Trinh Thám Bí Ẩn Trong Căn Phòng Vàng – Gaston Leroux - Hương Thu Dịch

Thảo luận trong 'Convert' bắt đầu bởi Huongthu2401, 11 Tháng mười 2021.

  1. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 21: Mai Phục

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cái cử chỉ này làm tôi giựt mình kinh hãi, nhưng Rouletabille thì dường như vẫn trơ trơ. Chúng tôi về buồng anh, rồi chẳng đá động mảy may đến cảnh tượng vừa bất chợt nhìn thấy, anh cho tôi những chỉ dẫn cuối cùng để thi hành đêm nay. Trước hết, chúng tôi đi ăn tối. Ăn xong, tôi phải vào căn buồng nhỏ và đen kia, ở yên đó mà chờ chực kỳ cùng "để thấy một cái gì". Bạn tôi cắt nghĩa:

    "Nếu anh" thấy "trước tôi thì phải báo cho tôi biết ngay. Anh sẽ thấy trước tôi, nếu hắn vào hành lang thẳng bằng một đường nào khác ngoài hành lang ngoặt, bởi vì anh nhìn bao quát hết hành lang thẳng, còn tôi, tôi chỉ trông được khúc hành lang ngoặt mà thôi. Để báo cho tôi hay, anh chỉ việc tháo cái dải vén màn của sổ ở hành lang thẳng, cái ở gần căn buồng đen nhất. Tấm màn sẽ tự động buông xuống che kín cửa sổ và tạo ra một hình vuông tối đen ở chỗ trước là hình vuông ánh sáng. Muốn làm việc này, anh chỉ cần thò tay ra ngoài buồng đen. Tôi, tôi ở trong hành lang ngoặt, chỗ đầu góc thẳng với hành lang thẳng. Qua các khung cửa sổ hành lang ngoặt, tôi trông thấy tất cả các hình vuông ánh sáng do các cửa sổ ở hành lang thẳng tạo ra. Khi cái hình vuông ánh sáng dùng làm ám hiệu cho chúng ta phụt tối thì tôi hiểu ngay.

    - Rồi sao?

    - Rồi anh sẽ thấy tôi xuất hiện ở góc hành lang ngoặt.

    - Rồi tôi phải làm gì?

    - Anh đi lại phía tôi ngay, đằng sau lưng hắn, nhưng tôi đã chồm được tới hắn và, biết rằng bộ mặt hắn có đi vào cái vòng tròn của tôi không.

    - Cái vòng anh" đã vẽ bằng đầu phải nắm của sợi dây lý luận "ấy ư? – Tôi tiếp câu anh đang nói với một nụ cười.

    - Anh cười cái gì? Vô ích quá? Thôi được, cứ cười đi cho vui, hãy lợi dụng vài giây phút còn lại này đi, vì xin cam đoan với anh, lát nữa đây, anh không còn dịp mà cười đâu!

    - Thế ngộ hắn trốn mất?

    - Càng tốt! – Rouletabille điềm nhiên đáp – Tôi không chủ trương bắt hắn. Hắn có thể tẩu thoát bằng lối xuống cầu thang và băng qua gian tiền đình nhà dưới, trước khi anh tới được đầu cầu thang, vì anh ở tận cuối hành lang. Tôi thì tôi để cho hắn chạy sau khi trông thấy mặt hắn. Tôi chỉ cốt có thế. Cốt nhìn rõ mặt hắn thôi. Tôi sẽ biết cách thu xếp sau, sao cho đối với cô Stangerson thì hắn đã chết dù hắn còn sống. Nếu tôi bắt sống hắn, e rằng cô Stangerson và ông Robert Darzac sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi! Mà tôi thì không muốn để mất lòng họ quí trọng mình. Họ là những con người quả cảm. Khi tôi trông thấy cô Stangerton bỏ thuốc mê vào ly rượu của cha để cho đêm nay ông không bị đánh thức dậy bởi câu chuyện cô sẽ phải nói với kẻ định giết cô, tôi muốn anh hiểu cho, lòng biết ơn của cô đối với tôi sẽ bị tổn thương, nếu tôi dẫn đến cho cha cô tên hung thủ trong vụ" Căn Phòng Vàng "và vụ" Hành Lang Không Hiểu Nổi ", hai tay bị trói, miệng há hốc. Đêm xảy ra vụ" Hành Lang Không Hiểu Nổi ", việc hắn biến mất như có ma thuật có thể là hạnh phúc lớn lao cho cô. Tôi đã hiểu như vậy vì nhìn thấy mặt cô bỗng nhiên rạng rỡ khi hay tin hắn đã trốn thoát. Và tôi cũng hiểu rằng muốn cứu cô gái khốn khổ kia, thộp được cổ hắn không bằng bắt hắn phải câm mồm, bất luận bằng cách nào. Nhưng! Giết một con người! Đâu phải việc nhỏ. Vả chăng, việc ấy không liên can đến tôi trừ khi hắn cho tôi cơ hội!

    Mặt khác, bắt hắn câm mồm mà người đàn bà không phải thổ lộ tâm can với mình, ấy mới là việc khó, trước hết phải đoán được ra tất cả từ một con số không! May thay, bạn tôi ơi, tôi đã đoán à không, đúng hơn, tôi đã lý luận và tôi chỉ đòi kẻ sẽ đột nhập nơi đây tối nay mang lại cho tôi cái bộ mặt để giác quan thu nhận được hắn sẽ đi vào trong vòng tròn. Đúng đấy, và bộ mặt hắn sẽ không làm tôi sửng sốt.

    - Tôi tưởng anh thấy mặt hắn rồi, trong cái đêm anh nhảy vào phòng.

    - Đâu có rõ, cây nến để dưới đất, lại còn cả một hàm râu xồm.

    - Té ra đêm nay hắn sẽ không có râu nữa.

    - Tôi tưởng có thể quả quyết hắn. Nhưng lo gì, hành lang sáng lắm. Hơn nữa, bây giờ tôi biết rồi hay ít nhất, óc tôi biết rồi nên mắt tôi sẽ thấy.

    - Nếu chỉ có việc nhìn thấy mặt hắn và để hắn tẩu thoát thì tại sao chúng ta phải mang vũ khí?

    - Tại vì, hỡi bạn thân mến, nếu hung thủ trong vụ" Căn Phòng Vàng "và vụ" Hành Lang Không Hiểu Nổi ". Biết rằng tôi đã biết thì hắn sẽ không từ việc gì mà không làm! Bởi thế, chúng ta phải lo tự vệ.

    - Anh tin chắc tối nay hắn đến không?

    - Chắc như anh đang có mặt ở đây. Cô Stangerson, lúc mười giờ rưỡi sáng nay, bằng cách khéo léo nhất trần đời, đã thu xếp để đêm nay không có người gác bệnh. Với lý do chính đáng, cô cho họ nghỉ hăm bốn tiếng, và trong thời gian họ vắng mặt, cô chỉ chịu để cha cô canh chừng bên cô. Ông già sẽ ngủ ở phòng khách nhỏ của con gái. Ông nhận nhiệm vụ mới này rất vui vẻ biết ơn con. Sự trùng hợp chuyến đi của ông Robert Darzac (sau những lời ông nhắn với tôi) và những công việc dị thường cô Stangerson sắp đặt để tạo ra xung quanh mình một tình trạng cô đơn, không còn để lại chút nghi ngờ nào. Việc tên sát nhân đến đây, ông Darzac run sợ thì cô Stangerson chuẩn bị sẵn sàng.

    - Dễ sợ thật.

    - Phải.

    - Và cái cử chỉ chúng ta bắt gặp cô làm ở bàn ăn là cử chỉ đánh thuốc mê ông già?

    - Đúng.

    - Rốt cuộc, để đối phó với vụ đêm nay, chúng ta chỉ có hai người?

    - Bốn. Vợ chồng anh gác cổng cũng canh chừng mọi bất trắc. Tôi nghĩ việc họ tham dự chẳng có ích gì" trước ", nhưng anh chồng có thể được việc cho tôi" sau "nếu mình phải giết?

    - Nghĩa là anh tin mình sẽ giết?

    - Mình sẽ giết nếu hắn muốn!

    - Sao anh không tin cho bố Jacques? Hôm nay anh không dùng đến bố nữa ư?

    -" Không. "Rouletabille đáp, giọng hơi xẵng.

    Tôi hỏi đột ngột:

    - Sao anh không báo cho Arthur Rance? Ông ta có thể giúp mình nhiều lắm chứ.

    - Ối cha! Rouletabille gắt – anh muốn đem bí mật của cô Stangerson tiết lộ tùm lum hay sao? Thôi ta đi ăn, đến giờ rồi. Tối nay, chúng ta ăn bên phòng Frédéric Larsan trừ phi ông ta còn đeo lấy gót chân Robert Darzac không chịu buông lơi một bước. Nhưng kệ! Hiện giờ ông ta không có đây, nhưng nhất định đêm nay ông ta có mặt! Cho trắng mắt ra!

    Bỗng có tiếng động ở phòng bên.

    - Đó, chắc ổng rồi đó – Rouletabille nói.

    - Tôi quên không hỏi anh – tôi chợt nhớ đến một việc – trước mặt nhà thám tử chúng ta không đá động gì đến trận đánh hôm nay chứ?

    - Dĩ nhiên. Chúng ta hành động một mình, cho riêng phần chúng ta thôi.

    - Và tất cả vinh quang sẽ về ta?

    Rouletabille cười gằn:

    - Ông đấy nhé, không phải tôi à!

    Chúng tôi ăn tối với Frédéric Larsan, ở phòng ông. Chúng tôi sang bên ấy, đã gặp ông và được ông mời vào bàn. Bữa ăn diễn ra trong thân mật, cởi mở nhất trên đời, và tôi không khó khăn gì để hiểu đó là do niềm tin của Rouletabille và Frédéric Larsan, mỗi người một phía, tin rằng chỉ mình nắm được sự thật.

    Rouletabille cho anh cả Fred biết tôi tự ý đến thăm anh, và anh giữ tôi lại để giúp anh một tay trong bài báo quan trọng mà anh phải giao ngay đêm nay cho tờ Thời Đại. Anh nói tôi sẽ trở lại Paris bằng chuyến xe lửa mười một giờ, đem theo bản thảo của anh, một loại phóng sự đăng làm nhiều kỳ trên nhật báo, trong đó anh tường thuật những giai đoạn chính về các bí ẩn ở Glandier. Larsan chỉ tủm tỉm cười như một người không dễ bị ai phỉnh gạt nhưng vì lễ độ, không muốn phát biểu về một chuyện không liên can đến mình. Với vô vàn ý tứ trong ngôn ngữ và cả trong âm giọng, Larsan cùng Rouletabille trao đổi với nhau khá dài về sự có mặt của ông Arthur W. Rance ở lâu đài, về quá khứ của ông ta bên Mỹ mà họ đều muốn biết thêm, ít ra về

    Những quan hệ giữa ông ta với cha con giáo sư Stangerson. Đến một lúc, Larsan tự nhiên như khó ở, cố gắng Iắm mới nói được:

    - Ông Rouletabille, tôi tin chúng ta chẳng còn nhiều việc để làm ở Glandier và theo tôi, chúng ta sẽ không ngủ ở đây nhiều đêm nữa.

    - Tôi cũng nghĩ thế, thưa ông Fred.

    - Vậy ra ông bạn tin rằng vụ này đã kết thúc?

    - Đúng thế, tôi tin hắn đã kết thúc và chẳng còn gì mới mẻ cho chúng ta biết thêm.

    Rouletabille đáp.

    - Ông có sẵn một thủ phạm chưa? Larsan hỏi.

    - Còn ông?

    - Tôi có.

    - Tôi cũng vậy.

    - Cùng một người ư?

    - Không, nếu ông không thay đổi ý kiến. Anh phóng viên trả lời nhà thám tử rồi tiếp, giọng đanh thép:

    - Ông Darzac là một người tốt!

    - Ông tin thế ư? Tôi thì tin ngược lại. Nghĩa là chúng ta khai chiến?

    - Đúng, chúng ta khai chiến. Và tôi sẽ hạ ông, thưa ông Frédéric Larsan.

    - Tuổi trẻ chẳng biết e dè. – Anh cả Fred chấm dứt màn đối thoại và bắt tay tôi.

    Rouletabille đáp lễ như một tiếng vang:

    -" Chẳng biết e dè! "

    Nhưng Larsan vừa đứng dậy để chào từ biệt chúng tôi thì bỗng đưa hai tay ôm ngực lảo đảo. Ông ta mặt tái xanh phải vịn vào Rouletabille để khỏi té.

    - Ồ! Ồ! Tôi sao thế này? Bị đầu độc chăng?

    Nhà thám tử nhìn chúng tôi, mắt thao láo, hỏi thế nào cũng không nói. Ông ta buông mình rơi phịch vào chiếc ghế bành, nhất định không hé răng. Chúng tôi lo ngại vô cùng, vừa lo cho ông ta vừa lo cho mình. Vì chúng tôi đã ăn tất cả các món Frédéric Larsan đụng tới. Hai đứa tôi rối rít xoay quanh ông ta. Bây giờ hình như ông ta không đau đớn nữa nhưng cái đầu nặng nề ngoẻo xuống bên vai, cặp mí mắt sùm sụp không để chúng tôi thấy cái nhìn của ông ta ra sao.

    Rouletabille cúi xuống ngực anh cả nghe tim.

    Lúc anh đứng dậy, bộ mặt đã hết hoảng hốt. Anh nói:

    - Ông ta ngủ!

    Rồi anh kéo tôi về phòng mình sau khi khép kín cửa phòng Larsan.

    - Thuốc mê hả? – Tôi hỏi – Té ra cô Stangerson định cho mọi người tối nay ngủ say hết?

    - Có thể. Roulelabille trả lời lơ đãng, trong đầu nghĩ chuyện khác.

    - Nhưng còn chủng ta? Chúng ta? – Tôi kêu lên – Biết đâu chúng ta chẳng đã nuốt một liều thuốc mê như vậy?

    - Anh thấy khó chịu à? Rouletabille lạnh lùng hỏi.

    - Đâu có!

    - Anh có buồn ngủ không?

    - Tuyệt nhiên không.

    - Vậy thì bạn ơi! Bạn hãy hút điếu xì gà hảo hạng này đi.

    Và anh đưa cho tôi một điếu Havana loại ngon nhất đã được ông Darzac mời nhưng chưa hút. Còn anh, anh quẹt lửa đốt ống vố chiếc ống vố muôn đời không xa anh. Cứ như thế chúng tôi ở trong phòng này đến mười giờ, không ai nói với ai. Rouletabille ngồi thu lu trong ghế bành rít tẩu thuốc không ngừng, trán nhăn, mắt nhìn xa vắng. Đến mười giờ, anh tháo giầy, nhìn tôi, ra một dấu hiệu. Tôi hiểu và cũng bắt chước anh, tháo giầy. Khi cả hai chỉ còn mang tất ngắn, anh ghé tai tôi nói một tiếng, khẽ đến nổi tôi đoán hơn là nghe:

    -" Súng ".

    Tôi rút khẩu súng lục trong túi áo vét ra cầm tay.

    -" Đạn "! Anh nói tiếp.

    Tôi lên đạn.

    Rồi anh đi ra mở cửa phòng hết sức nhẹ, hết sức thận trọng. Cánh cửa không rên một tiếng.

    Chúng tôi đã ở hành lang ngoặt. Rouletabille lại ra một dấu nữa. Tôi hiểu là phải vào vị trí căn

    Buồng đen. Tôi đi được mấy bước thì Rouletabille theo kịp và ôm tôi hôn rồi cũng vô vàn thận trọng như trước, anh quay lại, vào phòng mình. Ngạc nhiên về cái hôn bất thường và cũng hơi lo, tôi rẽ vào hành lang thẳng và đi dọc theo hắn không gặp gì trở ngại. Tôi lướt qua mặt cầu thang đi tiếp hành lang thẳng bên cánh trái, cho tới căn buồng đen. Trước khi bước vào buồng đen, tôi ghé lại nhìn kỹ cái dải vén màn cửa sổ bên cạnh. Quả nhiên, tôi chỉ việc đụng ngón tay vào là tấm màn buông ngay xuống" che mắt Rouletabille hết thấy hình vuông ánh sáng ". Ám hiệu đã ước định. Có tiếng chân người làm tôi dừng lại trước cửa phòng Arthur Rance.

    " Lão này chưa đi ngủ? Nhưng lão còn ở lâu đài? Sao không ăn tối với cha con cô Stangerson? Ít nhất tôi cũng đã không trông thấy lão ngồi ở bàn ăn lúc chúng tôi bắt gặp cử chỉ lạ của cô Stangerson.

    Tôi vào buồng đen. Chỗ núp thật tốt. Tôi nhìn được suốt hành lang thẳng sáng trưng như ban ngày.

    Thật đúng không thể xảy ra chuyện gì ngoài đó mà thoát được mắt tôi. Nhưng chuyện gì sắp xảy ra ngoài đó? Nghiêm trọng lắm thì phải.

    Lại nhớ đến cái hôn đáng ngại của Rouletabille.

    Người ta chỉ hôn bạn như vậy trong những dịp lớn hoặc khi bạn sắp lâm nguy! Vậy ra tôi sắp lâm nguy? Bàn tay tôi siết chặt báng súng. Tôi đợi. Tôi chẳng phải một đấng anh hùng nhưng cũng không phải tên hèn nhát.

    Tôi đợi khoảng một tiếng đồng hồ. Trong tiếng đồng hồ ấy; tôi không thấy gì lạ. Bên ngoài, mưa dữ dội từ mười giờ tối, bây giờ đã tạnh.

    Bạn tôi đã cho biết có thể chẳng xảy chuyện gì trước nửa đêm hoặc một giờ sáng. Thế nhưng, chưa quá mười một rưỡi thì phòng Arthur Rance mở. Tôi nghe một tiếng két nhẹ. Có thể nói người bên trong đẩy ra hết sức thận trọng. Cánh cửa để mở một lúc mà tôi cảm thấy quá lâu. Bởi lẽ cánh cửa mở ra hành lang, nghĩa là đẩy ra ngoài phòng, nên tôi chẳng nhìn thấy gì ở trong phòng cùng như ở đằng sau cánh cửa để mở. Đúng lúc ấy, tôi nghe một tiếng kêu quái dị phát ra lần này là lần thứ ba, từ phía hoa viên vẳng lại. Trước, tôi không cho là quan trọng, như người ta thường nghe tiếng mèo hoang gào trên các máng xối, ban đêm. Nhưng lần thứ ba này, tiếng meo thật trong và thật "đặc biệt" khiến tôi nhớ lại những gì đã nghe kể về tiếng gào của "Con Vật Của Chúa". Vì lẽ cho tới hôm ấy tiếng gào luôn đi kèm mọi thảm kịch diễn ra ở

    Glandier nên tôi không sao nghĩ đến mà không cảm thấy ớn lạnh. Tức thì, phía bên kia cửa, tôi thấy xuất kiện một người đàn ông đang đóng cửa. Thoạt đầu, tôi không nhận ra y, vì y quay lưng lại tôi và cúi xuống một chiếc ba-lô khá lớn. Đóng cửa xong, y mang ba-lô quay mặt về phía buồng đen và tôi nhìn ra y là ai. Kẻ giờ này vừa ra khỏi phòng Arthur Rance "là gã bảo vệ". Đó là "gà áo xanh". Gã vẫn mặc bộ đồ tôi thấy khi gã đi trên đường cái trước quán "Vọng Lâu" vào ngày đầu tôi đến Giandier, và cũng đã mang bộ đồ ấy trong buổi sáng Rouletabille và tôi ở lâu đài đi ra thì gặp gã. Còn gì ngờ vực, đấy đúng là gã bảo vệ. Tôi nhìn thấy gã hết sức rõ. Gã có vẻ lo sợ ra mặt. Khi tiếng gào của "Con Vật Của Chúa" ngoài kia vang lên lần thứ tư, gã đặt balô trong hành lang, đến bên khung của sổ thứ hai đếm từ buồng đen. Tôi sợ lộ, đứng im không động đậy.

    Đến cạnh cửa sổ, gã tỳ trán vào nhưng ô kính đã đục mờ và phóng tầm mắt vào màn đêm ngoài hoa viên. Gã đứng đó khoảng nửa phút, cảnh trời đêm lúc sáng lúc tối, vì mặt trăng rất tỏ, thỉnh thoảng lại ẩn trong một áng mây to. Gã "áo xanh" giơ cao cánh tay hai lần, làm những dấu mà tôi không hiểu, đoạn gã rời cửa sổ, lại mang ba-lô theo hành lang đi về phía cầu thang.

    Rouletabille đã dặn tôi: "Khi thấy cái gì đó, anh hãy rút cái dải vén màn cửa sổ". Kìa, tôi đang nhìn thấy cái gì đó. Có phải cái Rouletabille chờ đợi đây không? Việc ấy không phải việc của tôi.

    Việc của tôi là thi hành lời anh căn dặn. Tôi thò tay cởi nút vén màn cửa sổ. Tim tôi đập thình thình. Gã đã tới khoảng đầu cầu thang, nhưng tôi kinh ngạc xiết bao, cứ tưởng gã tiếp tục đi thẳng trong hành lang sang cánh phải, nào ngờ gã bước vào cầu thang dẫn xuống gian tiền đình.

    Làm sao đây! Tôi ngẩn ngơ nhìn tấm màn buông lấp cửa sổ. Ám hiệu làm rồi mà không thấy Rouletabille xuất hiện ở góc hành lang ngoặt. Chẳng có gì xảy ra. Tôi phân vân quá. Nửa giờ trôi qua đối với tôi dài bằng thế kỷ? Làm sao bây giờ, dù có thấy gì khác nữa? Ám hiệu làm rồi, không thể làm lại lần thứ hai. Mặt khác, tôi mà đi vào hành lang bây giờ có thể làm đảo lộn kế hoạch của Rouletabille. Dù sao, tôi đâu có gì đáng phiền trách. Nếu xảy ra sự gì mà bạn tôi không chờ đợi thì anh chỉ có tự trách mình. Nhận thấy không còn thật sự có khả năng giúp đỡ gì vào việc báo động cho bạn, tôi đánh liều một còn một mất: Tôi ra khỏi căn buồng đen và chân vẫn mang tất ngắn, tôi nhón bước đi vào hành lang ngoặt.

    Chẳng có ai ở hành lang ngoặt. Tôi tiến lại cửa phòng Rouletabille. Tôi nghe ngóng không một tiếng động. Tôi gõ của thật nhẹ. Không thấy gì. Tôi xoay quả đấm, cửa mở. Tôi bước vào phòng. Rouletabille nằm sõng sượt đo ván sàn nhà.
     
  2. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 22: Xác chết không ngờ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi hoảng hồn cúi xuống dòm anh phóng viên dưới đất và mừng rỡ thấy anh chỉ ngủ say! Một giấc ngủ mê man và bệnh hoạn mà tôi đã thấy ở Frédéric Larsan.

    Thì ra bạn tôi cũng là nạn nhân của liều thuốc mê trộn trong thức ăn bữa tối. Nhưng còn tôi, tại sao tôi không chung số phận? Ngẫm nghĩ một chút rồi tôi hiểu ra. Chất thuốc mê đã được bỏ vào rượu vang hoặc nước lạnh, vì mọi sự được xác minh: "Tôi không quen uống trong bữa ăn". Bởi tôi được ông trời phú cho một thân hình tròn trĩnh hơi sớm nên tôi theo chế độ ăn khô, như ta thường nói.

    Tôi nắm vai Rouletabille lay thật mạnh nhưng không tài nào làm cho được anh mở mắt được. Giấc ngủ này còn gì nữa mà ngờ, chính là tác phẩm của cô Stangerson. Chắc cô nghĩ, hơn cả cha mình, cô phải e sợ bị anh chàng này canh chừng, một người trông xa thấy hết, hiểu biết tất cả!

    Tôi chợt nhớ ra anh quản rượu trong một lúc làm nhiệm vụ có giới thiệu với chúng tôi một thứ rượu Chablis tuyệt ngon và chắc hắn đã được bày trên bàn ăn của ông giáo sư và con gái. Hơn một khắc trôi qua như vậy. Rồi tôi quyết định, trong hoàn cảnh cực kỳ căng thẳng lúc này chúng tôi cần tỉnh táo, vậy phải dùng biện pháp mạnh. Tôi vớ một bình nước lạnh xối lên đầu Rouletabille.

    Anh mở mắt, gớm chưa! Một cặp mắt lờ đờ, không sức sống, không tinh thần. Nhưng đây chẳng phải đã là thắng lợi đầu tiên ư? Tôi muốn bổ túc cho hắn đầy đủ. Bèn vung tay đánh hai cái tát vào hai má Rouletabille rồi nâng anh dậy. Sung sướng thay, tôi cảm thấy anh ngọ nguậy trong vòng tay và nghe anh thì thầm: "Cứ tiếp tục đi, nhưng đừng gây nhiều tiếng động như thế!"

    Cứ tiếp tục tát tai mà không gây tiếng động đối với tôi là việc không làm được. Tôi đành cấu, véo, lay lắc anh đủ mọi chiều và anh cũng đứng được trên hai chân vững chãi. Chúng tôi thoát nạn!

    "Mình bị thuốc mê – anh nói – Hắn hành mình một lúc lâu dễ sợ trước khi ngủ thiếp đi, nhưng thời giờ hết rồi! Anh ở đây với tôi, đừng bỏ đi nghe! Anh chưa kịp dứt câu thì tai chúng tôi đã muốn rách toang màng nhĩ bởi một tiếng thét kinh hồn rung chuyển cả lâu đài, một tiếng thét vọng lên từ cõi chết." Khốn khổ! – Rouletabille rú lên kinh hoảng – Chúng ta đến trễ quá rồi! "

    Anh định nhào ra cửa nhưng luống cuống thế nào lại té dụi vào tường. Còn tôi, tôi đã vọt ra hành lang, súng trong tay nắm chắc. Tôi nhắm phòng cô Stangerson chạy như điên. Đúng lúc tới giao điểm hành lang ngoặt với hành lang thẳng, tôi thấy một người thoát ra từ khu phòng cô Stangerson và chỉ vài bước nhảy hắn đã tới đầu cầu thang.

    Tôi không chủ động được tay chân mình nữa. Phát súng nổ vang trong hành lang chói tai nhưng tên kia tiếp tục những bước nhảy điên cuồng đã thụt xuống cầu thang. Tôi đuổi theo hắn, hét to:" Đứng lại! Đứng lại! Không tao giết mày! ". Khi đến lượt tôi sắp lao xuống cầu thang thì thấy trước mắt mình, Arthur Rance từ cuối hành lang chạy đến miệng la bài hãi:" Cái gì thế? Cái gì thế? ".

    Ông Arthur Rance và tôi xuống tới chân cầu thang hầu như cùng một lúc. Cửa sổ gian tiền đình mở, chúng tôi thấy rõ hình dáng tên gian chạy trốn. Theo trực giác, chúng tôi nhất tề nổ súng về phía hắn. Hắn chạy trước chúng tôi không đầy mười mét. Hắn loạng choạng và chúng tôi đã tưởng hắn té đến nơi. Chúng tôi bay qua cửa sổ nhưng gian phi lại chạy tiếp với một cường lực mới. Tôi mang tất ngắn, còn ông bạn Mỹ thì chân không, chẳng hy vọng gì đuổi kịp hắn!"

    Chúng tôi bắn nốt mấy viên đạn cuối cùng. Hắn vẫn chạy. Nhưng hắn chạy sang phía hữu sân trước về đầu cánh phải lâu đài, trong cái góc xung quanh toàn hố sâu và hàng rào cao không thể thoát thân, trong cái góc không có lối thoát nào khác "trước mặt chúng tôi" ngoài cửa ra vào căn phòng nhỏ đội bao lơn, gã bảo vệ ở bây giờ.

    Kẻ gian mặc dầu không thể không bị thương do đạn chúng tôi bắn trúng, hiện bỏ xa chúng tôi tới hai mươi mét. Đột nhiên, đằng sau và trên đầu chúng tôi, một cửa sổ ở hành lang mở toang, và tiếng Rouletabille hét lên, tuyệt vọng:

    - Bắn đi, Bernier! Bắn đi!

    Và trời đêm đang sáng, lúc này là sáng trăng, lại lóe ra một tia chớp. Qua tia chớp ấy, chúng tôi thấy anh Bernier súng cầm tay đứng ở cửa Vọng Lâu. Anh Bernier đã ngắm trúng đích. "Bóng người gục ngã".

    Nhưng vì hắn đã tới đầu cánh phải lâu đài, nên hắn lộn sang bên kia tòa nhà, nghĩa là chúng tôi trông thấy hắn té, nhưng hắn lại lăn ra đất ở bên kia bức tường khiến chúng tôi không thấy được. Bernier, Arthur Rance và tôi cùng tới chỗ bên kia bức tường ấy, hai mươi giây sau.

    "Bóng người nằm chết dưới chân chúng tôi". Chắc hẳn bị tiếng người la, tiếng súng nổ đánh thức ra khỏi giấc mê, Larsan mở cửa sổ phòng mình và thét hỏi chúng tôi như Arthur Rance lúc nãy:

    - Cái gì thế? Cái gì thế? Còn chúng tôi, chúng tôi cúi nhìn bóng người. Cái bóng đen bí mật của tên sát nhân đã chết. Rouletabille bây giờ đã tỉnh hẳn, xuống nhập bọn.

    Tôi la lên bảo anh:

    - Hắn chết rồi! Hắn chết rồi! - Càng tốt – anh đáp – nhờ các vị khiêng hắn vào tiền đình lâu đài đi.

    Nhưng bỗng anh đổi ý:

    - Thôi! Thôi! Chúng ta đem đặt hắn trong phòng anh bảo vệ.

    Rouletabille đập cửa phòng gã bảo vệ. Không có tiếng bên trong trả lời. Với tôi, chẳng có gì lạ, dĩ nhiên.

    - Rõ ràng không có ở nhà – anh phóng viên nói – nếu có tất đã ra mở cửa! Thôi ta khiêng hắn vào tiền đình vậy. Từ lúc chúng tôi đến chỗ "bóng người nằm chết", đêm tự nhiên tối quá là tối, vì có đám mây quá to bay qua mặt trăng, tối đến mức chúng tôi chỉ rờ được vào người xác chết mà không phân biệt đường nét, vóc dáng. Mắt chúng tôi thì nôn nóng muốn xem ngay cái mặt hắn cho biết là ai.

    Bố Jacques vừa tới, giúp chúng tôi khiêng cái xác vào tận trong tiền đình lâu đài. Đến nơi, chúng tôi đặt hắn nằm trên bậc thứ nhất cầu thang. Trong lúc đi đường, tôi cảm thấy ướt hai bàn tay do máu từ nhưng vết thương chảy ra còn nóng.

    Bố Jacques chạy xuống bếp rồi trở lên với một cây đèn. Bố cúi nhìn vào mặt cái "bóng người chết", và chúng tôi nhận ra gã bảo vệ, người mà chủ quán "Vọng Lâu" gọi là "gã áo xanh" và một giờ trước đây tôi đã thấy ở trong phòng Arthur Rance đi ra, mang theo chiếc ba lô.

    Nhưng, những gì tôi đã nhìn thấy tôi chỉ có thể kể lại với Rouletabille mà thôi, và tôi đã kể, mấy phút sau đó.

    – Tôi không thể bỏ qua không nói đến vẻ ngơ ngác – đúng hơn, nỗi thất vọng đau đớn – hiện rõ trên mặt Joseph Rouletabille và Frédéric Larsan, ông này cũng đã xuống nhập bọn với chúng tôi trong tiền đình.

    Hai người sờ nắn tử thi, ngó trân trân vào mặt xác chết, nhìn bộ quần áo xanh của gã bảo vệ, cả hai cứ nhắc đi nhắc lại một câu:

    "Không thể được! Không thể được!"

    Rouletabille còn thét lớn:

    - Thế này thì có mà trời hiểu!

    Bố Jacques bộc lộ một nỗi đau đớn kỳ cục kèm theo những câu than thở lố lăng. Bố nhất định người ta đã lầm, gã bảo vệ không thể là kẻ mưu giết cô chủ mình. Chúng tôi phải gắt lên bố mới im. Giá con trai bố bị giết bố cũng rên rỉ đến thế là cùng. Tôi cho cái lối bày tỏ quá đáng nỗi đau thương của bố là do bố sợ người ta nghi bố sẽ lấy cái chết bi thảm này làm một sự vui mừng, vì ai cũng biết bố Jacques vốn ghét gã bảo vệ.

    Tôi nhận thấy tất cả chúng tôi ở đây ai cũng lôi thôi luộm thuộm, người thì áo quần xốc xếch, kẻ đi chân không hoặc chỉ mang bít tất, riêng mình bố Jacques quần áo chỉnh tề.

    Nhưng Rouletabille chưa chịu buông xác chết. Quỳ gối trên sàn đá gian tiền đình, có bố Jacques soi đèn, anh cởi áo gã bảo vệ! Lột trần khoảng ngực. Ngực người chết đẫm máu. Rồi đột nhiên, anh giựt cây đèn trong tay bố Jacques, rọi ánh sáng vào phần vết thương há miệng.

    Đoạn anh đứng lên, và bằng giọng lạ lùng, một giọng chua cay man rợ, anh tuyên bố:

    - Người mà quý vị đinh ninh đã bị hạ sát bằng đạn súng lục với đạn chì, đã chết vì một nhát dao đâm thấu tim!

    Một lần nữa tôi tưởng Rouletabille phát điên và tôi cũng cúi nhìn xác chết. Rồi tôi cũng phải công nhận quả thực thân thể gã bảo vệ không hề có một vết thương nào do đạn súng gây ra mà chỉ có vùng tim mang một đường rạch do một lưỡi dao bén nhọn thọc vào.
     
  3. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 23: Những dấu chân

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi chưa kịp bình tĩnh lại sau cơn sửng sốt trước một phát giác ly kỳ dường ấy thì bạn tôi đã đến vỗ vai:

    - Đi theo tôi!

    - Đi đâu? Tôi hỏi.

    - Về buồng tôi.

    - Làm gì?

    - Suy nghĩ Phần tôi, xin thú thực, tôi đang ở một trạng thái hoàn toàn bất lực, không những không thể suy nghĩ, mà còn không sao nghĩ ngợi về việc gì được cả.

    Và trong cái đêm bi thảm này, sau những biến động hãi hùng không mạch lạc, tôi khó mà hiểu nổi, làm sao giữa xác chết gã bảo vệ và cô Stangerson có thể đang hấp hối, Joseph Rouletabille vẫn cứ đòi "suy nghĩ". Vậy mà anh suy nghĩ thật, suy nghĩ với cái điềm đạm của những võ tướng giữa các trận giao phong.

    Anh đẩy cửa phòng mình, chỉ cho tôi chiếc ghế bành, ngồi đĩnh đạc trước mặt tôi và dĩ nhiên, mồi tẩu hút thuốc. Tôi nhìn xem anh suy nghĩ, rồi tôi ngủ thiếp đi. Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Đồng hồ tôi chỉ tám giờ. Rouletabille không còn ở đó. Chiếc ghế bành trước mặt tôi trống không.

    Tôi đứng dậy, vừa bắt đầu vươn vai co cẳng cho giãn gân cốt thì cửa phòng xịch mở, bạn tôi trở về. Nhìn mặt anh, tôi biết ngay trong lúc tôi ngủ, anh đã không bỏ phí thì giờ.

    - Cô Stangerson thế nào? Tôi hỏi liền tức thì.

    - Nguy lắm, nhưng không tuyệt vọng.

    - Anh ở đây đi lâu chưa?

    - Lúc rạng đông.

    - Đã làm gì?

    - Nhiều lắm.

    - Phát hiện được gì?

    - Hai loại dấu chân rất đáng chú ý "và suýt nữa nó làm phiền tôi."

    - Bây giờ nó không còn làm phiền anh?

    - Không.

    - Nó giải thích được gì chăng?

    - Đúng.

    - Liên hệ tới "xác chết không ngờ' của gã bảo vệ?

    - Đúng, cái xác ấy bây giờ hoàn toàn" ngờ được ". Sáng nay, trong lúc đi một vòng quanh lâu đài, tôi phát hiện hai thứ dấu chân rõ rệt, in vào đất đêm qua" cùng một lúc ", bên cạnh nhau. Nhất định không thể khác, vì nếu hai bước chân đã đến kẻ trước người sau theo cùng một đường đi thì cái sau thế nào cũng có lúc đạp lên cái trước, nhưng ở đây không hề có như vậy. Dấu chân nọ không bao giờ in lên dấu chân kia. Không, đó là những bước chân của hai kẻ" dường như đang trò chuyện cùng nhau ". Hai kiểu dấu chân này lìa xa các dấu chân khác, đi về khoảng giữa sân trước lâu đài rồi ra ngoài sân đi về khu rừng sồi. Tôi rời sân trước, mắt còn mải nhìn con đường mới tìm ra thì Frédéric Larsan đến. Ông ta hăm hở chú ý ngay đến công việc tôi đang làm, vì cái dấu chân kép này quả thật đáng cho ta chú ý. Ta thấy lại ở đây hai kiểu dấu chân trong vụ" Căn Phòng Vàng ": Dấu chân thô lỗ và dấu chân thanh lịch. Duy có điều khác: Vụ" Căn Phòng Vàng ", dấu chân thô lỗ chỉ đi ra bờ hồ gặp dấu chân thanh lịch rồi cùng biến mất – Larsan và tôi đã kết luận rằng hai thứ dấu chân ấy do cùng một người tạo ra, kẻ đó chỉ việc đổi giầy mà thôi – ở đây, dấu chân thô lỗ và dấu chân thanh lịch đi sóng đôi. Một nhận xét như vậy quả thật làm đảo lộn những gì tôi đã tin chắc lúc trước. Hình như Larsan cũng nghĩ như tôi. Bởi vậy, chúng tôi cùng cong lưng nhìn xuống các dấu chân dưới đất chẳng khác hai con chó đánh hơi kiếm mồi. Tôi rút bóp lấy ra những mảnh đế giầy bằng giấy. Đế thứ nhất tôi cắt theo đôi giầy của bố Jacques do Larsan tìm thấy, nghĩa là cắt theo dấu chân thô lỗ, cái đế thứ nhất ấy so đọ với một trong hai dấu chân dưới mắt chúng tôi với một trong hai dấu chân dưới mắt chúng tôi thì hoàn toàn vừa khít. Đế thứ hai là hình cắt theo" dấu chân thanh lịch "cũng vừa khít với đế kia, chỉ hơi khác chút xíu ở mũi. Tóm lại, cái dấu chân thanh lịch mới này chỉ khác cái dấu bên bờ hồ ở chỗ mũi chiếc giầy cao cổ. Chúng tôi không thể kết luận nó thuộc về cùng một người, nhưng cũng không thể khẳng định nó không thuộc về người đó. Kẻ kia có thể không mang đôi giầy cũ nữa. Tiếp tục lần theo dấu chân kép này, Larsan và tôi ra khỏi khu rừng sồi, té ra lại đến bờ hồ, chỗ mình đã đến trong cuộc điều tra lúc trước. Nhưng lần này, không dấu chân nào dừng lại ở đây, và cả hai leo lên đường mòn kéo một mạch tới đường cái đi Epinay. Đến đây, chúng tôi đụng một quãng đường mới rải đá, chả còn vết tích gì, đành trở về lâu đài, dọc đường không trao đổi với nhau một tiếng. Vào trong sân trước, chúng tôi chia tay nhau. Nhưng vì dòng suy tưởng cùng lần theo một hướng nên chúng tôi lại gặp nhau trước cửa phòng bố Jacques. Ông già đã đi nằm, mớ quần áo cởi ra liệng trên một chiếc ghế trông thật là thảm hại. Đôi giầy của bố, đôi giầy giống hệt đôi chúng tôi đã biết, bê bết bùn đất một cách lạ. Chắc chắn không phải vì giúp chúng tôi khiêng xác gã bảo vệ từ cuối sân vào gian tiền đình, rồi sau vào bếp lấy đèn mà bố Jacques đã đạp giầy xuống bùn bê bối thế kia với mớ áo quần ướt nhẹp, bởi lúc ấy trời không mưa. Nhưng trời đã có mưa trước đó và cũng có mưa sau đó. Mặt mũi bố cũng chẳng lấy gì làm đẹp. Nó tố cáo một tình trạng mệt mỏi cực kỳ, cặp mắt nhấp nháy vừa thấy chúng tôi đã ánh lên tia sợ hãi. Chúng tôi hỏi bố. Thoạt đầu, bố trả lời đã đi ngủ ngay khi ông thầy thuốc, do anh quản rượu đi mời, đến lâu đài. Nhưng chúng tôi chứng minh bố nói dối và dồn bố đến chỗ phải thú nhận quả thật có ra khỏi lâu đài. Cố nhiên, chúng tôi đòi biết lý do. Bố trả lời bị nhức đầu, cần hô hấp khí trời mát mẻ, nhưng bố không đi quá khu rừng sồi. Chứng tôi liền mô tả suốt quãng đường bố đã đi, tả thật đúng, như thể chúng tôi trông thấy bố đi từng bước, ông già nhổm người ngồi bật dậy và bắt đầu run.

    " Bố không đi một mình ", Larsan lớn tiếng.

    - Vậy ra ông đã nhìn thấy nó?

    - Ai?

    - Thì con ma đen!

    Đến đây, bố Jacques đành kể lể sự tình, rằng từ mấy đêm nay, bố trông thấy con ma đen. Nó xuất hiện trong vườn hoa đúng nửa đêm và chập chờn lướt qua những rặng cây nhanh không thể tưởng. Nó làm như xuyên thủng thân cây mà đi. Hai lần, qua khung của sổ, bố Jacques trông thấy nó nhờ sáng trăng. Bố đứng dậy và quả quyết đi săn con ma hiện hình kỳ quái này. Đêm hôm kia, chút xíu nữa bố đuổi kịp nó, nhưng rồi nó biến mất ở góc Vọng Lâu. Cuối cùng, đêm nay, bố ra khỏi lâu đài, óc còn băn khoăn về vụ án mạng vừa xảy ra thì thấy nó thình lình xuất hiện giữa sân trước, con ma đen. Lúc đầu, bố thận trọng đi theo nó xa xa, sau tiến đến gần hơn, thế là bố làm hẳn một vòng quanh khu rừng sồi, bờ hồ, tới bờ con đường đi Epinay,

    " Đến đây, con ma vụt biến mất".

    - Bố không thấy mặt nó ư? Larsan hỏi.

    - Không! Tôi chỉ thấy những tấm mạng đen.

    - Và sau những biến động trong hành lang, bố không nhảy xổ vào nó?

    - Tôi nhảy sao được. Tôi hoảng quá! Chỉ nội việc đi theo nó tôi đã tưởng không đủ sức.

    - Bố đâu có đi theo nó, bố Jacques – tôi xen vô, giọng đe dọa – bố cùng con ma khoác tay nhau, sóng bước đến tận con đường cái đi Epinay!

    - Không đúng! – Bố hét to – mưa ào xuống như trút nước. Tôi quay về. Tôi không biết con ma đen ra sao.

    Mắt bố rời tôi nhìn chỗ khác. Chúng tôi trở gót ra khỏi phòng. Khi đã ở bên ngoài:

    - Đồng lõa? – Tôi hỏi với một giọng khác thường, nhìn thẳng vào mặt Larsan mong bắt được ý nghĩ sâu kín của ông ta.

    Larsan giơ hai tay lên trời:

    - Làm sao biết? Làm sao biết, trong một vụ án như vụ này?

    Mới hăm bốn giờ trước đây, tôi đinh ninh không có vấn đề đồng lõa.

    Rồi ông ta từ giã tôi, nói sẽ rời lâu đài ngay để đi Epinay. Rouletabille kết thúc câu chuyện của anh.

    Tôi hỏi:

    - Thế sao? Tất cả những cái đó đi đến kết luận nào? Riêng tôi, tôi chẳng thấy gì hết. Chẳng hiểu gì hết! Rốt cuộc, anh biết những gì?

    - Tất cả! – Anh cao giọng – Tất cả!

    Chưa bao giờ tôi thấy mặt anh rạng rỡ như lúc ấy. Anh đứng dậy nắm tay tôi xiết thật chặt.

    - Thế thì, nói nghe coi. – Tôi nài.

    - Ta đi hỏi thăm tin tức cô Stangerson đi – Anh trả lời tôi đột ngột.
     
  4. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 24: Rouletabille biết rõ hai nửa con người kẻ sát nhân

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cô Stangerson suýt chết lần thứ hai. Khốn khổ cho cô, lần này bị nặng hơn lần trước. Ba nhát dao đâm vào ngực trong cái đêm bi thảm mới này dìm cô chới với rất lâu giữa sống và chết. Rồi khi cuối cùng, sự sống mạnh hơn và có hy vọng người đàn bà khốn khổ kia lần nữa, lại thoát khỏi định mệnh đẫm máu của mình thì người ta cũng nhận thấy tuy mỗi ngày cô có khôi phục được ít nhiều hoạt động của giác quan, nhưng cô không hể lấy lại được phần nào lý trí.

    Rủi có ai vô tình hơi đả động đến tấn thảm kịch vừa qua là cô hôn mê liền. Và tôi tin không phải điều quá đáng, nếu nói rằng việc ông Robert Darzac bị bắt giam ngay hôm sau ngày phát hiện xác chết gã bảo vệ, còn đào sâu thêm cái vực thẳm tinh thần nơi chúng tôi bất lực nhìn tinh hoa của một trí tuệ tuyệt vời chìm mất.

    Ông Robert Darzac đến lâu đài khoảng chín giờ rưỡi. Ông ta chạy băng qua hoa viên, tóc tai rối bù, áo quần lấm lem bùn đất, trông đến thảm. Mặt nhợt nhạt như người chết. Rouletabille và tôi đứng chống khuỷu tay trên thành cửa sổ hành lang. Ông ta trông thấy, hướng về chúng tôi gào lên một lời tuyệt vọng: "Tôi đến chậm quá rồi!"

    Rouletabille đáp lễ bằng cách hét xuống một câu trấn an: "Cô ấy còn sống!" Một phút sau, ông Darzac bước vào phòng cô Stangerson và qua cánh cửa đóng kín, chúng tôi nghe ông nức nở.

    "Định mệnh tàn nhẫn!" – Bên cạnh tôi, Rouletabille rên rỉ, "không biết quỷ thần nơi âm ty địa ngục nào gieo rắc tai ương cho gia đình này! Nếu tôi không bị đánh thuốc mê bất tỉnh thì đã cứu được cô Stangerson thoát tay kẻ đó, đã bắt hắn câm nín muôn đời, và gã bảo vệ đã không phải chết!

    Ông Darzac đến gặp chúng tôi, khóc lóc. Rouletabille kể ông ta nghe tất cả: Anh đã chuẩn bị chu đáo thế nào để cứu họ, cứu cô Stangerson và cứu cả ông ta. Anh tin sẽ thành công trong sứ mạng ấy bằng cách buộc hắn phải đi xa, vĩnh viễn không bao giờ được phép trở lại," sau khi anh đã trông rõ mặt hắn ". Nhưng kế hoạch của anh đã sụp đổ trong máu vì bị đánh thuốc mê.

    - Ôi! Giá ông thật sự tin ở tôi – anh phóng viên nói khẽ, – nếu ông khuyên được cô Stangerson tin ở tôi! Nhưng mà ở đây, mọi người nghi kỵ lẫn nhau, con gái không tin cha, vị hôn thê không tin vị hôn phu. Trong khi ông khẩn cầu làm tất cả để ngăn cản tên sát nhân không cho hắn đến thì" CÔ ẤY LẠI LÀM TẤT CẢ ĐỂ CHO HẮN GIẾT MÌNH! "Và tôi thì đến quá muộn, đến còn nửa mê nửa tỉnh hầu như phải lết đi, trong căn phòng mà cảnh tượng người con gái khốn khổ đang thoi thóp trong vũng máu, mới đánh thức được tôi tỉnh hẳn.

    Theo lời khẩn khoản của ông Darzac, Rouletabille kể lại những gì anh chứng kiến trong phòng. Đang khi dưới gian tiền đình và ngoài sân trước chúng tôi rượt đuổi tên sát nhân thì anh cố bám vào tường cho khỏi ngã, lần về phía phòng nạn nhân. Hai cửa phòng đợi mở cả. Anh lết vào. Cô Stangerson nằm bất động, nửa người gẫy gập trên mặt bàn viết, hai mắt nhắm nghiền. Tấm áo choàng thắm đỏ vì máu chảy ròng ròng từ ngực.

    Dưới tác dụng của chất thuốc mê chưa tan hết, Rouletabille cảm thấy đang vật vờ trong một cơn ác mộng khủng khiếp nào. Như cái máy, anh ra hành lang, mở của sổ, thét to với chúng tôi cái tội ác vừa nhìn thấy, hối thúc chúng tôi giết kẻ sát nhân, rồi lại trở vào. Lập tức, anh đi qua phòng khách nhỏ vắng người, vào phòng khách lớn lúc ấy cửa mở hé, lay gọi ông Stangerson nằm trên trường kỷ và đánh thức ông cũng bằng cách tôi đánh thức anh lúc nãy. Ông Stangerson nhỏm dậy, mắt ngơ ngác lạc thần, để Rouletabille kéo đi, đến tận phòng con gái, trông thấy con, hét lên một tiếng xé lòng.

    Á! Thế là ông tỉnh hẳn! Cả hai người bấy giờ hợp sức tàn còn lại, khiêng nạn nhân đặt lên giường. Đoạn, Rouletabille định xuống với chúng tôi để xem, nhưng trước khi rời phòng, anh dừng lại bên bàn viết. Ở đây, dưới đất, có một bao lớn, một chiếc ba-lô. Sao lại có bao gì ở đây nhỉ, gần bàn viết? Tấm vải xẹc bọc ngoài đã cởi nút.

    Rouletabille cúi xuống: Giấy tờ.. giấy tờ.. hình ảnh. Anh đọc:" Máy điện nghiệm mới tụ điện vì phân tính chất cơ bản của tinh túy trung gian giữa vật chất có thể cân lường và éther không thể cân lường ".

    Thật sao, thật sao, cái bí ẩn và định mệnh trớ trêu ác nghiệt nào xui khiến đúng vào lúc" người ta "giết con gái ông, người ta cũng đem đến trả cho giáo sư Stangerson tất cả mớ giấy lộn vô ích này, mớ giấy" ông sẽ ném vào lửa ngày mai ".

    Trong buổi sáng kế tiếp cái đêm kinh hoàng ấy, chúng tôi lại thấy xuất hiện ông De Marquet, viên đăng kiểm của ông với mấy người Hiến binh. Tất cả chúng tôi lại bị hỏi cung.

    Cố nhiên, trừ cô Stangerson đang trong tình trạng rất gần với hôn mê. Rouletabille và tôi, sau khi bàn nhau, đã nhất trí chỉ khai những gì mình muốn khai. Tôi cẩn thận giấu kỹ việc núp trong căn buồng đen và những chuyện thuốc mê. Tóm lại, chúng tôi lặng im tất cả về những gì có thể bị người ta nghi mình biết trước có biến cố, và cả những gì khiến người ta nghĩ cô Stangerson cố ý" chờ tên sát nhân ".

    Có thể người con gái bất hạnh phải lấy tính mạng trả giá cho cái bí ẩn cô bao phủ kẻ muốn giết mình. Chúng tôi chẳng nên nhúng tay vào việc làm cho một hy sinh như vậy phải uổng phí.

    Arthur Rance thì kể cho mọi người nghe một cách rất tự nhiên – tự nhiên đến độ tôi phải sửng sốt – là ông ta đã gặp gã bảo vệ lần chót khoảng mười một giờ khuya. Gã vào phòng lấy chiếc va-ly của ông ta để sáng mai đem ra ga Saint-Michel thật sớm. Gã đã" nán lại nói chuyện săn bắn với ông ta hồi lâu ". Quả thật Arthur William Rance định rời Glandier trong buổi sáng và theo thói quen, sẽ cuốc bộ ra ga Saint Michel. Bởi vậy, ông ta đã tiện dịp gã bảo vệ có việc vào trong làng sáng sớm để nhờ gã mang bao hành lý ra ga giùm. Chính là cái bao đồ gã áo xanh mang lúc tôi thấy gã ở trong phòng Arthur Rance đi ra. Ít nhất, tôi có lý do để nghĩ như vậy, vì ông Stangerson xác nhận lời khai của Arthur Rance. Giáo sư nói thêm rằng tối qua, ông đã không có hân hạnh mời khách ăn bữa tối, vì bạn ông đã chào cáo biệt hẳn cha con ông từ năm giờ chiều. Ông Arthur Rance chỉ sai gia nhân pha một ấm trà đem vào phòng, ông nói trong mình hơi khó ở.

    Anh gác cổng Bernier, do Rouletabille chỉ vẽ, khai: Anh được gã bảo vệ ước hẹn đêm ấy cùng đi lùng bọn săn bắn lén (gã bảo vệ đâu còn khả năng phản đối lời khai này) rằng hai người định chỗ gặp nhau không xa khu rừng sồi. Sau thấy gã bảo vệ không đến, chính anh, Bernier, đi tìm gã xem sao. Anh đi qua khung cửa ra vào nhỏ ở sân trước, tới ngay Vọng lâu thì chợt thấy một bóng người cắm đầu chạy thục mạng ở đằng trước, về phía cánh hữu lâu đài. Cùng lúc, nhiều tiếng súng nổ đuổi theo kẻ chạy trốn. Rouletabille xuất hiện ở cửa sổ hành lang. Anh phóng viên trông thấy anh, Bernier, nhận ra anh có mang súng, bèn giục anh bắn. Thế là súng nạp đạn rồi, anh nổ một phát và anh tin mình bắn trúng kẻ gian, đã bắn chết hắn là đằng khác. Niềm tin này kéo dài được đến lúc mà Rouletabille khám xét mình mẩy kẻ đã ngã gục vì trúng đạn súng trường, cho anh biết người nằm đấy" đã bị giết vì một nhát dao đâm ". Sau đó, anh chẳng biết đằng nào mà mò với một biến ảo ma quái như vậy, bởi lẽ nếu xác chết không phải kẻ chạy trốn mà tất cả chúng tôi cùng nhắm bắn thì tất nhiên kẻ chạy trốn phải ở đâu đây. Thế nhưng, trong cái góc sân nhỏ xíu này, nơi cả bọn chúng tôi xúm quanh xác chết," không có chỗ nào chứa nổi một xác chết khác hoặc một người sống "mà chúng tôi không thấy! Bernier khai như vậy.

    Nhưng ông Dự thẩm trả lời anh rằng, lúc chúng tôi ở trong góc sân chật hẹp ấy, đêm trời quá tối, tối đến nỗi chúng tôi không nhìn được mặt gã bảo vệ, phải khiêng gã vào tiền đình mới nhận ra cơ mà. Song Beraier cãi lại, rằng nếu chúng tôi không trông thấy" một xác chết khác hoặc một người sống ", thì ít nhất chúng tôi cũng đạp chân lên vì cái góc sân quá nhỏ. Tóm lại chúng tôi cả thảy năm người không kể xác chết, ở trong cái góc sân bé tý mà không thấy một người nào khác sống hoặc chết, thì thật lạ. Cửa duy nhất mở ra góc sân ấy là của phòng gã bảo vệ và cửa này thì đóng chặt. Người ta tìm thấy chìa khóa trong túi gã bảo vệ. Dù sao, bởi lẽ lời khai của Bernier, thoạt đầu có vẻ hợp lý vẫn dẫn đến lập luận rằng người ta đã dùng súng đạn để hạ gục một kẻ đã chết vì một nhát dao, ông Dự thẩm không dừng lại ở đó lâu.

    Và đến trưa thì mọi người chúng tôi thấy rõ, vị thẩm phán này tin chắc chúng tôi đã hụt mất" kẻ đang chạy trốn "và thêm một xác chết chẳng ăn nhằm gì tới" vụ án của chúng ta ". Với ông, xác chết gã bảo vệ là một vụ khác. Ông muốn chứng minh không chậm trễ. Có lẽ" vụ mới "này phù hợp với những gì ông ta suy nghĩ từ mấy ngày nay về phẩm hạnh gã bảo vệ, về những nơi gã thường lui tới, về vụ mới rồi gã dan díu với vợ chủ quán" Vọng lâu ", và phù hợp với cả những báo cáo mà ông ta nhận được về những lời lão Mathieu dọa giết gã bảo vệ, vì lúc một giờ trưa, lão Mathieu, mặc dù còn rên hừ hừ bởi chứng phong thấp hành hạ và bà vợ kêu ca phản kháng, đã bị bắt giữ và áp giải cẩn thận về Corbeil.

    Trong nhà lão, người ta chẳng tìm thấy gì khả nghi, nhưng những chuyện ba hoa lão nói hôm trước với mấy người lái xe tải ghé vào quán và được họ nhắc lại, còn nguy hại hơn cả trường hợp tìm thấy trong nhà lão chính con dao đã đâm chết" gã áo xanh. "

    Đến đây, chúng tôi người nào người nấy còn bàng hoàng về bao nhiêu biến cố vừa khủng khiếp vừa khó hiểu thì hình như để đưa nỗi bàng hoàng ấy lên tột độ, Frédéric Larsan xuất hiện. Ông ta sau khi khai với Dự thẩm đã đi ngay và giờ trở lại lâu đài, dẫn theo một nhân viên làm đường sắt. Lúc ấy, chúng tôi ngồi trong tiền đình bàn bạc về vụ lão Mathieu có tội hay oan (ít nhất có Arthur Rance và tôi tranh cãi với nhau thôi, vì Roulatabille bận thả hồn vào cõi mộng xa vời nào đó chẳng thèm để ý nghe chúng tôi nói gì).

    Dự thẩm cùng đăng kiểm của ông ta ngồi trong phòng khách nhỏ màu xanh, nơi Robert Darzac đã dẫn chúng tôi vào, ngày đầu chúng tôi đến Glandier. Bố Jacques do Dự thẩm mời cũng vừa tới. Ông Robert Darzac thì ở trên lầu, trong phòng cô Stangerson với ông Stangerson và các bác sĩ. Frédéric Larsan cùng anh nhân viên đường sắt bước vào gian tiền đình.

    Rouletabille và tôi nhận ra anh ta ngay nhờ chòm râu nhỏ vàng dưới cằm." Kìa! Anh chàng Hỏa Xa ở Epinay-Sur-Orgé ". Tôi kêu lên và nhìn Frédéric Larsan.

    Ông ta cười đáp:" Đúng, đúng, ông nhìn đúng rồi, đó là nhân viên Hỏa Xa ở Epinay-SurOrge. "Nói đoạn, Fred yêu cầu người Hiến binh gác ở cửa phòng khách vào thông báo với Dự thẩm.

    Lập tức bố Jacques đi ra, Frédéric Larsan cùng nhân viên Hỏa Xa được mời vào. Một thời gian trôi qua, có lẽ đến mười phút. Rouletabille đã sốt ruột. Rồi cửa bật mở. Người Hiến binh do Dự thẩm gọi, đi vào phòng khách, trở ra, lên thang lầu, trở xuống. Anh mở cửa phòng khách nhưng không khép lại, trình với Dự thẩm:

    - Thưa ông Dự thẩm, ông Robert Darzac không muốn xuống!

    - Thế ư? Ông ấy không muốn xuống? – Ông De Marquet cao giọng.

    - Dạ không, ông ấy nói không thể bỏ cô Stangerson trong tình trạng hiện tại.

    - Thôi được, ông ấy không đến với chúng ta thì chúng ta đến với ông ấy vậy.

    Ông De Marquet và người Hiến binh lên cầu thang. Ông ra hiệu cho Frédéric Larsan và nhân viên Hỏa Xa đi theo. Rouletabille với tôi đi sau chót. Cả đoàn người lên lầu, đi vào hành lang, tới của phòng đợi của cô Stangerson.

    Ông De Marquet gõ cửa. Một chị hầu phòng xuất hiện. Đó là Sylvie, cô nữ tỳ nhỏ nhắn với mái tóc vàng rực lôi thôi xõa xuống khuôn mặt đầy sợ sệt." Ông Stangerson có đây không? "

    – Dự thẩm hỏi.

    - Thưa ông, có.

    - Vào báo với ông, tôi cần nói chuyện.

    Sylvie chạy vào tìm chủ. Nhà bác học ra gặp chúng tôi. Ông khóc. Trông ông hết sức là thương tâm.

    - Ông còn muốn gì tôi nữa đây? – Ông hỏi Dự thẩm -Trong lúc như thế này mà ông không để cho tôi lấy một chút yên tĩnh hay sao?

    - Thưa ông – Dự thẩm trả lời – tôi có chuyện cần gặp ngay ông Robert Darzac. Ông có thể khuyên ông ta rời phòng cô Stangerson được không? Nếu không, tôi buộc lòng phải bước qua ngưỡng của với đầy đủ uy lực của bộ máy tư pháp!

    Nhà bác học không trả lời. Ông nhìn vị thẩm phán, người Hiến binh cùng mọi kẻ đi theo như một nạn nhân nhìn những kẻ sắp hành hình mình. Đoạn, ông quay vào phòng. Tức thì, ông Robert Darzac đi ra. Mặt ông xanh mét, phờ phạc. Nhưng khi người đàn ông khốn khổ nhìn thấy nhân viên Hỏa Xa đứng sau lưng Frédéric Larsan thì mặt ông ta càng thêm hốc hác, cặp mắt lạc thần, không kiềm nổi một tiếng rên khàn. Chúng tôi, tất cả đều nhận thấy nét chuyển động thê thảm trên gương mặt đau đớn này. Chúng tôi không ngăn nổi tiếng kêu thương xót. Chúng tôi cảm thấy đang xảy ra một việc có tính cách quyết định, hắn đẩy Robert Darzac vào tử địa.

    Chỉ có Frédéric Larsan biểu diễn một bộ mặt hớn hở, vẻ vui mừng của con chó săn đã ngoạm được mồi. Ông De Marquet trỏ nhân viên Hỏa Xa, hỏi Robert Darzac.

    - Ông nhận ra người này không?

    - Có, tôi nhận ra – Robert Darzac cố gò giọng nói cho cứng cỏi – nhân viên của Orléans, làm việc ở trạm Epinay-Sur-Orge.

    - Anh thanh niên này – ông De Marquet tiếp – quả quyết đã trông thấy ông xuống xe lửa ở Epinay.

    - Đêm qua – Robert Darzac cướp lời nói nốt câu – lúc mười giờ rưỡi, đúng rồi!

    Im lặng. Ông Darzac – Dự thẩm nói tiếp với giọng xúc động cảm thương – ông Darzac, ông đến làm gì ở Epinay-Sur-Orge, chỉ mấy cây số cách chỗ người ta mưu giết cô Stangerson.

    Robert Darzac lặng thinh. Ông không cúi đầu nhưng nhắm mắt lại, hoặc ông muốn giấu nỗi đau thương, hoặc ông sợ người ta đọc được trong mắt ông cái gì trong niềm u ẩn mà ông quyết không để lộ.

    - Ông Darzac – ông De Marquet lại nói – ông có thể cho tôi biết ông đã làm gì đêm vừa qua không? Robert Darzac mở mắt. Hình như ông đã lấy lại đầy đủ nghị lực của mình.

    - Thưa ông Dự thẩm, không!

    - Ông nên suy nghĩ kỹ, vì nếu ông cố tình từ chối mãi, tôi thấy sẽ cần phải giữ ông để khỏi trở ngại cuộc thẩm cứu.

    - Tôi từ chối.

    - Ông Darzac! Nhân danh pháp luật, tôi hạ trát tống giam ông!

    Vị thẩm phán chưa dứt lời, tôi đã thấy Rouletabille làm một cử động thảng thốt hướng về Robert Darzac. Chắc là anh định nói gì nhưng ông Darzac đã giơ tay bịt miệng anh. Người Hiến binh tiến đến bên tù nhân. Đúng lúc ấy, một tiếng thét hãi hùng vang dội:" Robert! Robert! "Chúng tôi nhận ra cô Stangerson và nghe cái âm thanh đau đớn trong tiếng thét, không ai trong chúng tôi không rùng mình ớn lạnh.

    Chính Frédéric Larsan lần này cũng tái mặt. Còn Robert Darzac, vừa nghe gọi tên mình, ông đã tung mình bay ra cửa. Ông Dự thẩm, người Hiến binh, Larsan cùng kéo nhau đi theo đứng sau lưng Darzac. Rouletabille và tôi dừng lại ở bậc cửa.

    Cảnh tượng xé lòng: Cô Stangerson mặt trắng bệch như mặt người chết nhỏm ngay vùng dậy, mặc hai ông bác sĩ và cha cô ngăn cản, cô vươn đôi tay run rẩy về phía Robert Darzac đang bị Larsan và người Hiến binh đúng hai bên nắm giữ cánh tay. Mắt cô mở to, cô trông thấy, cô hiểu, miệng cô như muốn bật ra một tiếng, một tiếng nói tắt lịm trên cặp môi nhợt nhạt, một tiếng không ai nghe thấy, rồi ngã vật xuống giường bất tỉnh.

    Người ta vội vã đưa Robert Darzac ra khỏi phòng. Trong khi chờ Larsan đi kiếm xe, chúng tôi dừng lại gian tiền đình. Xúc động cực điểm. Ông De Marquet rưng rưng nước mắt. Rouletabille nhân lúc mọi người đang thương cảm, hỏi Robert Darzac:

    - Ông không tự bào chữa sao?

    - Không! Người tù trả lời,

    - Tôi sẽ bảo vệ ông.

    - Không được đâu – người đàn ông đau khổ phác một nụ cười buồn. – Điều mà cô Stangerson và tôi không làm được, ông cũng không làm được đâu!

    - Có, tôi sẽ làm được. Giọng Rouletabille bình tĩnh và tin tưởng lạ. Anh tiếp: - Tôi sẽ làm, ông Robert Darzac, bởi vì tôi, tôi biết rõ vụ này nhiều hơn ông! - Thôi đi ông ơi! – Robert Darzac lẩm bẩm gần như nổi giận.

    – Ồ! Ông cứ yên tâm, tôi chỉ biết những gì có lợi để cứu ông thôi.

    - Đừng nên biết gì cả, ông bạn trẻ, nếu bạn muốn có quyền hưởng lòng biết ơn của tôi đối với bạn.

    Rouletabille lắc đầu, anh tiến lại rất gần, rất gần Darzac:" Ông hãy nghe tôi "– anh thì thầm –" lời tôi nói sẽ đem lại niềm tin cho ông! Ông, ông không biết tên kẻ sát nhân, còn cô Stangerson, cô chỉ biết một nửa kẻ sát nhân; nhưng tôi, tôi biết cả hai nửa của hắn. Tôi biết trọn vẹn con người hắn!

    Robert Darzac mở mắt để chứng tỏ ông chẳng hiểu một tiếng nào trong những lời Rouletabille vừa nói với ông – Lúc này, xe vừa đến, do Larsan lái. Người ta cho Darzac và người Hiến binh lên xe. Larsan ngồi yên trên ghế lái. Người ta giải tù về Corbeil.
     
  5. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 25: Cuộc viễn du của Routabille

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngay tối đó, Rouletabille và tôi rời Glandier. Chúng tôi ra đi, lòng phơi phới. Chốn này chẳng còn gì giữ nổi chúng tôi. Tôi tuyên bố bỏ cuộc, hết muốn soi sáng quá nhiều bí ẩn đến thế. Rouletabille thân mật vỗ vai tôi, tâm sự rằng anh không còn gì để tìm hiểu ở Glandier, và Glandier đã cho anh biết tất cả. Chúng tôi tới Paris khoảng tám giờ. Ăn tối vội vàng, rồi mệt mỏi, chúng tôi chia tay nhau, hẹn gặp lại sáng mai, ở nhà tôi.

    Đúng giờ hẹn, Rouletabille bước vào phòng, mặc bộ đồ Com-lê kẻ ô vuông, loại nỉ của Anh, áo choàng dài vắt tay, đầu đội mũ kết, mang theo một giỏ hành lý. Anh tuyên bố đi xa.

    - Anh đi bao lâu?

    - Một tháng hoặc hai.

    Tôi không dám hỏi tiếp.

    - Anh có biết – Rouletabille nói – cái tiếng cô Stangerson thốt được ra trước khi bất tỉnh trong lúc nhìn ông Robert Darzac là tiếng gì không?

    - Không, có ai nghe thấy đâu. - Có, tôi! Nàng bảo chàng: "Nói đi!"

    - Và ông Darzac sẽ nói?

    - "Không bao giờ!"

    Tôi muốn kéo dài thêm câu chuyện, nhưng anh đã bắt tay tôi xiết chặt và chúc tôi mạnh khỏe. Tôi chỉ đủ thì giờ hỏi:

    - Anh không sợ trong thời gian vắng mặt, lại có những vụ mưu sát khác xảy ra nữa?

    - Tôi chẳng còn sợ xảy ra những vụ như vậy nữa, từ khi ông Darzac vào tù. Chấm dứt câu nói kỳ cục này, anh quay gót. Tôi chỉ gặp lại anh trong phiên tòa đại hình xử vụ Darzac, lúc anh đến trước lan can nhân chứng, để giải thích điều không thể giải thích.
     
  6. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 26: Từ nơi mà Routabille được công chúng đón đợi

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đến ngày mười lăm tháng giêng, tức hai tháng rưỡi sau những biến cố bi thảm tôi vừa tường thuật, trên báo có dòng tít: "Đoàn bồi thẩm ở Seine-et-Oise được triệu tập hôm nay để xét một vụ án bí ẩn nhất trong lịch sử tư pháp. Chưa bao giờ có vụ nào chứa chất nhiều điểm tối tăm, không thể hiểu, không thể lý giải như vụ này, thế mà Công Tố Viện không hề ngần ngại, đã đưa ra ghế bị cáo một người mà tất cả những ai từng biết ông đều kính phục, ngưỡng mộ và yêu mến, một nhà bác học trẻ, hy vọng của khoa học nước Pháp, cả một đời tận tụy và liêm khiết. Khi Paris hay tin ông Robert Darzac bị tống giam, tiếng la ó khắp nơi nhất loạt bung ra phản đối. Toàn thể Đại học Sorbonne bị tổn thương danh dự vì hành động lạ lùng của ông Dự thẩm, long trọng tuyên cáo niềm tin của họ nơi người chồng sắp cưới vô tội của cô Stangerson. Chính giáo sư Stangerson cũng lớn tiếng xác nhận pháp luật đã đi lạc đến sai lầm và mọi người đều tin chắc, nếu nạn nhân mà nói được, tất cô sẽ đến trước mười hai vị bồi thẩm ở Seine-et-Oise đòi lại người đàn ông cô sắp lấy làm chồng mà Công Tố Viện muốn đưa lên máy chém. Cần phải hy vọng một ngày gần đây, cô Stangerson phục hồi được lý trí đã tạm thời chìm mất trong cái bí ẩn ở Glandier. Chẳng lẽ quý vị mong cô bị mất lại lần nữa khi hay tin người đàn ông cô yêu thương đã chết về tay người đao phủ? Câu hỏi này, xin gởi đến quý vị. Trong đoàn bổi thẩm" mà chúng tôi đề nghị cứu xét, ngay hôm nay ". Thực vậy, chúng tôi nhất quyết không để cho mười hai con người dũng cảm phạm một sai lầm tư pháp đáng ghê tởm. Đã đành, những trường hợp ngẫu nhiên kinh dị, những vết tích tố cáo tai hại, một sự im lặng khó hiểu phía bị cáo, một thời dụng biểu bí mật, mọi trường hợp ngoại phạm vắng bóng, đã có thể tạo nên xác tín của Công Tố" đi tìm sự thật ở chỗ khác không được ", đành tìm thấy nó ở đây. Những điểm nghi ngờ, xét bề ngoài, có vẻ chụp xuống đầu ông Robert Darzac quá nặng, nặng đến độ ta phải tha thứ cho một nhà thám tử tài ba, thông minh, và thường gặp may như ông Frédéric Larsan để cho nó làm quáng mắt.

    Cho tới bây giờ, tất cả tố cáo ông Robert Darzac trước Dự thẩm. Nhưng ngày nay, chúng tôi đây, chúng tôi biện hộ cho ông trước bồi thẩm đoàn. Và chúng mang đến trước vành móng ngựa, một luồng ánh sáng cực sáng, đến mức soi tỏ mọi bí ẩn ở Glandier.

    " Bởi vì chúng tôi hiện nắm trong tay sự thật!" "Nếu chúng tôi đã không nói sớm hơn tất nhiên là quyền lợi của cái chính nghĩa mà chúng tôi muốn bảo vệ kia nó đòi buộc. Độc giả của chúng tôi đã không quen những cuộc điều tra vô danh gây chấn động, chúng tôi đã công bố về" bàn chân trái ở phố Ober-Kampp, về vụ trộm khét tiếng ở Ngân Hàng Tín Dụng Thế Giới "và vụ" những nén vàng ở Xưởng Đúc Tiền "nhờ đó chúng tôi đã thấy hết sự thật trước khi thiên tài lỗi lạc Frédéric Larsan khám phá ra hoàn toàn. Những cuộc điều tra ấy được thực hiện bởi anh ký giả trẻ nhất của chúng tôi, một chú bé mười tám tuổi, Joseph Rouletabille, người sẽ tiếng tăm lừng lẫy ngày mai. Khi vụ án Glandier nổ ra, anh phóng viên bé nhỏ của chúng tôi đến tận nơi, gõ mọi cửa và nghiễm nhiên ở luôn lại lâu đài, trong khi tất cả các đại diện báo chí bị xua đuổi.

    Bên cạnh Frédéric Larsan, anh tìm sự thật, anh hoảng sợ nhìn thấy nhà thám tử lừng danh kỳ tài này chìm sâu mãi vào lầm lẫn. Anh cố gắng lôi kéo ông ra ngoài con đường sai lạc ông đã dấn thân vào, nhưng vô ích. Anh cả Fred không chịu tiếp thu bài học của em nhỏ phóng viên. Chúng ta đã biết việc đó dẫn ông Robert Darzac tới đâu.

    Thế nhưng, cần phải cho nước Pháp biết, cần phải cho thế giới biết, rằng ngay buổi tối hôm ông Robert Darzac bị tống giam, chàng tuổi trẻ Joseph Rouletabille vào văn phòng Chủ nhiệm chúng tôi và nói với ông:" Tôi đi xa. Đi bao lâu, tôi không thể nói trước. Có thể một tháng, hai tháng, ba tháng, có thể chẳng bao giờ tôi trở về. Đây là một phong thư. Nếu tôi không trở về kịp ngày ông Darzac bị đưa ra tòa đại hình thì ông hãy mở phong thư này trước phiên xử, sau khi các nhân chứng đã lần lượt khai cung xong. Việc này, ông hợp sức với luật sư của ông Robert Darzac để cùng làm. Ông Robert Darzac vô tội. Trong thư này có tên kẻ sát nhân, và tôi sẽ không nói các bằng chứng, vì các bằng chứng, tôi đang đi tìm đây, nhưng có cách giải thích không sao chối cãi được về cái tội nó đã phạm. Rồi anh ký giả của chúng tôi ra đi.

    Đã lâu, anh không gởi tin tức gì về, nhưng cách đây tám ngày, một người lạ mặt đến gặp Chủ nhiệm chúng tôi đã nói với ông: "Xin ông hành động theo lời căn dặn của Joseph Rouletabille, nếu sự việc trở thành cần thiết. Sự thật ở trong lá thư ấy". Người lạ mặt không muốn xưng tên.

    "Hôm nay là 15 tháng giêng, một ngày lớn của các phiên xử đại hình. Joseph Rouletabille chưa về. Có thể không bao giờ chúng ta gặp lại anh. Báo chí cũng có những anh hùng của nó, nạn nhân của bổn phận: Bổn phận nghề nghiệp, bổn phận ở trên hết mọi bổn phận. Có thể giờ này anh đã gục ngã trong bổn phận! Chúng tôi sẽ báo thù cho anh. Trưa nay, Chủ nhiệm của chúng tôi sẽ có mặt tại phiên tòa đại hình Versailles với lá thư: Lá thư chứa đựng danh tánh tên sát nhân! Trên đầu bài báo, in hình Rouletabille. Người dân Paris ngày hôm ấy kéo nhau đến Versailles để dự khán phiên tòa được mệnh danh là vụ bí ẩn" Căn Phòng Vàng "chắc chắn không quên cảnh náo loạn kinh khủng người người chen chúc nhau ở ga Saint – Lazarc.

    Không thể kiếm nổi một chỗ ngồi trong các chuyến xe lửa. Người ta phải tổ chức thêm nhiều đoàn tàu bổ sung. Mỗi người có một lối giải thích riêng của mình và chỉ cho nó là đúng. Những kẻ đồng ý với lối giải thích của Frédéric Lazan nhất định không chấp nhận cho người ta dám nghi ngờ óc sáng suốt của nhà thám tử đại danh, còn ai không đồng ý với Frédéric Larsan thì dĩ nhiên họ cho là cách giải thích của Rouleiabille mới đúng, tuy họ chưa biết nó thế nào.

    Tòa soạn báo của Routabille cảm thấy, phe" Larsan "và phe" Rouletabille "ẩu đả, cãi lộn om sòm đến tận những bậc thềm của Pháp đình Versailles, vào tận trong phòng xử án. Phải lập thêm một ban trật tự. Làn sóng người đông như kiến không được vào lâu đài, đành ở lại các khu vực xung quanh cho đến tối. Quân đội, cảnh Sát phải một phen vất vả lao đao, trong lúc họ hau háu đợi tin sốt dẻo, tiếp nhận dễ dàng mọi nguồn dư luận ly kỳ nhất.

    Đã có lúc, một tin hành lang được tung ra, rằng giáo sư Stangerson bị tống giam giữa phiên tòa sau khi thú nhận tội giết con gái. Thật điên rồ. Và người ta ngóng đợi Rouletabille. Nhiều người khoe quen anh và nhận ra anh. Khi một chàng trai có giấy thông hành rảo bước qua khoảng đất trống ngăn cách đám đông với Pháp Đình thì nhiều chỗ xô đẩy nhau túi bụi. Họ chen lấn đè cả lên người nhau.

    Họ la lớn:" Rouletabille! Rouletabille đây rồi! Có vài anh nhân chứng ít nhiều hơi giống bức chân dung in trên báo được hoan hô ầm ỹ. Ông chủ nhiệm lúc đến cũng gây vài đám ồn ào. Đám nọ vỗ tay cổ vũ, đám kia huýt gió chê bai. Trong đám đông, có nhiều phụ nữ. Trong phòng xử đại hình, vụ án diễn tiến dưới quyền chủ tọa của ông De Rocoux, một thẩm vô cùng chính trực. Tòa gọi tên các nhân chúng. Dĩ nhiên, tôi cũng ở trong số, như tất cả những ai có dính líu xa gần đến các bí ẩn ở Glandier.

    Ông Stangerson già đi đến mười tuổi, khó còn nhận ra diện mạo, Arthur William Rance mặt vẫn đỏ au; bố Jacques, già Mathieu bị còng tay giải đến giữa hai Hiến binh, bà Mathieu khóc sướt mướt, vợ chồng Bennier, hai mẹ con người gác bệnh, anh quản gia, tất cả gia nhân đầy tớ trong lâu đài, người phụ trách Văn Phòng 40 Bưu Điện, anh nhân viên Hỏa xa ở Epinay, vài thân hữu của cha con ông Stangerson, cùng tất cả các nhân chứng phía gỡ tội của ông Robert Darzac.

    Tôi may mắn được xếp trong số người khai chứng đầu tiên nên hầu như suốt phiên xử từ đầu chí cuối tôi đều có mặt. Khỏi cần tả lại cùng quý vị cảnh người ta đạp lên nhau trong phòng xử. Nhiều luật sư ngồi cả ở các bậc lên xuống của "tòa án" và đằng sau các vị thẩm phán mặc áo chùng đỏ, các phòng biện lý của những tòa án khác quanh vùng đều có đại diện. Ông Robert Darzac xuất hiện trên ghế bị cáo giữa mấy người Hiến Binh, rất bình tĩnh, rất hiên ngang và rất đẹp, tới mực ông được nghênh đón bằng một làn sóng lao xao khâm phục nhiều hơn thương hại.

    Ông đến nghiêng đầu bên cạnh người biện hộ của mình, luận sư Henri Robert. Ông này có đệ nhất thư ký trợ lý là luật sư Andre Hesse bấy giờ đang còn tập sự, đã bắt đầu lần giở từng trang hồ sơ. Nhiều người yên trí thế nào ông Stangerson cũng lại bắt tay bị cáo, nhưng các nhân chứng đã bắt đầu được gọi tên và họ lục rục rời phòng xử, nên màn tỏ tình thông cảm rất hấp dẫn này không diễn ra.

    Ông chủ nhiệm tòa soạn lên ngồi vào hàng ghế trên cùng. Vài người lấy làm lạ. Thấy ông không đi theo những người khác sang phòng dành cho nhân chứng. Việc đọc cáo trạng hoàn tất như thường lệ. Tôi không kể lại ở đây cuộc thẩm vấn ông Robert Darzac kéo dài thế nào. Ông trả lời các câu hỏi một cách tự nhiên nhất mà cũng bí hiểm nhất.

    "Tất cả những gì ông có thể nói" thì có vẻ tự nhiên, còn những gì ông nín lặng thì đối với ông, có vẻ khủng khiếp vô cùng, ngay cả trước mắt những người "cảm thấy" ông vô tội. Chính thái độ im lặng của ông về những điểm chúng ta đã biết nó hại ông và cũng chính nó đánh ông miếng đòn chí tử. Ông chống lại những lời trách cứ của Chánh Án và Công Tố Viên. Người ta cho ông hay, trong hoàn cảnh như thế này, im lặng có nghĩa là chết.

    - Cũng được đi – ông ta trả lời – vậy thì tôi bằng lòng chết, nhưng tôi vô tội!

    Henri Robert nổi tiếng là một luật sư khôn khéo hơn người. Ông cố gắng ca tụng đức hạnh của thân chủ mình, căn cứ luôn vào cái thái độ im lặng kia, kín đáo nêu lên những bổn phận thiêng liêng mà chỉ những tâm hồn cao thượng mới dũng cảm đem buộc vào mình.

    Ông luật sư danh tiếng chỉ thuyết phục được hoàn toàn những ai từng biết ông Darzac, còn người khác, họ thấy đều do dự. Phiên tòa tạm đình một lúc, rồi đến cuộc thẩm vấn các nhân chứng mà Rouletabille vẫn chẳng thấy đâu. Mỗi lần cửa mở là tất cả các con mắt đổ dồn ra đó, rồi lại chĩa vào ông chủ nhiệm báo vẫn ngồi yên lặng một chỗ tỉnh queo.

    Cuối cùng, người ta cũng thấy ông lục trong túi, rút ra một phong thư. Tiếng xì xào bùng to sau cái cử chỉ ấy. Tôi không có ý định trình bày hết ở đây mọi biến chuyển trong phiên xử. Tôi đã nghĩ ngợi khá lâu, cố nhớ lại tất cả các giai đoạn của vụ này để tránh không làm phiền độc giả bằng việc kể lại lần nữa các biến cố đã xảy ra với mọi bí ẩn vây quanh chúng.

    Tôi nôn nóng muốn đi gấp tới cái lúc thật sự bi thảm của một ngày không thể quên là ngày hôm ấy. Nó đã xảy đến khi luật sư Henri Robert đặt vài câu hỏi với già Mathieu, ở lan can nhân chứng giữa hai người Hiến Binh, đang kịch liệt chối tội giết "gã áo xanh". Vợ lão được gọi ra đối chất với lão. Bà ta òa khóc, thú nhận có giao du "thân mật" với gã bảo vệ, ông chồng cũng có nghi ngờ, nhưng bà ta vẫn quả quyết lão không dính dáng đến việc người "bạn trai" của mình bị đâm chết.

    Tức thì luật sư Henri Robert thỉnh cầu tòa hỏi ngay Frédéric Larsan về điểm này. Ông nói: "Trong vài lời trao đổi với Frédéric Larsan khi tòa tạm đình, ông ấy đã cho tôi hay, có thể giải thích cái chết của anh bảo vệ bằng cách khác, không có già Mathieu can dự. Vậy, nghe giả thuyết của Frédéric Larsan cũng là điều hay?" Frédéric Larsan liền được gọi vào. Ông giải thích thật rành mạch: Trong vụ này, tôi thấy không cần hỏi già Mathieu. Ý kiến ấy tôi đưa ra với ông De Marquet rồi. Song những câu hăm dọa giết người của già dĩ nhiên đã gieo ảnh hưởng tai hại trong đầu ông Dự thẩm.

    Theo tôi, việc mưu sát cô Stangerson và việc anh bảo vệ bị đâm chết "chỉ là một vụ". Người ta đã nổ súng vào kẻ toan giết cô Stangerson đang chạy trong sân trước lâu đài, người ta đã tưởng bắn trúng nó, tưởng giết chết nó rồi. Thật ra nó chỉ loạng choạng lúc biến vào sau cánh hữu lâu đài. Ở đây, tên sát nhân đụng đầu với anh bảo vệ chắc là định chặn đường nó. Sẵn con dao vừa đâm cô Stangerson còn trong tay, nó đâm luôn anh bảo vệ, và anh này đã chết. Lời giải thích quá đơn giản càng dễ dàng được chấp nhận, vì một số đông người quan tâm đến những bí ẩn ở Glandier cũng đã tự tìm ra. Tiếng xì xào tán thưởng lan nhanh.

    - Rồi tên sát nhân sau đó ra sao, trong tất cả câu chuyện này? – Ông chánh án đặt câu hỏi.

    - Hắn tạm ẩn trong một xó tối góc sân và khi người trong lâu đài khiêng xác chết đi rồi, nó cứ việc thoải mái chuồn êm.

    Đúng lúc ấy, từ cuối đám "quần chúng đứng", một tiếng nói trẻ trung cất lên. Giữa cảnh người sửng sốt không ngờ, cái tiếng ấy dõng dạc:

    - Tôi đồng ý với Frédéric Larsan về nhát dao đâm thấu tim anh bảo vệ, nhưng không đồng ý về cách thức tên sát nhân đã trốn đi từ góc sân ấy!

    Bao nhiêu cái đầu trong phòng đều quay cả lại. Ông chánh án gay gắt hỏi ai lên tiếng và ra lệnh trục xuất ngay tức khắc kẻ gây rối. Nhưng người ta lại nghe cái tiếng trong trẻo ấy kêu to.

    "Tôi đây, thưa ông chánh án, tôi đây, Joseph Rouletabille."
     
  7. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 27: Routabille xuất hiện trong chiến thắng rực rỡ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một cuộc náo động khủng khiếp tức thì xảy ra. Người ta xô đẩy nhau như điên. Ai cũng muốn thấy mặt Rouletabille. Ông chánh án nổi giận dọa lùa tất cả ra ngoài, nhưng đâu còn có ai nghe ông.

    Trong lúc ấy Rouletabille nhảy qua hàng rào lan can ngăn anh với đám quần chúng ngồi, vung rộng hai khuỷu tay rẽ lấy một lối đi đến chỗ ông chủ nhiệm của anh. Anh để phong thư "của anh" trên tay ông đút vào túi mình, đoạn chen luôn vào khu dành cho việc thẩm án. Anh xô người này, đẩy người nọ rồi lại bị người ta xô đẩy lại ngất ngư; nhưng mặt mày hớn hở, tươi cười, quả cầu tròn xoay đỏ ửng còn bừng sáng ánh thông minh của cặp mắt to tròn. Anh vẫn mang bộ com-lê mặc sáng hôm ở đây đi nhưng lôi thôi trông phát gớm – áo choàng vắt tay mũ kết du lịch trên đầu.

    Đến lan can nhân chứng, anh chững chạc chào các vị phán quan đoạn lên tiếng:

    - Tôi xin lỗi, thưa ông chánh án, chuyến tàu xuyên đại dương bị trễ! Tôi ở Mỹ về. Tôi là Joseph Rouletabille.

    Người ta phá ra cười. Ai cũng mừng thấy mặt anh. Hình như mọi người cùng có cảm tưởng một sức nặng ghê gớm đang đè trên lương tâm vừa được cất bỏ. Người ta thở ra. Người ta tin tưởng anh mang đến sự thật, anh sắp cho họ biết sự thật. Nhưng ông Chánh án nổi trận lôi đình:

    - A! Anh là Joseph Rouletabille hả. Thế thì, hỡi anh bạn trẻ, tôi sẽ dạy cho anh biết cách coi thường luật pháp. Trong khi chờ đợi tòa sẽ xét tội anh, tôi sẽ giữ anh dưới quyền sử dụng của Công lý chiếu theo thẩm quyền chuyên quyết của tôi.

    - Dạ, thưa ông Chánh án, tôi chỉ cần có thế, được ở dưới quyền sử dụng của Công lý; tôi tới đây chính là để đặt mình dưới quyền sử dụng của Công lý. Nếu lúc tôi vào có gây ra chút huyên náo, thì tôi xin tòa tha lỗi. Ông Chánh án nên tin rằng không có ai tôn trọng Công lý bằng tôi, nhưng tôi đã vào theo khả năng tôi.

    Bỗng anh bật cười. Và mọi người cười theo.

    - Đem hắn ra ngoài! – Ông Chánh án ra lệnh. Nhưng luật sư Henri Robert đã can thiệp. Ông bắt đầu bằng lời xin lỗi cho chàng trai trẻ. Ông đề cao anh là người đầy thiện chí giúp ích cho tòa. Ông thuyết cho vị Chánh án hiểu rằng người ta khó có thể bỏ qua lời khai của một nhân chứng đã ngủ luôn ở Glandier trong suốt cả tuần lễ xảy ra bao điều bí ẩn, nhất là một nhân chứng tự xưng sẽ chứng minh bị cáo vô tội và đem đến cho tòa danh tánh kẻ sát nhân.

    - Anh cho chúng tôi biết tên kẻ sát nhân chứ? – Ông Chánh án đã nao núng nhưng còn hoài nghi, hỏi lại.

    - Dạ phải, thưa ông Chánh án, tôi đến đây chỉ có mỗi việc ấy! – Rouletabille trả lời. Chút xíu nữa người ta vỗ tay, song những tiếng Suỵt! Suỵt! Oai nghiêm của mấy ông Thừa phát lại đã tái lập bầu không khí im lặng. Luật sư Henri Robert cất tiếng:

    - Joseph Rouletabille không được đòi đến làm chứng theo thủ tục thông thường, nhưng tôi hy vọng ông Chánh án sẽ hành xử quyền chuyên quyết để chấp cung đương sự.

    - Thôi được! – ông Chánh án đáp – Tôi sẽ hỏi anh. Nhưng khoan, để xem nào..

    Vị đại diện Công Tố đứng lên:

    - Có lẽ tốt hơn hết, chàng tuổi trẻ này nên khai ngay tức khắc kẻ mà anh tố cáo là tên sát nhân.

    Ông Chánh án chấp thuận với giọng dè dặt mỉa mai:

    - Nếu Công Tố viên cho rằng lời khai của ông Joseph Rouletabille có chút quan trọng, thì tôi không thấy gì trở ngại để nhân chứng khai ngay lập tức danh tánh "tên sát nhân của nhân chứng!"

    Phòng xử nghe được cả tiếng ruồi bay. Rouletabille im lặng. Anh xót xa nhìn ông Robert Darzac, lần thứ nhất kể từ lúc tòa bắt đầu cuộc tranh biện, ông vụt để lộ trên mặt nét bàng hoàng kinh sợ.

    - Xong rồi – ông Chánh án nhắc lại – chúng tôi nghe ông đây. Tòa đang đợi ông cho biết tên kẻ sát nhân.

    Rouleiabille bình tĩnh lục trong túi áo gi-lê, rút ra một "quả quít", xem giờ, đoạn nói:

    - Thưa ông Chánh án, tôi chỉ có thể khai ra với tòa tên họ kẻ sát nhân vào lúc sáu giờ mười! Chúng ta còn đúng bốn tiếng nữa!

    Phòng xử sôi lên những tiếng xì xào kinh ngạc và bất bình. Vài ông luật sư lớn tiếng: "Anh này giỡn mặt chúng ta!" Ông Chánh án có vẻ thích thú. Hai luật sư Henri Robert và André Hesse thì rầu rĩ. Ông Chánh án ung dung phán:

    - Cái chuyện đùa dai này kéo dài đã khá lâu, ông Rouletabille. Ông có thể lui vào phòng dành cho các nhân chứng. Tôi giữ ông dưới quyền xét định của tòa. Roulelabille phản kháng:

    - Tôi xin đoan chắc, thưa ông Chánh án, – anh kêu lớn cái giọng lanh lảnh vang như kèn đồng – tôi xin đoan chắc khi tôi đã khai ra tên họ kẻ sát nhân thì ông chánh án sẽ hiểu cho tôi ngay, rằng tôi chỉ nói được điều ấy lúc sáu giờ rưỡi! Nhưng trong khi chờ đợi, tôi vẫn có thể đưa ra vài lời giải đáp về vụ anh bảo vệ bị đâm chết. Ông Frédéric Larsan, người đã thấy tận mắt tôi "làm việc" ở Glandier, có thể trình với tòa tôi đã nghiên cứu vụ này cẩn thận đến thế nào. Tôi thường có ý kiến đối nghịch với ông ấy và cho rằng, làm cho ông Robert Darzac bị tống giam, ông ấy đã đẩy một người vô tội vào tù oan. Chính ông ấy cũng không hề nghi ngờ thiện chí của tôi và tầm quan trọng của những gì tôi khám phá, hắn thường phù hợp với những gì ông ấy phát hiện ra! Frédéric Larsan lên tiếng:

    - Thưa ông Chánh án tôi nghĩ nghe lời khai của ông Rouletabille có lẽ cũng hay, nhất là ông ấy không đồng ý với tôi thì lại càng hay nữa.

    Tiếng xầm xì nổi lên tán thưởng câu nói của nhà thám tử. Ông ta chấp nhận cuộc so gươm với phong cách thật đẹp. Trận thi tài hứa hẹn nhiều kỳ thú giữa hai tinh hoa trác tuyệt cùng lao vào một bài toán bi thảm và đã đi tới hai giải đáp khác nhau. Nhân ông Chánh án lặng thinh, Frédéric Larsan nói tiếp:

    - Như vậy là chúng ta nhất trí về nhát dao do tên hung thủ đã giết hụt cô Stangerson đâm thấu tim anh bảo vệ, nhưng bởi lẽ chúng ta hết đồng ý về vấn đề tên sát nhân chạy trốn "trong cái mẩu sân con", nếu ông Rouletabille cắt nghĩa được cuộc chạy trốn này thực hiện bằng cách nào thì thật ly kỳ!

    - Đúng đấy – bạn tôi trả lời vui vẻ – thật là một sự ly kỳ!

    Cả phòng xử lại phá ra cười như họp chợ. Ông Chánh án lập tức tuyên bố nếu công chúng còn tái diễn một màn cười nữa thì ông sẽ không ngần ngại mà thực hiện lời đe dọa tống cổ hết ra ngoài.

    - Quá thật – ông Chánh án kết thúc bài gắt gỏng – trong một vụ án như vụ này, tôi không thấy cái gì là đáng cười.

    - Tôi cũng vậy! – Rouletabille đáp lại, không cười.

    Trước mặt tôi, có mấy người rút vội khăn tay nhét vào miệng để khỏi bật cười.

    - Thế nào – ông Chánh án hỏi tiếp – ông nghe rõ chưa, ông bạn trẻ, nghe rõ ông Frédéric Larsan nói gì rồi chứ. Theo ông thì tên sát nhân ở trong cái "mẩu sân con" trốn đi bằng cách nào?

    Rouletabille nhìn bà Mathieu. Bà Mathieu nhìn anh, mỉm cười buồn bã.

    - Bởi lẽ bà Mathieu – anh nói – đã thú nhận có cảm tình với anh bảo vệ.

    - Con đĩ chó! – Lão Mathieu la lớn.

    - Đem già Mathieu ra ngoài. – Ông Chánh án hạ lệnh.

    Người ta dẫn lão Mathieu đi. Rouletabille nói tiếp:

    - Bởi lẽ bà ấy đã thú nhận việc này, tôi có thể nói thẳng, bà ấy thường có những cuộc trò chuyện ban đêm với anh bảo vệ ở tầng lầu nhất Vọng Lâu, trong gian nhà ngày xưa dùng làm phòng diễn thuyết. Những buổi trò chuyện ấy mấy lúc sau này tăng lên nhiều khi già Mathieu bị đau phong thấp phải liệt giường. Một mũi moóc-phin, chích đúng lúc, ru ông Mathieu vào giấc ngủ êm say, khỏe khoắn, đồng thời giúp bà vợ yên tâm trong vài giờ cần vắng mặt. Ban đêm, bà Mathieu đến lâu đài, trùm kín người một tấm mạng đen to, không ai nhận được mặt, chờn vờn lướt đi như một bóng ma tăm tối đôi khi khuấy động giấc ngủ của bố Jacques. Để báo cho người bạn trai biết mình đã đến, bà Mathieu bắt chước tiếng meo ghê rợn của con mèo thường theo sát mẹ Agenoux, một bà phù thủy già ở Rừng – Nữ – Thánh – Genevìeve. Tức thì anh bảo vệ từ Vọng lâu xuống mở khung cửa nhỏ đường ngầm cho tình nhân. Khi Vọng Lâu khởi công sửa chữa những chỗ hư nát, các cuộc hẹn hò vẫn tiếp tục không kém, ngay tại Vọng Lâu, ở căn phòng mới tạm thời dành cho người tôi tớ bất hạnh này, nơi đầu cánh hữu lâu đài, chỉ ngăn cách với các phòng của vợ chồng anh quản gia và chị bếp bằng một tấm vách quá mỏng. Bà Mathieu vừa rời anh bảo vệ thì thảm kịch "mẩu sân nhỏ" xảy ra. Cặp tình nhân, đã dốc hết chuyện tâm tình, cùng nhau ra khỏi Vọng lâu. Nhưng chi tiết này, thưa ông Chánh án, mãi sáng hôm sau, khi xem xét các dấu chân trên sân trước lâu đài, tôi mới biết. Bernier, anh gác cổng được tôi cắt cầm súng đứng quan sát đằng sau Vọng Lâu, như tôi sẽ để anh giải thích với tòa không thể thấy việc gì xảy ra ở sân trước. Một lúc sau, nghe tiếng súng nổ anh mới chạy đến và cũng bắn theo. Bấy giờ, anh bảo vệ và bà Mathieu đang ở sân trước trong đêm thinh lặng. Hai người chúc nhau ngon giấc. Bà Mathieu thì đi ra phía cổng lớn vẫn để mở, còn anh chàng trở vào căn buồng nhỏ đội bao lớn ở đầu cánh phải lâu đài. Anh đi sắp tới cửa phòng mình thì nghe tiếng súng nổ. Anh ngoái cổ rồi lo lắng quay trở lại. Tới sân góc cánh hữu lâu đài thì bị một bóng người nhảy xổ tới đâm. Anh lăn ra chết. Xác anh được khiêng đi bởi tay các ông tưởng bắn ngã kẻ giết người, ai dè chỉ mang đi được kẻ bị người giết. Trong lúc ấy, bà Mathieu làm gì? Hoảng sợ vì tiếng súng nổ và đám người ào vào sân, bà cố thu hình cho thật nhỏ trong đêm tối ở sân trước. Sân thì rộng, bà lại ở ngay gần cổng, bà Mathieu có thể lướt qua mà không bị ai nhìn thấy. Nhưng bà không "qua", bà ở lại và trông thấy người ta mang xác chết đi. Lòng quặn thắt vì nỗi kinh hoàng dễ hiểu, bà mò vào tận gian tiền đình, dòm vào chỗ cầu thang được ngọn đèn trong tay bố Jacques soi sáng, cái cầu thang nơi người ta đặt xác bạn trai của bà. Bà "trông thấy" và chạy trốn. Bà có làm bố Jacques chú ý không? Chỉ biết bố Jacques từng tìm cách theo dõi con ma đen đã nhiều đêm quấy nhiễu bố không cho ngủ. Cũng đêm ấy, trước khi án mạng xảy ra, bố lại bị những tiếng gào của "Con Vật Của Chúa" đánh thức và qua cửa sổ phòng mình, bố trông thấy con ma đen. Bố vội vã mặc quần áo, điều đó giải thích tại sao khi chúng tôi đem thi thể anh bảo vệ vào gian tiền đình thì gặp bố đến nơi, áo quần tề chỉnh. Vậy thì, đêm ấy, ở sân trước, chắc bố định nhìn sát mặt con ma đen một lần cho xong chuyện. Bố đã nhận ra hắn là ai! Bố Jacques là bạn cũ bà Mathieu. Hẳn bà thú nhận với bố những buổi hẹn hò đen tối của mình, và khẩn khoản xin bố cứu cho thoát vòng nguy khốn. Trông bà Mathieu lúc ấy, lúc vừa nhìn thấy bạn mình nằm chết, chắc bà thiểu não lắm. Bố Jacques thương tình, đưa chân bà Mathieu về, qua rừng sồi, ra ngoài khu hoa viên, sang luôn bôn kia bờ hồ đến tận đường đi Epinay. Đến đây, bà chỉ còn vài bước là tới nhà.

    Bố Jacques trở về lâu đài và nhận ra tầm quan trọng luật pháp đối với người tình của anh bảo vệ, phải làm sao không để ai biết bà có mặt ở lâu đài đêm ấy. Bố hết sức giấu chúng tôi cái giai đoạn thê thảm này của một đêm đã có nhiều màn thê thảm! Tôi khỏi cần đề nghị bà Mathieu và bố Jacques xác nhận câu chuyện tôi nói là đúng. Tôi biết mọi sự đã diễn ra như vậy! Tôi chỉ kêu gọi đến ký ức của ông Larsan, người đã hiểu tại sao tôi biết tất cả, vì ông đã trông thấy tôi, sáng hôm sau, cắm cúi mang trên đường hai loại dấu chân của hai người đi song song, dấu chân bố Jacques và dấu chân của bà đây. Rouletabille hướng về bà Mathieu còn ở trước lan can nhân chứng, nghiêng mình làm một dấu chào trang trọng.

    - Những dấu chân của bà đây – Rouletabille giải thích giống những "dấu chân thanh lịch" của tên sát nhân một cách kỳ quái. Bà Mathieu giựt mình đánh thót. Bà nhìn chòng chọc anh phóng viên trẻ, cặp mắt bàng hoàng hung dữ. Anh chàng này dám nói gì? Muốn nói gì? - "Bà đây cũng có bàn chân thanh lịch, dài, và với đàn bà thì hơi to một chút. Chính là bàn chân tên sát nhân, khác chút xíu ở mũi giầy cao cổ."

    Trong đám công chúng có vài chỗ xao động. Rouletabille giơ tay chặn họ lại. Có thể nói người chỉ huy đội Cảnh sát giữ trật tự phiên tòa bây giờ thật sự là anh.

    - Tôi xin nói ngay, anh tiếp, rằng chuyện này không có chi đáng kể, và nhà thám tử xây dựng hệ thống suy luận trên những dấu chỉ bề ngoài như thế mà không bao quanh hắn một tư "tưởng đại quát" sẽ phăng phăng đi vào con đường sai lầm. Như Robert Darzac, ông ấy cũng có đôi bàn chân của tên sát nhân, thế nhưng ông ấy không phải tên sát nhân! "

    Lại chuyển động trong đám đông. Ông Chánh án hỏi bà Mathieu:

    - Có phải mọi việc đêm ấy xảy ra với bà đúng như vậy không?

    - Dạ đúng, thưa ông Chánh án, cứ y như ông Rouletabille ở ngay sau lưng chúng tôi vậy.

    - Thế thì bà đã trông thấy tên sát nhân chạy trốn đến tận đầu cánh hữu lâu đài, phải vậy không?

    - Dạ đúng, như tôi đã thấy người ta khiêng xác anh bảo vệ đi một phút sau đó.

    - Còn tên sát nhân ra sao? Bà ở lại một mình ngoài sân trước, tất nhiên bà phải thấy hắn chứ? Hắn không biết có bà ở đó và hắn chỉ mải lo trốn.

    - Tôi chẳng thấy gì, thưa ông Chánh án – bà Mathieu rên rỉ – lúc ấy tự nhiên trời tối quá là tối!

    - Vậy, chỉ có ông Rouletabille giải thích cho chúng ta hiểu tên sát nhân đã tẩu thoát cách nào.

    - Đúng thế! - Chàng tuổi trẻ đáp ngay với giọng tin tưởng vững như thành đồng, đến độ ông Chánh án cũng không hà tiện một nụ cười. Rồi Rouletabille sang sảng:

    - Tên sát nhân đã đi vào mẩu sân con ấy, sẽ không có cách chi ra thoát một cách bình thường mà không bị chúng tôi thấy. Dù trời tối không nhìn rõ thì cũng phải đụng người hắn! Mẩu sân nhỏ tí xíu, hình vuông, xung quanh toàn hố sâu và hàng rào cao. Hoặc tên sát nhân đạp lên chúng tôi, hoặc chúng tôi đạp lên cái mảnh sân vuông này cụ thể cũng bị đóng kín bởi những hố, những rào và bởi chính chúng tôi, chẳng khác chi" Căn Phòng Vàng ".

    - Thế thì ông hãy cho chúng tôi biết, vì hắn đã vào cái mảnh sân vuông ấy, tại sao các ông không tìm thấy hắn? Cả nửa giờ qua chúng tôi chỉ đợi ông có chừng đó!

    Roulelabille lại lôi quả quít trong túi áo gi-lê ra, thản nhiên nhìn giờ rồi nói:

    - Thưa ông Chánh án, ông có hỏi tôi câu này trong ba giờ nữa cũng thế thôi, tôi chỉ có thể trả lời vào đúng sáu giờ rưỡi!

    Lần này, tiếng xì xào không còn chống đối, không còn bất bình. Người ta bắt đầu tin Rouletabille." Người ta đặt tin tưởng vào anh "và người ta lấy làm thú vị tuyệt trần thấy anh cả gan định một giờ hẹn với ông Chánh án như hẹn một người bạn. Còn ông Chánh án, sau khi lòng tự hỏi lòng có nên nổi giận hay không, ông quyết định cũng đùa giỡn với thẳng nhỏ này cho vui. Thiện cảm từ Rouletabille tỏa ra xung quanh anh. Sau hết, anh đã diễn xuất vai trò của bà Mathieu trong vụ này quá rõ, và giải nghĩa nhất cử nhất động của bà ta trong" đêm hôm ấy "rành rẽ quá khiến ông De Rodoux thấy buộc lòng phải coi trường hợp anh thật sự là nghiêm túc.

    - Thôi được, ông Rouletabille, tùy ông! Nhưng đi đâu thì đi, ông đừng để tôi thấy mặt trước sáu giờ rưỡi.

    Rouletabille chào ông Chánh án, cái đầu to lúc la lúc lắc, anh đi về phía cửa ra vào dành cho nhân chứng. Anh đảo mắt tìm tôi. Anh không thấy tôi. Tôi bèn nhẹ lách đám đông người đang xiết chặt vòng vây quanh mình và ra khỏi phòng xử cùng lúc với Rouletabille. Anh đón tôi hết sức nồng nàn. Anh sung sướng cười nói huyên thuyên. Anh hớn hở lắc tay tôi thật mạnh. Tôi nói:

    - Anh bạn thân mến ơi, tôi sẽ không hỏi anh đã làm cái gì ở bên Mỹ, vì chắc chắn anh sẽ trả lời tôi như trả lời ông Chánh án, rằng đến sáu giờ rưỡi anh mới có thể cho biết điều đó, phải vậy không?

    - Không, anh bạn Sainclair thân mến! Tôi cho anh biết ngay lập tức tôi đã làm gì ở Mỹ, bởi vì anh, anh là một người bạn: Tôi đi tìm tên của cái nửa thứ hai con người kẻ sát nhân!

    - Thật hả, thật hả, tên cái nửa thứ hai?

    - Đúng thế, khi chúng ta rời Glandier lần chót, tôi đã biết được hai nửa của kẻ sát nhân và tên của một trong hai cái nửa ấy. Tôi sang Mỹ để tìm nốt tên của cái nửa kia. Tới đây chúng tôi bước vào phòng các nhân chứng. Họ xúm quanh Rouletabille hỏi han tíu tít. Anh phóng viên vồn vã với hết thẩy mọi người, trừ Arthur Rance, anh lạnh nhạt ra mặt – Thấy Frédéric Larsan vào phòng, Rouletabille đi tới và biểu diễn một cái bắt tay thép, chỉ mình anh làm được, hắn có thể khiến đối phương gãy đốt như chơi. Bày tỏ cảm tình đậm đà như vậy, chắc hẳn Rouletabille đã cho ông ta đo ván. Larsan mỉm cười tràn đầy tự tin và cũng hỏi anh làm gì ở Mỹ. Tức thì Rouletabille rất ân cần, nắm cánh tay ông ta kể luôn cả chục giai thoại về cuộc viễn hành của mình. Một lát sau, họ kéo nhau đi bàn bạc những chuyện quan trọng hơn, tôi biết ý nên đã kín đáo lỉnh đi chỗ khác. Vả chăng, tôi cũng ham trở vào phòng xử, nơi cuộc thẩm vấn các nhân chứng vẫn tiếp tục. Tôi đến ngồi chỗ cũ và nhận thấy ngay công chúng chỉ để ý hơi hơi đến những gì đang diễn ra. Họ nén lòng thờ sáu giờ rưỡi. Đồng hồ điểm vang tiếng chuông sáu giờ rưỡi và Joseph Rouletabille trở vào phòng xử. Mô tả nỗi xúc động bừng bừng của đám đông khi họ đưa mắt dõi theo anh đi tới lan can nhân chứng là việc không thể làm được. Người ta không thở nữa. Ông Robert Darzac rời chiếc ghế dài đứng dậy. Mặt ông tái nhợt" như một xác chết ". Ông Chánh án nghiêm khắc:

    - Tôi không cho ông tuyên thệ như luật định. Ông không được tòa đòi, theo thủ tục bình thường. Nhưng tôi hy vọng khỏi cần cắt nghĩa với ông tất cả tầm quan trọng của những lời ông sắp khai ra ở đây.

    Rồi thêm một câu hàm ý đe dọa:

    - Tất cả tầm quan trọng của những lời khai ấy, cho ông, nếu không là cho kẻ khác. Rouletabille không mảy may xúc động, nhìn thẳng ông quan tòa. Anh nói:

    - Thưa vâng!

    - Nào – ông Chánh án tiếp – ban nãy chúng ta đang nói đến cái mẩu sân con đã làm nơi ẩn núp cho tên sát nhân. Bây giờ là sáu giờ băm lăm, ông Rouletabille, mà chúng tôi chưa biết gì hết!

    - Thưa ông Chánh án! – Bạn tôi lớn tiếng giữa một khung cảnh im lặng trang nghiêm mà đời tôi chưa hề" nhìn thấy "bao giờ – tôi đã nói rằng cái mẩu sân con ấy được quây kín và tên sát nhân không thể ra thoát mà không bị những người đang rượt đuổi hắn trông thấy. Khi chúng tôi ở đó, trong cái mảnh sân con vuông, tên sát nhân cũng ở đó với chúng tôi!

    - Thế mà các ông không trông thấy hắn? Đúng như Công Tố Viên nói rồi còn gì.

    - Ấy, tất cả chúng tôi đều thấy chứ! Thưa ông Chánh án – Rouletabille nói lớn.

    - Và các ông bắt giữ hắn?

    - Chỉ có mình tôi biết hắn là tên sát nhân. Mà tôi thì cần để tên sát nhân không bị bắt ngay tức khắc! Vả chăng, lúc ấy tôi không có bằng chứng nào khác ngoài" lý trí của tôi ", vậy chỉ có lý trí của tôi hắn chứng minh tên sát nhân ở đó và chúng tôi trông thấy hắn! Tôi đã dành một thời gian để hôm nay mang đến trước tòa đại hình một chứng cứ không thể chối cãi và, tôi cam đoan, tất cả mọi người đều hài lòng.

    - Thì ông nói đi! Nói đi! Cho tôi biết tên kẻ sát nhân là gì đi! – Ông Chánh án giục.

    - Ông Chánh án sẽ thấy tên hắn trong đám tên những người ở trong cái mẩu sân con ấy. – Rouletabille trả lời thủng thẳng, không chút vội vàng. Công chúng trong phòng xử bắt đầu sốt ruột." Nói tên đi! Nói tên đi! "Nhiều tiếng xì xào. Rouletabille bằng giọng nói" đáng ăn mấy cái bạt tai ", vẫn chậm rãi:

    - Tôi kéo dài lời khai này một chút, lời khai của tôi, thưa ông Chánh án, bởi tôi có lý do để làm thế!

    - Nói đi, nói tên hắn ra cho rồi! Đám đông gắt gỏng,

    - Im lặng! – Ông Thừa phát lại quát to. Ông Chánh án hỏi tiếp:

    - Ông cần khai ngay cái tên hắn đi! Những người ở trong sân lúc đó là: Anh bảo vệ chết rồi. Phải anh ta, tên sát nhân đấy không?

    - Thưa không.

    - Bố Jacques?

    - Thưa không.

    - Anh gác cổng Bernier?

    - Thưa không.

    - Ông Sainclair?

    - Thưa không.

    - Thế thì ông Arthur Rance rồi. Chỉ còn lại ông Arthur Rance và chính ông thôi! Ông, ông không phải tên sát nhân chứ?

    - Thưa không!

    - Vậy ông tố cáo ông Arthur Rance?

    - Thưa không!

    - Tôi hết hiểu nổi! Ông muốn đi tới đâu? Hết người rồi, làm gì còn ai trong mẩu sân con ấy nữa.

    - Còn, thưa ông Chánh án! Không có ai trong mảnh sân con, dưới nhà cũng không, nhưng có người ở trên lầu. Một người cúi mình qua cửa sổ dòm xuống mảnh sân con.

    - Frédéric Larsan! – Ông Chánh án thét lên.

    - Frédéric Larsan! – Rouletabille nhắc lại một câu vang rền. Đoạn, quay về phía công chúng đang lao xao phản đối, anh tung ra những tiếng mà đến tôi cũng không ngờ anh có thể nói:

    - Frédéric Larsan, tên sát nhân! Tiếng la hoảng ồn lên ngập phòng xử, lẫn lộn những sửng sốt, thất kinh, phẫn nộ, ngờ vực, và ở một số người lòng ngưỡng mộ bốc cao đối với con người bé nhỏ kia dám táo bạo tung ra một lời tố cáo nguy hiểm như vậy. Ông Chánh án cũng chẳng buồn dẹp yên họ. Khi tiếng ồn ào tự hắn êm đi sau những tiếng suỵt nghiêm khắc của những người muốn biết nhiều hơn nữa, người ta nghe rõ Robert Darzac buông mình rơi xuống thốt kêu lên:

    - Không có lẽ! Anh này điên rồi!

    Ông Chánh án nói với Rouletabille:

    - Ông dám tố cáo Frédéric Larsan ư? Ông thấy hậu quả lời tố cáo ấy đó. Đến ông Robert Darzac cũng phải cho ông là điên! Nếu ông không điên, ông phải có bằng chứng.

    - Bằng chứng, thưa ông Chánh án! Ông Chánh án muốn bằng chứng! A! Tôi xin đưa ra một bằng chứng- Tiếng Rouletabille oang oang – Xin tòa cho đòi Frédéric Larsan! Ông Chánh án:" Thừa phát lại, gọi Frédéric Larsan ". Viên Thừa phát lại chạy ngay đến khung của nhỏ, mở ra, biến mất, khung cửa để ngỏ. Mọi con mắt đổ dồn vào hắn. Thừa phát lại trở vào. Ông đi tới khu thẩm án báo cáo:

    - Thưa ông chánh án, Frédéric Larsan không có đây. Ông ấy đi khỏi lúc bốn giờ, không ai thấy trở lại.

    Rouletabille cao giọng đắc thắng:

    - Bằng chứng của tôi, thì đó!

    - Ông hãy giải thích rõ hơn. Bằng chứng nào?

    - Bằng chứng không thể chối cãi của tôi. – Anh phóng viên đáp – ông Chánh án không thấy đó là cuộc bỏ trốn của Larsan đấy ư? Tôi cam đoan với tòa ông ấy không bao giờ trở lại! Nhất định không bao giờ quý vị gặp lại Frédéric Larsan. Tiếng xầm xì nổi lên ở cuối phòng.

    Ông Chánh án: Nếu ông không cố ý xem thường luật pháp, tại sao ông không nhân lúc Larsan còn ở bên ông, trước hàng lan can đây, để tố cáo ông ấy thẳng vào mặt? Ít nhất ông ấy có thể trả lời ông.

    - Còn có câu trả lời nào đầy đủ bằng câu này, thưa ông Chánh án? Ông ấy không trả lời tôi. Ông ấy sẽ không bao giờ trả lời tôi đâu! Tôi tố cáo Larsan là tên sát nhân và ông ấy chạy trốn! Ông Chánh án còn chưa thấy đó là một câu trả lời sao, vụ bỏ trốn này!

    - Chúng tôi không muốn tin, chúng tôi không tin như ông nói, rằng Larsan" đã chạy trốn ". Sao ông ấy phải chạy trốn? Ông ấy có biết ông sắp tố cáo ông ấy đâu?

    - Có, ông ấy biết, bởi chính tôi đã cho ông ấy biết lúc nãy.

    - Ông dám làm thế à? Ông tin Larsan là tên sát nhân mà ông cho ông ấy phương tiện để chạy trốn?

    - Đúng, thưa ông Chánh án, tôi đã làm thế – Rouletabille kiêu hãnh trả lời – Tôi không phải người của" pháp luật ". Tôi không phải người của" Cảnh Sát ". Tôi chỉ là một phóng viên tầm thường, và nghề của tôi không phải là làm cho ai bị bắt! Tôi phục vụ sự thật theo ý tôi, đó là việc của riêng tôi. Còn quý vị, quý vị cứ bảo vệ xã hội theo khả năng của quý vị, đó là việc của riêng quý vị. Nhưng đem một cái đầu đến nộp cho ông đao phủ thì không phải việc của tôi! Nếu ông Chánh án là người công minh – mà nhất định ông là người công minh rồi – ông sẽ thấy tôi có lý! Ban nãy, tôi đã chẳng thưa cùng ông, rằng ông sẽ hiểu tại sao tôi không thể tiết lộ danh tánh kẻ sát nhân trước sáu giờ rưỡi đấy ư? Tôi đã tính kỹ, thời gian ấy cần để cho Frédéric Larsan biết mà đáp chuyến xe lửa 4 giờ 15 phút đi Paris, tới đây, ông ấy sẽ biết cách tìm lấy an toàn. Một giờ để đến Paris, một giờ mười lăm phút nữa để ông ấy xóa hết mọi dấu vết trên đường bôn tẩu. Thế là đủ tới sáu giờ rưỡi. Quý vị sẽ không tìm ra Frédéric Larsan nữa đâu. Rouletabille ngó đăm đăm ông Robert Darzac: Ông ấy khôn quá mà. Đó là một người luôn luôn thoát khỏi tay quý vị, mà quý vị uổng công săn đuổi đã lâu. Tuy ông ấy không tài giỏi bằng tôi – Rouletabille cười rất thật thà và cười một mình, vì lúc này chẳng ai còn thiết cười nữa – nhưng ông ta lại tài giỏi hơn tất cả Cảnh Sát trên trái đất. Con người ấy từ bốn năm lọt vào ngành Cảnh Sát, danh tiếng lẫy lừng dưới cái tên Frédéric Larsan, lại cũng đã lẫy lừng danh tiếng dưới một cái tên khác mà quý vị biết rõ, Frédéric Larsan, thưa ông Chánh án, chính là Ballmeyer!

    - Ballmeyer! – Ông Chánh án bàng hoàng.

    - Ballmeyer! – Robert Darzac cũng nhỏm người trên ghế bị cáo – Ballmeyer! Thế thì đúng rồi!

    - A! A! Ông Darzac, giờ thì ông hết chê tôi là người điên chứ!

    - Ballmeyer! Ballmeyer! Ballmeyer! Khắp phòng, người ta chỉ còn nghe có một cái tên ấy. Ông Chánh án truyền đình phiên xử. Thời gian tòa đình, quang cảnh phòng xử lại vô cùng náo nhiệt! Công chúng có lắm đề tài thảo luận. Ballmeyer! Người ta phục chú bé phóng viên quả là tay" cự phách "! Ballmeyer! Quái, sao người ta đồn y chết từ mấy tuần nay rồi! Té ra Ballmeyer đã thoát chết, cũng như cả đời y, y đã thoát khỏi tay Hiến binh. Tôi có cần nhắc lại ở đây nhưng thành tích lớn của Ballmeyer không nhỉ. Suốt hai mươi năm trời, chúng đã gây sôi nổi trong nhưng bài xã luận tư pháp và làm tiêu đề cho mục tin tức linh linh. Và nếu có vài độc giả của tôi đã lỡ quên mất vụ" Căn Phòng Vàng "thì cái tên Ballmeyer chắc chắn chưa bị xóa nhòa trong ký ức họ. Ballmeyer là tiêu biểu điển hình cho khoa bịp bợm đại thế giới. Không có ai thượng lưu quý phái bằng y. Không có nhà ảo thuật nào ngón tay khéo léo hơn y. Không có tên" đạo tặc "nào, như người ta thường nói ngày nay, to gan hơn vì đáng khiếp hơn y. Được nhận vào tầng lớp xã hội thượng lưu nhất, ghi tên trong những hội quán khó gia nhập nhất, y đã đánh cắp danh dự các gia đình về tiền bạc của văn nhân trí thức một cách ngang tàng chưa từng thấy. Trong vài vụ khó khăn, y không ngần ngại chơi dao găm 'hoặc lóng xương cừu". Ngoài ra, y chẳng bao giờ ngần ngại trước tội ác, không một vụ làm ăn nào ở trên sức y. Có một lần sa lưới pháp luật, y đã tẩu thoát ngay buổi sáng hôm mở phiên tòa xử y, bằng cách ném bột tiêu vào mắt mấy người cảnh vệ áp giải y đi tòa. Sau này, người ta mới biết ngay hôm y trốn thoát, trong lúc các thám tử tài ba nhất của Sở Công An bám sát vết chân y thì, rất bình tĩnh, không một chút cải trang, y ngang nhiên dự buổi trình diễn ra mắt của Đoàn kịch nghệ Pháp. Tiếp đó, y rời nước Pháp qua Mỹ làm ăn và cảnh sát bang Ohio, một buổi đẹp trời kia, đã thộp được tên cướp khét tiếng này nhưng hôm sau y lại trốn thoát. Ballmeyer, nói về Ballmeyer thì phải có một quyển sách dầy, và con người ấy đã trở thành Frédéric Larsan! Và chính chú bé Rouletabille, đã phát giác việc đó! Rồi cũng chính chú bé, biết rõ quá khứ của Ballmeyer, một lần nữa lại cho phép y trêu ngươi xã hội bằng cách cấp phương tiện cho y tẩu thoát. Về điểm chót này, tôi chỉ có thể nghiêng mình cảm phục Rouletabille, vì tôi vốn biết ý định của anh ta là tận tình giúp đỡ đến cùng ông Roberl Darzac và cô Stangerson bằng cách tống khứ tên tướng cướp đi xa mà không để cho hắn nói. Khi phiên tòa tái nhóm, công chúng chưa kịp điều hòa hơi thở sau cú vén màn bí mật ly kỳ này thì tôi đã lại nghe những người hắnng nảy nhất hét toáng lên:

    - "Cho rằng tên sát nhân đúng là Frédéric Larsan đi nữa, vẫn chưa có gì giải nghĩa được làm thế nào hắn thoát ra khỏi" Căn Phòng Vàng! "Rouletabille được gọi lập tức lên lan can nhân chứng, và cuộc hỏi cung anh, vì đây thực sự là buổi hỏi cung đúng hơn, một cuộc khai chứng, lại tiếp tục. Ông Chánh án:

    - Vừa rồi, ông cho chúng tôi biết không có cách gì trốn khỏi cái mẩu sân con. Tôi chấp nhận với ông, tôi muốn chấp nhận rằng, vì Frédéric Larsan đứng khom lưng qua cửa sổ, phía trên các ông, tức là y còn ở trong mẩu sân ấy. Nhưng muốn đứng ở cửa sổ phòng y, y phải rời mẩu sân bên dưới, vậy thì y đã trốn thoát! Trốn cách nào?

    Rouletabille:

    - Tôi có nói y không thể trốn thoát" một cách bình thường "nghĩa là y trốn thoát một cách dị thường! Bởi cái mẩu sân con, tôi cũng đã nói, chỉ" gần như "đóng kín, trong khi" Căn Phòng Vàng "thì kín như nhà mồ. Y có thể trèo lên tường, một việc không làm được trong" Căn Phòng Vàng ", quăng mình trên sân thượng y leo vào hành lang bằng khung cửa sổ ở ngay phòng bên trên sân thượng. Larsan chỉ cần nhảy một bước là vào được phòng y, mở cửa sổ và nói trỏ xuống dưới với chúng tôi. Công việc ấy là trò chơi con nít đối với một tay đu bay có sức mạnh như Ballmeyer. Và, thưa ông Chánh án, đây là bằng chứng về điểm tôi vừa trình bày.

    Rouletabille móc trong túi áo vét lấy ra một gói nhỏ. Anh mở gói, cầm một con chốt giơ lên:

    - Thưa ông Chánh án, đây là con chốt đóng vừa vặn vào một cái lỗ mà người ta tìm thấy còn cắm trong" con quạ "bên phải, đội mảng sân thượng trên bao lơn. Larsan, con người tiên liệu tất cả và nghĩ đến mọi phương tiện tẩu thoát xung quanh phòng mình – việc tất nhiên phải làm khi chơi cái trò của y – đã đóng sẵn cái chốt này vào" con quạ ". Một chân trên cái mốc ở góc lâu đài, chân kia đạp lên con chốt, một tay chống mép cửa phòng anh bảo vệ, tay kia bám vành sân thượng, và Frédéric Larsan biến mất trong thinh không, nhất là y nhanh như vượn và tối hôm ấy y không hề bị say thuốc mê như y làm bộ gạt chúng tôi. Chúng tôi đã ăn tối với y, thưa ông Chánh án, và đến lúc tráng miệng, y giả vờ lăn ra ngủ, bởi lẽ y cũng phải đóng vai trò mê man để ngày mai không ai ngạc nhiên thấy tôi, Joseph Rouletabille, bị trúng thuốc mê trong bữa ăn tối với Larsan. Một khi hai chúng tôi cùng chung số phận thì các mũi dùi nghi ngờ không phạm được đến y và sẽ chia đi hướng khác. Vì tôi, thưa ông Chánh án, tôi đã bị đánh thuốc mê thật sự ngon trớn, bởi chính tay Larsan, rồi sự thể ra sao! Nếu tôi không bị rơi vào tình trạng bi đát ấy thì đời nào Larsan lẻn được vào phòng cô Stangerson tối hôm đó, và tai họa đã không xảy ra! Người ta nghe một tiếng rên đau đớn. Ông Robert Darzac không dằn nổi bi thương.

    - Chắc ông Chánh án cũng hiểu – Rouletabille nói tiếp – bởi nằm ngay phòng bên cạnh, tôi đặc biệt ngăn trở hoạt động của y đêm đó, vì y biết hay ít nhất y có thể e ngại đêm đó, tôi thức canh chừng! Dĩ nhiên, y không thể ngờ một giây nào là tôi dám nghi cả y! Nhưng tôi có thể phát hiện y lúc y từ phòng mình đi ra để đến phòng cô Stangerson lắm chứ! Vậy nên, đêm đó, y đợi cho tôi mê mệt bên phòng tôi và ông bạn Sainclair của tôi thì mải lo giải mê cứu tỉnh tôi, rồi y mới lẻn vào phòng cô Stangerson. Mười phút sau, cô Stangerson thét lên một tiếng kêu thương từ đáy sâu địa ngục.

    - Ông làm thế nào mà đi tới chỗ nghi ngờ Frédéric Larsan? Ông Chánh án hỏi.

    -" Cái đầu tốt của lý trí tôi "hắn chỉ đường, thưa ông Chánh án, vì thế mà tôi không rời mắt canh chừng y. Nhưng y quả là tay ghê gớm và tôi đã không tính trước đến cái ngón thuốc mê. Đúng, đúng, cái đầu tốt của lý trí tôi hướng dẫn tìm ra! Nhưng tôi cần có bằng chứng cụ thể như ai kia thường nói:" Trông rõ hắn trước mắt sau khi đã thấy hắn trong lý trí! "

    - Ông hiểu sao về cái ông gọi là" đầu tốt của lý trí ông "?

    - Ô! Thưa ông Chánh án, lý trí có hai đầu: Đầu tốt và đầu xấu. Chỉ có một đầu mình dựa vào được để suy luận một cách vững vàng, đó là cái đầu tốt. Mình nhận ra hắn khi không có gì bắt hắn lung lay được, dù mình làm gì, dù mình nói gì! Hôm sau ngày xảy ra vụ" Hành Lang Không Hiểu Nổi ", lúc tôi như kẻ thấp hèn nhất trong số người thật thấp hèn giữa đám nhân loại khốn khổ không biết đường nào mà sử dụng lý trí của mình, bởi vì không biết bắt đầu từ chỗ nào, trong lúc tôi còng lưng trên mặt đất nhìn những dấu vết gian trá do giác quan thu nhận được, bỗng dưng tôi đứng phắt đậy, và dựa trên cái đầu tốt của lý trí mình, tôi phóng tới hành lang." Tới hành lang, tôi hiểu rằng tên sát nhân mà chúng tôi rượt bắt lần này đã không thể thoát ra khỏi hành lang một cách "bình thường cũng như dị thường". Thế là với cái đầu tốt của lý trí tôi, tôi vẽ một vòng tròn, đem toàn bộ vấn đề nhốt trong đó, rồi xung quanh vòng tròn, tôi viết nhẩm trong đầu những chữ rực sáng thế này: "Bởi vì tên sát nhân không thể nào ở ngoài cái vòng tròn, thì bắt buộc hắn phải ở trong. Vậy tôi thấy những ai trong vòng tròn ấy? Cái đầu tốt của lý trí tôi điểm danh từng người – ngoài tên sát nhân bắt buộc phải có mặt, còn bố Jacques, Ông Stangerson, Frédéric Larsan và tôi! Cộng cả lại với tên sát nhân, phải là năm người. Thế nhưng, khi tôi tìm trong vòng tròn, hay tùy ông muốn gọi" cụ thể "là trong hành lang cũng được, tôi chỉ đếm được có bốn. Và điều đã được chứng minh là người thứ năm không thể chạy trốn, không thể ra ngoài vòng tròn! Vậy tôi có trong vòng tròn, một nhân vật thành hai, nghĩa là ngoài con người của nhân vật còn cộng thêm con người tên sát nhân! Tại sao trước đó, tôi không hiểu như vậy? Đơn giản chỉ tại cái hiện tượng nhân vật kép không chạy qua mắt tôi. Trong bốn nhân vật bị nhốt trong vòng tròn, tên sát nhân đã có thể tự lồng mình với ai để thành hai, mà tôi không biết? Chắc chắn không phải với những người đã có lúc hiện ra trong óc tôi là rằng phải tách rời tên sát nhân. Như thế, tôi đã nhìn thấy cùng một lúc, trong hành lang, ông Stangerson và tên sát nhân, bố Jacques và tên sát nhân, tôi và tên sát nhân. Tên sát nhân không thể là ông Stangerson, không thể bố Jacques, không thể là tôi. Vả chăng, nếu chính tôi là tên sát nhân thì tôi phải biết chứ, đúng không, thưa ông Chánh án? Tôi có nhìn thấy, cùng một lúc, Frédéric Larsan và tên sát nhân không? Không! Đã có" hai giây đồng hồ "tên sát nhân thoát ra ngoài tầm mắt tôi vì, như tôi có ghi lại trong các giấy tờ riêng, hắn đã chạy tới ngã ba hai hành lang" hai giây đồng hồ "trước ông Stangerson, bố Jacques và tôi. Thế là đủ cho Larsan quẹo vào hành lang ngoặc, giựt hàm râu giả bằng một cái trở bàn tay, quay trở lại và húc vào chúng tôi, làm như y rượt đuổi tên sát nhân, đâm đầu tới! Ballmeyer đã từng làm nhiều vụ kiểu này mà quý vị thừa biết, việc bôi mặt hóa trang đối với y là trò trẻ, lúc thì y xuất hiện trước cô Stangerson với bộ râu đỏ, lúc thì trước nhân viên Bưu Điện Văn Phòng 40, với hàm râu nâu vàng cho giống ông Robert Darzac, người mà y quyết tâm đưa lên máy chém! Đúng, cái đầu tốt của lý trí tôi đem ráp hai nhân vật này lại với nhau, hay đúng hơn, hai nửa nhân vật mà tôi không nhìn thấy cùng một lúc: Frédéric Larsan và kẻ lạ mặt tôi đang theo đuổi, để hợp thành trọn vẹn một con người bí mật và gớm ghê tôi đã quyết lùng kiếm" tên sát nhân ". Điều phát giác bất ngờ này làm tôi hoang mang. Tôi cố tự trấn tĩnh bằng cách chăm chú một chút vào những vết tích do giác quan thu nhận được, nhưng dấu chỉ bề ngoài cho tới bây giờ vẫn dẫn tôi đi ngu ngơ mãi đâu, và tự nhiên phải đưa vào vòng tròn do cái đầu tốt của lý trí tôi đã vẽ! Trước hết, những dấu chỉ bề ngoài chính nào, trong đêm ấy, đã dẫn tôi lạc xa một Frédéric Larsan sát nhân:

    1. Tôi đã trông thấy kẻ lạ mặt ở trong phòng cô Stangerson, rồi khi chạy sang phòng Frédéric Larsan, tôi đã gặp ở đây, một Frédéric Larsan mặt phì phì vì ngái ngủ.

    2. Cái thang.

    3. Tôi đã cắt Frédéric Larsan đúng ở đầu hành lang ngoặt, dặn y tôi sẽ nhảy vào phòng cô Stangerson để bắt tên sát nhân. Thế rồi, khi tôi quay lại phòng cô Stangerson thì vẫn thấy kẻ lạ mặt ở đó. Cái dấu chỉ bề ngoài thứ nhất không làm tôi lúng túng. Có thể rằng lúc tôi xuống cầu thang, sau khi thấy kẻ lạ mặt trong phòng cô Stangerson, thì y đã làm xong công việc cần làm ở đó. Thế là trong lúc trở về lâu đài thì y trở về phòng Frédéric Larsan, cởi bỏ quần áo trong hai, ba động tác, và khi tôi gõ cửa phòng, y đã trình bày được một bộ mặt Frédéric Larsan ngái ngủ rất là nghiêm chỉnh. Dấu chỉ thứ hai, cái thang cũng không làm tôi lúng túng. Rõ ràng nếu tên sát nhân là Larsan, y cần gì phải có thang mới vào được lâu đài, vì Larsan ngủ ở bên cạnh phòng tôi. Nhưng cái thang làm cho người ta tưởng tên sát nhân" ở bên ngoài "vào, việc này cần thiết cho hệ thống của Larsan, vì đêm ấy ông Darzac không ở lâu đài.

    Cuối cùng, với cái thang, đằng nào cũng có lợi, hắn có thể giúp Larsan tẩu thoát dễ dàng nữa. Nhưng cái dấu chỉ thứ ba thì quả thật hắn làm tôi mất phương hướng, không còn biết đâu mà lần. Khi đã cắt Larsan đứng ở đầu hành lang ngoặt, tôi không hiểu vì cớ gì mà y dám lợi dụng lúc tôi đi sang cánh trái lâu đài tìm ông Stangerson và bố Jacques để quay vào phòng cô Stangerson! Làm như vậy hết sức là nguy hiểm! Rất dễ bị bắt. Mà y biết vậy! Và quả nhiên, y đã suýt bị bắt thật, vì không đủ thì giờ trở lại chỗ được chỉ định đứng rình, như y hy vọng chắc thế. Dám trở vào phòng cô Stangerson, nhất định y phải có một duyên cớ cực thúc bách hiện ra bất thần sau khi tôi quay đi, vì nếu không thế thì y đâu có cho tôi mượn súng! Về phía tôi, khi tôi cử bố Jacques đến đứng ở đầu hành lang thẳng, cố nhiên tôi yên trí Larsan vẫn đứng nguyên chỗ tôi chỉ định cho y ở đầu hành lang ngoặt, còn bố Jacques, bởi tôi không cho bố thêm chi tiết nào khác, nên lúc đi qua giao điểm hai hành lang, bố không để ý nhìn coi Larsan có đúng ở chỗ y không. Lúc ấy, bố Jacques chỉ lo chấp hành chỉ thị của tôi sao cho nhanh chóng. Vậy cái lý do bất ngờ đã buộc Larsan vào phòng cô Stangerson lần thứ hai là gì? Lý do gì mà cấp thiết dữ vậy? Tôi nghĩ, đó chỉ có thể là một dấu vết do giác quan thu nhận được hắn chỉ cho người ta thấy con đường y đã đi qua và hắn sẽ tố cáo y! Y đã bỏ quên một cái gì thật quan trọng ở trong phòng! Cái gì? Y có tìm lại được cái đó không? Tôi nhớ đến ngọn nến đặt dưới sàn nhà và kẻ lạ mặt lom khom cúi xuống, tôi bèn nhờ chị Berniet, người có phận sự dọn dẹp căn phòng tìm giùm và chị đã tìm thấy cái kính kẹp mũi, cái kính này đây thưa ông Chánh án! Và Rouletabille mở gói lấy ra chiếc kính kẹp mũi mà chúng ta biết rồi.

    - Khi tôi trông thấy cái kính này, tôi đâm hoảng, tôi chưa bao giờ thấy Larsan dùng kính kẹp mũi. Nếu y không dùng, túc là y không cần đến. Y càng không cần đến vào một lúc mà khả năng tự do cử động tay chân đối với y vô cùng quý giá, cái kính kẹp mũi này mang ý nghĩa gì? Hắn không ở trong vòng tròn của tôi, trừ phi hắn là kính của người viễn thị, tôi bất giác kêu lên kinh ngạc! Quả thực, tôi chưa bao giờ trông thấy Larsan viết, chưa bao giờ thấy y đọc. Vậy y" có thể "là người viễn thị. Chắc ở Sở Công An người ta biết y bị viễn thị." Nếu đúng y bị viễn thị, hẳn người ta nhận ra cái kính kẹp mũi của y, kính kẹp mũi của Larsan viễn thị lượm được trong phòng cô Stangerson, sau vụ, "Hành Lang Không Hiểu Nổi", sẽ khủng khiếp thế nào, với Larsan! Đó là lý do bắt y trở vào phòng cô Stangerson. Và quả đúng Larsan – Ballmeyer viễn thị thật, và cái kính kẹp mũi này, mà ở Sở Công An "có lẽ" người ta sẽ nhận ra ngay, đúng là kính của y.

    - Phương pháp của tôi thế nào, ông Chánh án thấy đó – Roulelabille tiếp – tôi không hề trông đợi các dấu vết bề ngoài cho tôi biết sự thật, tôi chỉ đòi chúng đừng đi ngược với sự thật do cái đầu tốt của lý trí tôi hắn chỉ cho tôi! Để nắm chắc toàn bộ sự thật về Larsan vì Larsan sát nhân là một trường hợp hết sức đặc biệt đáng bắt người ta phải thủ thế bằng một đảm bảo vững như trường thành, tôi đã lầm mà nuôi ý định nhìn mặt y. Tôi bị trừng phạt đích đáng! Tôi tin là cái đầu tốt của lý trí tôi hắn báo thù về nỗi từ khi xảy ra vụ "Hành Lang Không Hiểu Nổi", tôi đã không dựa vào hắn, dựa một cách vững chắc, dứt khoát và hoàn toàn tin cậy, hiên ngang không thèm đi tìm bằng chứng nào khác về tội ác của Larsan, ngoài bằng chứng do lý trí tôi hắn đưa ra! Thế rồi, cô Stangerson lãnh những nhát dao chí tử. Rouletabille ngừng nói, khịt mũi, anh xúc động mạnh.

    - Nhưng Larsan, y vào phòng ấy làm chi? – ông Chánh án hỏi – Tại sao y cố ý giết cô Stangerson tới hai lần?

    - Tại vì y mê cô ấy quá, thưa ông Chánh án.

    - À, ra thế, lý do đấy!

    - Vâng, thưa ông Chánh án, một lý do không sao cưỡng nổi. Y yêu cô điên cuồng, và chính vì yêu điên cuồng cộng thêm vài việc khác mà y có thể phạm đủ mọi tội ác dã man.

    - Cô Stangerson có biết không?

    - Dạ có, nhưng dĩ nhiên cô không biết kẻ đeo đuổi cô là Frédéric Larsan, nếu biết thì Frédéric Larsan đã không đến ở hẳn trong lâu đài và trong đêm xảy ra vụ "Hành Lang Không Hiểu Nổi," y đã không cùng chúng tôi đến gần cô Stangerson "sau vụ ấy". Tôi còn để ý thấy y lẩn vào chỗ tối và lúc nào mặt cũng cúi xuống, chắc đưa mắt tìm cái kính kẹp mũi bị mất. Cô Stagerson bi Larsan đeo đuổi và tấn công khi y núp dưới một cái tên khác, đội một cái lốt khác mà chúng ta không biết, nhưng cô thì có thể cô đã biết.

    - Còn ông, Robert Darzac – ông Chánh án quay về bị cáo – việc này hẳn ông đã được nghe cô Stangerson tâm sự. Tại sao cô Stangerson không tiết lộ với ai? Giá cô chịu nói, có phải nhà chức trách đã dò ra dấu vết kẻ sát nhân và nếu ông vô tội, đã tránh cho ông nỗi đau nhục bị lôi ra xét xử trước tòa!

    - Cô Stangerson không hề nói gì với tôi. Ông Darzac đáp rất chững chạc.

    - Những lời khai của anh bạn trẻ đây, theo ông, có đáng tin không?

    Ông Chánh án chưa chịu thôi, vẫn trơ như đá, vững như đồng, ông Darzac nhắc lại câu vừa nói:

    - Cô Stangerson không hề nói gì với tôi.

    Ông Chánh án quay lại Rouletabille:

    - Ông giải thích thế nào về việc trong đêm anh bảo vệ bị giết, tên sát nhân đã mang trả những giấy tờ tài liệu ăn trộm của ông Stangerson? Ông giải thích thế nào về việc tên sát nhân vào lọt phòng của cô Stangerson, cửa khóa kỹ?

    - Ô, câu hỏi sau, tôi thiết tưởng trả lời quá dễ. Một người cỡ Larsan – Ballmeyer nhất định phải có sẵn hoặc đặt làm những chìa khóa cần thiết cho y. Còn về các tài liệu mất trộm, tôi chắc ban đầu Larsan không nghĩ tới đâu. Y rình mò, do thám cô Stangerson khắp nơi, quyết ngăn cản việc hôn nhân giữa cô với ông Robert Darzac. Một hôm, y theo hai người vào mấy gian hàng lớn ở Louve, chiếm giữ được cái xách tay của cô Stangerson không rõ bị thất lạc hay mất cắp. Trong xách tay có chiếc chìa khóa đầu đồng. Y không biết cái chìa khóa ấy quan trọng thế nào, cho đến khi cô Stangerson đăng báo tìm, với lời hứa hậu tạ thì y hiểu. Y viết thư lưu bưu điện gởi cô Stangerson, như cô yêu cầu trên báo. Chắc hẳn y đòi một cuộc gặp gỡ, đồng thời cho biết người giữ xách tay với chìa khóa cũng chính là người bấy lâu bền chí yêu cô. Y không nhận được thư phúc đáp, y bèn đến Văn Phòng 40 để được biết đích xác rằng lá thư không còn đó. Y tới đây, bắt chước tối đa dáng dấp và lối trang phục của ông Robert Darzac, bởi vì đã quyết liều tất cả để chiếm kỳ được cô Stangerson, y chuẩn bị tất cả để, dù việc gì xẩy đến thì ông darzac, người được cô Stangerson yêu. Ông Darzac, người y thù ghét và muốn cho mau chết, phải bị coi là hung thủ. Tôi nói dù việc gì xảy đến, nhưng tôi cho rằng Larsan chưa nghĩ tới cơ sự phải hạ độc thủ giết người mình yêu. Trong trường hợp nào thì những sắp đặt của y cũng là dùng để gieo tai tiếng cho cô Stangerson dưới lốt cải trang thành ông Darzac. Vả chăng, Larsan và Darzac tầm vóc xấp xỉ ngang nhau, bàn chân thì hầu như cùng khuôn đúc. Với y nào có gì khó, nếu cần, y chỉ việc lấy mẫu chân ông Darzac, đem đi đóng một đôi giày để mang vào khi hành động. Việc này đối với Larsan – Ballmeyer chỉ là trò trẻ. Thế là không thư phúc đáp, không lời hẹn gặp, mà chiếc chìa khóa quí báu còn trong túi. Ôi, cần chi, cô Stangerson không muốn đến với ta thì ta đến với cô chứ sao! Kế hoạch của y được dựng từ lâu rồi. Y đã dò xét kỹ địa thế Giandier và khu biệt thất. Một buổi trưa, cha con ông Stangerson vừa ra khỏi để đi dạo và bố Jacques cũng đi nốt, y trèo qua cửa sổ gian tiền đình vào biệt thất. Lúc ấy, y có một mình, tha hồ giở thủ đoạn. Y nhìn đồ đạc. Có một cái tủ lạ quá, trông giống két sắt mà lỗ khóa nhỏ tý ty. Ô kìa! Cái này hay đây, sẵn chiếc chìa khóa nhỏ đầu đồng mang trong mình, y nghĩ ngay, liên hệ suy tưởng mà. Y cắm thử cái chìa vào ổ, cửa tủ mở liền. Toàn giấy tờ! Những giấy tờ này phải quý lắm mới được cất kín trong cái tủ kiểu đặc biệt thế này, mới được người ta tha thiết tới cái chìa khóa mở tủ đến như vậy. Ờ! Cái này có lợi, để làm một vụ bắc chẹt được lắm, biết đâu chả giúp mình nhiều trong kế hoạch chinh phục tình yêu. Nghĩ đoạn, y vơ hết giấy tờ đống vào bao thật nhanh và đem giấu trong phòng rửa mặt gian tiền đình. Giữa buổi ăn trộm ở biệt thất và đêm anh bảo vệ bị giết, Larsan đã có thì giờ coi kỹ những giấy tờ ấy là cái chi. Y sẽ dùng làm gì? Nhưng toàn là thứ nguy hại. Đêm ấy, y đem đến lâu đài hoàn về cố chủ. Có thể y nuôi hy vọng, với việc được trả các giấy tờ tiêu biểu cho hai mươi năm trời khó nhọc, y sẽ được cô Stangerson bày tỏ lòng biết ơn chăng? Cái gì mà chẳng có thể manh nha trong một đầu óc như thế! Rốt cuộc, dù vì lý do nào thì cũng là y đã trả lại các giấy tờ tài liệu khoa học, và đúng là y đã trút bỏ được hắn! Rouletabille ho khẽ, và tôi hiểu tiếng ho của anh nghĩa là gì. Rõ ràng anh đang bối rối khi giải thích đến đoạn này, bởi anh có nhã ý không muốn vạch trần cái lý do hắn tạo nên thái độ hung bạo của ông Larsan với cô Stangerson. Lập luận của anh về điểm này còn nhiều thiếu xót chưa thỏa mãn hết thẩy mọi người và chắc chắn thế nào ông Chánh án cũng nêu nhận xét đó ra, nếu Rouletabille, láu cá như một con khỉ, không vội hô to: "Nào bây giờ, chúng ta tới chỗ vén màn bí mật" Căn Phòng Vàng! "Trong phòng lập tức ồn lên tiếng xô ghế, tiếng sột soạt chen lách, những tiếng suỵt gắt gỏng. Tính tò mò của công chúng bốc cao.

    " Ông Rouletabille – ông Chánh án nói – "tôi thấy theo thuyết của ông thì bí mật" Căn Phòng Vàng "sáng tỏ rồi. Và chính Frédéric Larsan giải thích rõ bằng cách tráo đổi nhân vật, đặt ông Robert Darzac vào chỗ y. Hiển nhiên, cửa" Căn Phòng Vàng "đã mở lúc ông Stangerson ở lại một mình, và ông giáo sư đã để cho kẻ gian trong phòng con gái mình chạy ra mà không chặn hắn lại, có lẽ là theo lời cầu khẩn của con gái, để tránh tai tiếng nổ ra!"

    - Không đúng, thưa ông Chánh án – chàng tuổi trẻ dằn mạnh tiếng phản đối – ông quên rằng cô Stangerson bị thương nặng, không thể cầu xin với cha điều gì không thể lết ra đóng cửa phòng, gài chốt hoặc xoay ổ khóa. Ông cũng quên giáo sư Stangerson đã thề trên đầu con gái đang hấp hối rằng cửa phòng đã không mở.

    - Nhưng chỉ còn cách ấy để giải thích mọi sự! "Căn Phòng Vàng" đóng kín như cái két sắt. Mượn chính lời của ông mà nói thì tên sát nhân không thể trốn thoát "một cách bình thường hoặc dị thường". Khi người ta vào phòng, người ta không thấy hắn! Thế là hắn trốn thoát chứ còn gì?

    - Hoàn toàn vô ích, thưa ông Chánh án.

    - Vô ích sao?

    - Hắn không cần trốn, vì hắn không có ở đó! Tiếng lao xao lại nổi lên khắp phòng.

    - Sao? Hắn không có ở đó?

    - Cố nhiên không! Tại vì hắn không thể có ở đó nên hắn không có ở đó! Thưa ông Chánh án, ta cần luôn luôn dựa vào cái đầu tốt của lý trí mình!

    - Nhưng còn bao nhiêu dấu vết để lại trên đường hắn đi qua! Ông Chánh án chưa chịu.

    - Cái đó, thưa ông Chánh án, là cái đầu xấu của lý trí. Cái đầu tốt đó chỉ cho ta thấy điều này: Từ lúc cô Stangerson giam mình trong phòng kín tới lúc người ta phá cửa vào, tên sát nhân không thể trốn thoát "Căn Phòng Vàng" và người ta không thể thấy hắn bởi vì từ lúc cửa đóng đến lúc cửa bị phá tên sát nhân không ở trong phòng!

    - Thế những dấu chân?

    - Ôi thưa ông chánh án đó là những dấu do giác quan thu nhận, người ta phạm bao nhiêu lỗi lầm tư pháp bởi vì hắn xúi chúng ta nói những gì hắn muốn. Không nên dùng hắn để lý luận, tôi xin nhắc lại phải lý luận trước đã. Rồi sau mới xem những dấu vết do giác quan thu nhận có ở trong cái vòng tròn của lý trí mình không. Tôi có một vòng tròn nhỏ xíu không ai bác bỏ nổi: Tên sát nhân không có trong "Căn Phòng Vàng". Tại sao người ta tưởng hắn ở trong đó? Tại những dấu vết hắn đi qua để lại! Nhưng có thể hắn đã ở từ trước. Ấy quên, hắn "phải" đi qua từ trước; lý trí tôi nói với tôi rằng hắn đã đi qua đó trước! Chúng ta thử xét các dấu vết và những gì chúng ta biết về vụ này, xem những dấu vết có đi ngược với đường đi qua ấy trước, trước khi cô Stangerson tự giam mình trong phòng trước mặt cha cô và bố Jacques không? Sau bài báo trên tờ Martin và câu chuyện với ông Dự thẩm trên toa xe lửa từ Paris đến Epinay-Sur-Orge, bằng chứng đối với tôi đã rõ, "Căn Phòng Vàng" được đóng chặt, vậy tên sát nhân nhất định phải biến trước khi cô Stangerson vào phòng, lúc nửa đêm. Thế là những dấu bề ngoài "chống lại lý trí tôi" kinh khủng. Cô Stangerson không bị mưu sát một mình, và những dấu vết kia chứng nhận không có vấn đề tự tử. Vậy thì tên sát nhân đã đến trước! Nhưng sao cô Stangerson lại chỉ bị mưu hại sau? Tất nhiên, tôi phải tái lập sự việc, chia làm hai giai đoạn, hai giai đoạn cách biệt nhau vài giờ. Giai đoạn thứ nhất: Thật sự có kẻ định giết cô Stangerson, nhưng cô giấu kỹ không nói với ai. Giai đoạn thứ hai: Cô bị một cơn ác mộng hành và những người ở bên phòng thí nghiệm tưởng có kẻ đang giết cô! Lúc đó, tôi chưa đặt chân vào "Căn Phòng Vàng", các vết thương cô mang trên người thế nào? Nhưng dấu ngón tay bóp cổ và một cú nặng ghê gớm ở thái dương. Tôi không có suy nghĩ về những dấu bóp cổ. Có thể cô đã bị "trước" và che giấu hắn dưới cái cổ áo phồng hoặc chiếc khăn quàng lông, bất cứ cái gì! Vì, khi tôi đã dựng lên, đã bắt buộc phải dựng lên và chia vụ này làm hai giai đoạn, tôi bị dồn đến chỗ cần chấp nhận rằng cô Stangerson đã giấu nhẹm mọi biến cố ở giai đoạn một. Chắc chắn cô có những lý do khá quan trọng để giấu, vì cô không hé răng với cha cô, và trước Dự thẩm, cô đã khai rất tự nhiên việc cô bị tên sát nhân, mà việc hắn đi qua cô không chối được, đã xâm hại tính mạng cô thế nào. Cô kể lại như thể việc ấy đã xảy ra ban đêm. Trong giai đoạn hai. Cô bắt buộc phải làm thế, nếu không cha cô sẽ hỏi: "Con giấu chúng ta chuyện gì đây? Con bị kẻ mưu giết mà vẫn im lặng là nghĩa làm sao? Vậy, cô giấu được các dấu tay hung thủ để lại trên cổ. Nhưng còn vết thương ghê gớm ở thái dương thì sao? Chỗ này, thú thật tôi không hiểu! Nhất là khi tôi hay tin người ta tìm thấy trong phòng một khúc xương cừu, khí giới phạm tội. Cô không thể giấu việc mình bị hành hung tàn bạo, thế nhưng vết thương độc địa này hiển nhiên cô đã lãnh trong giai đoạn một, bởi vì cần có tên sát nhân ở đó! Trước tôi cứ tưởng vết thương không đến nỗi nặng như người ta đồn. Điểm này tôi đã lầm và tôi đã đoán cô Stangerson giấu vết thương ở thái dương dưới mái tóc vấn kiểu băng-đô! Còn dấu tay tên sát nhân để lại trên tường, dấu một bàn tay bị thương đổ máu do phát súng của cô Stangerson, cố nhiên hắn đã được in vào đó" trước "và chắc chắn tên sát nhân đã bị thương trong giai đoạn một, nghĩa là trong khi hắn ở đó. Tất cả mọi dấu vết trên đường hắn đi qua, dĩ nhiên tên sát nhân đã để lại ở giai đoạn một: Khúc xương cừu, những bước chân đen, chiếc mũ nồi, cái khăn tay, vết máu trên tường, trên cửa và dưới đất. Hiển nhiên, nếu các dấu vết này còn lại đó, là vì cô Stangerson tuy muốn không ai biết gì hết, và làm mọi cách để không ai biết gì hết, và làm mọi cách để không ai biết gì hết, nhưng không đủ thì giờ để xóa bỏ chúng đi. Điều đó dẫn tôi đến chỗ xác lập giai đoạn một. Vào một thời điểm rất gần với giai đoạn hai.

    Nếu sau giai đoạn một, nghĩa là khi tên sát nhân tẩu thoát rồi, sau khi cô vội vã sang phòng thí nghiệm, nơi cha cô đã gặp lại cô đang làm việc, nếu cô có thể trở vào phòng một lát thì ít nhất cô cũng tiêu hủy được ngay tức khắc chiếc xương cừu, mũ nồi, khăn tay lăn lóc dưới đất. Nhưng cô không dám vì cha cô kèm sát không lúc nào rời. Vậy thì, sau giai đoạn một, cô chỉ vào phòng lúc nửa đêm, có người đã vào lúc mười giờ: Bố Jacques, kẻ lo công việc mỗi tối đóng cửa sổ và thắp đèn ngủ. Trong lúc tâm thần tán loạn, thể xác đau đớn ngồi trước bàn viết phòng thí nghiệm giả bộ làm việc, chắc cô Stangerson đã quên bố Jacques sắp vào phòng mình. Khi nhớ ra, cô năn nỉ bố Jacques khỏi cần lo cho cô việc ấy! Đừng vào phòng. Việc này hiển hiện bằng giấy trắng mực đen trong bài báo Martin. Nhưng bố Jacques cứ vào và chẳng thấy gì hết, vì" Căn Phòng Vàng "tối quá. Chắc cô Stangerson đã trải qua hai phút kinh hoàng. Tuy nhiên, tôi nghĩ cô không ngờ tên sát nhân để lại phòng cô nhiều dấu vết đến thế.

    – Đúng là cô chỉ đủ thì giờ che giấu vết tay hung thủ quanh cổ rồi ra khỏi phòng! Nếu cô biết trên sàn nhà còn có khúc xương, mũ nồi và khăn tay tất cô đã hốt cả đi lúc trở vào phòng hồi nửa đêm. Cô không thấy những thứ ấy, cô thay y phục qua ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn ngủ, cô đi nằm, thân thể rã rời vì xúc động, vì hãi hùng, nỗi hãi hùng hắn bắt cô trở vào phòng càng khuya càng tốt.

    Cứ như thế, tôi buộc lòng đi tới giai đoạn hai, tấn thảm kịch, với cô Stangerson một mình trong phòng, bởi người ta đã không thấy tên sát nhân ở trong phòng. Cũng như thế, dĩ nhiên tôi phải đưa vào vòng tròn lý luận của tôi những dấu vết bên ngoài. Nhưng còn những dấu vết bên ngoài nữa cần giải thích. Những tiếng súng nổ trong giai đoạn hai. Những tiếng kêu" Cứu tôi với! Tên giết người! "Trong tình huống ấy, cái đầu tốt của lý trí tôi chỉ vẽ cho tôi cái gì đây? Về những tiếng kêu cứu, khi đã không có tên sát nhân trong phòng thì bắt buộc phải có ác mộng trong phòng! Người ta nghe tiếng bàn ghế đổ rầm rầm. Tôi tưởng tượng đoạn này, tôi buộc lòng phải tưởng tượng ra – cô Stangerson ngủ say, bị ám ảnh bởi cảnh bị bóp cổ lúc chiều, cô mê hoảng, cơn ác mộng tô đậm nét những hình ảnh đó, cô thấy lại tên sát nhân nhảy xổ tới, cô thét lớn:" Tên giết người! Cứu tôi với! "

    Và cô quờ quạng tìm khẩu súng trước khi đi ngủ cô để trên mặt bàn đêm. Nhưng tay cô đụng mạnh chiếc bàn đêm, mạnh đến nỗi chiếc bàn đổ ầm, khẩu súng lăn dưới đất phát nổ, một viên đạn bay lên ghim vào trần nhà. Viên đạn nằm trong trần nhà, ngay lúc đầu tôi đã quyết là súng cướp cò. Nó mang nhiều điểm chứng tỏ đây có thể là đạn nổ vì súng cướp cò, nó ăn khớp lạ lùng với giả thuyết ác mộng của tôi đến mức nó thành một trong những lý do khiến tôi bắt đầu hết hoài nghi, nhất định tội ác đã diễn ra" trước ", và cô Stangerson tính tình cứng rắn hiếm thấy đã giấu đi.

    Ác mộng, súng nổ, cô Stangerson trong trạng thái tinh thần hoảng loạn, choàng tỉnh giấc. Cô cố gắng đứng lên, nhưng gục ngã, quằn quại, đạp bàn ghế đổ lỏng chỏng, cạn hết sinh lực, thở hồng hộc," Tên sát nhân! Cứu tôi với "! Rồi lăn ra bất tỉnh. Thế nhưng, người ta lại nói có hai phát súng nổ, ban đêm, trong giai đoạn hai. Với tôi cũng vậy, theo thuyết của tôi – nó đã không còn là giả thuyết – phải có hai, nhưng" một "trong mỗi giai đoạn, chứ không phải hai phát cùng nổ trong giai đoạn hai. Một phát gây thương tích cho tên sát nhân" trước ", và một phát nổ trong cơn ác mộng" sau ". Nhưng thử hỏi có thật trong đêm có hai phát súng nổ không? Khẩu súng đã nhả đạn giữa mớ bàn ghế đổ rầm rầm. Trong một cuộc thẩm cung, ông Stangerson có khai một phát trước nổ đục, phát sau nổ vang! Nếu cái tiếng đục ấy là do chiếc bàn đêm bằng cẩm thạch đổ ập xuống sàn nhà thì có được không? Được lắm chứ. Lời giải này cần phải là lời giải đúng. Tôi tin chắc hắn đúng, khi hay tin hai người gác cổng, Bernier và vợ lúc ấy ở rất gần biệt thất, chỉ nghe có một tiếng súng nổ. Họ đã khai như vậy trước Dự thẩm. Như thế, tôi hầu như đã dựng lại hai giai đoạn của tấn thảm kịch, khi tôi bước vào" Căn Phòng Vàng "lần đầu.

    Thế nhưng tình trạng trầm trọng của vết thương nơi thái dương không đi vào vòng tròn lý luận của tôi. Vậy thì vết thương này, nạn nhân không bị đánh bởi tay tên sát nhân với khúc xương cừu trong giai đoạn một, vì hắn nặng quá, cô Stangerson không thể che giấu và cô đã không che giấu hắn dưới mái tóc vấn theo kiểu băng-đô. Do đó, vết thương này" nhất định "cô Stangerson đã bị đánh trong giai đoạn hai, lúc cô hôn mê trong ác mộng chăng? Đó là nghi vấn tôi đã mang đến hỏi" Căn Phòng Vàng "và" Căn Phòng Vàng "đã trả lời tôi! Vẫn từ trong cái gói nhỏ của anh Rouletabille lôi ra một mẩu giấy trắng, và từ trong mẩu giấy này anh cầm giữa hai ngón tay cái và trỏ một vật vô hình đưa cho ông Chánh án.

    - Thưa ông Chánh án, đây là một sợi tóc vàng dính máu, sợi tóc của cô Stangerson. Tôi tìm thấy nó bết vào một góc cẩm thạch của chiếc bàn đêm bị lật đổ. Chính cái góc phiến cẩm thạch cũng có lem máu. Ô! Một hình vuông nhỏ bé tý chẳng nghĩa lý gì! Nhưng vô cùng quan trọng! Vì cái hình vuông máu ấy cho tôi hiểu rằng lúc hốt hoảng từ trên giường vùng dậy, cô Stangerson đã buông rơi cả thân thể ngã xuống hết sức mạnh, cái góc bàn cẩm thạch đập vào thái dương bị thương và giữ luôn ở đó sợi tóc vàng này, sợi tóc có lẽ ở trán cô Stangerson, mặc dầu cô không chải tóc kiểu băng – đô. Các bác sĩ đã tuyên bố cô Stangerson bị đánh bằng một vật làm bầm tím và, bởi sẵn khúc xương cừu đó, ông Dự thẩm bèn đổ tội ngay cho khúc xương cừu, nhưng cái góc bàn đêm bằng cẩm thạch cũng là một vật làm bầm tím mà cả các bác sĩ lẫn ông dự thẩm đều không nghĩ tới và chính tôi có lẽ cũng không phát hiện ra!

    Một lần nữa, phòng xử suýt nổ tung vì tiếng vỗ tay, nhưng Rouletabille đã vội vã tiếp nối ngay lời khai chứng, nên im lặng được vãn hồi ngay tức khắc.

    - Thế là tôi chỉ còn tìm hiểu, ngoài danh tính tên sát nhân mà mấy ngày sau tôi mới biết, giai đoạn 1 tấn thảm kịch xảy ra vào lúc nào. Buổi hỏi cung cô Stangerson, mặc dầu được thực hiện để làm người ông Dự thẩm cùng buổi hỏi cung ông Stangerson đã vạch ra cho tôi thấy cô Stangerson đã khai đúng thời dụng biểu của cô ngày hôm đó. Chúng tôi đã xác lập là tên sát nhân lẻn vào biệt thất khoảng giữa năm và sáu giờ. Cứ cho là sáu giờ mười lăm thì ông giáo sư và con gái làm việc lại. Vậy phải tìm ở khoảng từ năm giờ đến sáu giờ mười lăm. Tôi nói sao nhỉ? À, năm giờ! Nhưng năm giờ thì ông giáo sư còn ở bên con gái, thảm kịch chỉ có thể xảy ra ở một chỗ xa ông giáo sư! Thế thì tôi phải tìm trong khoảng thời gian ngắn ấy, cái lúc ông giáo sư và con gái cách xa nhau là lúc nào! Thưa rằng, cái lúc ấy, tôi tìm thấy trong buổi hỏi cung ở phòng cô Stangerson, trước mặt ông Stangerson. Điểm được nêu lên là cha con ông giáo sư trở về phòng thí nghiệm khoảng sáu giờ. Ông Stangerson có nói:" Lúc đó, tôi gặp anh bảo vệ và đứng lại với anh một lúc. Vậy là có trò chuyện với anh bảo vệ. Anh này thưa với ông Stangerson chuyện đốn cây hoặc đi săn vụng trộm gì đó. Cô Stangerson không còn ở đấy. Cô đã về tới phòng thí nghiệm, vì ông Stangerson khai thêm: Tôi rời anh bảo vệ và về với con gái tôi lúc ấy đã lại bắt tay vào việc rồi! "

    Thế thì thảm kịch xảy ra đúng vào mấy phút ngắn ngủi đó. Cần phải như vậy, tôi thấy rõ cô Stangerson trở về biệt thất, vào phòng, bỏ mũ và trước mặt tên cướp đang theo đuổi mình. Tên cướp ở đó, trong biệt thất, một lúc lâu rồi. Chắc hắn đã sắp đặt sao cho mọi sự xảy ra ban đêm. Hắn tháo bỏ đôi giầy của bố Jacques vướng chân, như tôi đã trình bày với ông Dự thẩm, hắn vơ vội mớ giấy tờ như tôi nói ban nãy rồi chui vào nằm trong gầm giường vừa đúng lúc bố Jacques trở về lau rửa gian tiền đình và phòng thí nghiệm. Thời gian trôi đối với hắn thật dài. Khi bố Jacques đi rồi, hắn đứng lên rồi lại loanh quanh trong phòng thí nghiệm, vào gian tiền đình, nhìn ra vườn và trông thấy – lúc này đêm đang xuống, trời còn rất sáng – trông thấy cô Stangerson đang đi về biệt thất một mình! Không đời nào hắn dám tấn công cô vào giờ ấy nếu hắn không chắc chắn cô Stangerson có một mình. Và để cho cô xuất hiện một mình, câu chuyện giữa anh bảo vệ với ông Stangerson phải diễn ra ở một góc ngoặt con đường mòn, cái góc có một lùm cây che khuất hai người trước mắt tên khốn nạn. Thế là kế hoạch của hắn hình thành. Hắn sắp được yên ổn, một mình với cô Stangerson trong biệt thất chẳng hơn là gặp cô đêm khuya với một bố Jacques ngủ trên gác nóc. Và hắn phải đóng cửa sổ gian tiền đình. Điểm này cũng giải thích tại sao cả ông Stangerson lẫn anh bảo vệ, vừa phần ở cũng khá xa biệt thất, đã không nghe tiếng súng nổ. Đoạn hắn trở vào" Căn Phòng Vàng ", Cô Stangerson về tới. Những gì xảy đến tiếp đó chắc nhanh như ánh chớp! Cô Stangerson kêu cứu hay đúng hơn, đã định kêu lớn nỗi kinh hoàng. Hắn nắm cổ cô. Có thể hắn sắp bóp cổ cô, thắt họng cô. Nhưng bàn tay cô Stangerson quờ quạng vớ được khẩu súng cô cất trong ngăn kéo bàn đêm, khẩu súng cô giấu ở đó từ khi cô sợ hãi những lời hăm dọa của hắn. Tên sát nhân vung trên đầu cô gái đáng thương cái khí giới khủng khiếp trong tay Larsan – Ballmeyer một khúc xương cừu. Nhưng cô nổ súng, đạn bay ra trúng bàn tay cầm khi giới, buông rơi khúc xương cừu lăn dưới đất, đẫm máu từ vết thương ở tay tên sát nhân ứa ra. Hắn loạng choạng, đến chống tay vào tường, in lên đó mấy ngón tay đỏ máu, sợ lãnh thêm phát nữa bèn chạy cho nhanh.

    " Cô nhìn hắn băng qua phòng thí nghiệm; cô nghe ngóng. Hắn làm gì trong gian tiền đình? Sao lâu chưa thấy hắn nhảy qua cửa sổ, cuối cùng, hắn nhảy! Cô chạy ra của sổ, đóng lại. Và bây giờ, không biết cha cô có thấy gì không? Có nghe gì không? Bây giờ, nguy hiểm qua rồi, mọi ý nghĩ trong đầu, cô dành trọn vẹn cho cha. Được phú bẩm một nghị lực phi thường, cô sẽ giấu cha tất cả, nếu còn kịp. Và khi ông Stangerson về tới, ông sẽ thấy "Căn Phòng Vàng" đóng kín, và con gái ông trong phòng thí nghiệm, đang cặm cụi trên bàn viết, chăm chú, đã vào việc rồi! Đến đây, Rouletabille quay về Robert Darzac:

    - Ông biết sự thật – anh lớn tiếng – ông hãy nói đi, mọi việc có phải đã diễn ra như vậy không?

    - Tôi không biết gì hết. Ông Darzac lạnh lùng.

    - Tôi chịu ông là bậc anh hùng! – Rouletabille khoanh tay trước ngực. Nhưng hỡi ôi. Nếu cô Stangerson biết ông bị tố cáo là kẻ sát nhân, cô sẽ giải lời hứa cho ông, cô sẽ cầu xin ông hãy nói hết những bí ẩn cô đã trao gởi nơi ông, gì nữa nhỉ, cô ấy sẽ đích thân tới tòa bênh vực ông! Ông Darzac không làm một cử động, không thốt ra một lời. Ông nhìn Rouletabille, buồn bã.

    - Thôi được – bạn tôi tiếp – vì cô Stangerson không có đây, thì tôi, tôi phải có đây! Nhưng tin tôi đi, ông Darzac, phương cách tốt nhất, phương cách độc nhất để cứu cô Stangerson và phục hồi lý trí cho cô vẫn là làm sao cho ông được tha bổng.

    Tiếng vỗ tay như sấm nổ chào đón câu nói sau cùng. Ông Chánh án cũng chẳng nỡ tìm cách ngăn chặn làn sóng ngưỡng mộ say sưa của đám đông. Robert Darzac đã thoát nạn rồi. Cứ nhìn mặt các vị bồi thẩm khắc biết! Thái độ bề ngoài của họ biểu lộ hùng hồn niềm xác tín trong lòng. Ông Chánh án chợt kêu lớn:

    - Nhưng mà, còn cái bí ẩn hắn trói buộc cô Stangerson bị mưu sát mà lại giấu cha một tội ác như vậy, là cái gì chứ?

    - Cái đó, thưa ông Chánh án – Rouletabille trả lời – tôi không biết! Việc đó chẳng can gì đến tôi!

    Ông Chánh Án thêm một cố gắng phía Robert Darzac:

    - Ông, ông vẫn còn từ chối không cho chúng tôi biết thời dụng biểu của ông trong khi người ta xâm hại tính mạng cô Stangerson hay sao?

    - Tôi không thể nói gì với ông Chánh án.

    Ông Chánh án đưa mắt về phía Rouletabille, cầu viện một lời giải đáp. Anh nói:

    - Thưa ông Chánh án, người ta có quyền nghĩ rằng những buổi ông Robert Darzac vắng mặt bị ràng buộc chặt chẽ với nỗi niềm uẩn khúc của cô Stangerson. Cho nên ông Darzac tự buộc mình có bổn phận phải nín lặng! Quý vị thử tưởng tượng, Darsan trong ba vụ mưu toan giết người, đã huy động tất cả để chĩa mọi nghi ngờ vào ông Darzac, cũng đã bắt ông Darzac, cả ba lần ấy phải đến chỗ hẹn ở một nơi nguy hại cho ông trước mắt mọi người. Ông Darzac thà bị kết án tử hình hơn là thú nhận bất cứ điều gì, giải thích bất cứ việc gì có đụng chạm đến bí ẩn của cô Stangerson. Larsan đủ láu cá để gài thêm cái "bẫy ấy"!

    Ông Chánh án đã nao núng, nhưng tò mò hỏi tới nữa:

    - Nhưng cái bí ẩn ấy là cái gì mới được chứ?

    - À, thưa ông Chánh án, tôi không thể nói gì cùng ông! Rouletabille vừa trả lời vừa phác một cử chỉ thoái thác chào ông Chánh án. – Có điều, bây giờ thì ông Chánh án đã biết đủ để tha bổng cho ông Robert Darzac! Trừ phi Larsan trở về! Nhưng tôi không tin y sẽ trở về! – Anh cười rộ lên sung sướng. Mọi người cùng cười với anh.

    - "Ông cho hỏi câu nữa", Ông Chánh án chưa chịu thua, "vẫn theo thuyết của ông, chúng tôi hiểu rằng Larsan chĩa mọi nghi ngờ vào ông Robert Darzac, nhưng y cũng làm thế với bố Jacques thì có lợi gì?

    -" Lợi cho nhà thám tử! "Nhà thám tử tự chứng tỏ tài năng bằng cách đánh đổ những bằng chứng do chính y ngụy tạo để vu cho kẻ khác. Cái đó mới là ghê gớm! Hắn là một mánh lới y quen dùng để đánh lạc hướng nghi ngờ có thể chĩa vào y! Y chứng minh người này vô tội để tố cáo người kia có tội. Ông Chánh án nghĩ coi: Một vụ như vụ này, nhất định Larsan phải" nghiền ngẫm "rất lâu từ trước. Y đã nghiên cứu tất cả, biết hết mọi người mọi việc. Nếu ông Chánh án tò mò muốn biết y dò la thế nào để có điều kiện hành động thì tôi xin thưa: Đã có một thời, y tình nguyện làm môi giới liên lạc giữa" Phòng thí nghiệm sở Công An "với ông Stangerson khi ông giáo sư được yêu cầu cho một số" thực nghiệm ". Nhờ đó mà trước ngày phạm tội ác, y đã lọt được vào biệt thất hai lần, y cải trang khéo đến nỗi từ ngày ấy, bố Jacques không nhận ra y nữa. Nhưng y thì đã vớ được cơ hội để trộm của bố Jacques một đôi giầy cũ bẹp và một mũ nồi hết xài mà người tớ già của ông Stangerson dùng khăn tay cột lại chắc định mang cho người bạn làm lò than trên đường Epinay. Khi vụ mưu sát được phát giác, bố Jacques ngầm biết đó là đồ của mình nhưng không dám ra mặt nhận ngay! Những vật ấy tai hại quá, và đó là lý do khiến bố lúng túng, vào ngày ấy, khi chúng tôi để cập vấn đề này với bố. Tất cả những trò này thật đơn giản như một cộng một thành hai, và tôi, đã dồn Larsan đến chỗ phải thú nhận. Mà y cũng thú nhận với tôi một cách sảng khoái, vì tuy là kẻ cướp – tôi dám hy vọng điều này không ai còn nghi ngờ – y cũng là một nghệ sĩ nữa! Đó là đường lối làm việc của con người ấy, đường lối riêng của y. Ngày trước, y cũng hành động như vậy trong vụ" Ngân Hàng Cho Vay Thế Giới "và vụ" Những Nén Vàng Ở Sở Đúc Tiền". Những vụ này cần được tái thẩm, thưa ông Chánh án, vì có vài người vô tội còn ở trong tù oan, sau khi Ballmeyer – Larsan phục vụ trong ngành Công An Cảnh Sát.
     
  8. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 28: Con người ta đôi lúc không chú ý vào tất cả mọi thứ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Xúc động tràn lan, tiếng xầm xì, tiếng hoan hô! Luật sư Henri Robert nạp biện minh trạng xin đình nội vụ, dời lại một phiên khác để thẩm tra bổ túc. Công tố viên cũng tham gia. Thế là vụ án đình xử.

    Hôm sau ông Robert Darzac được tự do tạm, còn Mathieu hưởng ngay tức khắc một "lệnh truyền miễn tố". Người ta hoài công tìm kiếm Frédéric Larsan. Thế là ông Robert Darzac, bằng chứng vô tội được xác lập rõ ràng, thoát khỏi một tai ách đã có lúc đe dọa tính mạng ông, và sau một buổi viếng thăm cô Stangerson, ông có thể hy vọng cô phục hồi lý trí một ngày kia, nhờ được chăm sóc hết sức chuyên cần.

    Còn tên oắt con Rouletabille, dĩ nhiên là "người hùng của ngày hôm ấy", vừa từ điện Versailles đi ra, anh bị đám đông xúm lại kiệu lên vai hoan hô cuộc chiến thắng rất ư là oanh liệt. Báo chí toàn thế giới tường thuật thành tích và đăng hình ảnh anh khắp nơi. Còn anh, kẻ đã bao phen phỏng vấn các nhân vật nổi tiếng bây giờ đến lượt anh nổi tiếng và được người ta phỏng vấn. Tôi cần nói ngay, không vì thế mà anh lên mặt!

    Chúng tôi từ Versailles về nhà sau bữa ăn tối thật vui ở nhà hàng "Con Chó Hút Thuốc". Trong toa xe lửa, tôi bắt đầu ngay cả đống câu hỏi mà lúc đang ăn, chúng đã dồn lên môi tôi, nhưng tôi vẫn im lặng vì vốn biết Rouletabille không ưa làm việc trong khi ăn.

    "Anh bạn ơi" – tôi vừa mở lời – "cái vụ Larsan này thật cao thượng và xứng đáng với chí khí anh hùng của một người như anh."

    Anh chặn ngay tôi lại, yêu cầu tôi nói năng giản dị hơn và tuyên bố hết sức đau lòng phải thấy một cái đầu thông minh đẹp đẽ như tôi mà sẵn sàng rơi xuống cái hố sâu gớm ghiếc chứa bọn ngu ngốc chỉ vì lòng ngưỡng mộ dành cho anh.

    "Được, tôi đi vào sự việc cụ thể đây" – tôi nói tiếp, có hơi phật ý – "tất cả những chuyện vừa xảy ra chẳng cho tôi biết tý gì về việc anh làm ở Mỹ. Nếu tôi hiểu rõ anh thì khi anh rời Glandier lần chót, anh đã đoán ra hết mọi sự về Frédéric Larsan. Anh biết Frédéric Larsan là tên sát nhân và anh chẳng còn lạ gì cách thức y lập kế giết người"

    - Đúng ghê! Anh xoay câu chuyện đi hướng khác – còn anh, anh không nghi ngờ gì sao?

    - Không!

    - Khó tin quá.

    - Nhưng mà, anh bạn, anh giấu ý nghĩ của anh kỹ thế, làm sao tôi moi được cái gì. Khi tôi đến Glandier với hai khẩu súng, "đúng vào lúc ấy", anh đã nghi Larsan rồi chứ?

    - Rồi! Tôi vừa bắt trúng lý luận về cái "Hành Lang Không Hiểu Nổi", nhưng Larsan quay lại phòng cô Stangerson làm gì thì tôi chưa nghĩ ra, cho đến lúc phát giác cái kính kẹp mũi của người viễn thị. Rốt cuộc, mối nghi ngờ của tôi chỉ đặt ra như một con tính, và ý nghĩ Larsan sát nhân có vẻ ghê gớm quá khiến tôi quyết đinh hãy đợi "những dấu vết do giác quan thu nhận được" trước khi dám dừng lại ở đó lâu hơn. Dù sao cái ý nghĩ ấy làm tôi lo lắng và đôi khi tôi dùng kiểu nói khác lạ về nhà thám tử nó có thể gợi ý cho anh suy đoán. Trước hết, tôi không còn đặt "thiện chí của y" lên hàng đầu, và hết nói với anh rằng y lầm ". Tôi bàn với anh về phương pháp của y coi như một phương pháp tồi tệ, và vẻ khinh bỉ tôi lộ ra mặt, trong óc anh thì tôi nhằm nhà thám tử, như thật ra trong óc tôi, nó nhằm tên tướng cướp mà tôi ngờ vực hơn là nhằm nhà thám tử! Anh nhớ lại coi, khi tôi kể ra với anh đủ mọi bằng chứng chồng chất lên đầu ông Darzac, tôi có nói:" Nhưng chuyện này dường như tạo nên phần cốt yếu nào đó trong giả thuyết của ngài Fred. Chính cái giả thuyết này, tôi cho là sai, sẽ đưa ông ta đi lạc và tôi thêm một câu với giọng có thể khiến anh sửng sốt: "Bây giờ, cái giả thuyết ấy có thật sự đưa Frédéric Larsan đi lạc chăng? Thế đó! Thế đó!" Những câu "Thế đó!" Đáng phải làm anh suy nghĩ. Tất cả mọi nghi ngờ của tôi nằm trong những câu "thế đó!" Và có thật sự đưa Frédéric Larsan đi lạc chăng? Nghĩa là sao? Nếu không phải nghĩa là nó không đưa y đi lạc, nhưng chính là nhằm đưa chúng ta đi lạc! Lúc ấy, tôi đưa mắt cho anh, nhưng anh không giựt mình, không hiểu gì cả. Tôi cũng lấy thế làm việc hay, vì khi chưa phát giác chiếc kính kẹp mũi, tôi chỉ có thể coi tội ác của Larsan như một giả thuyết phi lý. Nhưng sau khi phát giác chiếc kính kẹp mũi, nó cắt nghĩa lý do Larsan trở vào phòng cô Stangerson anh thấy tôi mừng quýnh không, Ồ! Tôi nhớ kỹ lắm! Tôi chạy như thằng điên trong phòng, tôi hét vào tai anh: "Tôi sẽ hạ Fred! Tôi sẽ hạ ông ta trong một trận tranh hùng lừng lẫy!" Những câu này lúc đó nhắm vào tên tướng cướp. Và tôi đến, khi đã được ông Darzac phó thác việc canh chừng phòng cô Stangerson, tôi không phòng bị gì cả, yên lòng vì y ở đó, trước mặt mình! Lúc này, anh bạn ơi, khi chúng ta nói về việc tên sát nhân sắp đến, tôi bảo anh: "Ô! Tôi nhất quyết Frédéric Larsan sẽ ở đây đêm nay, đáng lẽ anh phải nghi ngờ rồi, chỉ có con người ấy là tôi e ngại. Nhưng có một việc cơ bản đã có thể và đáng lẽ nó soi sáng chúng ta hoàn toàn và ngay tức khắc nhận định về tên sát nhân, một việc nó tố cáo Frédéric Larsan với chúng ta, nhưng chúng ta, anh và tôi đã để vuột mất!" Anh quên câu chuyện cây can rồi sao?" "Đúng, ngoài cách suy luận mà đối với mọi" đầu óc duy lý "nó tố cáo Larsan, còn có câu chuyện cây ba toong tố cáo y với mọi đầu óc quan sát". "Anh nên biết tôi đã lặng người kinh ngạc khi thấy trước Dự thẩm, Larsan không đem cây ba toong ra để tố cáo ông Darzac. Có phải cây ba toong ấy đã được một người hình dáng giống ông Darzac đến mua, vào đúng buổi tối hôm xảy ra vụ mưu sát không? Lúc nãy, tôi đã hỏi thẳng Larsan trước khi y lên xe lửa để biến, rằng tại sao y không dùng đến cây ba toong. Y trả lời không bao giờ y có ý định ấy, và rằng trong óc y, y không hề dự tính dùng cây ba toong để buộc tội ông Darzac. Y thú nhận chúng ta đã làm y lúng túng, buổi tối, ở quán café Epinay khi chứng minh y nói láo! Anh đã biết y nói cây ba toong ấy y được người ta cho ở Luân Đôn nhưng nhãn hiệu chế tạo lại ở Paris. Lúc ấy, thay vì nghĩ:" Fred nói láo, y ở Luân Đôn, y không thể có cây can Paris này ở Luân Đôn tại sao chúng ta lại không nghĩ thế này có hơn không: "Fred nói láo. Y không ở Luân Đôn, vì y đã mua cây can này ở Paris! Fred, tên nói láo, Fred ở Paris khi thảm kịch xảy ra! Đó là khởi điểm cho một mối nghi ngờ. Và sau khi anh dò hỏi ở tiệm Cassene, chúng ta được biết cây ba toong ấy đã bán cho một ông khách ăn mặc giống Robert Darzac, trong lúc chúng ta đã tin chắc, theo chính ông Darzac xác nhận, ông không mua cây ba toong ấy, trong lúc chúng ta cũng chắc chắn, nhờ câu chuyện ở Văn Phòng 40 bưu điện, rằng ở Paris có một người bắt chước dáng hình Robert Darzac, trong lúc chúng ta tự hỏi vậy thì cái người cải trang làm Darzac, tối hôm xảy ra thảm kịch, đã đến nhà Cassene mua một cây ba toong mà chúng ta thấy trong tay Fred bây giờ; tại sao? Tại sao? Tại sao không có lúc nào ông ta bật nghĩ ra:" Thì kẻ lạ mặt trá hình là Darzac đã mua cây ba toong hiện ở tay Fred, ngộ đó là chính Fred thì sao? "Đành rằng tư cách viên chức Công An của y không thuận chiều cho một giả thuyết như vậy. Nhưng khi thấy Fred hung hăng dồn các tội chứng lên đầu ông Darzac, điên cuồng theo đuổi quyết hại bằng được con người khốn khổ kia, đáng lẽ chúng ta phải giật mình nhớ ngay tới câu nói láo quan trọng của Fred nó vạch mặt y phải ở Paris mới làm chủ một cây ba toong mà y không thể có được ở Luân Đôn. Dù cho y có lượm được nó ở Paris thì câu nói kia vẫn không bớt láo. Mọi người đều yên trí y ở Luân Đôn, kể cả các cấp trên của y, thế mà y mua một cây ba toong ở Paris. Bây giờ đến một thắc mắc, tại sao không một phút nào y rêu rao tìm thấy cây ba toong ấy ở một chỗ quanh mình ông Darzac! Đơn giản lắm! Đơn giản đến mức chúng ta không buồn nghĩ tới Larsan đã mua cây ba toong, sau khi bị viên đạn của cô Stangerson gây thương tích nhẹ ở bàn tay, chỉ cốt để có một bộ điệu, để bàn tay luôn luôn nắm lại, để không bị lỡ quên mà xòe bàn tay khoe vết thương bên trong. Anh hiểu không? Đó Larsan nói với tôi thế đó. Và tôi nhớ đã nhắc đi nhắc lại với anh nhiều lần rằng thấy" bàn tay y không chịu rời cây ba toong "tôi cho là chuyện kỳ quặc. Ngồi bàn, khi tôi ăn bữa tối với y, y vừa bỏ cây ba toong là lập tức nắm ngay lấy cán dao ăn, và từ lúc đó, bàn tay phải của y không buông con dao ra nữa. Tất cả các chi tiết ấy trở lại ký ức tôi khi nhận định của tôi đã dừng lại ở Larsan, nghĩa là chậm quá, không giúp ích gì được nữa. Cho nên, cái buổi tối Larsan giả vờ bị đánh thuốc mê, tôi đã cúi xuống, rất khéo léo nhìn được vào lòng bàn tay y mà y không biết. Bấy giờ chỉ có miếng gạc nhỏ băng sơ sài một tí còn lại của vết thương nhẹ. Giá có ai hỏi, y có thể trả lời vết thương do một thứ gì khác gây ra chứ không phải súng. Dù sao thì với tôi, giờ phút ấy nó là dấu chỉ bên ngoài mới đi vào vòng tròn lý luận của tôi. Viên đạn – Larsan cho tôi biết lúc nãy – chỉ sượt qua lòng bàn tay, nhưng đã làm đổ khá nhiều máu. Nếu chúng ta nhìn xa thấy rộng hơn khi nghe câu nói láo của Larsan, và nguy hiểm hơn chút nữa thì thế nào, để đánh lạc mối nghi ngờ nhằm vào y, y cũng cho ra câu chuyện mà chúng ta tưởng tượng cho y, câu chuyện phát giác cây ba toong ở một chỗ quanh mình ông Darzac. Nhưng các biến chuyển diễn ra nhanh quá đến nỗi chúng ta không kịp nghĩ đến cây ba toong! Dù sao chúng ta cũng đã làm cho y, Larsan – Ballmeyer lo sốt vó mà chúng ta đâu ngờ!

    Tôi ngắt lời anh:

    - Nhưng, nếu khi mua cây ba toong, nếu y không có ý mưu hại Darzac thì tại sao y giả dạng Darzac? Áo choàng màu trám vàng? Mũ quả dưa? v v..

    - Tại vì y ở chỗ án mạng đến, và tại vì lúc án mạng xảy ra, y lấy lại ngay lốt trang phục Darzac đã luôn luôn không rời y trong hành động tội ác, và với âm mưu gì, anh biết rồi." Nhưng anh nghĩ coi, bàn tay bị thương gây khó khăn cho y, và lúc đi qua đại lộ Opéra mới nảy ra ý mua cây ba toong và y thực hiện ý đó ngay tức khắc. Lúc ấy là tám giờ! Một người có dáng dấp Darzac đi mua một cây ba toong mà tôi thấy trong tay Larsan, và tôi đã đoán rằng vào giờ ấy thảm kịch đã xảy ra rồi, rằng nó vừa mới xảy ra thôi tôi gần như tin Darzac vô tội, thế mà tôi lại không nghi ngờ Larsan! Thật có những lúc..

    - Có những lúc.. – tôi tiếp lời anh – cả những bộ óc thông minh quán thế.

    Rouletabille bịt miệng tôi, tôi vẫn muốn hỏi thêm, nhưng chợt thấy anh không nghe tôi nữa. Rouletabille ngủ rồi. Tôi phải bao nhiêu là vất vả mới lôi được anh ra khỏi giấc mộng đẹp, khi xe lửa tới Paris,
     
  9. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 29. Bí mật của cô Stangerson

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những ngày sau đó, tôi còn có dịp nữa để hỏi anh sang Mỹ làm gì. Anh không trả lời một điểm nào chính xác hơn những câu anh đã nói trong toa xe lửa Versailles. Thường anh lảng sang nhiều vấn đề khác. Nhưng rồi một ngày kia anh cũng phải nói:

    - Thì anh phải hiểu tôi cần tìm biết nhân cách thật của Larsan chứ!

    - Đã đành, nhưng tại sao anh đi tìm ở Mỹ?

    Anh rít tẩu thuốc và quay lưng lại tôi. Rõ ràng, tôi đụng vào "bí ẩn của cô Stangerson". Rouletabille đã nghĩ cái bí ẩn ấy nó ràng buộc cô Stangerson vào Larsan khủng khiếp, bí ẩn mà chính anh, Rouletabille, anh cũng không tìm thấy trong cuộc đời cô Stangerson "ở Pháp", cho nên anh đoán rằng nó phải bắt nguồn từ đời sống của cô ở Mỹ.

    Và anh xuống tàu. Nơi đó, anh sẽ biết Larsan là ai, anh thu thập đủ chất liệu để gắn miệng y lại. Thế là anh đi Philadelphie! Và bây giờ, cái bí ẩn nó "ra lệnh im lặng" bắt cô Stangerson và ông Robert Darzac phải tuân hành là gì?

    Sau bao nhiêu năm trôi qua lặng lẽ, sau vài bài báo tai tiếng đăng trên báo chí, đến nay, ông Stangerson biết tất cả, đã tha thứ tất cả, thì người ta có thể nói tất cả. Vả chăng, đây là câu chuyện rất ngắn. Nó hoàn chỉnh mọi khía cạnh, vì có những đầu óc tối tăm thích đổ tội cho cô Stangerson, người mà suốt cả vụ án ghê gớm này bao giờ cũng là nạn nhân ngay "từ buổi đầu".

    Đầu câu chuyện ở vào một thời xa lắc hồi cô còn sống với cha cô ở Philadelphie. Nơi đây, một buổi tối trong nhà ông bạn của cha, cô quen một đồng hương, người Pháp, một kẻ sành sỏi việc, làm cô say đắm bằng nhân dáng, bằng trí tuệ, bằng dịu ngọt và bằng tình yêu của y. Người ta đồn y giàu lắm. Y cầu hôn cô Stangerson.

    Ông giáo sư dò hỏi về nhân cách Jean Roussel và thoạt đầu, ông tưởng y là kỹ nghệ gia cỡ bự. Thế nhưng, quý vị biết rồi, ông Jean Roussel chẳng là ai khác một trong những biến dạng của tên cướp Ballmeyer khét tiếng, bị truy nã ở Pháp trốn sang Mỹ. Nhưng ông Stangerson chẳng biết mô tê gì, con gái ông cũng mù tịt. Cô chỉ vỡ mộng trong trường hợp sau đây: Ông Stangerson không những từ chối không gả con gái cho Jean Roussel, mà còn cấm cửa y luôn.

    Cô nàng Mathilde non dại, trái tim đang mở rộng đón tình yêu, không nhìn thấy trên đời còn gì đẹp hơn, tuyệt vời hơn chàng Jean của mình, đâm ra hờn giận. Cô chẳng cần che giấu nỗi giận hờn với cha, và ông giáo sư bèn gởi cô đi tìm khuây khỏa trên vùng bờ sông Ohio, nhà một bà cô già ở Cincinnali.

    Jean mò đến gặp Mathilde, và dù hết lòng kính trọng cha già, Mathilde vẫn gạt bà cô, thoát khỏi màng lưới canh chừng của bà, trốn đi theo Jean Roussel, cả hai quyết định lợi dụng những dễ dãi của luật pháp Hoa kỳ để thành hôn gấp. Thế là xong. Cặp uyên ương trốn đi không xa, đến Louisville. Ở đây, một buổi sáng đẹp trời, có tiếng gõ cửa. Cảnh Sát đến bắt ông Jean Roussel mang đi, mặc cho tiếng kêu la phản đối của cô con gái giáo sư Stangerson.

    Đồng thời, Cảnh Sát cũng cho Mathilde hay "chồng cô chẳng phải ai khác tên cướp quá nổi đanh Ballmeyer!" Tuyệt vọng, sau một phen tự vẫn không chết, Mathilde đành về với bà cô già ở Cincinnati. Bà này suýt lăn ra chết ngất vì sung sướng gặp lại cô cháu ngoan. Tám ngày qua, bà không ngừng đi tìm Mathilde khắp nơi và chưa dám báo cho ông Stangerson.

    Mathilde bắt bà thề không bao giờ để cha cô biết chuyện. Thì cũng trúng ý bà thôi. Bà đang ân hận đã lơ là trong một hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy. Một tháng sau cô Stangerson trở về cùng cha, ăn năn thống hối, trái tim đã chết cho tình và chỉ xin có một điều, đừng bao giờ nghe ai nhắc đến tên chồng cô, tên cướp ghê gớm Ballmeyer, mong tự tha thứ được tội mình, đứng thẳng dậy trước lương tâm bằng một đời sống cần cù, làm việc không giới hạn và tận tụy cùng cha. Cô đã giữ lời.

    Tuy nhiên, trong một lúc tưởng Ballmeyer đã chết, vì tiếng đồn y chết lan mau, cô thú thật tất cả với ông Robert Darzac. Sao bao năm dài đền tội, cô đang háo hức sắp được kết hợp với một người bạn đáng tin yêu, thì định mệnh cay nghiệt làm sống lại Jean Roussel, tên Ballmeyer của tuổi thanh xuân ngày trước. Tên cướp cho cô hay, y không đời nào để cuộc hôn nhân của cô với Robert Darzac thành công và "y vẫn yêu cô", điều này, hỡi ôi, đúng sự thật. Cô Stangerson không ngần ngại kể cho ông Robert Darzac. Cô cho ông xem một lá thư của Jean Roussel – Frédéric Larsan – Ballmeyer gợi lại những giờ đầu tiên chung sống trong căn nhà cổ nhỏ và đầm ấm mà cặp vợ chồng đã thuê ở Louisville "ngôi nhà cổ không mất đi vẻ đẹp vốn có cũng như khu vườn chẳng mất đi ánh sáng". Tên khốn nạn tự xung giàu có, đòi "đưa cô về bên ấy"!

    Cô Stangerson quả quyết với ông Robert Darzac, nếu cha cô nghi ngờ đến điều ô nhục này thì "cô sẽ tự sát". Ông Robert Darzac thề sẽ buộc tên Mỹ đó câm mồm, hoặc bằng khủng bố hoặc bằng sức mạnh, dù có phải phạm một tội ác! Nhưng ông Robert Darzac không đủ bản lĩnh đối địch với y và ông đã thân bại danh liệt, nếu không có chàng thanh niên dũng cảm Rouletabille.

    Còn cô Stangerson, quý vị muốn cô làm gì trước tên quái vật kia? Một hôm, sau nhiều lần hăm dọa khiến cô lo lắng đề phòng, lúc y đứng trước mặt cô, trong "Căn Phòng Vàng"; cô đã vùng lên chực giết y. Khốn thay, cô không thành công. Kể từ đó, cô là nạn nhân thường trực của tên cướp vô hình "nó có thể theo đuổi bức bách cô đến chết", nó ở ngay nhà cô, bên cạnh cô, mà cô không hay. Nó đòi những buổi hẹn "nhân danh tình yêu của đôi ta". Lần đầu, cô đã "từ chối" cuộc hẹn y đòi hỏi trong lá thư ở Văn Phòng 40 dẫn đến thảm kịch "Căn Phòng Vàng" lần thứ hai được báo trước bằng một lá thư khác do bưu điện phát, để trong phòng dưỡng bệnh, cô đã chạy trốn "buổi hẹn" bằng cách giam mình trong phòng khách nhỏ với hai người đàn bà. Trong thư này, tên khốn nạn báo trước, vì cô không chịu đến với y, "bởi tình trạng sức khỏe không cho phép", vậy y đến với cô và có mặt trong phòng cô đêm này, giờ này, cô nên sắp đặt mọi sự để tránh tai tiếng. Mathilde Stangerson biết rõ không thể coi thường cái bạo tàn của Ballmeyer. Cô "bỏ căn phòng trống cho y". Đó là hôm xảy ra vụ "Hành Lang Không Hiểu Nổi".

    Lần thứ ba, cô đã "sửa soạn cho buổi hẹn". Số là trước khi rời căn phòng trống của cô Stangerson, đêm "Hành Lang Không Hiểu Nổi" Larsan viết cho cô, như chúng ta còn nhớ, một lá thư chót, ngay tại phòng cô và để trên bàn viết của nạn nhân. Trong thư này, y yêu sách một buổi hẹn "thật sự", rồi ấn định ngày, giờ, "hứa với cô sẽ mang trả các tài liệu của cha cô, và dọa sẽ đốt hết, nếu cô còn lẩn tránh y. Cô vẫn dư biết tên khốn nạn hiện nắm trong tay các giấy tờ vô giá của cha. Đây chỉ là y tái phạm một vụ trộm nổi tiếng, vì từ lâu cô nghi cái tài liệu khoa học để trong ngăn tủ của cha cô ở Philadelphie năm xưa bị mất cũng chính y là thủ phạm, với" sự đồng lõa "vô tình của cô.

    Cô đã biết con người y quá đủ để hiểu rằng nếu không tuân phục ý muốn của y thì bao nhiêu công phu, nỗ lực, bao nhiêu kỳ vọng khoa học chẳng mấy lúc sẽ ra tro. Cô quyết định cho y gặp một lần nữa, mặt đối mặt, con người từng làm chồng cô. Cô sẽ hết sức thuyết phục y đổi ý. Người ta đoán được những gì xảy ra. Các lời van xin của cô Stangerson, thái độ hung bạo của Larsan, y buộc cô bỏ rơi Robert Darzac. Cô lớn tiếng xác minh tình yêu đối với Darzac và y đâm cô" với ý định chắc chắn đưa tình địch lên đoạn đầu đài "vì y tinh khôn, và cái mặt nạ Larsan sẽ cứu y, y nghĩ vậy, trong khi kẻ kia, kẻ kia lần này nữa sẽ không dám khai ra thời dụng biểu của mình, về phía này,

    Ballmeyer đã đề phòng cẩn thận và ý đồ của y cũng rất đơn giản, như chàng tuổi trẻ Rouletabille đã đoán ra. Larsan bức bách Darzac cũng giống như cô Stangerson, cũng những vũ khí ấy, cũng cái bí ẩn ấy. Trong các lá thư, thúc ép như những lệnh truyền, y tuyên bố sẵn sàng thương lượng, giao trả các thư từ yêu đương trao đổi ngày xưa và nhất là sẵn sàng" biến "nếu đối phương bằng lòng trả giá.

    Darzac phải đi đến chỗ hẹn do y qui định, nếu không tất cả sẽ bị phanh phui ngay hôm sau, như Mathilde phải chấp nhận những buổi hẹn do y báo trước. Và chính trong giờ phút Ballmeyer đang thi hành thủ đoạn sát nhân với Mathilde, thì Robert xuống ga Epinay. Ở đây, có một đồng lõa của Larsan, một tên quái gở," một sinh vật ở thế giới khác "mà chúng ta sẽ gặp lại một ngày kia, dùng vũ lực giữ ông lại rồi làm cho ông mất thì giờ trong khi chờ đợi sự trùng hợp này, mà bị cáo tương lai không dám khai rõ lý do, sẽ làm ông mất trí.

    Song có điều, Ballmeyer không tính đến anh bạn của chúng ta, Joseph Rouletabille. Không phải đến giờ này, khi bí ẩn" Căn Phòng Vàng "đã sáng tỏ mà chúng ta mới theo Rouletabille từng bước chân sang Mỹ. Chúng ta biết con người anh phóng viên trẻ, chúng ta hiểu anh có những phương tiện thông tin rất mạnh chứa trong hai cục u trên trán thế nào để ngược dòng thời gian nắm được toàn bộ cuộc phiêu lưu của cô Stangerson với Jean Roussel.

    Ở Philadelpbie, anh thu thập được ngay những gì cần biết về Arthur William Rance. Anh biết hành động liều mình của ông ta để cứu cô Stangerson nhưng cũng biết luôn cái giá mà ông ta ngầm đòi được trả. Tiếng đồn và cuộc hôn nhân của ông ta với cô Stangerson đã có thời lan khắp các khách phòng ở Philadelphie. Nhà bác học trẻ thiếu kín đáo, theo đuổi tán tỉnh cô Stangerson dai dẳng, sang cả Châu Âu khiến cô phát mệt, nếp sống phóng túng của ông viện cớ để nhận phim" những đau đớn thất tình ", tất cả những điều ấy không được thiện cảm của Rouletabille và nó cắt nghĩa vẻ lạnh nhạt của anh với ông ta trong phòng nhân chứng.

    Ngay lập tức, anh đặt vụ Rance ra ngoài vụ Larsan-Stangerson. Rồi anh phát giác cuộc tình độc đáo Roussel-Stangerson. Jean Roussel là ai? Anh đã từ Philadelphie đến Cincinnati, làm lại cuộc du ngoạn của Mathilde. Đến Cincinnati, anh tìm ra bà cô già và biết cách khiến bà khai ra hết. Chuyện Ballmeyer bị cảnh sát bắt là luồng ánh sáng chiếu vào tất cả.

    Anh đến Louisvilie thăm ngôi nhà cổ - một căn nhà khiêm tốn xinh đẹp xây kiểu thuộc địa cổ – quả nhiên" không hề mất đi vẻ đẹp vốn có ". Rồi anh bỏ vết chân cô Stangerson, đi ngược vết chân Ballmeyer, từ nhà tù nọ đến nhà tù kia, từ lao thất này đến lao thất khác, từ tội ác mới đến tội ác cũ. Cuối cùng, ngày anh đáp tàu về Châu Âu, đứng trên bến Nữu Ước, Rouletabille biết rằng, cũng trên bến này,

    Ballmeyer đã xuống tàu năm năm trước, trong túi có đủ giấy tờ của Larsan, một thương gia khả kính ở Nouvelle – Orléans, người y vừa hạ sát. Và bây giờ, quý vị đã biết hết bí ẩn của cô Stangerson chưa? Chưa, chưa đâu, cô Stangerson đã có với ông chồng Jean Roussel một đứa con, một bé trai. Đứa bé sinh ở nhà bà cô già. Bà cụ thu xếp thật khéo nên ở Mỹ không ai biết gì.

    Đứa bé trai ấy bây giờ ra sao? Đây lại là câu chuyện khác mà tôi sẽ kể hầu quý vị trong tương lai. Khoảng hai tháng sau những biến cố kể trên, tôi gặp Rouletabille ngồi ủ rũ trên chiếc ghế dài ở Pháp đình. Tôi hỏi anh:" Thế nào, nghĩ gì vậy bạn thân mến? Cái mặt buồn thiu à! Các bạn anh ra sao, ổn cả chứ?

    - Ngoài anh ra, thật sự tôi còn ai là bạn?

    - Thì tôi hy vọng ông Darzac..

    - À, rồi.

    - Với cô Stangerson. Cô ấy khỏe chưa? Cô Stangerson..

    - Khá nhiều. Khá nhiều!

    - Thế thì ta chẳng nên buồn.

    - Tôi buồn vì tôi nhớ đến hương thơm của người đàn bà bận đồ đen.

    - Hương thơm của người đàn bà bận đồ đen! Tôi nghe anh nói hoài à! Anh có chịu cắt nghĩa cho tôi hiểu lại sao cái hương thơm này nó theo anh kỹ thế không?

    - Có thể, một ngày kia. Một ngày kia, có thể.. Rouletabille đáp lừng khừng. Và anh buông một tiếng thở dài áo não.

    HẾT.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...