng dâu gạt nợ" của nhà thống lí Pá Tra – Mị. Đặc biệt, đoạn trích dưới đây đã đặc tả diến biến tâm trạng của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm:

    "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ ực uống ực từng bát. [..] Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa".

    Người yêu văn chương hẳn không còn xa lạ với tên tuổi nhà văn Tô Hoài - cây đại thụ tỏa bóng xuống cánh rừng văn học Việt Nam hiện đại. Đó là cuộc đời sáng tạo và bền bỉ không ngừng với số lượng tác phẩm đạt tới mức kỉ lục: Gần 200 đầu sách. Với vốn hiểu biết phong phú, ngôn ngữ trong sáng, gần gũi, tác phẩm của Tô Hoài đã thu hút được nhiều thế hệ độc giả.

    "Vợ chồng A Phủ" được sáng tác năm 1952, in trong tập "Truyện Tây Bắc" cùng "Mường Giơn" và "Cứu đất cứu Mường". Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc của nhà văn. Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.

    Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, khắc họa diến biến tâm trạng của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    Tô Hoài đã từng quan niệm rằng: "Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm". Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.

    Trong tác phẩm "Vợ Chồng A Phủ" Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài "thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống "không bằng con trâu con ngựa"; và bị hủy diệt về tinh thần "mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Nhưng trong con người tưởng như đã chết của Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng chỉ chờ cơ hội là bùng cháy. Cơ hội ấy đã đến vào một đêm mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa chưa bao giờ nguội lạnh trong tâm hồn Mị.

    Cảnh đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài tràn đầy màu sắc, âm thanh làm say lòng người, đậm màu văn hóa miền núi Tây Bắc. Cảnh được tả từ xa đến gần, màu sắc rực rỡ, tươi sáng, đẹp nhất là vẻ đẹp trang phục của các cô gái Tây Bắc: "Những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ [..] . Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Âm thanh dân dã mà có sức lay động trái tim con người "Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi", "tiếng chó sủa xa xa". Cảnh sinh hoạt mùa xuân thể hiện nét đẹp phong tục, văn hóa của dân tộc Mèo: "Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy", "bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng". Đặc biệt là phong tục tìm bạn tình của trai gái miền núi qua tiếng sáo đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, nồng nàn, rạo rực tình yêu, tràn trề sức sống.

    Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị "nào biết có xuân là gì?". Nhưng thật bất ngờ, đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động. Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát? Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Tiếng sáo đã dẫn đến hành động "nổi loạn" : "Uống rượu" :

    Như chúng ta đã biết, "uống rượu" là phong tục ngày Tết nơi vùng cao thể hiện không khí ngày Tết. Và Mị cũng uống rượu. Mị "lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát". Đó là cách uống của người thưởng xuân? Chắc chắn không phải vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ từng bát một, nhấm nhá, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng, bởi từ lâu Mị chẳng thèm khát gì. Tô Hoài viết: "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu", mọi người uống, Mị cũng uống. Mị uống theo thói quen ngày xuân của người Mèo. Từ "lén" được tác giả sử dụng đầy tinh tế, thể hiện sức sống trong Mị đang dần trở về một cách thầm kín. Mị "uống ực từng bát" như để uống cho say, cho quên đi tất cả những đau khổ tột cùng nhưng càng uống càng tỉnh, càng tỉnh càng nhớ, càng nhớ lại càng đau đớn xót xa. Cái cách uống rượu ấy là sự dồn nén của những uất ức, phẫn uất nên uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào trong lòng.

    Cách uống rượu của Mị chứa đựng sự phản kháng, nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh, giống như thi sĩ Hồ Xuân Hương:

    Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

    Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

    Uống rượu để giải sầu, mong quên đi, nhưng rượu uống vào rồi thì "say lại tỉnh" vì thực tế vẫn vậy. Hai lần lấy chồng, hai lần làm lẽ, hai lần trở thành góa phụ.

    Còn Mị tỉnh, bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đốn mạt ấy dành cho cô. Nhưng rượu cúng giúp cho Mị hồi sinh, Mị vẫn nghe tiếng sáo vẫy gọi giục giã, men rượu đã nâng tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi, đám chơi trong của quá khứ. Còn thể xác vẫn ở lại nhà thống lí "nhìn mọi người nhảy đồng, người hát" khi mọi người về hết "Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà". Từ những chất xúc tác bên ngoài, cùng bản chất mạnh mẽ tràn đầy sức sống. Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân, nghe tiếng sáo "Mị thiết tha bồi hồi". Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ - một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hy vọng có thể sống lại ngày ấy lần nữa. Ngày ấy, "Mị thổi sáo giỏi", "Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Tiếng sáo đã làm thức tỉnh con người tâm linh trong Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.

    Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước". Thật kì lạ người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình "trẻ lắm". Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua ngày, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình "vẫn còn trẻ", mình vẫn đang còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính "Mị muốn đi chơi". Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không được đi chơi xuân, mặc dù "Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!". Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít chỉ có một "cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng" hàng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa.

    Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh "sống không ra người" này đây. Sao Mị có thể? Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và cô sẽ tự do tâm hồn, và lá ngón một lần nữa xuất hiện "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa". Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ, thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu. Và "lá ngón" lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là "sự tự ý thức". Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã "chết đi trong cõi sống". Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn. Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng.

    Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong "Đoạn trường tân thanh" đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ "tiết", không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễn ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái "bắt đầu" đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng "sinh bất phùng thời."

    Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mị không thể lùi sâu vào mãi góc chết. Ngọn sóng tủi hờn, bi lụy đang khóc than trong lòng cô gái thì sóng tình yêu và khát vọng của tiếng sáo lại dội lên, lửng lơ bay ngoài đường:

    "Anh ném pao, em không bắt

    Em không yêu, quả pao rơi rồi
    "

    Đấy là lời của tiếng sáo, lời của bài tình ca, lời của các bạn trai, gái đang yêu nhau, tâm tình bên nhau và cũng là những tiếng lòng da diết, mãnh liệt từng bao năm bị chôn vùi, kìm nén trong trái tim, trí tuệ của Mị. Giờ đây, MỊ đã có nhận thức sâu sắc về quá khứ, hiện tại, tương lai.

    Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, ngôn ngữ biểu cảm; đặc biết là nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật, đoạn trích trên đã làm nổi bật vẻ đẹp sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị.

    Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ca ngợi con người? Văn học luôn lấy con người làm đối tượng phản anh ra và mỗi giải đoạn, ta lại thấy những nhân vật điển hình. Nhìn lại chặng đường của nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp hình tượng Chí Phèo vừa đi vừa chửi "ngật ngưỡng bước ra từ trang sách" của Nam Cao, điển hình cho nỗi thống khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Ta xót thương cho thân phận bị cái đói cái nghèo thì sát đất của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" – Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho người lao động miền biển. Ta day dứt trước số phận của Mị trong thân phận "nàng dâu gạt nợ" nhà thống lí Pá Tra qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Tô Hoài, là đại diện cho người lao động nghèo miền núi từ trong đau thương đã nhận thức, đấu tranh tự đứng lên giải phóng chính mình.

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
    "Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" (Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng "Vợ chồng A Phủ" là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.

    "Ta bây giờ như chồi non mọc lại

    Rón rén xanh, khe khẽ tự vươn mình

    Đã bao lần tưởng úa tàn hoang dại

    Nhưng rồi lại cựa quậy đón bình minh."
     
    Last edited by a moderator: 9 Tháng ba 2024
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...