Trinh Thám Bí Ẩn Trong Căn Phòng Vàng – Gaston Leroux - Hương Thu Dịch

Thảo luận trong 'Convert' bắt đầu bởi Huongthu2401, 11 Tháng mười 2021.

  1. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    [​IMG]

    Tác phẩm: The Mystery of the Yellow room (Bí ẩn căn phòng vàng)

    Tác giả: Gaston Leroux

    Dịch giả: Hương Thu

    Thể loại: Trinh thám

    Số chương: 29 chương

    Gaston Louis Alfred Leroux (1868-1927) là nhà báo, nhà văn trinh thám người Pháp. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Bóng ma trong nhà hát (Le Fantôme de l'Opéra, 1910), đã được chuyển thể thành phim và kịch cùng tên, nhất là bộ phim có ngôi sao Lon Chaney tham gia năm 1925. Tiểu thuyết "Bí mật Căn Phòng Vàng" của ông cũng được xếp vào những vụ án trong phòng kín nổi tiếng nhất mọi thời đại. Gaston Leroux sinh ra tại Pari năm 1868, đi học ở Normandy rồi tốt nghiệp ngành Luật cũng tại Paris năm 1889. Ông được thừa kế hàng triệu francs nhưng đã tiêu xài hết sức phung phí để rồi sau đó gần như khánh kiệt. Năm 1890, ông bắt đầu làm phóng viên tòa án và phê bình nghệ thuật cho tờ Tiếng vang (L'echo de Paris). Sự nghiệp làm báo của ông thực sự trưởng thành khi làm việc cho tờ báo Le Matin, cũng ở Paris. Ông có mặt và đưa tin về Cách mạng Nga năm 1905.

    Truyện ngắn trinh thám đầu tiên của Poe 'The Murders in the Rue Morgue' (1841) đã bắt đầu xuất hiện chủ đề mật thất. Nhưng mãi đến tận năm 1892 mới bắt đầu được viết tiếp theo chủ đề này. Truyện trinh thám "bí mật căn phòng vàng" nội dung xoay quanh giáo sư Stangerson sống cùng cô con gái tại một biệt tự hẻo lánh nơi đồng quê. Buổi tối một hôm, tiểu thư Stangerson khi về phòng riêng (Căn Phòng Vàng) cảm thấy bất an nên đã cẩn thận chốt hết các cửa. Nhưng đến buổi đêm mọi người trong nhà đều bị đánh thức bởi tiếng la hét thất thanh của nàng. Sau khi ông giáo sư và ba người giúp việc đã phá được cửa phòng và xông vào. Trước mặt họ đồ đạc trong phòng ngổn ngang, tiểu thư thì nằm bất tỉnh với vết thương nặng ở thái dương. Nhưng ngoài một dấu tay đẫm máu trên tường tuyệt nhiên không có dấu viết của hung thủ. Cứ như hắn đã tự bốc hơi vậy.

    Vụ án đã thu hút được anh nhà báo kiêm thám tử nghiệp dư Joseph Rouletabille và luật sư Jean Sainclair là bạn thân của anh, đến thăm tòa biệt thự nhà Stangerson. Tại đó Rouletabille đã đụng độ và đọ tài phá án với viên thám tử nổi tiếng Frederic Larsan. Thật may mắn là cô Stangerson đã tỉnh lại và được mọi người hết lòng bảo vệ nhưng tên sát nhân vẫn chưa chịu buông tha cô..

    Vụ này gay cấn nhất ở những đoạn Rouletabille giăng bẫy, đuổi bắt tên sát nhân. Nhưng kì lạ rằng cứ khi nào gần bắt được hung thủ thì hắn ta lại biến mất không dấu vết. Cùng theo bước chân tác giả, vén bức màn bí ẩn của tên hung thủ trong "Bí ẩn căn phòng vàng"​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chương 1: Từ nơi mà chúng ta không hiểu

    Không phải là tôi không có một cảm xúc nhất định nào khi bắt đầu kể lại những câu chuyện phiêu lưu kỳ dị của Joseph Rouletabille. Tới tận lúc này, anh vẫn kiên quyết chống đối việc kể lại này, đến mức tôi đâm chán nản, chắc không bao giờ có dịp công bố rộng rãi câu chuyện trinh thám ly kỳ nhất trong vòng mười lăm năm trở lại đây. Tôi thậm chí đã mường tượng ra rằng công chúng chẳng bao giờ được biết "tất cả sự thật" về trường hợp vụ án kì dị nổi tiếng mang tên "Căn Phòng Vàng", tâm điểm phát sinh bao nhiêu màn kịch bi thảm, bí ẩn, tàn bạo, gây chấn động bốn phương dư luận mà anh bạn tôi có liên quan mật thiết, nếu, nhân dịp nhà bác học trứ danh Stangerson được ân thưởng Đệ Nhất Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh, một nhật báo buổi chiều - không cho đăng một bài chẳng hiểu vì ngu dốt hay cố ý chơi khăm - đã hồi sinh câu chuyện phiêu lưu mà Joseph Rouletabille thầm mong, theo lời anh tâm sự với tôi thì nó đã chìm vào quên lãng.

    "Căn phòng vàng"! Ai quên được vụ án từng làm tốn bao nhiêu giấy mực mười lăm năm về trước? Những sự kiện xảy đến ở Paris, người ta chả mấy chốc mà quên lãng. Họ chẳng đã quên đến cả cái tên vụ Nayves và câu chuyện tầm thường về cái chết của em bé Menaldo đấy ư? Hồi đó, quần chúng đang chú tâm theo dõi cuộc tranh biện trước tòa, hâm mộ đến nỗi một vụ khủng hoảng nội các nổ ra cùng lúc, nhưng người dân chẳng ai thèm biết đến. Vậy mà giờ đây vụ "Căn Phòng Vàng" xảy ra trước vụ Nayves vài năm còn gây tiếng vang dữ dội hơn. Cả thế giới xôn xao về bài toán đen tối – theo chỗ tôi biết, nó đen tối nhất trong số những bài toán đen tối đặt ra cho óc tinh tế của Cảnh Sát và cho lương tâm các vị thẩm phán của chúng ta. Lời giải đáp cho bài toán này, người người đều tìm kiếm. Làm như nó là một câu đố chữ đượm màu bi đát mà cả Châu Âu cằn cỗi lẫn Châu Mỹ trẻ trung cùng lăn xả vào cố tìm cách giải quyết. Đó là vì sự thật, tôi xin phép được nói ra bởi trong tất cả câu chuyện này không hề có vấn đề tự ái tác giả. Tôi chỉ làm cái việc ghi chép lại những sự kiện mà nhờ một mớ tài liệu khảo chứng, tôi có thể soi tỏ nó dưới một ánh sáng mới, đó là vì sự thật. Tôi không biết trên lãnh vực hiện thực hay tưởng tượng, kể cả nơi tác giả "Hai Vụ Mưu Sát Đường Nhà Xác", kể cả trong những phát minh của các ngài môn đệ Edgar Poe và Conan Doyle, người ta có nêu ra được một cái gì so sánh nổi với cái bí ẩn tự nhiên của "Căn Phòng Vàng".

    Cái mà không ai tìm ra được thì Joseph Rouletabille non choẹt, mới chỉ mười tám tuổi, làm phóng viên cho một tờ báo lớn, đã tìm thấy. Nhưng khi anh mang chìa khóa vụ án đến Tòa Sơ Thẩm Đại Hình, anh đã không nói hết sự thật. Anh cho phép bản thân nói ra những gì cần để giải thích điều không thể giải thích, và để minh oan cho một người vô tội. Những lý do khiến anh nín lặng bây giờ không còn nữa. Hơn thế, đã đến lúc cho anh bạn tôi nói hết tất cả. Cho nên bạn đọc cũng sắp được biết. Bỏ qua phần mở đầu lôi thôi, tôi sẽ đặt ngay trước mắt quí vị bài toán "Căn Phòng Vàng" đúng như nó đã hiện ra trước mắt toàn thế giới hôm sau đêm xảy ra tấn thảm kịch ở lâu đài Glandier.

    Vào ngày 25 tháng 10 năm 1892, ghi chú sau đây xuất hiện trong ấn bản mới nhất của tờ báo "Temps" :

    "Một tội ác đáng sợ vừa diễn ra ở lâu đài Glandier, nằm ở bìa rừng Sainte-Genevieve, phía trên Epinay- sur-Orge, trong tư dinh của giáo sư bác học Stangerson. Vào đêm qua, trong lúc giáo sư đang làm việc trong phòng thí nghiệm, có kẻ toan ám sát cô Stangerson, người đang nghỉ ngay trong một căn phòng liền bên phòng thí nghiệm. Các bác sĩ không dám chắc có thể cứu sống cô Stangerson."

    Có thể dễ dàng hình dung cảm xúc ấn tượng của Paris về tin tức này. Ngay lập tức, giới bác học đã tỏ ra cực kỳ quan tâm đến công trình của giáo sư Stangerson và con gái ông - những hoạt động đầu tiên - quy về điện tuyến, có khả năng dẫn ông bà Curie đến phát minh radium sau này. Hơn nữa, quần chúng đang nóng lòng đợi giáo sư Stangerson đọc tại Viện Hàn lâm Khoa Học một bản luận án nổi tiếng về lý thuyết mới của ông: Tính Phân Rã Của Vật Chất. Đây là lý thuyết gây rung động từ căn bản cả một khoa học; chính thức xây dựng từ lâu trên nguyên tắc: Không có gì tự tiêu, không có gì tự tạo. Ngày hôm sau, các báo chí tràn ngập tin tức về thảm kịch này. Tờ "Matin", tương tự như những tờ khác, giật tít về "một tội ác phi thực tế" :

    "Đây là những chi tiết độc nhất" – ký giả ẩn danh của tờ "Matin" viết – "mà chúng tôi có thể thu lượm liên quan đến tội ác vừa diễn ra ở lâu đài Glandier. Giáo sư Stangerson đang chìm sâu vào tình trạng tuyệt vọng cùng với việc nạn nhân không hé môi cung cấp manh mối gì khiến cho việc điều tra của chúng tôi và những người thực thi công lý bị cản trở không ít. Hiện tại, chúng tôi không thể hình thành bất cứ ý tưởng nào, dù là nhỏ nhất về những gì đã diễn qua trong căn phòng vàng, trong đó cô Stangerson, mặc trên mình bộ váy ngủ, được tìm thấy nằm trên sàn trong sự đau đớn của cái chết. Ít ra, chúng tôi đã có thể phỏng vấn bố Jacques – như cách người trong vùng thường gọi ông – một người giúp việc có tuổi của gia đình Stangerson. Bố Jacques là người đã bước vào" Căn Phòng Vàng "cùng lúc với ông giáo sư. Phòng này ở sát vách phòng thí nghiệm. Phòng thí nghiệm cùng" Căn Phòng Vàng "ở trong một ngôi biệt thất cuối hoa viên cách lâu đài khoảng ba trăm mét (1000 feet).

    Người đàn ông thành thật nói với chúng tôi" Lúc ấy là khoảng 12 rưỡi đêm, và tôi đang trong phòng thí nghiệm, nơi ngài Stangerson đang làm việc, khi sự việc ấy xảy ra. Tôi tôi bận lau chùi xếp dọn các dụng cụ và chỉ chờ giáo sư rời phòng là tôi cũng đi ngủ. Cô Mathilde cùng làm việc với cha đến nửa đêm. Cô đứng dậy khi nghe chuông đồng hồ cúc cu vừa gõ dứt mười hai tiếng, ôm hôn ông Stangerson, chúc cha một đêm an lành. Cô cũng chào tôi một câu: "Chúc bố Jacques ngủ ngon", rồi đẩy cửa vào "Căn Phòng Vàng". Chúng tôi nghe cô khóa trái cửa và cài luôn cả chốt phía trong, tôi không khỏi bật cười với giáo sư: Gớm, cô chủ cẩn thận quá trời, khóa tới hai lần cửa. Chắc cô sợ "Con vật của Chúa", hẳn ông giáo sư đang chăm chú làm việc nên không nghe tôi nói. Nhưng một tiếng meo ghê rợn tru lên bên ngoài trả lời tôi. Tôi nhận ra tiếng kêu của "Con vật của Chúa", nó làm tôi lạnh cả người. "Đêm nay, nó lại không cho mình ngủ chăng?" Tôi nghĩ vậy và cần thưa để ông rõ, cho đến cuối tháng mười, tôi vẫn ở căn gác mái của biệt thất, ngay trên "Căn Phòng Vàng" chỉ cốt để cô chủ tôi khỏi thui thủi một mình suốt đêm tận cuối vườn. Chính cô chủ tôi thích ở biệt thất trong mùa đẹp trời này, chắc là cô thấy ở đó khoan khoái hơn bên lâu đài, và từ khi nó được xây cất bốn năm nay, bao giờ cô cũng đến ở ngay từ đầu xuân. Khi mùa đông tới, cô lại trở về lâu đài, bởi trong "Căn Phòng Vàng" không có lò sưởi.

    "Và vì lẽ đó nên chúng tôi – Giáo sư Stangerson và tôi – ở lại trong biệt thất. Giáo sư ngồi trên bàn làm việc, còn tôi ngồi trên ghế, hoàn thành công việc của mình, đôi mắt nhìn giáo sư đầy ngưỡng mộ và tự nhủ với bản thân" Người đàn ông kia thật thông thái, uyên bác ". Không gian lặng như tờ. Tôi cho cái việc mình không gây tiếng động là quan trọng, vì có thể đó là lý do mà tên sát nhân tưởng chúng tôi đi khỏi rồi. Nhưng thình lình, khi chiếc đồng hồ cúc cu vừa đánh chuông mười hai giờ rưỡi thì một tiếng kêu tuyệt vọng phát ra từ" Căn Phòng Vàng ". Đó là tiếng cô chủ tôi la hét:" Giết người! Giết người! Cứu tôi với! "Ngay lập tức sau đó là tiếng súng ổ quay vang lên và có một tiếng động lớn của bàn và đồ đạc bị ném xuống đất, như thể đang diễn ra một cuộc vật lộn, và một lần nữa giọng nói của cô chủ vang lên," Giết người! -Cứu với! -Cha! -Cha! "

    Ông có thể chắc chắn rằng tôi và ông chủ đã nhanh chóng chạy lên. Chúng tôi đã lao đến cánh cửa. Nhưng than ôi! Nó đã được khóa, khóa chắc, từ bên trong, bởi sự cẩn thận của cô chủ, như tôi đã nói với ông từ trước, vừa khóa trái vừa cài chốt. Chúng tôi đã cố làm cửa mở, nhưng nó vững quá. Ông Stangerson như người phát điên, và cũng là dễ hiểu trong hoàn cảnh ấy, vì tôi nghe cô chủ vẫn đang gào thét:" Cứu tôi! - Cứu tôi! ". Trong lúc ấy, ông Stangerson đang vung nắm đấm vào cửa đến phát khóc vì phẫn nộ và tuyệt vọng.

    " Lúc ấy, tôi chợt nảy ra một ý nghĩ "Chắc thủ phạm đã nhảy vào qua đường cửa sổ – tôi kêu lớn -" Tôi sẽ kiểm tra chỗ cửa sổ! "Và tôi lao ra khỏi biệt thất, cắm đầu chạy.

    Tuy nhiên chiếc cửa sổ của" Căn Phòng Vàng "lại nhìn ra phía bức tường hoa viên, thứ xây khít với biệt thất, nên đã cản tôi ngay lập tức tiếp cận cửa sổ ấy. Muốn đến đó phải ra khỏi hoa viên đã. Tôi chạy về phía cổng sắt và trên đường đi đã gặp Bernier, anh gác cổng cùng với vợ anh ta. Họ đã bị thu hút bởi nghe tiếng la thét của chúng tôi và tiếng súng nổ. Bằng một vài lời, tôi nói cho họ hiểu tình hình nguy hiểm lúc đó và chỉ đạo họ ngay lập tức. Tôi giục anh gác cổng đến giúp đỡ ông Stangerson và kéo vợ anh chạy theo tôi đi mở cổng sắt vườn hoa. Năm phút sau, chị gác cổng và tôi đã ở trước khung cửa sổ" Căn Phòng Vàng ".

    Nhờ có ánh trăng sáng, tôi thấy ngay là không ai đụng tới cái cửa sổ. Không những các chấn song còn nguyên vẹn, mà những tấm rèm đằng sau chấn song cũng đóng kín như chính tay tôi đã kéo vào vào mọi tối, mặc dù cô chủ, biết rằng tôi đã quá mệt mỏi vì công việc nặng nhọc hằng ngày, đã cầu xin tôi đừng tự làm khó mình, hãy để cô ấy làm việc đó; và chúng giống y như lúc tôi đã để lại chúng, được buộc chặt bằng một cái chốt sắt ở bên trong. Do đó, tên sát thủ không thể đi vào hoặc ra theo cách đó; nhưng tôi không thể vào được. Vậy thì tên sát nhân đã không vào lối này, cũng không thoát qua lối này. Tôi cũng không vào được bằng lối này.

    " Thật là xui xẻo! Có thể điên cái đầu như chơi! "Cửa lớn căn phòng thì khóa trái từ bên trong, khung cửa sổ độc nhất cùng hai chiếc rèm cũng đóng chặt. Và cô chủ thì vẫn đang kêu cứu! Không, cô ấy đã ngừng kêu. Có lẽ cô chết rồi. Nhưng tôi còn nghe, từ cuối biệt thất, ông chủ tôi đang cố rung cánh cửa ra vào."

    "Tôi cùng chị gác cổng lại lao về biệt thất. Cánh cửa lớn vẫn trơ trơ mặc những nỗ lực hung dữ của ông Stangerson và anh Bemier. Cuối cùng rồi nó cũng phải bật tung dưới nỗ lực điên cuồng của chúng tôi, và chúng tôi thấy gì?

    " Tôi nên nói với ông rằng, đằng sau chúng tôi, người gác cổng cầm đèn phòng thí nghiệm - một ngọn đèn mạnh mẽ, thắp sáng cả căn phòng. "Cũng phải nói thêm với ông nữa, là" Căn Phòng Vàng "nhỏ xíu thôi. Cô chủ tôi cho kê một giường sắt khá rộng, một cái bàn nhỏ, một cái tủ com môt (nguyên tác: A night-commode), một bàn trang điểm và hai ghế dựa. Bởi vậy, dưới ánh sáng ngọn đèn lớn trên tay chị gác cổng, chúng tôi đã thấy hết chỉ bằng một lần đưa mắt. Cô chủ tôi mặc áo ngủ nằm trên sàn nhà giữa một mớ hỗn độn. Bàn ghế bị lật đổ như bằng chứng đã có một cuộc vật lộn hung bạo ở đây. Chắc chắn, cô chủ tôi bị lôi khỏi giường ngủ, người bê bết máu, nhiều vết móng tay khủng khiếp ở cổ – thịt cổ có chỗ bị móng tay cào hầu như bị lóc hẳn ra. Từ một lỗ thủng ở thái dương bên phải, một dòng máu chảy tạo thành vũng trên sàn nhà. Khi thấy con gái ở trong tình trạng thê thảm như vậy, ông Stangerson đã quỳ xuống bên cạnh con gái, đồng thời thét lên một tiếng tuyệt vọng. Ông ấy dường như chắc chắn rằng cô chủ vẫn còn thở. Còn chúng tôi, chúng tôi tìm kiếm tên khốn khiếp đã toan giết cô chủ của mình. Tôi thề với ông, thưa ông, nếu tôi tìm thấy hắn, chúng tôi quyết bắt hắn phải đền tội!

    " Nhưng hắn không có đó, hắn trốn mất rồi, làm sao giải thích? Sự kiện vượt quá mọi óc tưởng tượng - Không có ai dưới gầm giường, không có ai nấp sau đống bàn ghế đổ. Chúng tôi chỉ thấy dấu vết hắn để lại: Một bàn tay máu in trên tường, bàn tày to bản của đàn ông, và trên ngưỡng cửa, một khăn tay lớn máu nhuộm đỏ không mang chữ đầu tên người sở hữu, một mũ nồi cũ và nhiều dấu chân đàn ông mới in trên sàn nhà. Bàn chân người đàn ông bước đi ở đây thật là to và những đế giày đùn lại sau một chất gì đen đen như bồ hóng. Người này vào lối nào? Ra lối nào? Xin ông chớ quên là trong "Căn Phòng Vàng" không có lò sưởi. Hắn không có thể thoát ra bằng cửa ra vào rất hẹp mà còn có chị gác cổng đứng chắn giữa với cây đèn trên tay, trong khi chồng chị và tôi tìm hắn trong cái ô vuông nhỏ xíu làm phòng ngủ ấy, nơi hắn không có cách chi ẩn trốn nổi, và chúng tôi cũng chẳng tìm thấy ai. Cánh cửa lớn bị phá tung đổ ập vào tường không thể che giấu gì được, thế mà chúng tôi cũng cứ dòm vào cho chắc ăn. Còn khung cửa sổ với hai cánh vẫn đóng kín, các chấn song nguyên vẹn, không thể có vụ chạy trốn nào qua đây được. Thế thì? Thế thì.. "Tôi bắt đầu tin có ma quỷ."

    "Nhưng chúng tôi bỗng phát giác khẩu súng lục của tôi nằm dưới sàn! – Vâng, chính là khẩu súng của tôi. Cái này đưa tôi trở về thực tại! Ma quỷ thì cần gì ăn cắp khẩu súng của tôi để giết cô chủ? Tên sát nhân trước khi vào đây đã leo lên gác nóc buồng tôi, lấy trộm khẩu súng tôi đã cất trong ngăn kéo để thi hành thủ đoạn. Chúng tôi xác minh lại, bằng cách kiểm tra ổ đạn và nhận thấy tên sát nhân đã bắn hai phát. À, thật may cho tôi là trong một tai họa như vầy, ông Stangerson có mặt ở đây, trong phòng thí nghiệm của ông khi tội ác diễn ra, và chính mắt ông đã thấy tôi cũng ở đó với ông, vì nếu không thế thì với khẩu súng tìm được ở hiện trường, không biết bây giờ tôi đang nơi đâu nữa, chắc cú là tôi đang bị tống giam. Công lý sẽ chẳng cần gì hơn để đưa một kẻ lên đoạn đầu đài."

    Ký giả báo Matin viết thêm mấy dòng sau đây tiếp theo bài phỏng vấn: "Chúng tôi, không hề ngắt lời lấy một lần, đã để cho bố Jacques kể lại vụng về những gì bố biết về vụ" Căn Phòng Vàng ".. Chúng tôi ghi lại nguyên văn cả những từ bố đã dùng. Chúng tôi chỉ không làm phiền độc giả với những lời rên rỉ ỉ ôi bố hay thêm thắt vào giữa chuyện. Hiểu rồi, bố Jacques – Chúng tôi hiểu rồi, bố yêu mến những người chủ của bố. Bố cần cho người khác biết điều đó, và bố đã không ngớt nhắc đi nhắc lại điều đó, nhất là từ lúc phát giác khẩu súng lục. Đó là quyền của bố, chúng tôi không thấy gì trở ngại. Chúng tôi vừa định đặt vài câu hỏi với bố Jacques – Jacques Louis Moustier – thì có người đến gọi bố đi trình diện.

    Ông Dự Thẩm đang mở cuộc điều tra trong căn phòng lớn của lâu đài. Vào hẳn Glandier thì chúng tôi đã không được phép, còn khu vườn sồi thì bị một số cảnh binh coi chừng trong một chu vi rất rộng; các ông này canh gác nghiêm ngặt mọi dấu vết có thể dẫn đến biệt thất và có khi dẫn cả đến thủ phạm tội ác đã gây nên. Chúng tôi cũng muốn hỏi dò vợ chồng anh gác cổng, nhưng chẳng ai thấy họ ở đâu. Cuối cùng, chúng tôi vào một quán ăn không xa cổng sắt tòa lâu đài bao nhiêu và ngồi đó chờ ông De Marquet - Dự thẩm ở Corbei. Đến năm giờ rưỡi, chúng tôi thấy ông đi ra với viên lục sự. Trước khi ông bước lên xe, chúng tôi đã kịp hỏi được một câu:

    " Thưa ông De Marquet, ông có thể cho chúng tôi tin tức gì về vụ này mà không gây trở ngại cho cuộc thẩm cứu không? "

    " Rất tiếc, chúng tôi không thể tuyên bố bất cứ điều gì. Vả chăng, đây là vụ án quái gở nhất từ trước đến nay. Càng tưởng mình biết được cái gì thì lại càng thấy mình chẳng biết gì cả! "

    " Chúng tôi xin ông De Marquet giải nghĩa mấy lời sau chót cho chúng tôi hiểu. Và dưới đây là những lời ông nói với chúng tôi, - tầm quan trọng của nó không ai mà không nhận ra "Nếu không tìm được thêm gì nữa sau những kiểm nghiệm vật chất do quyền Công Tố thực hiện ngày hôm nay, quả thực tôi e rằng bí ẩn bao trùm vụ toan sát hại cô Stangerson khó lòng được làm sáng tỏ. Nhưng vẫn phải hy vọng, vì lợi ích của con người, rằng việc dò tìm ở các bức tường, trần nhà và sàn gỗ của" Căn Phòng Vàng "mà ngay ngày mai tôi sẽ giao phó cho nhà thầu khoán, người đã xây căn biệt thất bốn năm về trước, sẽ mang lại cho chúng ta bằng chứng. Không bao giờ nên tuyệt vọng về phương pháp luận lý các sự việc. Bởi vì bài toán nó thế này: Chúng ta biết kẻ sát nhân đã vào bằng lối nào – y vào bằng cửa lớn và ẩn dưới gầm giường đợi cô Stangerson – nhưng y ra bằng lối nào? Làm sao y trốn thoát? Nếu tìm kỹ mà thấy không có hầm sập, không cửa bí mật, không một xó nhà bỏ hoang, không lỗ hổng bất luận cỡ nào, nếu việc kiểm tra các bức tường và cả việc phá hủy chúng đi – vì tôi quyết định cũng như ông Stangerson đã quyết đinh đi hẳn tới việc phá hủy cả tòa lâu đài – mà vẫn không khám phá ra một lối thông nào có thể qua lại," Không những một người nhưng còn bất cứ một loại sinh vật nào khác nữa ", nếu trên trần nhà không có lỗ, dưới sàn nhà không có hầm, thì thôi, chỉ còn cách tin là có ma quỷ, như bố Jacques nói!"

    Rồi ký giả ẩn danh của tờ báo nêu nhận xét trong bài này – bài mà tôi chọn là bài đáng quan tâm nhất trong số những bài đăng trên các báo ngày hôm ấy về cùng một vụ án – rằng dường như ông Dự thẩm có đặt một chủ ý nào đó trong câu chót: "Chỉ còn cách tin là có ma quỷ, như bố Jacques nói".

    Bài báo kết thúc như sau: "Chúng tôi muốn biết bố Jacques hiểu như thế nào về câu: Tiếng kêu của" Con vật của Chúa ". Câu này, người chủ quán Vọng Lâu đã giải thích là câu người vùng ấy dùng để gọi tiếng gào đặc biệt man rợ do con mèo của một bà lão, mẹ" Agenoux ", biệt danh người ta gọi bà ở đây, thỉnh thoảng lại rú lên trong đêm tịch mịch. Mẹ" Agenoux "là một nữ thánh ở một túp lều tranh giữa rừng già, không xa" hang Thánh nữ Geneviève ".

    " Căn Phòng Vàng, Con vật của Chúa, mẹ Agenoux, quỷ sứ; nữ thánh Geneviève, bố Jacques ", như vậy đó. Một tội ác rối mù mà ngày mai biết đâu một nhát cuốc phá tường chẳng gỡ rối cho chúng ta. Ít nhất, hãy hy vọng thế, vì lợi ích của con người, như ông Dự thẩm nói. Trong khi chờ đợi, người ta tin rằng cô Stangerson không ngớt mê sảng và chỉ thốt ra một tiếng rên nghe rõ là" Sát nhân! Sát nhân! Sát nhân!.."sẽ không qua khỏi trong đêm nay.

    Sau cùng, vào giờ chót, cũng tờ báo ấy loan tin Giám Đốc Sở Cảnh Sát đã đánh điện cho thám tử lừng danh Frédéric Larsan, người được phái sang Luân Đôn lo một vụ trộm chứng khoán, trở về Paris ngay lập tức.
     
    Kimie SuzukiAmiLee thích bài này.
  2. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 2: Từ nơi mà Joseph Rouletabille xuất hiện lần đầu tiên

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi cũng nhớ như thể nó đã xảy ra ngày hôm qua, sự xuất hiện của cậu Rouletabille trẻ măng trong phòng ngủ của tôi sáng hôm đó. Lúc đó là khoảng tám giờ và tôi vẫn còn trên giường đọc bài báo trong tờ "Matin" liên quan đến tội ác ở Glandier.

    Nhưng, trước khi đi vào sâu hơn, tôi nghĩ rằng mình nên giới thiệu anh bạn của mình cho bạn đọc.

    Tôi lần đầu biết đến Joseph Rouletabille khi anh ấy đang là một phóng viên trẻ tuổi. Thời gian đó tôi mới bắt đầu chập chững bước vào nghề Luật sư và thường gặp Joseph trong hành lang các phòng dự thẩm, khi tôi đến xin giấy phép vào trại giam Mazas hoặc Sáint-Lazare. Anh ấy, như người ta nói, là một kẻ hâm tốt tính. Cái đầu anh ta – tròn xoay như viên đạn – bay ra từ ổ. Chính vì thế – tôi nghĩ – rằng các bạn đồng nghiệp báo chí của anh ta - tất cả những người chơi bi-a kiên định - đã đặt cho anh ta biệt danh đó, điều này gắn liền với anh ta và được anh ta làm cho nổi tiếng. Anh lúc nào cũng đỏ như trái cà chua, lúc là ẻo lả như chim sơn ca, lúc nghiêm túc như một thẩm phán. Làm thế nào, trong khi vẫn còn rất trẻ - anh ấy chỉ mới mười sáu tuổi rưỡi khi tôi nhìn thấy anh ấy lần đầu tiên - mà anh ấy đã giành được con đường của mình trong giới báo chí? Vào thời điểm vụ việc của người phụ nữ bị phân xác thành nhiều mảnh ở Rue Oberskampf - một câu chuyện bị lãng quên khác - anh ta đã cung cấp một vài thông tin cho những biên tập viên của "Epoque", - một tờ báo sau đó cạnh tranh với "Matin", - bên trái bàn chân, đã bị mất tích trong giỏ đựng hài cốt ghê rợn được phát hiện. Đối với bàn chân trái này, cảnh sát đã tìm kiếm một cách vô ích trong một tuần, và Rouletabille trẻ tuổi đã tìm thấy nó trong một cái cống nơi không ai nghĩ đến việc tìm kiếm nó. Để làm được điều đó, anh ta đã hóa trang thành một công nhân thoát nước bổ sung, một trong số những người tham gia xử lý sự cố tràn sông Seine dưới sự chỉ đạo của chính quyền thành phố Paris.

    "Khi Trưởng ban biên tập vớ được cái bàn chân quí báu và hiểu, do một chuỗi suy luận thông minh nào mà một đứa trẻ phát hiện được nó, ông bị chới với giữa niềm cảm phục đối với tính táo bạo trinh thám trong khối óc mười sáu tuổi mà nỗi hân hoan có thể trưng bày ở" tủ kính nhà xác "của tờ báo, cái" bàn chân trái của phố Oberkampi. "

    " Với bàn chân này – ông mừng rỡ reo lên – ta sẽ lên trang nhất! "Đoạn, khi đã giao gói đồ gớm ghiếc cho ông bác sĩ pháp y giúp việc ban biên tập tờ Epoque, ông hỏi con người sắp mang cái tên Rouletabille, xem anh muốn lãnh lương bao nhiêu nếu chịu sung vào ban" tin tức linh tinh "làm một anh phóng viên nhỏ.

    " Hai trăm franc một tháng, "chàng trai trẻ khiêm tốn trả lời, khó thở vì ngạc nhiên trước lời đề nghị này." Anh sẽ có hai trăm năm mươi, "tổng biên tập nói;" Chỉ có điều anh phải nói với mọi người rằng anh đã gia nhập Eopque trong một tháng. Hãy hiểu rõ rằng không phải anh mà là 'Epoque' đã phát hiện ra bàn chân trái của Rue Oberskampf. Đây, người bạn trẻ của tôi, con người chẳng là gì cả, Epoque là tất cả ".

    Nói đoạn, ông yêu cầu anh biên tập mới tuyển rút lui. Đến bục cửa, ông ngăn anh lại, hỏi tên gì. Anh chàng đáp:

    " Joseph Josephine. "

    " Trời ơi, nó còn chả phải một cái tên, "trưởng ban biên tập nói" nhưng vì anh chẳng phải ký gì bao giờ nên cái đó không quan trọng. "

    Ngay sau đó, anh biên tập mới kết bạn rất đông. Vì anh mau mắn giúp đỡ mọi người, tính tình lại hài hước, làm những kẻ quạu cọ nhất cũng phải yêu mến, những kẻ hay ganh ghét nhất phải hiền hòa. Ở quán cà phê Bar, nơi các phóng viên ban Tin tức linh tinh tụ họp nhau trước khi tới Viện Chưởng Lý hoặc Tòa Đô Sảnh lượm tin thường nhật, anh đã bắt đầu nổi tiếng lanh lợi, và tăm tiếng này không bao lâu lan vào tận văn phòng ông Giám đốc Công An. Mỗi khi nổ ra một vụ án lớn và Rouletabille – lúc này anh đã nghiễm nhiên mang biệt danh mới – được Trưởng ban biên tập của anh ném vào trận đánh, thì thường là anh" thắng nước rút "tất cả các nhà thám tử lừng danh nhất.

    Chính tại quán cà phê Bar, tôi đã trở nên thân thiết với anh. Luật sư hình sự và nhà báo không phải là kẻ thù, cái trước cần quảng cáo, cái sau cần thông tin. Chúng tôi trò chuyện cùng nhau, và tôi nhanh chóng cảm thấy gần gũi với anh ấy. Trí thông minh của anh ấy rất nhạy bén, và rất nguyên bản! - và anh ấy có một phẩm chất suy nghĩ mà tôi chưa từng tìm thấy ở bất kỳ người nào khác.

    Một thời gian sau đó, tôi được giao phụ trách tin tức pháp luật của" Đại lộ Cri du. "Việc gia nhập báo chí của tôi không thể không củng cố mối quan hệ gắn kết tôi với Rouletabille. Sau cùng, người bạn mới của tôi được phép tiến hành một chuyên mục thư từ tư pháp, mà anh ấy được phép ký tên là" Business ", trong" Eopque ", tôi thường có thể cung cấp cho anh ấy thông tin pháp lý mà anh ấy cần.

    Gần hai năm trôi qua như vậy, càng hiểu anh tôi càng yêu mến anh hơn, vì dưới cái vỏ ngoài tươi tỉnh ồn ào, tôi đã khám phá ở anh một con người cực kỳ nghiêm túc so với cái tuổi còn non choẹt. Thế rồi, đã quen nhìn thấy anh rất vui, và thường là quá vui, nhiều lần tôi bỗng bắt gặp anh thẫn thờ trong một nỗi buồn sâu kín. Tôi muốn hỏi anh về nguyên nhân sự biến đổi tâm tính này, nhưng lần nào anh cũng chỉ bật cười chứ không trả lời. Một hôm, tôi vừa chớm hỏi thăm về song thân anh, một vấn đề không bao giờ anh đả động tới, thì anh đột ngột bỏ đi, làm như không nghe tôi nói.

    Đúng lúc ấy nổ ra vụ án trứ danh" Căn Phòng Vàng ", vụ án không những xếp anh vào hàng phóng viên số một nhưng còn đưa anh lên địa vị thám tử lừng danh số một của hoàn vũ, hai tài năng số một mà người ta không ngạc nhiên khi nhận thấy ở một người, vì thời ấy giới báo ngày đã bắt đầu thay hình đổi dạng để biến thành cái hình dạng gần giống như ngày nay: Tờ nhật trình tội ác. Có những đầu óc bi quan có thể kêu ca, nhưng tôi lại cho rằng đó là việc đáng hoan nghênh. Người ta không bao giờ có đủ vũ khí, dù công hay tư; để chống lại kẻ gieo tội ác. Các ông bi quan thì cãi rằng cứ nói hoài tới tội ác, báo chí sẽ đi đến chỗ giúp tiêm cảm hứng cho kẻ làm ác. Nhưng, người cũng có năm bảy hạng đúng không quý vị? Với những hạng mà không bao giờ ai cãi lý nổi.

    Những người có đầu óc bi quan có thể phàn nàn về điều này; đối với bản thân tôi, tôi coi đó là một vấn đề để chúc mừng. Chúng ta không bao giờ có thể có quá nhiều vũ khí, công cộng hay tư nhân, chống lại tội phạm. Về điều này, một số người có thể trả lời rằng, bằng cách liên tục công bố các chi tiết về tội ác, báo chí có thể gián tiếp khuyến khích hành vi phạm pháp.

    Rouletabille, như tôi đã nói, bước vào phòng tôi vào sáng ngày 26 tháng 10 năm 1892. Mặt ấy trông đỏ hơn bình thường, và mắt anh ấy như lồi ra khỏi đầu, và hoàn toàn có vẻ như anh ấy đang ở trong tình trạng trạng thái hưng phấn tột độ. Anh ấy run rẩy vẫy" Matin "và kêu lên rằng:

    " Ê này, ông Sainclair thân mến, Ông đọc chưa, "Án mạng ở Glandier? Phải," Căn Phòng Vàng ". Ông nghĩ sao?"

    "Ôi cha, tôi nghĩ đó là" ma quỷ "hoặc" Con vật của Chúa "đã gây tội ác!"

    "Nghiêm túc đi!"

    "Ờm, tôi không tin cái chuyện bọn sát nhân đào tẩu bằng lối xuyên qua tường. Theo tôi, bố Jacques đã phạm sai lầm khi bỏ lại vũ khí phạm tội, và vì bố ở ngay tầng trên phòng cô Stangerson, hôm nay dự thẩm cho phá hủy các kiến trúc ở đó, màn bí mật sẽ bị khui ra, chẳng phải chờ lâu, chúng ta sắp sửa biết do một hầm đất tự nhiên hay một cửa giao thông hiểm hóc nào mà lão đã chui qua để rồi trở lại ngay phòng thí nghiệm ngồi bên ông Stangerson mà ông này chẳng hề hay biết. Còn gì nữa nhỉ! Đây là một giả thuyết!"

    Rouletabille ngồi vào ghế bành, mồi chiếc tẩu thuốc bất ly thân, im lặng hút một lúc, chừng đủ thì giờ trấn áp sự phấn khích rõ ràng đang hoành hành trong người, đoạn anh lên tiếng:

    "Này chàng trai!" – Tôi không muốn nêu ra cái ý mỉa mai xỏ lá của anh – "Hỡi chàng trai trẻ – Anh là luật sư, tôi không dám nghi ngờ tài năng của anh có thể cãi trắng án cho những tên tội phạm, nhưng nếu một ngày kia anh mà làm dự thẩm thì anh sẽ ném những kẻ vô can vào nhà tù dễ dàng biết chừng nào. Quả thật anh là một thiên tài."

    Anh rít mạnh tẩu thuốc rồi nói tiếp:

    "Sẽ chẳng có hầm hố gì hết, và bí mật" Căn Phòng Vàng "càng thêm kì bí. Sở dĩ tôi chú ý đến nó là tại cái điểm đó. Ông Dự thẩm nói đúng chưa bao giờ có vụ nào quái dị như vụ này."

    "Anh có ý kiến gì về con đường kẻ sát nhân đã dùng để chạy trốn không?"

    "Không, lúc này tôi chả có ý kiến gì, nhưng về khẩu súng thì ý kiến đã có sẵn, chẳng hạn, Không phải tên sát nhân đã sử dụng khẩu súng này."

    "Vậy thì là ai?"

    "Thì còn ai vào đấy!" Cô Stangerson "chứ còn ai".

    "Tôi chả hiểu gì cả".

    Rouletabille nhún vai:

    "Anh không thấy gì đặc biệt trong bài báo của tờ" Matin "ư?

    " Chả gì cả - toàn bộ câu chuyện đề rất kì lạ. "

    " Ừm, nhưng còn cửa ra vào bị khóa từ bên trong thì sao? "

    " Đấy là điều duy nhất của câu chuyện có vẻ tự nhiên. "

    " Thật ư? Còn cái chốt cửa thì sao? "

    " Cái chốt? "

    " Cái chốt – cũng được cài từ bên trong. Cô Stangerson đề phòng cẩn mật đến mức đó. Theo tôi, cô Stangerson biết rõ có kẻ đáng cho cô sợ hãi ", cô đã bố trí phòng thân." Cô lấy trộm cả khẩu súng lục của bố Jacques ". Chắc hẳn cô không muốn làm người khác kinh sợ vì mình." Nhưng cái điều cô Stangerson khiếp hãi đã xảy ra. Cô đã chống cự; đã có vật lộn, và cô đã sử dụng khẩu súng lục để gây thương tích cho hung thủ ở bàn tay – điều này giải thích vết một bàn tay lớn đàn ông đẫm máu in trên tường và cánh cửa, tay một người mò mẫm tìm đường tẩu thoát. Nhưng cô đã bắn không đủ nhanh để tránh một cú ghê gớm đánh vào thái dương bên phải. "

    " Thế thì vết thương ở thái dương cô Stangerson không do khẩu súng gây nên? "

    " Tờ báo không nói vậy, mà tôi, tôi cũng không nghĩ vậy, bởi vì theo logic mà nói thì tôi thấy rằng khẩu, súng được cô Stangerson dùng để chống lại tên sát nhân. Và bây giờ, vũ khí của tên sát nhân là cái gì? Vết thương ở thái dương có vẻ chứng tỏ ý muốn đập chết cô sau khi bóp cổ không được. Hung thủ chắc phải biết căn gác nóc tầng trên có bố Jacques ở, và đó là một trong những lý do tôi nghĩ rằng y đã định tiến hành thủ đoạn bằng một thứ "vũ khí im lặng", một khúc gậy ngắn chẳng hạn, hoặc cái búa. "

    " Tất cả lý luận ấy không giải thích được hung thủ đã ra thoát "Căn Phòng Vàng" bằng lối nào? – Tôi nhận xét

    "Hiển nhiên" - Rouletabille trả lời và đứng dậy – "Vì phải giải thích điều đó nên tôi đi Glandier đây và tôi muốn anh đi cùng."

    "Tôi?"

    "Phải, ông bạn thân mến, tôi cần có ông. Tờ" Epoque "đã giao hẳn cho tôi vụ này, và tôi phải lôi nó ra ánh sáng càng sớm càng tốt."

    "Nhưng tôi thì giúp được anh cái gì?"

    "Ông Robert Darzac có mặt ở lâu đài Giandier."

    "Ồ, đúng. Nỗi đau đớn tuyệt vọng của ông ta chắc là kinh khủng lắm!"

    "Tôi cần nói chuyện với ông ấy"

    Rouletabille nói câu này bằng một tông giọng khiến tôi cảm thấy kinh ngạc.

    "Có phải bởi vì - anh nghĩ rằng có điều gì đáng chú ý ở ông ta?" Tôi hỏi.

    "Phải."

    Rồi anh không muốn nói gì thêm. Anh qua phòng khách đợi tôi và giục tôi thay đồ lè lẹ.

    Tôi quen ông Robert Darzac nhân dịp giúp ông ta một việc quan trọng về tư pháp trong một vụ kiện dân sự, hồi tôi làm thư ký cho Luật sư Barbet Delatour. Ông Robert Darzac năm ấy trạc bốn mươi tuổi, là giảng viên vật lý Đại Học Sorbonne. Ông quan hệ rất thân với gia đình Stangerson, vì sau thời gian đeo đuổi chuyên cần bảy năm trời, cuối cùng ông đã tới mức sửa soạn thành hôn với cô Stangerson cũng đã đứng tuổi, nhưng vẫn còn rất ưa nhìn. Trong lúc thay áo, tôi hỏi vọng ra chỗ Rouletabille đang sốt ruột đợi tôi bên phòng khách:

    "Anh có ý nghĩ gì về địa vị tư cách của tên sát nhân không?"

    "Có" – anh bạn trẻ của tôi trả lời – "tôi nghĩ nếu không hẳn ở giới thượng lưu thì ít nhất y cũng thuộc một đẳng cấp xã hội khá cao. Đó mới chỉ là một ấn tượng ban đầu."

    "Vì sao anh có suy nghĩ ấy?"

    "Ừ thì, cái mũ nồi cáu bẩn, cái khăn tay hạng xoàng và những dấu chân mang loại giầy thô lỗ in trên sàn nhà." Anh ấy đáp

    "Tôi hiểu rồi! Những tên sát nhân sẽ không để lại những dấu vết sau hắn mà nói lên sự thật!"

    "Tốt lắm, ông có thể sẽ làm nên trò trống đấy, thưa ông Sainclair thân mến!" – Rouletabille kết luận
     
    AmiLee thích bài này.
  3. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 3: Kẻ Băng Qua Cửa Sổ Đóng Kín Như Một Bóng Ma

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nửa tiếng sau, Ronietabille và tôi đã ở sân ga Quéans đợi chuyến tàu đi Epinay-Sur-Orge. Ở đây, chúng tôi gặp Viên Công Tố hạt Corbeil đại diện bởi ông De Marquet, – nghỉ đêm ở Paris với nhân viên đăng kiểm – đã đến Scala dự buổi tổng diễn tập một vở kịch thời sự ngắn mà ông là tác giả giấu tên, chỉ ký đơn giản là "Castigat Ridendo".

    Ông De Marquet đã bắt đầu thành một ông "lão trưởng giả". Nói chung, ông ấy cực kỳ lịch thiệp và đầy khiếu hài hước, và trong suốt cuộc đời ông ấy chỉ có một niềm đam mê, - đó là nghệ thuật kịch. Trong suốt sự nghiệp thẩm phán của mình, ông chỉ thật sự quan tâm đến những vụ nào có khả năng cung cấp cho ông ít tư liệu để dựng một vở kịch. Mặc dù có điều kiện vươn tới địa vị cao trong ngành tư pháp, nhưng trên thực tế ông chỉ làm một việc cốt "đi tới" một Porte-Saint-Martin lãng mạn hoặc một Odéon trầm tư:

    Với sự bí ẩn bao trùm, trường hợp của "Căn phòng màu vàng" chắc chắn sẽ thu hút tâm hồn nghệ sĩ kia. Nó khiến ông ta vô cùng hứng thú, và ông lao vào nó, không phải với tư cách là một thẩm phán háo hức muốn biết sự thật, mà là một kẻ nghiệp dư của những màn giả mạo kịch tính, có xu hướng hoàn toàn bí ẩn và mưu mô, người không sợ hãi gì nhiều để đi tới kết quả mọi việc được giải thích.

    Vì vậy, tại thời điểm gặp ông ấy, tôi đã nghe thấy ông de Marquet nói với nhân viên đăng kiểm với một tiếng thở dài:

    "Miễn sao, ông Maleine thân mến, miễn sao cái anh thầu khoán kia với cuốc xẻng của hắn đừng phá mất của chúng ta một tấm màn bí mật đẹp như thế!"

    "Đồng ý" – ông Maleine trả lời – "cái cuốc của hắn chỉ phá mất ngôi biệt thất thôi, còn vụ án của chúng ta sẽ còn nguyên đó. Tôi đã nắn các bức tường, nghiên cứu trần nhà và sàn nhà, mà việc này tôi cũng rành lắm chớ bộ. Đừng ai hòng gạt tôi! Chúng ta có thể yên trí lớn. Chúng ta sẽ chẳng biết được gì đâu."

    Trấn an ông sếp mình xong, ông Maleine kín đáo hất hàm chỉ chúng tôi. Mặt ông De Marquet cau ngay lại và khi thấy Rouletabille đang tiến tới ngã mũ chào, ông vội vã nhảy lên một toa tàu đồng thời ghé tai nhân viên đăng kiểm nói khẽ:

    "Đừng dính líu tới tụi nhà báo!"

    Ông Maieine trả lời "Rõ" rồi chặn Rouletabille lại ý không muốn để anh leo lên toa có ông Dự thẩm.

    "Xin lỗi quý ông, toa này đã dành cho.."

    "Tôi là nhà báo, thưa ông, biên tập viên tờ Epoque – anh bạn tôi chào hỏi rất lễ phép, nói năng rất ngọt ngào và lịch sự – tôi chỉ xin có một lời thưa với ông De Marquet

    " Ông De Marquet đang quá bận rộn với cuộc điều tra. "

    " À! Cuộc điều tra của ông ấy chả ăn nhằm gì đến chúng tôi chút xíu nào, ông cứ tin đi, tôi không phải loại ký giả chuyên lượm tin chó cán xe – chàng tuổi trẻ Rouletabille trề môi dưới, ra cái điều khinh bỉ vô cùng hạng văn chương "tin vặt" – tôi là ký giả đặc trách thời sự kịch nghệ, và vì tối nay tôi có một phúc trình nho nhỏ về vở kịch ở Scala. "

    " Xin mời ông lên toa "– Nhân viên đăng kiểm nói.

    Rouletabille đã vào tới trong toa. Tôi đi theo anh. Tôi ngồi xuống bên anh. Ông lục sự lên toa và đóng cửa.

    Ông De Marquet nhìn nhân viên đăng kiểm.

    " À, thưa ngài, "Rouletabille bắt đầu," Ngài không được tức giận với ông Maleine. Tôi không muốn có vinh dự được nói chuyện với ngài de Marquet, mà là với ngài 'Castigat Ridendo'. Xin phép cho tôi ngỏ lời ngợi khen ông, với tư cách ký giả kịch trường của tờ Epoque. "Rồi Rouletabilie giới thiệu tôi trước, anh sau.

    Ông De Marquet ngần ngại vuốt chòm râu cằm tỉa nhọn. Bằng vài lời vắn tắt, ông bày tỏ cùng Rouletabille mình là một tác giả quá khiêm tốn không muốn tấm màn giấu tên bị lột trần trước công chúng. Ông thiết tha hy vọng rằng lòng ngưỡng mộ của nhà báo đối với tác phẩm kịch nghệ của ông sẽ không đi xa tới mức đem tiết lộ với nhân dân quần chúng" Castigat Ridendo "chẳng phải ai xa lạ mà chính là ông Dự thẩm ở Corbeil.

    " Tác phẩm của nhà soạn kịch có thể nguy hại cho sự nghiệp của người Thẩm phán, nhất là ở tỉnh nhỏ, người dân còn hơi hủ lậu. "

    " Ồ! Xin ông cứ yên tâm, tôi là người tuyệt kín đáo! "– Rouletabille giơ cả hai tay lên kêu Trời làm chứng!

    Đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh.

    " Chúng ta đi cả à! "– Ông Dự thẩm ngạc nhiên thấy chúng tôi vẫn ngồi trên toa.

    " Vâng, thưa ông, lẽ thật bắt đầu cất bước. "– anh phóng viên mim cười nhã nhặn –".. bước về lâu đài Glandier. Vụ án hay thật, thưa ông De Marquet, vụ án thật là hay lắm "

    " Một sự việc mơ hồ - khó tin, không thể giải thích được, và không thể giải thích được - và chỉ có một điều tôi sợ, Monsieur Rouletabille, - đó là các nhà báo sẽ cố gắng tìm cách giải thích nó "

    Bạn tôi cảm thấy đây là một lời trách móc nhẹ.

    " Thưa vâng "anh ấy đáp" ngại thật đấy. Họ xen vào đủ mọi chuyện. Phần tôi, tôi có điều phải nói với ông, vì sự tình cờ, thưa ông Dự thẩm, sự tình cờ thuần túy đã đẩy tôi vào đường đi của ông, và hầu như vào hẳn toa tàu của ông "

    " Thế các ông đi đâu? "Ông De Marquet hỏi.

    " Đi lâu đài Glandier "– Rouietabilie đáp tỉnh bơ.

    " Các ông không được phép bước vào đó đâu, ông Rouletabille! "

    " Ông sẽ cản tôi ư? "– Bạn tôi sẵn sàng nghênh chiến.

    " Ấy không! Tôi quá quý mến báo chí và các ký giả, không muốn khó dễ với ai bất cứ việc gì, nhưng ông Stangerson đã ra lệnh cấm cửa tất cả mọi người, và cái cửa ấy hiện được canh gác rất ngặt. Hôm qua, không một phóng viên nào vượt nổi cổng sắt lâu đài Glandier. "

    " Càng hay "– Rouletabille hớn hở –" tôi vượt qua được. "

    Ông De Marquet mím môi, có vẻ sẵn sàng thu mình trong cái vỏ sò lỳ lợm. Ông chỉ hơi dịu nét mặt khi Rouletabille vội vàng cho ông hay chúng tôi đến Glandier để bắt tay" một người bạn cố tri rất thân "– theo lời anh khi nói đến ông Robert Darzac, người có lẽ anh mới gặp có một lần.

    " Tội nghiệp cái anh Robert! "- Người phóng viên trẻ tuổi nói tiếp –" Tội nghiệp Robert! Anh ta dám chết vì đau đớn lắm! Anh ta yêu cô Stangerson không thể tả. "

    " Đúng đấy, Ông Robert Darzac thảm thiết đến nỗi ai trông cũng phải xót xa. "– Ông De Marquet dường như hối tiếc vừa buột miệng thốt ra câu này.

    " Nhưng phải hy vọng cô Stangerson sẽ được cứu sống! "

    " Chúng ta cứ hy vọng, cha cô nói với tôi hôm qua rằng nếu cô có mệnh hệ nào, ông cũng theo cô xuống mồ gấp. Khoa học sẽ bị mất mát lớn mất. "

    " Vết thương ở thái dương nặng lắm phải không? "

    " Hiển nhiên, nhưng nó không gây chết người, ấy mới là cái may kỳ quặc. Cú đánh giáng xuống rất mạnh. "

    " Thì ra không phải khẩu súng đã gây thương tích cho cô Stangerson hay sao? "– Rouletabille đưa mắt ra nhìn tôi ra chiều đắc thắng.

    Ông De Marquet đâm ra bối rối:

    " Tôi chưa có nói gì, tôi không muốn nói gì và tôi sẽ không nói gì. "Rồi, ông quay qua phía ông nhân viên đăng kiểm, làm như không biết chúng tôi là ai nữa.

    Nhưng người ta đâu có tống khứ Rouletabille dễ dàng như vậy được. Anh đến gần ông Dự thẩm, rút trong túi ra tờ Matin đưa cho ông và nói:" Có một điều, thưa ông Dự thẩm, tôi có thể hỏi ông mà không sợ phạm tội tọc mạch. Ông đã đọc bài báo Matin chưa? Nó vô lý quá, phải không ông? "

    " Chả vô lý đâu, thưa ông "

    " Tại sao không chứ? "Căn Phòng Vàng" chỉ có một cửa sổ đóng kín, chấn song sắt không bị bẻ, và một cửa ra vào phải phá sập mới vào được, vậy mà không thấy kẻ sát nhân đâu! Vậy đó, thưa ông! Vậy đó! Vấn đề đặt ra như vậy đó! "– Rouletabille không nói nữa, ngồi suy tưởng mông lung. Mười lăm phút trôi qua như thế.

    Khi anh trở về với thực tại, anh nói, vẫn với ông Dự thẩm:

    " Tối hôm ấy, cô Stangerson để tóc thế nào? "

    " Tôi không biết "– Ông De Marquet đáp.

    " Cái đó quan trọng đấy nhé. Tóc băng-đô, rẽ vắt ngang đầu, phải vậy không? Tôi chắc chắn đêm hôm ấy, đêm xảy ra thảm kịch, cô làm tóc kiểu băng-đô! "

    " Và ông đã nhầm rồi ông Roulotabille ạ "– ông Dự thẩm trả lời –" đêm ấy, cô Stangerson chải tóc xoắn, vén lên trên đầu. Chắc là kiểu tóc cô vẫn chải quen hở hết trán, tôi có thể quả quyết với ông. Chúng tôi xem xét vết thương rất lâu, không có máu dính ở tóc và không ai đụng tới mái tóc từ lúc cô bị giết hụt. "

    " Ông chắc chứ! Ông chắc cô Stangerson trong đêm bị giết hụt không để tóc băng-đô? "

    " Chắc chắn hoàn toàn "– ông Dự thẩm cười tươi –" vì rõ ràng tôi còn nghe ông bác sĩ nói trong lúc tôi xem xét vết thương: "Tiếc quá, cô Stangerson quen chải tóc vén lên trên trán. Nếu cô chải ra vắt ngang đầu thì đỡ quá, cú đánh vào thái dương đã bị tóc làm cho yếu đi." Bây giờ tôi xin nói ông hay, tôi thấy lạ sao ông lại cho là quan trọng. "

    " Ôi! Nếu cô ấy không để tóc băng đô "– Rouletabille rên lên đau đớn –" thì chúng ta đi về đâu? Chúng ta đi về đâu? Tôi quyết tìm hiểu. "Và anh chàng phác một cử chỉ buồn não nuột. –" Còn cái vết thương ở thái dương, có ghê gớm không? "Anh cố hỏi nữa.

    " Ghê gớm! "

    " Rút cục, nó do vũ khí gì gây ra? "

    " Cái đó, thưa ông, cái đó là bí mật điều tra. "

    " Ông có tìm thấy vũ khí đó không? "

    Ông Dự thẩm không trả lời.

    " Thế còn vết thương ở cổ? "

    Đến đây, ông Dự thẩm đã vui lòng cho chúng tôi biết vết thương ở cổ, đúng như người ta khẳng định, kể cả ý kiến các bác sĩ, rằng:" Nếu hung thủ bóp cái cổ này thêm vài giây nữa thì cô Stangerson đã chết ngắc. "

    " Nội dung như tờ Matin tường thuật "– Rouletabille hăng hái nói tiếp –" tôi thấy mỗi lúc một trở nên không giải thích được. Thưa ông Dự thẩm, ông có thể cho biết ngôi biệt thất có bao nhiêu cửa tất cả, vừa cửa ra vào vừa cửa sổ? "

    " Năm cửa cả thảy, "– Ông De Marquet trả lời, sau hai ba tiếng ho. Ông không cưỡng nổi ý thích phơi bày tất cả cái bí ẩn khó tin của vụ án ông đang điều tra." Năm cửa cả thảy mà cửa lớn gian tiền đình là cửa độc nhất ra vào biệt thất, cửa này bao giờ cũng tự động đóng lại và chỉ có thể mở, hoặc từ trong hoặc từ ngoài, bằng hai chìa khóa đeo dính bên mình bố Jacques và ông Stangerson. Cô Stangerson không cần đến chìa khóa, vì bố Jacques đã ở ngay biệt thất, mà ban ngày thì không hề xa rời cha cô. Khi cả bốn người chạy vào "Căn Phòng Vàng" vừa bị họ phá sập cửa, thì cửa vào gian tiền đình vẫn đóng chặt như thường và hai chiếc chìa khóa, một đang ở trong túi ông Stangerson, một trong túi bố Jacques. Biệt thất có bốn cửa sổ: Cái độc nhất ở "Căn Phòng Vàng", hai cái ở phòng thí nghiệm và một cái ở gian tiền đình. Cái ở "Căn Phòng Vàng" và hai cái ở phòng thí nghiệm đều mở ra đồng quê, chỉ có một cái ở gian tiền đình mở ra hoa viên. "

    " Đúng là tên sát nhân đã trốn khỏi biệt thất bằng cửa sổ này! "– Rouletabille kêu lên.

    " Sao ông biết? "– Ông De Marquet nhìn bạn tôi với ánh mắt kinh dị.

    " Sau này chúng ta sẽ biết tên sát nhân đã thoát ra ngoài "Căn Phòng Vàng" bằng cách nào. "Rouletabille nói tiếp –" nhưng để trốn khỏi biệt thất thì nó phải qua cái cửa sổ ở gian tiền đình.. "

    " Một lần nữa, sao ông biết? "

    " Làm sao ư? Ồ, chuyện cũng đơn giản thôi! Ngay khi phát hiện rằng mình không thể thoát ra bằng cửa vào biệt thất, lối thoát duy nhất của hắn là bằng cửa sổ trong tiền đình, trừ khi hắn có thể đi qua một cửa sổ được ngăn song sắt. Cửa sổ của "Căn phòng màu vàng" cũng được chắn bằng song sắt, vì nó nhìn ra đồng quê; hai cửa sổ của phòng thí nghiệm cũng được bảo vệ theo cách tương tự vì cùng một lý do. Khi kẻ sát nhân đi khỏi, tôi nghĩ rằng hắn đã tìm thấy một cửa sổ không có rào chắn, - tức là tiền đình, mở ra công viên - có nghĩa là, vào bên trong khu đất. Những điều này thật dễ hiểu phải không?

    "Đúng thế" – ông De Marquet nói – "nhưng có điều ông không đoán ra: Cái cửa sổ gian tiền đình ấy, quả là cái độc nhất không có chấn song, nhưng có những cánh cửa bằng sắt vô cùng kiên cố. Thế mà những cánh cửa này vẫn đóng chặt phía trong bằng một then sắt. Tuy nhiên, chúng tôi có bằng cớ là quả thực tên sát nhân đã trốn khỏi biệt thất chính qua cửa sổ ấy. Những dấu máu trên tường phía trong và trên các cánh cửa sổ, với những bước chân dưới đất, những bước chân hoàn toàn giống những bước chân tôi đã ghi lại khuôn khổ trong" Căn Phòng Vàng "chứng nhận rõ ràng tên sát nhân đã trốn thoát qua lối đó! Nhưng mà sao? Nó trốn cách nào, bởi vì các cánh cửa sổ đều đóng phía trong. Nghĩa là nó đã vượt qua các cánh cửa sổ đóng chặt như một bóng ma. Rồi cuối cùng, điều khủng khiếp hơn cả, phải chăng là cái dấu vết tìm thấy nơi hung thủ lúc đó trốn ra khỏi biệt thất, khi mà không ai hiểu nổi bằng cách nào nó đã ra thoát" Căn Phòng Vàng "cũng như bằng cách nào nó băng qua được phòng thí nghiệm là lối đi bắt buộc để tới gian tiền đình! A! Phải, thưa ông Rouletabille, vụ nay thật là huyền ảo, một vụ mê ly! Và còn lâu người ta mới hòng tìm ra chìa khóa mở màn bí mật, tôi hy vọng thế."

    "Ông hi vọng?"

    Ông De Marquet chữa ngượng cho bản thân:

    "Tôi không hy vọng. Tôi tin như thế!"

    "Có nghĩa là có kẻ từ phía trong đã đóng cửa sổ lại sau khi tên sát nhân tẩu thoát?" – Rouletabille hỏi.

    "Đó là những gì gợi lên trong tôi lúc này; nhưng nó cũng chỉ ra rằng hẳn phải có một hoặc nhiều đồng phạm, - và, tôi không rõ -"

    Sau một hồi im lặng, ông tiếp:

    "À! Giá hôm nay cô Stangerson khỏe lại một chút để hỏi cô ấy vài điều."

    Roulelabille vẫn theo dòng suy tưởng riêng, lại hỏi:

    "Thế còn căn gác phòng áp mái? Phải có một khung cửa nào trên gác mái chứ?"

    "Đúng, trên đó, có một khung cửa nhỏ, đúng hơn, một lỗ hổng sát nóc nhà, và vì nó mở ra phía đồng quê nên ông Stangerson cũng cho gắn chấn song. Ở cái cửa sổ tầng gác mái này, cũng như các cửa sổ tầng dưới, các song sắt còn nguyên vẹn, những cánh cửa dĩ nhiên vẫn đóng chặt phía trong. Vả lại, chúng tôi không khám phá thấy gì đáng ngờ rằng hung thủ có đi qua căn gác mái."

    "Nghĩa là với ông, thưa ông Dự thẩm, chẳng có gì hoài nghi về điểm hung thủ đã trốn thoát - tuy người ta không hiểu bằng cách nào - qua khung cửa sổ gian tiền đình?"

    "Mọi điều đều chứng tỏ điều đó"

    "Tôi cũng nghĩ vậy," Rouletabille nghiêm túc thú nhận.

    Sau khi im lặng một lúc, anh nói tiếp:

    "Nếu ông không tìm thấy dấu vết gì của hung thủ ở trên gác nóc, chẳng hạn những bước chân bẩn thỉu in trên sàn gác" Căn Phòng Vàng "; tất nhiên ông phải đi đến kết luận rằng không phải nó đã đánh cắp khẩu súng của bố Jacques."

    "Trên gác nóc, chỉ có dấu chân bố Jacques." Ông Dự thẩm trả lời với một cái nhún vai đầy ý nghĩa. Nhưng rồi ông ta nói thêm: "Bố Jacques lúc ấy ở liền bên ông Stangerson. May cho bố đấy."

    "Thế thì khẩu súng của bõ Jacques đóng vai trò gì trong tấn thảm kịch? Tôi thấy cái vũ khí này dùng để bắn tên sát nhân hơn là tấn công cô Stangerson."

    Không trả lời câu hỏi có lẽ làm ông lúng túng, ông De Marquet cho biết có tìm thấy hai viên đạn trong "Căn Phòng Vàng", một viên đạn nằm trong tường, chính bức tường có in dấu bàn tay đàn ông bằng máu, một viên nữa nằm trên trần nhà.

    "Ồ! Ồ! Trên trần nhà!" – Rouletabille lẩm bẩm – Thật ư! Trên trần nhà! Cái này thật là làm người khác tò mò! - Trên trần nhà! "

    Từ lúc ấy, anh im lặng hút thuốc và nhả khói. Khi chúng tôi tới Epinay-Sur-Orgé, tôi phải đập vào vai anh ta để lôi anh từ cõi mộng xuống sân ga.

    Ở đây, vị thẩm phán và viên đăng kiểm chào chúng tôi rồi leo nhanh lên một chiếc xe ngựa đang chờ sẵn, để chúng tôi hiểu rằng hai ông đã chán ngấy chúng tôi lâu rồi.

    " Đi bộ từ đây đến lâu đài Glandier mất bao nhiêu lâu hả ông? "– Rouletabille hỏi thăm một nhân viên nhà ga.

    " Một giờ rưỡi, một giờ bốn lăm phút - nếu không vội. "Người kia trả lời.

    Rouletabille ngẩng nhìn trời, chắc thấy là anh và có lẽ được cả cho tôi, bèn kéo vai tôi, nói:

    " Chúng ta đi nào! Tôi cần đi tản bộ. "

    " Sao? Vụ án đỡ rối rồi chứ? "

    " Không hề! Lại còn rối tệ hơn trước! Đúng ra, tôi có một ý. "

    " Gì thế? "Tôi hỏi

    " Bây giờ tôi chưa nói được. Ý nghĩ của tôi là một vấn đề liên quan đến mạng sống hai người hoặc nhiều hơn. "

    " Anh tin có đồng phạm không? "

    " Tôi không nghĩ vậy! "

    Chúng tôi cùng im lặng hồi lâu, đoạn anh nói tiếp:

    " Gặp được hai ông Dự thẩm và viên đăng kiểm này thật là may mắn. Tôi đã nói gì với anh về khẩu súng lục nhỉ? "Anh cúi mặt nhìn đường, hai tay thọc túi quần và huýt sáo miệng. Một lúc lâu rồi tôi nghe anh thì thầm.

    " Người phụ nữ tội nghiệp! "

    " Anh thương hại cô Stangerson đó à? "

    " Phải, một phụ nữ cao nhã, xứng đáng được thương xót! - Một người phụ nữ có khí phách lớn, rất lớn - tôi tưởng..

    "Anh quen cô Stangerson?"

    "Không hẳn! Tôi chỉ mới gặp cô một lần."

    "Thế sao anh nói cô ấy có một khí phách lớn?"

    "Bởi vì cô dám đương đầu với kẻ sát nhân, cô đã chống cự dũng cảm, và trên tất cả là vì viên đạn nằm trong trần nhà."

    Tôi nhìn Rouletabille, nghĩ bụng anh chàng này cố tình trêu chọc tôi hay do anh ta tự nhiên phát điên đây. Nhưng nhìn kỹ, tôi thấy rõ anh đang suy nghĩ nghiêm chỉnh, và tia sáng thông minh của cặp mắt nhỏ tròn kia bảo đảm rằng lý trí anh vẫn tốt nguyên. Sau đó, tôi cũng đã quen với cách nói chuyện đứt quãng của anh ấy, điều này chỉ khiến tôi bối rối về việc anh ấy đang nghĩ gì, cho đến khi, với một vài từ rõ ràng, nhanh chóng được thốt ra, anh ấy sẽ làm cho tôi hiểu tường tận những ý tưởng của anh. Và tôi, thấy rằng những gì anh ấy đã nói trước đây, những điều mà dường như đối với tôi vô ý nghĩa, sau đó lại hoàn toàn hợp lý đến mức tôi không thể hiểu là tại sao tôi lại không hiểu anh ấy sớm hơn.
     
    AmiLee thích bài này.
  4. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 4: Trong lòng thiên nhiên hoang dã

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lâu đài Giandier là một trong những lâu đài cổ nhất của cái xứ Hòn Đảo Pháp Quốc, nơi bây giờ còn sừng sững nhiều thạch ốc lừng danh thời phong kiến xây cất tận giữa rừng sâu dưới triều Hoàng Đế Philippe le Bel, nó nằm cách con đường cái nối liền làng Sainte-Geneviève-des-Bois với Monthery khoảng vài trăm mét. Đó là một khối kiến trúc tạp nham nép mình dưới một vọng lâu cao ngất. Khi du khách leo hết các bậc thang rung rinh của ngọn Vọng lâu cổ lỗ và lên tới sân thượng nhỏ, chỗ mà hồi thế kỷ 17, Georges Philibert de Séquigny, lãnh chúa ở Glandier, Maisons-Neyves và nhiều thái ấp khác đã dựng cây đèn lồng hiện nay, theo một kiểu thô kệch, lỗi thời, khách nhìn thấy cách đó ba dặm, vút lên trên thung lũng và bình nguyên, ngọn tháp Montlhéry kiêu hãnh. Trải bao thế kỷ cho tới nay, Vọng lâu và Tháp vẫn còn ngó mặt nhau và làm như kể cho nhau nghe, trên đầu những cánh rừng già xanh ngắt hoặc những khu rừng con héo vàng, những truyền thuyết xa xưa nhất của nước Pháp. Người ta đồn rằng Vọng Lâu Glandier canh phòng cho một hình bóng anh hùng đã được phong thánh, tức nữ thánh Geneviève mà trước oai bà, Anila đã phải rút quân.

    Chính giữa nơi thâm u hoàn toàn thuộc về quá khứ đó, giáo sư Stangerson và cô con gái đến định cư, để cống hiến cho khoa học tương lai. Vẻ quạnh hiu của nó nơi thâm sơn cùng cốc chinh phục ngay tức khắc hai cha con. Ở đây, sẽ chẳng có ai chứng kiến công việc cùng ước vọng của họ ngoài những tảng đá mốc rêu và những cây sồi cao ngất. Lâu đài Glandier ngày xưa mang tên là Glanderium, vì ở đây quanh năm người ta hái được nhiều sồi (Nguyên tác: Glands). Cái đất này ngày nay nổi tiếng hắc ám, vì các chủ nhân thời ơ và bỏ thí, đã trở lại quang cảnh hoang dã của một thiên nhiên sơ khai. Chỉ còn những ngôi nhà ẩn trú bên trong vẫn giữ được dấu tích nhiều cuộc biến thiên kỳ lạ. Mỗi thế kỷ đều để lại đặc điểm của nó ở đây. Một mẫu kiến trúc gợi lên kỷ niệm một biến cố kinh hoàng, một cuộc phiêu lưu đẫm máu. Và như thế, tòa lâu đài này, nơi khoa học tìm đến trú ngụ, có vẻ như được dọn sẵn để làm sân khấu diễn ra những bí ẩn của hãi hùng và chết chóc.

    Quay trở lại với ông Stangerson. Khi ông mua vùng lãnh địa này mười lăm năm trước khi thảm kịch xảy ra, lâu đài Glandier đã từ lâu không người ở. Gần đó lại có một tòa lâu đài khác do Jean de Belmont xây từ thế kỷ 14 cũng bỏ trống, thành thử xứ này hầu như hoang vắng. Vài ngôi nhà nhỏ bên đường dẫn đến Corbeil, một quán trọ, được gọi là "Vọng Lâu," cung cấp sự hiếu khách dành cho những người lang thang; tất cả những thứ này đều đại diện cho nền văn minh ở vùng xa xôi hẻo lánh này của đất nước, nhưng chỉ cách thủ đô không xa.

    Nhưng chính sự vắng vẻ lại là lý do quyết định để ông Stangerson và cô con gái chọn chỗ này làm nơi làm việc. Ông Stangerson là một nhân vật có tiếng. Ông mới ở Mỹ về, nơi công việc của ông đã gây tiếng vang rộng lớn. Cuốn sách ông vừa cho ra mắt công chúng ở Philadelphie bàn về "Tính phân rã của vật chất bởi các tác động điện năng" bị bác học cả thế giới phản đối. Ông Stangerson là dân Pháp nhưng gốc Mỹ. Có những công việc kế thừa di sản rất quan trọng đã cầm chân ông nhiều năm ở Hoa Kỳ. Nơi đây, ông tiếp tục một công trình đã khởi đầu từ Pháp và ông lại trở vệ Pháp để hoàn thành, sau khi gom góp một tài sản kếch sù, bởi các vụ kiện có ông tranh tụng đều kết thúc vẻ vang cho ông hoặc bằng những bản án tuyên bố ông thắng kiện, hoặc bằng một cuộc dàn xếp lợi về phía ông. Khối tài sản này đến thật đúng dịp. Bởi nếu muốn, ông Stangerson đã có thể kiếm hàng triệu đô-la bằng cách khai thác hay cho người khai thác hai, ba phát minh hóa học liên quan tới vài phương thức mới trong kỹ nghệ nhuộm, nhưng ông vốn ghê tởm việc dùng cái năng khiếu diệu kỳ là "phát minh" do Tạo Hóa ban cho để phục vụ lợi ích cá nhân mình. Ông không hề nghĩ kỳ tài ấy thuộc về ông. Nó do loài người ban cho ông, và tất cả những gì nó cho ra đời đều bởi đức nhân ái đó mà rơi vào lĩnh vực của cải chung.

    Nếu ông không có ý giấu giếm niềm mãn nguyện được một tài sản bất ngờ, nó sẽ cho phép ông hiến thân trọn vẹn cho đam mê khoa học thuần khiết đến tận cuối cuộc đời, thì giáo sư vẫn có được nỗi vui mừng "hình như thế", vì một duyên cớ khác. Ngày cha già ở Mỹ về và mua lâu đài Glandier, cô Stangerson hai mươi tuổi. Cô đẹp quá sức tưởng tượng của mọi người, tập hợp nơi mình tất cả cái duyên sắc Paris của mẹ cô – chết lúc sinh ra cô – cộng với tất cả phong cách hào hoa nơi dòng máu Mỹ của ông nội cô, William Stangerson. Ông cụ gốc dân Philadelphie, đã nhập quốc tịch Pháp, tuân theo đòi hỏi của gia đình khi cụ kết hôn với một thiếu nữ Pháp, người sau này là mẹ nhà bác học trứ danh Stangerson. Nguồn gốc quốc tịch Pháp của giáo sư là như thế.

    Hai mươi tuổi, một cô gái tóc vàng quyến rũ, với đôi mắt xanh lơ, nước da trắng như sữa, và đang trong thời kỳ rạng rỡ nhất của tuổi trẻ, Mathilde Stangerson là một trong những cô gái đến tuổi kết hôn xinh đẹp nhất ở cả hai lục địa cũ và mới. Bổn phận của cha cô, bất chấp nỗi đau không thể tránh khỏi mà việc chia ly mà con gái sẽ gây ra cho ông, khi nghĩ đến cuộc hôn nhân của cô; và ông ấy đã chuẩn bị đủ đầy cho nó. Tuy nhiên, ông đã cất giấu bản thân và đứa con của mình tại Glandier vào thời điểm bạn bè của ông đang mong đợi ông đưa cô ấy ra ngoài xã hội. Một số người trong số họ bày tỏ sự ngạc nhiên của họ, và trước câu hỏi của họ, ông ta trả lời: "Đó là ước muốn của con gái tôi. Tôi không thể từ chối con bé bất cứ điều gì. Nó đã chọn Glandier."

    Khi lượt mình bị "thẩm vấn", cô gái trẻ bình tĩnh trả lời: "Chúng tôi có thể làm việc ở đâu tốt hơn nơi đơn độc này?" Đối với cô Stangerson đã bắt đầu cộng tác với cha trong công việc của ông. Vào thời điểm đó, không thể tưởng tượng được rằng niềm đam mê khoa học sẽ khiến cô từ chối tất cả những người đã cầu hôn mình trong hơn mười lăm năm. Cuộc sống ẩn dật của hai người, cha và con gái, đến nỗi họ chỉ xuất hiện trong một vài buổi chiêu đãi chính thức và vào những thời điểm nhất định trong năm, trong hai hoặc ba phòng trà thân thiết, nơi danh tiếng của vị giáo sư và vẻ đẹp của Mathilde đã gây nên chấn động. Lúc đầu sự dè dặt đến mức cực đoan của cô gái trẻ không làm nản lòng những chàng trai muốn cầu hôn cô; nhưng sau một vài năm, họ dần cảm thấy mệt mỏi.

    Cuối cùng chỉ còn một chàng trai bền bỉ với sự kiên trì dịu dàng và xứng đáng với cái tên "vị hôn phu vĩnh cửu", một cái tên mà anh ta chấp nhận với sự cam chịu sầu muộn; đó là Đức ông Robert Darzac. Cô Stangerson giờ đã không còn trẻ nữa, và có vẻ như không tìm thấy lý do gì để kết hôn ở tuổi ba-mươi-lăm, và cô ấy có thể sẽ không bao giờ tìm được một lý do. Nhưng một lý lẽ như vậy rõ ràng là không được ông Robert Darzac chấp nhận. Anh ta tiếp tục chiếm lấy tình cảm của cô - nếu sự quan tâm tinh tế và dịu dàng mà anh ta không ngừng dành cho người phụ nữ khoảng ba mươi lăm tuổi này có thể được gọi là tán tỉnh – thì lại phải đối mặt với ý định không bao giờ kết hôn của cô ấy.

    Đột nhiên, một vài tuần trước các sự kiện khiến chúng tôi có mặt ở đây, một tin đồn - mà không ai coi trọng, vì nó nghe có vẻ đáng kinh ngạc - được lan truyền về Paris, rằng cô Stangerson cuối cùng đã đồng ý "đăng quang" ngọn lửa tình không thể dập tắt của ông Robert Darzac! Bản thân ông Robert Darzac không phủ nhận tin đồn hôn nhân này. Tuy nhiên, một ngày nọ, khi ông Stangerson rời Học viện Khoa học, đã thông báo rằng hôn lễ của con gái ông và Robert Darzac sẽ được cử hành thân mật trong lâu đài Glandier, ngay sau khi ông và con gái của mình hoàn thành báo cáo tổng kết công việc của họ về "Sự phân rã của vật chất". Cặp vợ chồng mới sẽ sống luôn ở Glandier, và người con rể sẽ giúp đỡ ông Stangerson trong công việc mà hai cha con vị giáo sư ấy đã cống hiến cả đời.

    Thế giới khoa học chưa kip trấn tĩnh tinh thần về tin vui này thì đã nhận được tin cô Stangerson bị mưu sát trong những cảnh huống ly kỳ như chúng tôi đã kể, mà cuộc viếng thăm lâu đài của chúng tôi sắp đem lại nhiều điểm chính xác hơn. Tôi đã không ngần ngại cung cấp cho người đọc tất cả những chi tiết hồi tưởng này, mà tôi biết đến qua mối quan hệ làm ăn của tôi với ông Robert Darzac. Khi vượt qua ngưỡng cửa của "Căn phòng màu vàng", anh ấy cũng được cung cấp đầy đủ tin tức như tôi.
     
    AmiLee thích bài này.
  5. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 5: Ở nơi mà Joseph Rouletabille đưa ra lời nhận xét mang hiệu quả cho ngài Robert Darzac.

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Rouletabille và tôi đã đi bộ trong vài phút, bên cạnh bức tường dài bao quanh dinh thự rộng lớn của ông Stangerson dẫn đến trước cổng vào, thì sự chú ý của chúng tôi đổ dồn vào một người đang cúi nửa người xuống đất, dường như anh ta hoàn toàn bị cuốn hút vào những gì đang làm khiến anh không hề thấy chúng tôi đang tiến về phía mình. Có lúc anh ta khom người thấp đến mức gần như chạm đất; lúc khác, anh ta đứng dậy và chăm chú xem xét bức tường; rồi anh ta nhìn vào lòng bàn tay của mình, và bước đi với những bước đi nhanh chóng. Cuối cùng anh ta bắt đầu chạy, vẫn nhìn vào lòng bàn tay của mình. Rouletabille đã ngăn tôi đi theo.

    "Suỵt! Frédéric Larsan đang làm việc! Ta đừng quấy rầy ông ấy!"

    Rouletabille rất ngưỡng mộ vị thám tử lừng danh kia. Tôi chưa bao giờ gặp ông ta trước đây, nhưng tôi biết ông ta rất rõ qua danh tiếng. Vào thời điểm đó, trước khi Rouletabille bộc lộc tài năng độc đáo của mình, Larsan đã nổi tiếng là người làm sáng tỏ những tội ác bí ẩn và phức tạp nhất. Danh tiếng của ông đã vang xa khắp thế giới, và cảnh sát London, và thậm chí của Mỹ, thường gọi ông đến để hỗ trợ khi các thanh tra và thám tử quốc gia khi họ nhận thấy đã cạn kiệt trí thông minh và nguồn lực.

    Cho nên người ta không lấy làm lạ khi thấy ngay từ đầu vụ bí mật "Căn Phòng Vàng", vị Giám Đốc sở Công An đã nghĩ đến việc gởi cho người thuộc hạ quý báu ở Luân Đôn, nơi Frédéric Larsan được phái đến điều tra một vụ trộm chứng khoán lớn, bức điện khẩn: "Về gấp!". Frédéric trong ngành Cảnh Sát Công An, người ta gọi ông ta là anh cả Fred, đã chấp hành khẩn trương lệnh triệu hồi – chúng tôi nghĩ thế – chắc vì đã biết qua kinh nghiệm rằng, người ta phải làm rộn mình tức là người ta cần đến mình gấp lắm. Vì vậy mà Rouletabille và tôi, sáng hôm ấy, đã thấy ông ta vào việc. Chúng tôi sắp hiểu việc ấy là việc gì.

    Thứ khiến ông ta liên tục nhìn vào lòng bàn tay phải không gì khác ngoài chiếc đồng hồ, đặc biệt là kim phút. Sau đó ông quay lại, vẫn chạy, chỉ dừng lại khi đến cổng công viên, nơi ông ta lại xem đồng hồ đeo tay rồi cất nó vào túi, nhún vai tỏ vẻ chán nản. Ông ta mở cổng công viên, đóng rồi khóa nó lại, đoạn ngẩng đầu lên và nhận ra chúng tôi. Rouletabille vội chạy về phía ông Fred, và tôi theo sau. Frederic Larsan đã đợi chúng tôi.

    "Ông Fred" – Rouletabille vừa chào vừa bày tỏ những cử chỉ kính trọng sâu xa xuất phát từ niềm cảm phục chân thật của anh phóng viên trẻ đối với nhà thám tử lão luyện lừng danh, – "ông có thể cho chúng tôi biết hiện ông Robert Darzac có ở lâu đài không? Đây là bạn ông Robert thuộc quản hạt Paris cần gặp ông ấy có việc gấp."

    "Tôi không rõ, thưa ông Rouletabille," – Fred bắt tay bạn tôi, vì ông ta đã có dịp gặp anh nhiều lần trong các vụ điều tra khó khăn nhất của ông ta lúc trước, – "tôi không thấy ông ấy đâu cả."

    "Để hỏi vợ chồng anh gác cổng xem" – Rouletabille chỉ một căn nhà gạch nhỏ, cửa lớn, cửa nhỏ đều đóng kín và nhất định phải là chỗ ở của những người bảo vệ trung thành tòa lâu đài.

    "Người gác cổng sẽ không thể cung cấp cho ông bất kỳ thông tin nào đâu, ông Rouletabille."

    "Tại sao không?"

    "Bởi vì họ đã bị bắt nửa giờ trước."

    "Bắt giam!" Rouletabille kêu lên; "Vậy thì họ là những kẻ giết người!"

    Frederic Larsan nhún vai.

    "Khi ông không thể bắt giữ kẻ sát nhân thực sự," ông ta nói với không khí mỉa mai tột độ, "ông vẫn luôn có thể khám phá lũ đồng bọn."

    "Ông có bắt họ không, ông Fred?"

    "Không phải tôi! -Tôi chưa bắt họ. Ngay từ đầu, tôi khá chắc chắn rằng họ không liên quan gì đến vụ việc, và sau đó là vì-"

    "Bởi vì cái gì?" Rouletabille háo hức hỏi.

    "Không vì gì cả," Larsan lắc đầu nói.

    "Bởi vì không có đồng bọn!" Rouletabille nói.

    "Aha! -Ông có ý tưởng, vậy, về vấn đề này?" Larsan nói, nhìn Rouletabille chăm chú, "nhưng ông vẫn chưa thấy gì, anh bạn trẻ - trước đó ông vẫn chưa được phép bước vào đây!"

    "Tôi sẽ được vào."

    "Tôi nghi ngờ điều đó. Các mệnh lệnh rất nghiêm ngặt."

    "Tôi sẽ được vào, nếu ông cho tôi gặp ông Robert Darzac. Làm điều đó cho tôi. Ông biết chúng tôi là bạn cũ. Tôi cầu xin ngài, ngài Fred. Ông có nhớ bài báo tôi viết về bạn về vụ án vàng miếng không?"

    Bộ mặt Rouletabille lúc ấy trông thật khôi hài. Nó phản ánh một nỗi thèm thuồng không thể kháng ngự ý muốn vượt qua cái ngưỡng cửa kia, bên trong đã xảy ra một vụ bí mật ly kỳ nào đó. Một bộ mặt van xin bằng vẻ thống thiết không những của miệng và mắt mà còn của tất cả mọi nét trên mặt, đến nỗi tôi không nhịn được cười. Frédéric Larsan không hơn gì tôi, chẳng còn gì là nghiêm nghị nữa. Thế nhưng, đằng sau song sắt cửa, Frédéric Larsan lặng lẽ đút chìa khóa vào túi. Tôi chăm chú nhìn ông ta.

    Tuổi trạc ngũ tuần. Đầu tròn trĩnh, tóc hoa râm, nước da xạm, nhìn nghiêng có vẻ khắc nghiệt, trán dồ, cằm và má cao nhẵn thín, vành môi không ria mép lượn rõ nét cong, cặp mắt hơi nhỏ và tròn, nhìn ai nhìn thẳng vào mặt, soi mói, gây kinh hãi và lo ngại cho người ta. Khổ người trung bình và cân đối. Dáng điệu trông toàn thể coi bộ lịch thiệp và dễ gây thiện cảm. Không có gì là một anh Cảnh Sát quèn. Ông là nghệ sĩ lớn trong số người cùng giới, ông biết vậy, và người ta có cảm tưởng ông tự đánh giá mình rất cao. Giọng điệu hoài nghi trong cuộc trò chuyện của ông ta là của một người đàn ông đã được mài giũa bằng kinh nghiệm. Nghề nghiệp kỳ lạ của ông ta đã khiến ông ta tiếp xúc với rất nhiều tội phạm và những kẻ xấu xa mà sẽ là điều đáng chú ý nếu bản chất của ông ta không được cứng rắn.

    Nghe đằng sau có tiếng xe chạy đến, Larsan quay đầu lại. Chúng tôi nhận ra chiếc xe ngựa đã chở ông Dự thẩm và viên đăng kiểm ở ga Epinay.

    "Đây này!" – Frédéric Larsan nói lớn, – "ông muốn nói chuyện với ông Robert Darzac thì ông ấy đấy chứ đâu!"

    Cỗ xe ngựa đã tới cổng sắt và Robert Darzac nhờ Frédéric Larsan mở giùm cửa vào hoa viên. Ông cho biết đang quá vội và chỉ đủ thì giờ đến Epinay để đáp chuyến xe lửa sớm nhất đi Paris. Nói đến đây, ông nhận ra tôi. Trong khi Larsan mở cổng, ông Darzac hỏi tôi đến Glandier có việc gì mà đến nhằm vào lúc bi thảm như lúc này. Bấy giờ tôi mới để ý thấy ông xanh xao kinh khủng, một nỗi đau vô cùng tận in hằn trên gương mặt.

    "Cô nhà đã đỡ hơn chưa?" tôi hỏi ngay lập tức.

    "Vâng", ông trả lời. "Cô ấy sẽ được cứu sống, có lẽ. Cô ấy nhất định được cứu sống!"

    Ông ấy đã không nói thêm "nếu không nó sẽ là cái chết của tôi"; nhưng tôi cảm thấy cụm từ đó run lên trên đôi môi nhợt nhạt của ông ấy.

    Rouletabille đã can thiệp:

    "Ngài đang vội, thưa ông; nhưng tôi phải nói chuyện với ông. Tôi có một điều quan trọng nhất muốn nói với ông."

    Frédéric Larsan ngắt lời anh:

    "Xin phép ông nhé!" – Ông ta nói với Robert Darzac – "ông có chìa khóa riêng hay muốn tôi đưa ông cái này dùng?" –

    "Thôi, cảm ơn, tôi có chìa khóa rồi. Tôi sẽ lo đóng cổng lấy." Larsan xăm xăm đi về hướng lâu đài cách đó vài trăm mét sừng sững một khối bóng hình đồ sộ.

    Robert Darzac cau cặp lông mày lại, lộ vẻ sốt ruột. Tôi giới thiệu Rouletabille là người bạn rất tốt, nhưng lúc biết anh chàng là nhà báo ông Darzac nhìn tôi có vẻ trách móc nặng nề.

    Ông xin lỗi vì phải đến Epinay trong vòng hai mươi phút nữa, chào từ biệt rồi quay ngựa. Nhưng tôi kinh ngạc xiết bao khi thấy Rouletabille níu dây cương ghì cỗ xe đứng lại, miệng thốt ra một câu tôi nghe chẳng có nghĩa gì: "Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn của nó, cũng như sự tươi sáng của khu vườn ." Câu này vừa ra khỏi miệng Rouletabille tôi đã thấy Robert Darzac lảo đảo muốn ngã gục, mặt ông đã xanh càng xanh thêm, mắt trừng trừng nhìn chàng tuổi trẻ với vẻ hãi hùng kỳ lạ, rồi nhảy phắt xuống đất, ông không giấu nổi một tâm trạng hoang mang, cục kỳ rối loạn.

    "Đi đi! Đi đi!" – Ông ta lắp bắp. Rồi thình lình, ông ta nổi giận thét lớn

    "Đi đi! Ông đi đi!"

    Và ông quay trở lại con đường dẫn vào lâu đài không nói thêm một tiếng, trong khi Rouletabille tay vẫn cầm cương dắt ngựa kéo cỗ xe đi theo. Tôi nói mấy câu với ông Robert Darzac nhưng ông không trả lời. Tôi lại đưa mắt dò xét Rouletabille, nhưng anh không nhìn tôi.
     
    AmiLee thích bài này.
  6. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 6: Ở giữa bụi sồi

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chúng tôi đến lâu đài, và khi chúng tôi tiến đến gần hơn, bốn hiến binh đang đi lại trước một cánh cửa nhỏ ở tầng trệt của vọng lâu. Chúng tôi sớm biết rằng ở tầng trệt này, nơi trước đây từng là nhà tù, ông và bà Bernier, những người gác cổng, đã bị giam giữ. Ông Robert Darzac dẫn chúng tôi vào phần hiện đại của lâu đài bằng một cánh cửa lớn, được bảo vệ bởi một mái hiên che - một "marquise" như người ta gọi. Rouletabille, người đã để con ngựa và chiếc xe cho một người hầu coi sóc, không bao giờ rời mắt khỏi ông Darzac. Tôi nhìn theo cái nhìn của anh ta và nhận ra rằng nó chỉ hướng về bàn tay đeo găng của giáo sư Sorbonne. Khi chúng tôi ở trong một phòng khách nhỏ được trang bị đồ nội thất cũ, ông Darzac quay sang Rouletabille và nói sắc lạnh:

    "Nói đi! Ông muốn gì ở tôi."

    Anh bạn tôi trả lời không kém cộc lốc:

    "Bắt tay ông!"

    Darzac lùi lại một bước:

    "Nghĩa là sao?"

    Hiển nhiên, ông ta đã hiểu bạn tôi nghi ông là thủ phạm vụ mưu sát. Dấu bàn tay đẫm máu trên tường "Căn Phòng Vàng" hiện ra trước mắt ông. Tôi nhìn ông ta - con người có vẻ mặt kiêu kỳ, ánh mắt ngày thường thẳng thắn, mà bây giờ dao động lạ lùng. Ông chìa bàn tay phải cho Rouletabille và hất hàm về phía tôi:

    Ông là bạn của ông Sainclair, người đã giúp tôi một việc lớn không ngờ trong một vụ kiện chính đáng nên, thưa ông, tôi không thấy lý do để từ chối bắt tay ông.

    Rouletabille đã không nắm lấy bàn tay đang chìa. Và với sự táo bạo cao nhất, anh ấy nói dối rằng:

    "Thưa ông, tôi đã sống vài năm ở Nga, nơi tôi đã có thói quen không bao giờ nắm lấy bất kỳ bàn tay nào ngoại trừ một bàn tay đã tháo găng."

    Tôi tưởng ngài giáo sư Sorbonne sẽ nổi ngay cơn thịnh nộ đã bắt đầu khuấy động trong người ông, nhưng trái lại, với một cố gắng rõ ràng, ông lấy lại bình tĩnh, tháo bỏ đôi găng và chìa cả hai bàn tay ra trước mặt. Hai bàn tay ông mịn màng không một vết thẹo. –

    "Ông thỏa mãn chưa?"

    "Chưa!" – Rouletabille trả lời rồi quay sang tôi – "anh bạn thân mến ơi, tôi buộc lòng phải yêu cầu anh để chúng tôi nói chuyện riêng một lát."

    Tôi chào và rút lui, còn bàng hoàng về những gì vừa nghe thấy. Tôi không hiểu tại sao ông Robert Darzac không tống khứ người bạn láo lếu, kỳ cục của tôi. Bởi lúc ấy, tôi oán trách Rouletabille về những nghi ngờ trong đầu anh đã đưa đến màn kịch găng tay vừa rồi.

    Trong khoảng hai mươi phút, tôi đi bộ trước lâu đài, cố gắng liên kết những sự kiện khác nhau trong ngày một cách vô ích. Rouletabille nghĩ gì? Có khả năng là anh ấy nghĩ ông Robert Darzac là kẻ giết người không? Làm sao có thể nghĩ rằng người đàn ông này, người đã kết hôn với cô Stangerson trong vài ngày, lại vào "Căn phòng màu vàng" để ám sát vị hôn thê của mình? Tôi không thể tìm thấy lời giải thích nào về việc làm thế nào mà kẻ sát nhân có thể rời khỏi "Căn phòng màu vàng"; và chừng nào mà bí ẩn đó, mà tôi không thể hiểu, vẫn không giải thích được, tôi nghĩ rằng nhiệm vụ của tất cả chúng tôi là kiềm chế để không nghi ngờ bất kỳ ai. Nhưng, sau đó, câu nói tưởng chừng như vô nghĩa đó - "Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn, cũng như sự tươi sáng của khu vườn" - vẫn vang lên bên tai tôi. Nó có nghĩa gì? Tôi háo hức muốn ở riêng với Rouletabille và hỏi anh ấy.

    Đúng lúc ấy, anh chàng từ lâu đài đi ra với Robert Darzac. Mà kì lạ thay, nhìn họ như một đôi bạn thân.

    "Chúng tôi đến" Căn Phòng Vàng "đây," – Rouletabille bảo tôi, – "anh cùng đi nhé. Và anh bạn thân mến, anh biết tôi sẽ giữ anh suốt ngày nay. Chúng ta ăn trưa luôn ở khu này thôi."

    "Ơ kìa, các ông dùng bữa với tôi ở đây chứ!"

    "Không, cảm ơn" – bạn tôi trả lời. – "chúng tôi ra quán" Vọng lâu" ".

    " Ăn uống ở đấy dở lắm, không có gì đâu. "

    " Ông nghĩ vậy ư? Ờm, tôi hy vọng tìm thấy một cái gì đấy. Ăn xong, chúng tôi quay trở lại công việc, tôi sẽ viết bài và nhờ ông vui lòng mang về tòa soạn giùm cho. "

    " Còn ông, ông không về Paris với tôi ư? "

    " Không, tôi ngủ lại đây. "

    Tôi quay nhìn Rouletabille. Anh nói năng nghiêm túc và Robert Darzac chẳng ngạc nhiên chút nào.

    Lúc ấy chúng tôi đi qua vọng lâu và nghe tiếng rên rỉ. Rouletabille hỏi:

    " Tại sao vợ chồng nhà này bị bắt giữ? "

    " Lỗi một phần là do tôi, "– Darzac trả lời. –" Hôm qua, tôi có nói ra một câu với Dự thẩm là không hiểu tại sao mà vợ chồng người gác có đủ thì giờ để nghe tiếng súng nổ, để quần áo chỉnh tề, rồi đi qua một quãng đường khá dài từ nhà họ ở đến biệt thất, tất cả chỉ mất hai phút, vì thời gian lúc súng nổ đến lúc họ gặp bố Jacques không quá hai phút. "

    " Dĩ nhiên là có gì đó đáng ngờ rồi. "– Rouletabille tán thành. –" Họ ăn mặc chỉnh tề lắm à? "

    " Đó là cái khó tin. Họ ăn mặc chỉnh tề "áo quần đầy đủ" gọn gàng và đủ ấm. Trong phục sức của họ không thiếu một phụ tùng nào. Bà vợ thì đi guốc, nhưng ông chồng mang "giầy cột dây" đăng hoàng. Mà họ lại khai đã đi ngủ như mọi tối, lúc chín giờ. Sáng nay khi tới đây, ông Dự thẩm có mang từ Paris đến một khẩu súng lục cùng cỡ với khẩu súng trong vụ án (vì ông không muốn đụng đến khẩu súng tang vật). Ông chuyển cho viên đăng kiểm đứng trong "Căn Phòng Vàng", cửa sổ và cửa ra vào đều đóng, bắn hai phát. Chúng tôi cùng ông ta ở trong nhà vợ chồng người gác, chẳng ai nghe thấy gì, không nghe được gì hết. Nghĩa là vợ chồng người gác cổng đã nói dối, không còn nghi ngờ. Lúc ấy, thật ra họ đã sẵn sàng, họ ở ngoài nhà rồi, không xa biệt thất, họ chờ đợi cái gì đó. Đã hẳn, người ta không buộc tội họ là thủ phạm vụ mưu sát, nhưng họ có thể là tòng phạm. Ông De Marquet đã tống giam hai vợ chồng ngay tức khắc. "

    " Nếu họ là những kẻ đồng lõa ", - Routetabille nói –" Họ sẽ không xuất hiện ở đó lúc ấy đâu. Khi người ta hối hả lao đầu vào vòng tay công lý với trên mình bao nhiêu chứng cớ tòng phạm thì điều đó tất nhiên có nghĩa là họ không phải tòng phạm. Tôi không tin trong vụ này có tòng phạm. "

    " Vậy, lý do họ ra ngoài vào lúc nửa đêm là gì? Sao họ lại không khai ra chứ? "

    " Họ chắc hẳn đã có một vài lý do cho sự im lặng đấy. Mặc cho lý do đấy là gì, thì cho dù họ không phải là đồng phạm, cũng sẽ rất quan trọng cho công cuộc điều tra. Mọi điều xảy ra vào đêm đó đều quan trọng. "

    Chúng tôi vừa đi hết cây cầu cũ bắc qua sông Douve và đi vào phần đất của hoa viên mang tên là" Vườn Cây Sồi ". Ở đây có những cây sồi đã sống trăm năm. Mùa thu, lá sồi vàng úa co quắp lại, những cành cao, đen và ngoằn ngoèo giống những lọn tóc gớm ghiếc, những nút xoắn của loài bò sát khổng lồ rối vào nhau, như nhà điêu khắc thời thượng cổ đã nặn ra trên đầu nàng Medusa. Tại nơi đây, cứ mùa hè thì cô Stangerson đến ở vì cô thấy nó tươi mát, nhưng chúng tôi, mùa này, chúng tôi thấy nó ảm đạm và ghê sợ. Mặt đất thì đen ngòm, lầy nhầy bùn nhão trộn với lá cây khô vì nước mưa mới dứt. Thân các cây to cũng đen đủi, cả bầu trời trên đầu chúng tôi cũng đượm màu tang tóc đầy những tảng mây nặng. Rồi, trong cảnh ẩn dật tăm tối và thê lương này, chúng tôi thấy hiện ra những bức tường trắng của ngôi biệt thất, kiến trúc gì mà kỳ cục, từ chỗ nó xuất hiện trước mắt chúng tôi không thấy một khung cửa sổ nào. Chỉ có một cửa ra vào nhỏ. Y hệt một nấm mồ, một lăng tẩm lớn ở tận cùng rừng sâu hoang vắng. Theo đà đi tới, chúng tôi đoán dần ra kiểu xây cất của nó. Ngôi nhà hứng đủ ánh sáng cần thiết ở hướng nam tức là phía bên kia, phía đồng quê. Khung cửa nhỏ thì khép lại bên hoa viên. Cha con ông Stangerson chắc phải tìm thấy ở đây một nhà tù lý tưởng để sống với thực và mộng của họ.

    Tôi xin đưa ngay ra bây giờ bản đồ ngôi biệt thất. Nó chỉ có một tầng trệt bước lên bằng vài bậc đá, với một gác nóc" không liên can gì đến công việc của chúng ta đây ". Nghĩa là dưới mắt bạn đọc, tôi xin trình bày bức họa đồ tầng trệt với tất cả nét đơn sơ của nó:

    1." Căn Phòng Vàng "với một cửa và một cửa ra vào độc nhất thông sang phòng thí nghiệm.

    2. Phòng thí nghiệm, với hai cửa sổ lớn có song sắt và hai cửa ra vào, một thông sang gian tiền đình, một thông sang" Căn Phòng Vàng. "

    3. Gian tiền đình, với khung của sổ không có chấn song và cửa ra vào mở ra hoa viên.

    4. Phòng rửa mặt.

    5. Cầu thang lên phòng áp mái.

    6. Lò sưởi lớn và độc nhất của biệt thất, dùng để tiến hành các thí nghiệm.

    Chính Rouletabille vẽ bản đồ này và tôi nhận thấy nó không thiếu một đường nét, một chỉ dẫn nào khả dĩ góp vào công việc tìm giải đáp cho bài toán đặt ra lúc ấy trước Công lý. Với lời chú giải và bức bản đồ, bạn đọc sẽ có cái vốn hiểu biết đủ để đi tới sự thật không kém Rouletabille khi anh bước vào ngôi biệt thất lần đầu tiên và ai cũng tự hỏi thầm:" Tên sát nhân đã trốn khỏi "Căn Phòng Vàng" bằng lối nào? "

    Trước khi bước lên ba bậc đá ở cửa ra vào biệt thất, Rouletabille ngăn chúng tôi lại và hỏi Robert Darzac đột ngột:

    " Vậy động cơ gây án là gì? "

    " Theo tôi thì, thưa ông, chẳng có gì để ta nghi ngờ về vấn đề này, "– hôn phu của cô Stangerson buồn bã đáp -" Những dấu ngón tay, những vết trầy móc sâu vào thịt ở ngực và ở cổ cô Stangerson chứng tỏ tên khốn nạn đã cố phạm một tội ác rung rợn. Các bác sĩ chuyên viên giám định hôm qua đã khám nghiệm những dấu vết này và quả quyết chúng đều do cái bàn tay đẫm máu in trên tường gây ra cả. Một bàn tay to rộng, thưa ông, và xỏ không vừa chiếc găng của tôi "– ông nói thêm với một nụ cười không thể giải nghĩa.

    " Liệu cái dấu tay dính máu ấy, "tôi ngắt lời," có phải là dấu những ngón tay máu của cô Stangerson lúc quỵ xuống đã đụng vách tường, và trong lúc từ từ ngã khuỵu đã kéo dài thành hình loang to của một bàn tay đẫm máu không? "

    " Không có một giọt máu nào trên cả hai tay của cô ấy "ông Darzac đáp.

    " Như thế là bây giờ "– tôi nói –" ta đã chắc chắn chính cô Stangerson tự trang bị khẩu súng lục của bố Jacques, vì cô đã bắn trúng tay tên sát nhân, vậy thì cô phải sợ hãi một cái gì hoặc một người nào đấy. "

    " Có thể vậy. "

    " Ông có nghi ngờ ai không? "

    " Không, "ông Darzac đáp, nhìn Rouletabille. Sau đó, Rouletabille nói với tôi:

    " Anh nên biết rằng, bạn tôi ơi, cuộc thẩm cứu đã tiến xa hơn những gì lão từ giữ ấn của ông Dự thẩm thổ lộ với chúng ta. Không phải bây giờ ông Dự thẩm mới biết khẩu súng lục là vũ khí cô Stangerson dùng để tự vệ, nhưng còn biết và đã biết ngay từ trước, cái vũ khí dùng để tấn công, để đả thương cô Stangerson là cái gì. Ông Darzac đã cho tôi biết nó là một "khúc xương cừu". Tại sao ông De Marquet che giấu cái khúc xương cừu ấy nhiều bí ẩn như vậy? Tại vì ông muốn dành phần dễ dàng cho các nhân viên Công An, không nghi ngờ gì nữa. Có lẽ ông tưởng sẽ tìm thấy chủ nhân của nó trong đám côn đồ hạ đẳng ở Paris thường sử dụng vũ khí giết người ấy, thứ khí giới khủng khiếp nhất bọn sát nhân có thể nghĩ ra. Vả chăng, ai biết được những gì ở trong một khối óc dự thẩm? "Rouletabille nói thêm với giọng châm chọc.

    " Có một khúc xưng cừu được tìm thấy trong căn phòng vàng ư? "Tôi hỏi anh ta.

    " Đúng vậy, thưa ngài, "Darzac đáp," ở dưới chân giường; nhưng tôi xin các ông đừng nói cái gì về điều này nữa. "(tôi liền ra dấu phản đối)" nó là một khúc xương cừu khổng lồ, mà hơn nữa, nó là một cái khớp còn đỏ thẫm máu ở vết thương gớm ghiếc nó gây cho cô Stangerson. Một khúc xương cừu cũ có thể là đã dùng vào nhiều tội ác trước đó, xét theo bề ngoài. Ông De Marquet nghĩ vậy, và đã cho mang về Paris để phân chất tại Phòng Thí Nghiệm thành phố. Ông ấy tin đã ghi nhận trên khúc xương không những máu tươi của nạn nhân mới nhất, mà còn những dấu đỏ hung hung không thể là gì khác hơn những vết máu đã khô, chứng cớ nhiều tội ác trước. "

    " Một khúc xương cừu trong tay một tên sát nhân lão luyện là một vũ khí kinh khủng "– Rouletabille nói, –" một vũ khí đảm bảo hơn một chiếc búa nặng. "

    " Tên vô lại đã chứng minh điều đó là như vậy, "Ông Robert Darzac nói, thật đáng buồn." Phần xương được tìm thấy khớp hoàn toàn với vết thương." "Theo tôi, vết thương sẽ giết chết nạn nhân nếu hung thủ không bị chặn nửa chừng lúc xuống tay, bởi khẩu súng của cô Stangerson. Bàn tay bị thương, nó mới buông khúc xương cừu và chạy trốn. Khốn một nỗi, khúc xương cừu đã đánh xuống và trúng đích rồi. Cô Stangerson hầu như chết thật sau khi đã suýt chết vì bị bóp cổ. Nếu cô Stangerson gây được thương tích cho nó ngay phát súng đầu tiên thì chắc cô đã thoát khúc xương cừu. Nhưng cô nắm được khẩu súng quá muộn. Rồi phát súng đầu trong lúc vật lộn, cô bắn trượt, đạn bay trên trần nhà, đến phát thứ hai mới trúng!"

    Dứt lời, ông Darzac đập cửa ngôi biệt thất. Tôi có nên thú nhận với bạn đọc rằng tôi nôn nóng vào được chính nơi xảy ra tội ác biết chừng nào. Tôi phát run người và mặc dầu câu chuyện khúc xương cừu hàm chứa nhiều điểm đáng chú ý, tôi sốt ruột thấy nó kéo dài và cửa biệt thất vẫn chưa được mở. Sau cùng thì nó cũng được mở bởi một người đàn ông mà sau đó tôi nhận ra là bố Jacques.

    Ông ấy có vẻ là hơn sáu mươi tuổi. Bố Jacques có râu dài và tóc đều màu trắng, đầu đội một chiếc mũ phẳng, mặc một bộ com lê màu hạt dẻ đã sờn mép, và đi một đôi guốc. Bộ mặt cau có nhưng ngay sau đó sáng bừng lên khi ông trông thấy Darzac.

    "Những người bạn" – người dẫn đường chỉ giới thiệu chúng tôi ngắn gọn – "không có ai trong biệt thật chứ bố Jacques?"

    "Thưa ông Robert, tôi không được phép để ai vào, nhưng cố nhiên lệnh cấm không nhắm vào ông, không hiểu sao? Họ đi thấy mọi cái họ cần thấy, mấy ông ở tòa án đó. Họ vẽ bao nhiêu bản đồ, lập bao nhiêu biên bản rồi."

    "Xin lỗi, bố Jacques, cho tôi hỏi trước một câu được chứ?" Rouletabille nói.

    "Rất sẵn lòng, nếu tôi trả lời được!"

    "Cô chủ của ông tối hôm ấy chải tóc kiểu băng-đô, chắc ông biết, tức chải rẽ vắt ngang trên trán, phái vậy không?"

    "Dạ không, thưa ông bạn trẻ, cô chủ tôi không hề làm tóc băng-đô như ông tả, tối hôm ấy và mọi tối khác cũng không. Bao giờ cô cũng chải vén lên cho người ra thấy vầng trán đẹp của cô, vầng trán trắng bạch như trán đứa bé mới chào đời."

    Rouletabille lầm bầm gì đó rồi cắm cúi xem xét cửa ra vào. Anh thấy ngay nó tự động khép lại. Anh nhận định nó không bao giờ đứng yên được trong tư thế mở, và muốn mở phải có chìa khóa. Sau đó chúng tôi vào gian tiền đình, nhỏ nhưng sáng sủa, lát gạch bông đỏ.

    "A! Đây là chiếc cửa sổ mà tên sát nhân đã tẩu thoát!" Rouletabille nói.

    "Họ cứ nói thế, thưa ông, họ cứ nói thế. Nếu nó trốn qua đây nhất định chúng tôi phải thấy. Chúng tôi đâu có mù! Cả ông Stangerson, cả tôi, cả vợ chồng chú gác cổng họ đã bỏ tù đó, không ai mù! Tại sao họ không nhốt luôn cả tôi đi, vì khẩu súng của tôi đó!"

    Rouletabille mở cửa sổ và kiểm tra cánh cửa.

    "Hai cánh cửa này đều đóng khi án mạng xảy ra chứ?"

    "Bằng chốt sắt cài phía trong," bố Jacques quả quyết, "và tôi, tôi chắc chắn tên sát nhân đã đi xuyên qua."

    "Có vết máu không?"

    "Có, đây này, trên đá đó, phía ngoài. Nhưng máu gì mới được chứ?"

    "..."

    – Rouletabille reo lên, – "có dấu chân nữa, kia kìa, trên lối đi, đất chỗ này ướt lắm. Lát nữa, chúng ta sẽ xem xét điểm này."

    "Không thể nào," – bố Jacques ngắt lời anh – "thủ phạm không qua lối này được!"

    "Thế hắn qua lối nào?"

    "Làm sao tôi biết được chứ?"

    Rouletabille nhìn mọi thứ, ngửi mọi thứ. Anh quỳ xuống và kiểm tra từng ô gạch một. Bố Jacques tiến đến:

    "A! – ông sẽ chẳng tìm thấy gì đâu. Không có thứ gì được tìm thấy. Và giờ thì nó bẩn hết rồi; quá nhiều người đã giẫm lên. Họ sẽ không để tôi lau dọn, nhưng vào ngày xảy ra vụ án, tôi đã lau dọn nó rất cẩn thận, và nếu kẻ sát nhân đi qua cùng với đôi guốc của hắn thì chắc chắn tôi sẽ thấy dấu vết. Hắn cũng để lại bao nhiêu vết giầy ở phòng cô chủ."

    Rouletabille đứng lên và hỏi:

    "Ông lau rửa sàn nhà đá này lần chót vào lúc nào?" và anh nhìn đăm đăm vào bố Jacques đầy dò xét.

    "Thì chính hôm xảy ra án mạng, tôi nói rồi mà! Khoảng năm giờ rưỡi, trong lúc cha con cô chủ đi tản bộ một vòng trước khi dùng bữa chiều ở ngay đây chứ đâu, vì hôm ấy hai người ăn chiều ở phòng thí nghiệm. Hôm sau, khi Dự thẩm đến, ông ta đã thấy các dấu chân dưới đất rõ như mực đen trên giấy trắng. Thế mà, cả phòng thí nghiệm, cả gian tiền đình, sạch bóng như gương không ai tìm thấy vết chân của nó, của thằng đó. Vết chân nó, bởi vì người ta tìm thấy ở gần cửa sổ phía ngoài, nên bắt buộc nó phải đục trần" Căn Phòng Vàng ", phóng lên gác nóc, trổ nóc nhà, rồi lọt trúng chỗ cửa sổ gian tiền đình, bằng cách buông mình cho rơi xuống đất. Thế nhưng, làm gì có lỗ hổng nào trên trần" Căn Phòng Vàng ", gác nóc cũng không, tất nhiên! Vậy thì, ông thấy đó, chẳng ai biết đằng nào mà mò, hoàn toàn mù tịt, không biết tí tí gì ráo! Đây là một bí mật của ma quỷ!"

    Rouletabille quỳ xuống một lần nữa ngay trước phòng rửa mặt ở sau gian tiền đình. Anh cứ giữ nguyên cái tư thế ấy trong vòng khoảng một phút.

    "Và?" tôi hỏi khi anh ấy đứng dậy.

    "Ồ! Không có gì quan trọng đâu, - một giọt máu," anh đáp lại, quay lại phía bố Jacques "Khi ông lau phòng thí nghiệm và biệt thất, cửa sổ biệt thất vẫn mở phải không?"

    "Tôi mới mở thôi, vì tôi đốt than cho ông chủ trên lò phòng thí nghiệm và tại tôi nhóm lửa bằng giấy báo nên khói quá, tôi đã mở các cửa sổ phòng thí nghiệm và cửa sổ gian tiền đình cho gió vào. Xong, tôi đóng hai cái bên phòng thí nghiệm và để mở cái ở gian tiền đình, rồi tôi đi ra ngoài một lát để kiếm cái khăn rửa chén ở phía lâu đài. Và chính lúc trở về, như tôi đã nói với ông, khoảng năm giờ rưỡi, tôi bắt đầu lau rửa sàn đá. Lau xong, tôi lại đi, vẫn để mở cửa sổ gian tiền đình. Sau hết, lần chót tôi trở vô biệt thất, cái cửa sổ thấy đóng và cha con ông giáo sư đang làm việc trong phòng thí nghiệm."

    "Hay là ông giáo sư và con gái đi dạo lúc trở về đã đóng lại?"

    "Có lẽ thế."

    "Ông không hỏi họ à?"

    "Không!"

    Sau một cái nhìn từ căn phòng rửa mắt qua chiếc lồng đầu cầu thang dần lên phòng áp mái, Roulelabille coi như không có chúng tôi ở đó, bước vào phòng thí nghiệm. Thú thật, tôi đi theo và cảm thấy hào hứng! Robert Darzac không bỏ qua bất kì hành động nào của bạn tôi. Còn tôi, mắt dính chặt ngay vào khung cửa thông sang "Căn Phòng Vàng". Nó đóng, hay nói đúng hơn, nó bị nghiêng qua phòng thí nghiệm vì tôi nhận thấy nó bị phá hủy một nửa và không dùng được. Nỗ lực của những người đã lao vào nó lúc án mạng xảy ra đã bẻ gãy nó. "

    Bạn tôi, người luôn có nguyên tắc khi làm việc, lặng lẽ nghiên cứu căn phòng. Phòng rộng và rất sáng. Hai cửa sổ thật lớn có chấn song trông ra vùng quê bát ngát. Đúng là một lỗ hổng soi vào rừng rậm, một phong cảnh tuyệt vời trên cả một thung lũng, một bình nguyên, cho đến tận thành phố lớn ở tít đằng xa kia trông rõ vào những ngày nắng to. Nhưng hôm nay thì chỉ có bùn dưới đất, bồ hóng trên trời và máu trong căn phòng này.

    Chiếm trọn một góc phòng thí nghiệm là mặt lò sưởi to rộng với những lò đúc nhỏ, những bếp than dùng vào những cuộc thử nghiệm hóa học. Những bình cổ cong, những dụng cụ vật lý hầu như chỗ nào cũng có, những bàn đầy ve lọ, giấy má, hồ sơ, một máy điện, những cục pin, một bộ máy mà theo lời giới thiệu của ông Robert Darzac thì giáo sư Stangerson dùng để chứng minh tính phân rã của vật chất dưới tác động của ánh sáng mặt trời, và nhiều dụng cụ khoa học khác.

    Và dọc các bức tường toàn là tủ, vừa tủ kín mít vừa tủ lắp kính trông thấy đủ thứ: Kính hiển vi, những máy chụp hình loại đặc biệt, một số lượng pha lê đếm không xuể.

    Rouletabille chúi mũi vào chiếc lò lớn. Anh dùng đầu ngón tay móc, ngoáy trong các lò đúc nhỏ. Bỗng anh đứng phắt dậy, tay cầm một mẩu giấy cháy dở. Anh đến chỗ chúng tôi đang nói chuyện bên của sổ và nói:

    " Giữ hộ tôi cái này với, ông Darzac. "

    Tôi nghiêng đầu nhìn vào mảnh giấy hung đỏ ông Darzac vừa nhận từ tay Rouletabille. Tôi nhìn thấy rất rõ, những chữ lõm bõm còn lại và đọc được:" Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn, cũng như sự tươi sáng của khu vườn . "

    Từ sáng nay, đã hai lần, những câu vô nghĩa này đánh mạnh vào tâm trí tôi, và lần thứ ba, tôi thấy chúng gây nơi vị giảng sư Sorbonne cùng một hiệu quả sét đánh ngang tai. Cử chỉ đầu tiên của ông Robert Darzac là quay nhìn bố Jacques, nhưng ông lão đang bận gì đó ở cửa sổ bên kia không trông thấy chúng tôi. Thế rồi, vị hôn phu của cô Stangerson run run mở bóp, cất mảnh giấy vào và thở dài:" Trời ơi! "

    Trong lúc ấy, Rouletabille leo vào lò, nghĩa là đứng trên mấy viên gạch một khuôn bếp, anh chăm chú nhìn lòng ống khói thu nhỏ dần ở phía trên và cách đầu anh năm mươi phân thì khép hẳn lại bằng những thẻ sắt gắn vào trong gạch, cho thò ra ngoài ba ống tròn khoảng mười lăm phân đường kính mỗi ống.

    " Không thể qua lối này được, chàng phóng viên nhảy ra và tuyên bố – mà nếu hắn có chui qua đây thì tất cả mớ sắt vụn này phải nằm dưới đất. Không! Không! Chỗ này chịu thua, không tìm được gì hết "

    Sau đó, anh kiểm tra lại bàn ghế cũng như mở các cửa tủ.

    Rồi đến lượt hai khung cửa sổ anh cũng tuyên bố không thể vượt qua và" hắn đã không đi qua đây ". Đến khung cửa thứ hai, anh bắt gặp bố Jacques đang chăm chú ngó ra ngoài.

    " Ô kìa, bố Jacques, ông nhìn gì vậy? "

    " Tôi nhìn cái ông cảnh sát cứ đi vòng quanh hồ mãi từ nãy đến giờ. Lại thêm một tên láu cá, chẳng nhìn thấy điều gì hơn kẻ khác! "

    " Ông không biết Frédéric Larsan à, bố Jacques? "Rouletabille buồn bã lắc đầu. –" Nếu biết, ông đã chẳng nói vậy. Ở đây mà có ai đủ tài cán tìm ra thủ phạm thì chỉ có ông ấy thôi, phải tin như thế! "Và Rouletabille thở dài cái thượt

    " Nhưng trước khi tìm ra tên thủ phạm, ta phải biết được chúng ta mất dấu hắn như nào, "Bố Jacques nói đầy ngang bướng.

    Sau cùng, chúng tôi cũng đặt chân tới" Căn phòng vàng ".

    " Đây chính là cánh cửa mà đằng sau nó khung cảnh tồi tệ đã diễn ra,"Rouletabille nói, với một chút trịnh trọng trong một vài trường hợp nhất định, có thể là hài hước.
     
    AmiLee thích bài này.
  7. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 7: Ở nơi mà Rouletabille quyết định khám nghiệm dưới gầm giường

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Rouletabille đẩy mở cánh cửa "Căn Phòng Vàng", bỗng khựng lại trên bậc thềm, thốt ra một câu với giọng xúc động mà sau này tôi mới hiểu: "A, hương nước hoa của người đàn bà mặc đồ đen!"

    Căn phòng tối đen. Bố Jacques định mở rèm thì Rouletabille ngăn ông lại.

    "Không phải là tấn bi kịch xảy ra hoàn toàn trong bóng tối sao?" Anh hỏi.

    "Không, anh bạn trẻ à, tôi không nghĩ vậy đâu. Cô chủ luôn luôn có cây đèn ngủ thắp sáng trên bàn, và chính tay tôi tối hôm nào cũng thắp hầu cô khi cô sắp đi nằm. Tôi gần như một chị hầu phòng của cô vậy, kể từ lúc trời tối. Chị hầu phòng thứ thiệt thì chỉ đến buổi sáng. Cô chủ tôi làm việc khuya lắm! Ban đêm!"

    "Cây đèn được đặt ở đâu, - cách xa chiếc giường à?"

    "Khá xa đó"

    "Bây giờ ông có thể thắp giùm lên được không?"

    "Cây đèn ngủ bể rồi, và dầu chảy chan hòa khi cái bàn bị xô đổ. Ngoài ra, tất cả còn nguyên như cũ. Tôi chỉ mở cửa sổ là ông thấy ngay."

    "Đợi đã."

    Rouletabille trở vào phòng thí nghiệm, đi đóng hai cửa sổ ở đấy và cửa ra vào thông sang gian tiền đình. Khi căn phòng đã tối thui, anh thắp một ngọn nến, đưa cho bố Jacques bảo bố cầm đèn đứng vào khoảng chính giữa "Căn Phòng Vàng" đúng chỗ cây đèn ngủ thắp sáng đêm ấy.

    Bố Jacques chân mang tất - ông thường bỏ guốc lại gian tiền đình - bước vào "Căn Phòng Vàng" với cây nến trên tay. Chúng tôi trông thấy mờ ảo, vì ngọn lửa quá yếu soi không đủ sáng, những đồ đạc nằm ngổn ngang trên sàn nhà, một cái giường kê trong góc, và trước mặt chúng tôi, bên trái, ánh phản chiếu một tấm gương treo trên tường gần giường. Toàn cảnh qua rất nhanh.

    "Được rồi! Ông có thể mở rèm." Rouletabille nói.

    "Đừng đến gần hơn," Bố Jacques nài nỉ. "Ông có thể để lại dấu chân với đôi giày đó, và không có bất cứ thứ gì được phép xáo trộn ở đây; đó là quan điểm của ông Dự Thẩm – mặc dù ông ta cũng chả có việc gì làm ở chỗ này nữa."

    Sau đó, ông đẩy cánh cửa sổ. Ánh sáng yếu ớt bên ngoài tràn vào cho thấy một cảnh tượng hỗn độn giữa những bức tường màu vàng nghệ. Sàn gỗ gian tiền đình và phòng thí nghiệm lót gạch bông nhưng "Căn Phòng Vàng" thì lát ván, trải chiếu vàng liền một mảnh lớn, phủ gần kín căn phòng cả dưới giường và bàn trang điểm là hai món đồ duy nhất còn đứng vững. Chiếc bàn tròn kê giữa phòng, bàn đêm và hai ghế dựa đổ lăn lóc. Tuy vậy, chúng không che kín hết một vũng máu loang rộng trên chiếc thảm mà theo lời bố Jacques là từ vết thương ở trán cô Stangerson chảy ra. Ngoài vũng máu lớn này, còn nhiều giọt máu nhỏ lấm tấm hầu như ở khắp phòng và có vẻ đi theo dấu các bước chân rất rõ, những bước chân to đen của hung thủ. Tất cả dẫn đến phỏng đoán rằng những giọt máu ấy do vết thương của tên sát nhân đã một lúc nào đó, in bàn tay của nó lên tường. Những dấu khác của bàn tay này còn in nhiều trên tường nhưng không rõ bằng. Đúng là một bàn tay đàn ông thô lỗ đẫm máu.

    "Nhìn kìa! – nhìn những vết máu trên tường kìa!"... "

    Tôi không nhìn nổi, thốt kêu lên –" Kẻ đã áp mạnh bàn tay ở đây đang mò mẫm trong bóng tối và yên trí nắm được một cánh cửa. Hắn tưởng đẩy được nó ra. Vì thế mà hắn nắm rất chắc nên để lại trên mặt giấy vàng một hình vẽ nặng chất tố cáo ghê gớm, vì trên đời làm gì có nhiều bàn tay cỡ đó. Nó to và mạnh dễ sợ, các ngón gần như dài bằng nhau. Còn ngón cái thì không thấy. Nếu theo dõi cái dấu bàn tay này, chúng ta thấy sau khi bấm vào tường, hắn xoa mặt tường, hắn tìm cửa, thấy cửa, hắn tìm ổ khóa. "

    " Không nghi ngờ gì, "Rouletabille ngắt lời, anh cười khúc khích –" nhưng sao không có máu ở ổ khóa, cũng không có ở chốt cửa. "

    " Thì điều đó chứng minh cái gì? "– Tôi cãi lại –" hắn mở khóa và mở chốt bằng tay trái, hiển nhiên là như vậy, vì tay phải bị thương rồi "

    " Hắn chẳng mở cái gì cả! "– Bố Jacques lại hét lớn." Chúng tôi đâu có ngu! Khi phá cửa vào, chúng tôi tổng cộng bốn người ".

    Tôi tiếp tục:

    " Một dấu bàn tay thật kì lạ! Mọi người nhìn đi, thật kì lạ! "

    " Đó là một bàn tay rất bình thường thôi! "Rouletabille phản đối, –" Tại cái hình in ra đã bị méo mó vì hắn trượt trên mặt tường. Hắn đã chùi bàn tay vào tường. Hắn hẳn phải cao cỡ một mét tám mươi. "

    " Sao anh biết được? "

    " Nhờ vào độ cao của những dấu vết trên tường. "

    Anh bạn tôi sau đó quay ra xem đến dấu đạn trên tường. Nó là một cái lỗ tròn, Anh tuyên bố:

    " Viên đạn bay theo chiều "ngang", không từ trên, – không từ dưới bắn đi ".

    Và anh còn lưu ý chúng tôi nó ở dưới dấu tay trên tường có vài phân.

    Rồi quay ra cửa, Rouletabille cẩn thận khám nghiệm ổ khóa và cái chốt. Anh nhận xét" Quả thật người ta đã phá cửa từ phía ngoài, ổ khóa và chốt cài ngang còn gắn ở cánh cửa bể, ổ khóa vẫn khóa chặt, chốt còn đóng nguyên, và trên tường, hai mảnh sắt chụp ổ khóa đã bật ra lủng lẳng, nhờ còn một đinh ốc giữ lại nên chưa rơi xuống ".

    Anh chắc chắn không có cách gì để đóng hoặc mở cái chốt" từ bên ngoài ", và cầm chắc người ta đã tìm thấy chìa khóa cắm trong ổ" từ phía trong ". Anh còn chắc chắn một điểm nữa là một khi chìa đã cắm trong ổ phía trong thì không thể mở ổ khóa này bằng một chìa khác từ phía ngoài. Cuối cùng, sau khi ghi nhận ở cái cửa này không có một kiểu khép tự động nào, vắn tắt một câu, nó là cái cửa bình thường như mọi cửa, nó có gắn một ổ khóa và một chốt ngang rất kiên cố, còn đóng y nguyên, anh chàng buông một câu đắc ý:" Được lắm! "Đoạn ngồi bệt xuống đất, anh vội vã cởi giầy, và với đôi tất, anh quay trở lại căn phòng.

    Điều đầu tiên anh ấy làm là xem xét tỉ mỉ những đồ nội thất đổ rạp hỗn độn. Chúng tôi lặng lẽ quan sát anh.

    " Anh bạn trẻ, anh đang tự mang rắc rối cho mình đấy! "– Bố Jacques nói đầy châm chọc.

    Nhưng Rouletabille ngẩng đầu lên:

    " Ông nói đúng, bố Jacques, tối hôm ấy cô chủ của ông không để tóc kiểu băng-đô. Tôi đúng là đồ con lừa khi đã tưởng là thế! "

    Đoạn, anh chui tọt xuống gầm giường. Lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng anh:

    " Này ông Jacques, ông Stangerson và cô con gái đến phòng thí nghiệm lúc mấy giờ rồi không đi khỏi nữa? "

    " Sáu giờ. "

    " Đúng rồi, hắn có nằm đây, đúng, vả lại cả phòng chỉ có chỗ này hắn ẩn được, Khi phá cửa vào, bốn người quý vị có nhìn dưới gầm giường không? "

    " Ngay lập tức, - chúng tôi còn dựng lên để kiểm tra. "

    " Vậy có kiểm chỗ giữa những tấm nệm không? "

    " Giường chỉ có một tấm nệm thì đã đặt cô Stangerson nằm lên rồi. Chú gác cổng với ông Stangerson đã mang nó sang ngay phòng thí nghiệm. Dưới tấm nệm ấy chỉ có màn lưới sắt chẳng che giấu được gì, người cũng như vật. Rốt cục, thưa ông thử nghĩ coi, chúng tôi những bốn người, không gì qua mắt nổi. Phòng thì quá nhỏ, đồ đạc có gì đâu, mà trong khu biệt thất, hễ chúng tôi quay lưng đi là tất cả các cửa đều đóng hết. "

    Tôi đánh liều đưa ra một giả thuyết:

    " Có thể tên sát nhân trốn thoát cùng cái nệm! Trong cái nệm, biết đâu? Trước một bí ẩn như vậy, cái gì cũng có thể xảy ra! Giữa cơn bấn loạn, ông Stangerson và anh gác cổng không nhận thấy mình đang khiêng một người nặng gấp đôi. Rồi, lỡ anh gác cổng là tòng phạm của nó thì sao. Tôi đưa ra giả thuyết để tùy quý vị, riêng tôi thấy như thế thì giải thích được nhiều điểm đấy, và đặc biệt sự kiện phòng thí nghiệm và gian tiền đình không hề có dấu chân như ở trong "Căn Phòng Vàng". Khi người ta khiêng cô Stangerson từ phòng thí nghiệm qua bên lâu đài, cái nệm còn nằm một lúc gần của sổ, có thể đã cho phép hung thủ tẩu thoát. "

    " Và sau đó? "– Rouletabille hỏi, cố tình cười ầm dưới gầm giường.

    Tôi cảm thấy hơi phật lòng, đáp lại:

    " Tôi không biết, - nhưng cái gì cũng có thể xảy ra mà "–

    " Ông Dự thẩm cũng có cùng quan điểm đó, ông ta đã xem xét kỹ tấm nệm. Rồi ông cũng phải bật cười cho cái ý kiến của mình, như bạn ông đang cười ông lúc này đây, thưa ông, vì rõ ràng không phải tấm nệm có hai đáy! Vả chăng, nếu có người đàn ông nằm trong, tất nhiên chúng tôi đã thấy nó. "Bố Jacques nói.

    Tôi cũng phải cười chính mình, và thực vậy, từ lúc đó, tôi có bằng cớ rằng tôi đã nói một điều quái gở. Nhưng không biết nó bắt đầu từ đâu, tới đâu chấm dứt, cái quái gở trong một vụ như vụ này!

    Chỉ bạn tôi có vẻ như có thể nói được điều gì đó thông minh. Anh nói vọng ra từ phía gầm giường:

    " Này bố Jacques, tấm thảm này đã bị lật lên phải không? "

    " Do chính tay chúng tôi đó, thưa ông, "Bố Jacques giải thích," khi chúng tôi không tìm thấy thủ phạm, chúng tôi liền nghĩ không biết có cái lỗ hổng nào trong sàn gỗ không. "

    " Không có rồi đấy. "Rouletabille trả lời vọng ra." Đây có hầm chứa rượu không ông? "

    " Không, không có hầm nào cả. Nhưng điều đó không buộc chúng tôi ngừng tìm kiếm và ông Dự thẩm của ông, đã nghiên cứu sàn nhà từng tấm ván một, làm như ở dưới có hầm vậy ".

    Đến đây, anh phóng viên trườn người bò ra. Mắt anh long lanh sáng, cánh mũi phập phồng dáng điệu một con vật non tuổi trở về hang sau một buổi kiếm mồi no nê. Anh vẫn còn quỳ phục dưới đất. Thật ra, trong đầu óc tôi chỉ có thể so sánh anh với một con chó săn quá khôn đang trên đường rượt đuổi một con mồi lạ nào đó. Và anh đang đánh hơi một con người, con người mà anh đã thề phải mang về cho chủ anh, ông chủ nhiệm báo Epoque, bởi ta không nên quên chàng Joseph Rouletabille của chúng ta là phóng viên nhà báo.

    Cứ thế với hai tay và hai chân, anh bò khắp bốn góc phòng, hít ngửi tất cả, xoay quanh tất cả, tất cả những gì chúng tôi trông thấy, rất ít, và tất cả những gì chúng tôi không trông thấy thì hình như nhiều vô kể.

    Bàn trang điểm là chiếc bàn nhỏ bốn chân, không thể lấy nó làm một chỗ ẩn nấp tạm thời. Tủ đứng thì chẳng có cái nào. Cô Stangerson có tủ treo áo nhưng để bên lâu đài.

    Cái mũi và bai bàn tay Rouletabille leo lên các bức tường, chỗ nào cũng xây gạch dầy. Khi anh đã làm một cuộc tuần tra suốt lượt bốn bức tường và đưa những ngón tay mềm mại xoa nắn khắp bề mặt giấy vàng vươn đến tận trần nhà làm cho anh có thể rờ tới bằng cách đặt chiếc ghế dựa lên trên bàn trang điểm và cứ kéo lê xung quanh phòng cái kiểu ghế đẩu tinh xảo ấy, khi anh đã xong xuôi với trần nhà nơi anh xem xét kỹ dấu đạn thứ hai, anh trở lại bốn cửa sổ và thế là đến lượt các chấn song sắt, hai cánh cửa sổ, tất cả còn vững chắc và nguyên vẹn. Cuối cùng anh thốt ra, một tiếng úi cha" thỏa mãn "và tuyên bố bây giờ thì anh yên trí rồi!

    " Thế nào, ông đã tin rằng cô chủ tội nghiệp của tôi bị nhốt kỹ khi thủ phạm có ý định giết cô, khi cô kêu chúng tôi đến cứu chứ? "– Bố Jacques run lên đau khổ.

    " Đúng, "anh phóng viên lau mồ hôi trán," quả thật "Căn Phòng Vàng" được khóa kín. "

    " Con vật của Chúa ", bố Jacques lẩm bẩm. Dù cho chính" Con vật của Chúa "mà phạm tội ác này thì nó cũng không trốn thoát nổi. Ê, nghe này! Quý vị có nghe không, đấy.. Im lặng!"

    Bố Jacques ra hiệu cho chúng tôi im, rồi giơ thẳng cánh tay chỉ vào tường về hướng khu rừng gần nhất, bố lắng tai nghe một tiếng gì mà chúng tôi không nghe.

    "Nó chính là hung thủ," ông nói. "Tôi phải giết nó. Nó quá quỷ quyệt, nhưng nó lại là Con vật của Chúa, và, hằng đêm, nó đến viếng mộ của nữ thánh Genevière và chả ai dám đụng tới nó, vì sợ rằng mẹ Angenoux có thể yểm bùa họ."

    "Con vật của Chúa to bằng nào?"

    "Suýt soát một con chó lùn cỡ bự. Nó là quái vật đấy, cho ông hay. A! Đã hơn một lần tôi tự hỏi biết đâu chả phải nó đã giương móng vuốt bóp cổ cô chủ tội nghiệp của tôi. Nhưng mà" Con vật của Chúa "đâu có mang giầy bố, đâu có bắn súng lục, làm gì có bàn tay kiểu này." – Bố Jacques nói một hơi và chỉ bàn tay đỏ trên tường. – "Vả chăng, người ta cũng phải thấy nó như thấy người, nó cũng bị nhốt trong phòng và trong biệt thất như người chứ!"

    "Dĩ nhiên", Tôi nói. – "Từ xa, trước khi thấy, tận mắt" Căn Phòng Vàng ", chính tôi tự hỏi không chừng mà con mèo của mẹ Agenoux cũng nêm,"

    "Anh cũng vậy ấy hả?" – Rouletabille ngạc nhiên.

    "Thế còn anh thì sao?" Tôi hỏi.

    "Tôi thì không, không một phút nào. Ngay lúc tôi đọc bài báo Martin, tôi đã biết không phải một con vật. Bây giờ thì tôi tin ở đây đã diễn ra tấn thảm kịch vô cùng bi đát. Nhưng bố Jacques, sao không thấy cụ nói gì về cái mũ nồi và cả chiếc khăn tay?"

    "Ông Dự Thẩm mang chúng đi mất rồi."

    "Tôi không hề trông thấy khăn tay với mũ nồi, vậy mà tôi có thể tả hai cái vật ấy nó như thế nào." anh phóng viên nghiêm nghị nói,

    "Ông thật là thông minh!" Bố Jacques lúng túng ho khan.

    "Chiếc khăn tay thuộc loại to bản, màu xanh sọc đỏ, và chiếc mũ nồi thuộc loại" bắt "kéo xệ một bên tai, như thế này này." – Rouletabille làm một cử chỉ diễn tả.

    "Đúng ghê. Ông quả là phù thủy cao tay." Và bố Jacques cố hết sức để bật cười, nhưng không được: "Sao ông biết chiếc khăn tay màu xanh sọc đỏ?"

    "Bởi vì nếu nó không màu xanh sọc đỏ thì không ai tìm thấy chiếc khăn tay nào cả."

    Rồi bỏ mặc bố Jacques, bạn tôi rút trong túi ta một tờ giấy trắng và một cái kéo. Anh cúi xuống những dấu chân, chọn một cái và áp tờ giấy lên cắt, xén. Thế là anh đã có một đế giầy bằng giấy đường viền quanh rất rõ. Anh đưa cho tôi giữ và khẩn khoản tôi đừng để mất. Sau đó, anh quay ra cửa và chỉ cho bố Jacques thấy Frédéric Larnan lúc ấy vẫn chưa rời bờ hồ. Anh lo ngại không biết viên thám tử này đến đây có phải để làm việc trong "Căn Phòng Vàng" không!

    "Không!" – Robert Darzac từ lúc Rouletabille đưa cho xem mẩu giấy cháy dở bây giờ mới mở miệng. – "Ông ta nói không cần xem" Căn Phòng Vàng ", rằng kẻ sát nhân đã ra khỏi" Căn Phòng Vàng "một cách rất ung dung và tối nay ông ra sẽ giải thích tại sao!"

    Thật lạ lùng, nghe Robert Darzac nói, Rouletabille vụt tái mặt.

    "Frédéric Larsan đã nắm chắc sự thật chăng, trong khi mình chỉ mới cảm thấy." – Anh lầm bầm – "Frédéric Larsan rất tài giỏi, thật tài giỏi và mình vẫn kính phục ông ta. Nhưng hôm nay, vấn đề là phải làm một cái gì hơn một công tác thám tử, hơn những gì do kinh nghiệm đã dạy. Cần nắm cho được sợi dây lý luận bằng đúng cái đầu phải nắm!"

    Và anh phóng viên hấp tấp chạy ra ngoài, bực bội vì ý nghĩ Fred, viên thám tử đại tài, danh tiếng lẫy lừng có thể mang lại trước mình lời giải đáp cho bài toán "Căn Phòng Vàng".

    Tôi theo kịp anh trên ngưỡng cửa biệt thất và nói:

    "Thôi nào, anh bạn, bình tĩnh lại đi. Anh không hài lòng sao?"

    "Có chứ" – anh thú nhận với một tiếng thở dài. "Tôi khá hài lòng. Tôi đã khám phá ra nhiều thứ."

    "Tinh thần hay vật chất?"

    "Vài cái tinh thần, - một vài cái vật chất. Đây, ví dụ này."

    Rồi anh nhanh nhẹn rút trong túi áo gi-lê ra một tờ giấy có lẽ anh đã cất vào đó trong lúc mò mẫm dưới gầm giường và trong nếp giấy gấp, anh đã bỏ vào một sợi tóc nhạt màu của một người phụ nữ.
     
    AmiLee thích bài này.
  8. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 8: Lời khai của cô Stangerson trước ông Dự Thẩm

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Năm phút sau, Rouletabille đang cắm cúi xem xét những dấu chân trong hoa viên, cả những dấu ở dưới cửa sổ gian tiền đình, thì một người đàn ông, có lẽ tôi tớ trong lâu đài, bước đến chỗ chúng tôi và nói lớn với Robert Darzac đang từ biệt thất đi xuống.

    "Ông biết không, thưa ông Robert, Dự thẩm đang lấy lời khai của cô chủ".

    Robert Darzac đưa mắt cáo lỗi chúng tôi rồi chạy như bay về phía lâu đài, người kia chạy theo.

    "Nếu xác chết mà nói được", tôi lên tiếng, "sắp có cái hay đấy nhé!"

    "Phải tìm cho biết, bạn tôi đáp, mình qua bên lâu đài đi".

    Rồi anh kéo tôi đi. Nhưng đến lâu đài, một hiến binh gác trong gian tiền đình ngăn không cho chúng tôi vào cầu thang dẫn lên lầu nhất. Chúng tôi đành chờ.

    Trong thời gian ấy, đây là những gì xảy ra trong phòng nạn nhân. Vì bác sĩ gia đình thấy cô Stangerson đã khỏe lại dần dần, nhưng sợ cơn đau tái phát lại hại không hỏi cung được nữa, bèn coi mình có bổn phận báo cho Dự thẩm biết và ổng Dự thẩm quyết định thực hiện ngay một buổi hỏi cung vắn tắt. Dự buổi hỏi cung này, có ông De Marquet, viên đăng kiểm, ông Stangerson và ông bác sĩ. Sau này, khi mở phiên tòa, tôi kiếm được đoạn chủ văn tờ biên bản hỏi cung ấy. Nó được trình bày như sau với tất cả cái khô khan của lối hành văn tư pháp:

    Hỏi: Xin lỗi, nếu cô cho phép, tôi xin đặt vài câu hỏi để cô trả lời. Như vậy, cô sẽ đỡ mệt hơn là kể lại cả câu chuyện dài.

    Đáp: Dạ được, xin ông cứ hỏi.

    Hỏi: Ngày hôm ấy, cô sử dụng thời gian như thế nào? Tôi muốn cô cho biết thật chính xác, thật tỉ mỉ.

    Đáp: Sáng hôm ấy tôi dậy muộn, khoảng mười giờ vì cha con tôi đêm trước về khuya lắm, sau khi dự buổi tiệc tối và tiếp tân khách do Tổng Thống thiết đãi các đặc sứ của Viện Hàn Lâm Khoa Học ở Philadelphie. Khi tôi rời khỏi phòng lúc mười giờ rưỡi thì cha tôi đang cặm cụi trong phòng thí nghiệm trước rồi. Chúng tôi làm việc với nhau đến mười hai giờ trưa, đi dạo nửa giờ trong hoa viên rồi ăn trưa bên lâu đài. Nửa giờ đi dạo tiếp cho tới một rưỡi như mọi ngày. Đoạn hai cha con trở về phòng thí nghiệm. Ở đây, tôi gặp chị hầu phòng vừa dọn phòng cho tôi xong, tôi vào Căn phòng Vàng để dặn dò chị vài việc không quan trọng. Chị rời biệt thất ngay và tôi lại bắt tay vào việc với cha tôi. Đến năm giờ, chúng tôi rời biệt thất đi dạo lần nữa và uống trà.

    Hỏi: Khi ra ngoài đi dạo lúc năm giờ cô có tạt vào phòng không?

    Đáp: Không thưa ông, chỉ có cha tôi ghé vào lấy hộ tôi cái mũ.

    Hỏi: Và ông đã không thấy gì khả nghi?

    Ông Stangerson: Cố nhiên không, thưa ông Dự thẩm.

    Hỏi: Thế thì gần như chắc chắn tên sát nhân chưa lẩn dưới gầm giường lúc ấy. Khi cô đi rồi, cửa ra vào phòng không khóa lại ư?

    Cô Stangerson: Dạ không, chúng tôi không có lý do để khóa cửa.

    Hỏi: Cô và ông Stangerson, hai cha con đi khỏi biệt thất trong bao lâu kể từ giờ phút ấy?

    Đáp: Khoảng một tiếng.

    Hỏi: Thế thì đúng rồi, đúng giờ đó tên sát nhân lẻn vào biệt thất. Nhưng bằng cách nào thì không ai biết. Quả thật, người ta có tìm thấy trong hoa viên những dấu chân từ cửa sổ gian tiền đình đi ra, nhưng không thấy dấu chân từ ngoài đi vào tới đó. Cô có để ý thấy cửa sổ gian tiền đình mở, khi cô đi cùng với cha cô không?

    Đáp: – Tôi không nhớ.

    Ông Stangerson: – Nó đóng kín

    Hỏi: Và khi cô trở về?

    Đáp: – Tôi không để ý.

    Ông Stangerson: – Nó vẫn đóng kín. Tôi nhớ rất rõ vì khi trở về, tôi có nói lớn tiếng: "Quái, trong lúc mình vắng mặt sao bố Jacques không mở cửa sổ ra?"

    Hỏi: – Lạ nhỉ! Lạ nhỉ! Ông nên nhớ lại thưa ông Stangerson, rằng bố Jacques trong lúc ông vắng mặt và trước khi bố đi khỏi, bố đã mở nó ra. Vậy là ông và cô trở về phòng thí nghiệm lúc sáu giờ và làm việc lại?

    Cô Stangerson – Dạ phải.

    Hỏi: – Và từ bấy giờ cho tới khi cô vào phòng cô, cô không hề rời phòng thí nghiệm lần nào.

    Ông Stangerson – Cả con tôi, cả tôi đều không, thưa ông Dự thẩm. Cha con tôi có việc quan trọng phải hoàn thành, không dám bỏ phí một phút. Chúng tôi lơ là với mọi chuyện khác chính vì thế.

    Hỏi: – Ông và cô dùng bữa chiều trong phòng thí nghiệm?

    Đáp: – Dạ phải, cùng một lý do.

    Hỏi: – Hai cha con có hay dùng bữa trong đó không?

    Đáp: – Ít lắm.

    Hỏi: – Tên sát nhân không thể biết hai cha con hôm ấy ăn bữa chiều ở phòng thí nghiệm chứ?

    Ông Stangerson: – Chúa ơi, thưa ông, tôi không nghĩ. Tôi chỉ quyết định sẽ ăn bữa chiều trong phòng thí nghiệm với con tôi lúc đang trên đường về biệt thất lúc vào khoảng sáu giờ. Lúc ấy, anh bảo vệ đến và giữ tôi lại một lát để xin tôi đi cùng anh làm một cuộc tuần tra bên phía rừng, nơi tôi đã cho đốn cây. Tôi không đi được và hẹn lại ngày mai. Nhân tiện anh bảo vệ đi ngang lâu đài, tôi nhờ anh ghé qua báo cho anh quản rượu biết chúng tôi sẽ ăn bữa chiều ở phòng thí nghiệm. Anh chào rồi đi làm công việc tôi dặn. Còn tôi, tôi về gặp lại con gái, tôi đã giao chìa khóa biệt thất cho nó, nó về trước đã mở vào và chìa còn cắm ở ổ, phía ngoài. Lúc ấy, con tôi đã bắt tay làm việc trở lại.

    Hỏi: – Cô Stangerson, cô vào phòng cô lúc mấy giờ trong khi ông còn làm việc?

    Đáp: – Đúng nửa đêm.

    Hỏi: – Trong buổi tối, bố Jacques có lúc đã vào "Căn Phòng Vàng" chứ?

    Đáp: – Dạ có, để đóng của sổ và thắp ngọn đèn đêm, như mọi tối.

    Hỏi: – Bố không thấy gì khả nghi ư?

    Đáp: – Có thì bố đã nói. Bố Jacques là người trung thành và rất mến tôi.

    Hỏi: – Ông Stangerson, ông quả quyết sau đó bố Jacques không hề rời phòng thí nghiệm? Rằng suốt thời gian ấy, bố luôn ở bên cạnh ông, phải vậy không?

    Ông Stangerson: – Tôi chắc chắn như vậy. Tôi không hề nghi ngờ gì về phía bố.

    Hỏi: – Cô Stangerson, khi cô vào phòng, cô đã khóa cửa ngay và cài luôn cả chốt. Có phải quá cẩn thận không, vì cô biết cha cô và người bố già ở ngay đó. Vậy, phải chăng là cô sợ hãi một cái gì?

    Đáp: – Cha tôi sắp sửa về bên lâu đài, còn bố Jacques cũng sắp đi ngủ. Và quả thật, tôi có sợ một cái gì đó.

    Hỏi: – Cô quá sợ một cái gì ấy đến nỗi phải lấy trộm khẩu súng của bố Jacques mà không cho bố hay?

    Đáp: – Dạ phải, tôi không muốn để ai phải kinh sợ, nhất là nỗi sợ của tôi có thể là nhảm nhí.

    Hỏi: – Vậy cô sợ điều gì vậy?

    Dáp: – Tôi không sao nói được cho chuẩn xác. Đã nhiều đêm, hình như tôi nghe trong vườn và xung quanh biệt thất những tiếng động dị thường, đôi khi tiếng chân người, tiếng cành khô gẫy. Đêm trước ngày tôi bị mưu hại, tôi thức đến tận ba giờ sáng mới ngủ được. Từ điện Elysée về, tôi đứng bên cửa sổ một lúc và tưởng như trông thấy những bóng đen.

    Hỏi: – Mấy bóng?

    Đáp: – Có hai bóng đen cứ xoay quanh bờ hồ, rồi mặt trăng lẫn vào đám mây, tôi không thấy gì nữa. Mọi năm, cứ vào thời kỳ này trong mùa thì tôi đã về phòng riêng ở bên lâu đài, trở lại với những thói quen mùa lạnh. Nhưng năm nay, tôi tự nhủ, để đợi cha tôi hoàn thành bản tóm tắt công tác về "tính Phân Rã của Vật Chất" cho Viện Hàn Lâm Khoa Học xong đã rồi hãy về. Tôi

    Không muốn cái công trình quý giá ấy sắp kết thúc trong vài ngày nữa bị xáo trộn bởi một thay đổi nào đó trong những thói quen thường nhật của chúng tôi. Xin ông hiểu cho, tôi không muốn nói với cha tôi về những lo sợ trẻ con của mình và cũng không muốn hở cho bố Jacques biết, sợ bố không giữ được kín miệng. Dù sao, biết bố Jacques có khẩu súng lục để trong ngăn kéo bàn, tôi lợi dụng một lúc bố vắng mặt trong ngày để leo nhanh lên gác nóc lấy khẩu súng của bố và cất vào ngăn kéo của tôi.

    Hỏi: – Cô có kẻ thù không?

    Đáp: – Không.

    Hỏi: – Rồi đây cô sẽ hiểu, nhưng cách đề phòng đặc biệt ấy khiến nhiều người kinh ngạc.

    Ông Stangerson: – Cố nhiên, con gái à, phải công nhận cách đề phòng của con thật kỳ quái.

    Đáp: – Không, thưa ba, đã hai đêm rồi, con không được yên ổn, không yên ổn tí xíu nào hết.

    Ông Stangerson: – Đáng lẽ con cho ba biết mới phải. Sự im lặng của con không thể tha thứ. Nếu con nói, có phải chúng ta đã tránh được một tai họa không.

    Hỏi: – Cửa "Căn Phòng Vàng" đóng lại là cô đi ngủ ngay?

    Đáp: – Dạ phải, và vì quá mệt, nằm xuống là tôi ngủ được liền.

    Hỏi: – Cây đèn đêm vẫn cháy sáng?

    Đáp: – Dạ, vẫn cháy nhưng ánh sáng yếu lắm.

    Hỏi: – Rồi có gì xảy ra?

    Đáp – Tôi không biết đã ngủ lâu chưa nhưng chợt giật mình tỉnh dậy. Tôi hét một tiếng thất thanh.

    Ông Stangerson: – Vâng, một tiếng hét rợn người: "Hắn giết tôi!" Giờ tôi còn nghe rõ bên tai.

    Hỏi: – Cô hét một tiếng lớn?

    Đáp: – Có một người đàn ông trong phòng tôi. Hắn nhảy xổ tới bóp cổ tôi siết mạnh, tôi suýt nghẹt thở. Bất ngờ, tôi thò tay vào ngăn kéo bàn, nắm được khẩu súng cất trong đó đã nạp đạn sẵn. Đúng lúc ấy, hắn kéo tôi lăn xuống đất và đập trên đầu tôi một vật gì như cái chày. Nhưng tôi đã kịp bóp cò súng. Tức thì tôi cảm thấy bị giáng một cú rất mạnh, mạnh kinh khủng, vào đầu. Tất cả những đột biến ấy diễn ra nhanh quá, thưa ông Dự thẩm, tôi không biết nói sao, tôi không biết gì nữa.

    Hỏi: – Không biết gì nữa! Thế cô không có ý nghĩ gì về cách thức thủ phạm đã dùng để tẩu thoát sao?

    Đáp: – Không, tôi không biết gì nữa. Người ta làm sao biết được những gì xảy ra xung quanh khi người ta đã chết.

    Hỏi: – Tên đó cao lớn hay nhỏ con?

    Đáp: – Tôi chỉ thấy một bóng đen kinh khiếp quá.

    Hỏi: – Cô không thể cho chúng tôi một chỉ dẫn nào ư?

    Đáp: – Thưa ông, tôi không biết gì nữa. Một người đàn ông nhảy xổ vào tôi, tôi bắn hắn, tôi không biết gì nữa.

    Đến đây, chấm dứt buổi hỏi cung cô Stangerson. Joseph Rouletabille kiên nhẫn chờ ông Robert Darzac trở ra. Ông này xuất hiện nhanh chóng.

    Ông ta ở gian kế bên phòng cô Stangerson, đã lắng nghe trọn cuộc thẩm vấn và bây giờ kể lại với anh bạn tôi thật chân xác theo một trí nhớ thật bền dai, và ông tỏ ra ngoan ngoãn một cách kì lạ. Nhờ mấy dòng ghi chép vội vã bằng bút chì ông đã có thể tường thuật hầu như toàn văn những câu hỏi, đáp.

    Đúng là ông Darzac làm thư ký cho bạn tôi và trong mọi việc, ông hành động như người không dám từ chối bạn tôi một tí gì, hoặc hơn thế nữa, một người "phục vụ" anh hết sức tận tâm.

    Sự kiện "cửa sổ đóng kín" đập mạnh vào trí óc người phóng viên trẻ tuổi cũng như ông Dự thẩm. Ngoài ra, Rouletabille còn yêu cầu ông Robert Darzac nhắc lại cho anh nghe thời dụng biểu của ông Stangetson và con gái trong ngày xảy ra thảm kịch theo như hai cha con đã khai trước Dự thẩm. Trường hợp họ ăn bữa chiều trong phòng thí nghiệm dường như khiến anh

    Quan tâm tột độ, và anh bắt ông Darzac nhắc lại tới hai lần, để chắc bụng hơn, rằng chỉ có mình anh bảo vệ biết được ông giáo sư và con gái ăn bữa chiều trong phòng thí nghiệm và do đâu mà anh ta biết được.

    Khi ông Darzac dứt lời, tôi lên tiếng:

    - Té ra buổi hỏi cung nạn nhân chẳng đưa bài toán khó ấy tiến lên được bao nhiêu.

    Ông Darzac tố thêm:

    - Thậm chí còn kéo lùi.

    Nhưng Rouletabille tư lự:

    - Không hề!
     
    AmiLee thích bài này.
  9. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 9: Phóng viên và Thám tử:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ba chúng tôi quay trở lại biệt thất. Còn cách khoảng trăm mét, anh phóng viên ngăn chúng tôi lại và chỉ một lùm cây ở bên phải, anh nói:

    - Ngay chỗ này, tên sát nhân đã núp ở đây rồi lẻn vào biệt thất.

    Vì thấy còn nhiều lùm cây khác giống như thế mọc giữa những cây sồi to, tôi hỏi tại sao anh chọn lùm cây ấy chứ không chọn những lùm kia. Rouletabille vừa trả lời vừa trỏ một con đường nhỏ luồn gần lùm cây nọ và dẫn đến cửa vào ngôi biệt thất:

    - Con đường này có rải sỏi, anh thấy không? Bắt buộc nó phải theo đường này để tới biệt thất, vì không ai tìm thấy dấu chân nó trên đất mềm. Thằng đó làm gì có cánh. Nó cũng đi như người khác, nhưng nó đi trên những viên đá sỏi, chân nó đạp lên đá sỏi, đá sỏi lăn đi không để lại dấu vết. Lớp sỏi này đã có nhiều bàn chân giẫm lên vì đường này là đường ngắn nhất để đi từ biệt

    Thất đến lâu đài. Còn về lùm cây, nó gồm những giống cây không bị chết khô mùa lạnh – nguyệt quế và anh đào, nên đã cung cấp cho hung thủ một chỗ ẩn tốt đề chờ lúc thuận tiện mà đi vô biệt thất. Hắn trốn ở đó nên đã trông thấy cha con ông Stangerson đi ra, rồi đến bố Jacques. Người ta đã rải sỏi hầu như đến tận cửa sổ gian tiền đình. Dấu chân của nó song song với vách tường, dấu chân lúc nãy chúng ta chú ý và tôi đã trông thấy từ trước, chứng tỏ hắn chỉ cần nhảy một bước là tới sát ngay cửa sổ gian tiền đình đã được bố Jacques mở. Nó dùng sức cổ tay đu người lên một cái là vào đến gian tiền đình dễ dàng.

    - Xét kỹ, cũng có thể lắm! – Tôi nói.

    - Xét kỹ cái gì? Xét kỹ cái gì? - Câu nói của tôi vô tình làm anh đùng đùng nổi giận. Anh nói:

    - Xét kỹ, cũng có thể lắm! Nghĩa là sao?

    Tôi năn nỉ xin anh đừng giận, nhưng anh đã giận quá rồi, còn tai đâu mà nghe tôi năn nỉ. Anh tuyên bố rất kính phục tánh đa nghi thận trọng ở một số người (tôi) cứ đứng xa mà bàn những vấn đề đơn giản nhất, chẳng bao giờ dám quyết một câu: "Cái này là thế nọ hoặc" cái nọ không phải thế này ", đến nỗi đầu óc thông minh sáng láng của họ chỉ đủ để đạt tới cái kết quả mà rủi tạo hóa có trót quên không nhét vào sọ não của họ một tí chất xám thì cùng đến thế mà thôi.

    Thấy tôi ra ý bực tức, anh nắm tay tôi và thủ thỉ rằng những lời anh mai mỉa không nhắm vào tôi vì anh vẫn quý mến tôi đặc biệt.

    - Nhưng rốt cuộc – anh tiếp – đôi khi người ta cũng đắc tội lắm chứ! Nếu có thể mà không chịu lập luận dứt khoát! Nếu tôi không lập luận như vừa rồi với cái lối sỏi ấy thì tôi sẽ phải lập luận với một quả kinh khí cầu! Bạn thân ơi! Khoa học khí cầu điều khiển hiện chưa phát triển đến mức tôi có thể đem vào vòng vận dụng suy tư của tôi một tên sát nhân từ trời rớt xuống! Vậy thì bạn chớ nói một việc có thể thế này khi mà nó không thể thế khác. Giờ đây chúng ta biết hung thủ đã qua khung cửa mà vào bằng cách nào và chúng ta cũng biết hắn vào lúc nào nữa. Hắn vào trong buổi đi dạo lúc năm giờ. Sự kiện chị hầu phòng vừa dọn dẹp xong" Căn Phòng Vàng "đang còn ở trong phòng thí nghiệm khi cha con ông giáo sư trở về lúc một giờ rưỡi cho phép chúng ta khẳng định rằng lúc một giờ rưỡi tên sát nhân chưa núp trong phòng, dưới gầm giường, trừ trường hợp chị hầu phòng là tòng phạm của nó. Ông nghĩ sao, ông Robert Darzac?

    Robert Darzac lắc đầu và xác nhận hoàn toàn tin tưởng ở lòng trung thành của chị hầu phòng đối với cô Stangerson. Chị là người tớ gái rất thật thà và hết lòng với chủ.

    - Hơn nữa, lúc năm giờ, ông Stangerson có vào phòng để lấy mũ cho con gái cơ mà! Ông nói thêm

    - Lại còn cái đó nữa. - Rouletabille nói.

    Tôi góp ý:

    - Vậy thì tên sát nhân đã vào, như anh đoán chắc, bằng cửa sổ ấy. Cũng được đi. Nhưng tại sao nó lại đóng cửa sổ, làm thế tất nhiên phải gợi sự chú ý của người đã mở?

    - Có thể cái cửa sổ không được đóng lại ngay tức khắc – Anh phóng viên trả lời. – Nhưng nếu nó đã đóng cửa sổ lại, thì đó là tại khúc ngoặt của con đường rải sỏi cách biệt thất 25m và cũng tại ba cây sồi sừng sững ở chỗ này!

    - Ông nói sao? – Robert Darzac bỗng cất tiếng hỏi. Thì ra ông đi theo chúng tôi và đã nghe câu chuyện của Rouletabille với nỗi lo âu đến nghẹt thở.

    - Tôi sẽ giải thích sau, khi đến lúc, nhưng tôi không tin mình đã nói một lời nào quan trọng hơn về vụ này, nếu giả thuyết của tôi đúng.

    - Giả thuyết của ông thế nào?

    - Ông sẽ chẳng bao giờ biết được nếu nó không thành sự thật. Đó là một giả thuyết quá nghiêm trọng, tôi không thể tiết lộ bao lâu nó còn là giả thuyết.

    - Nhưng ít nhất ông cũng có ý kiến gì về tên sát nhân chứ?

    - Không, hiện tôi không biết thủ phạm là ai, nhưng ông đừng lo, thưa ông Robert Darzac, tôi sẽ biết.

    Tôi phải ghi nhận rằng Robert Darzac xúc động mạnh và tôi ngờ lời đoan quyết của Rouletabille không làm ông vừa lòng, vậy thì, nếu thật sự ông sợ người ta tìm ra thủ phạm (đây là tôi tự hỏi mình), tại sao ông lại có ý giúp anh phóng viên trong việc truy tìm nó? Anh bạn tôi dường như cũng cảm nghĩ với tôi nên tung ra một câu hỏi tàn nhẫn:

    - Ông có khó chịu khi thấy tôi tìm ra kẻ sát nhân không, ông Robert Darzac?

    - A! Tôi sẽ tự tay giết nó! – Người chồng sắp cưới của cô Stangerson la lớn khiến tôi kinh ngạc.

    - Tôi tin ông – Rouletabille trịnh trọng tuyên bố – nhưng ông chưa trả lời câu hỏi của tôi?

    Chúng tôi đi qua lùm cây Rouletabille nói lúc nãy. Tôi đi vào trong lùm và chỉ cho anh thấy những dấu vết rất rõ nét của một người đã ẩn núp trong đó để lại. Một lần nữa, Rouletabille nói không sai.

    - Đúng rồi! – Anh gật gù đắc ý – Đúng rồi! Chúng ta đương đầu với một con người bằng xương bằng thịt hẳn hoi, nó không có hơn chúng ta một phương tiện hành động nào và nhất định mọi sự sẽ đâu vào đấy! Dứt lời, anh bảo tôi đưa cho anh cái đế giầy bằng giấy đã nhờ tôi giữ hộ và đưa vào một dấu

    Chân rất rõ sau lùm cây. Đoạn anh đứng thẳng lên, thốt một lời khoan khoái:" Xong rồi "

    Bấy giờ tôi tưởng anh sắp sửa theo dõi những" dấu chân hung thủ "trên đường đào tẩu từ của sổ gian tiền đình trở đi, nhưng không, anh kéo chúng tôi đi một quãng khá xa chếch về bên trái, và tuyên bố khỏi cần uổng công rúc vào cái vũng bùn hôi hám ấy, lúc này anh đã biết tường tận con đường tên sát nhân đi trốn như thế nào rồi.

    - Hắn tới cuối dãy tường, cách đó năm mươi mét, rồi nhảy qua hàng giậu và con hào đây này, đúng trước con đường mòn đẫn đến hồ nước kia. Đó là con đường nhanh nhất để ra khỏi khu nhà và đi đến hồ.

    - Sao ông biết nó đi đến hồ.

    - Bởi vì từ sáng đến giờ, Frédéric Larsan không hề rời khỏi bờ hồ. Ở đó, tất phải có những dấu vết lạ lắm.

    Mấy phút sau, chúng tôi đã ở bờ hồ. Đây là một vạc nước nhỏ bùn lầy, xung quanh lau sậy rậm rạp, mặt nước còn lềnh bềnh vài cái lá sen rách úa.

    Ngài Fred có lẽ cũng thấy chúng tôi tiến lại, nhưng chắc không thèm quan tâm đến lũ hèn mọn này, vì thấy ông ta không để ý nhìn chúng tôi, cứ tiếp tục ngó ngoáy cây can cầm tay, dùng mũi can gảy đi gảy lại một cái gì mà chúng tôi không trông thấy.

    - Kia kìa – Rouletabille nói – lại" những bước chân kẻ sát nhân trên đường đào tẩu ". Hắn lượn theo bờ hồ ở chỗ này, quay trở lại rồi cuối cùng biến mất gần hồ, đứng trước con đường mòn dẫn đến đường cái đi Epinay. Tên sát nhân tiếp lục chạy trốn về hướng Paris.

    - Căn cứ vào đâu anh lý luận như vậy? – Tôi ngắt lời anh – vì trên mặt đường mòn không còn thấy dấu chân nữa.

    - Căn cứ vào đâu à? Thì những dấu chân này này, những dấu chân tôi chờ đợi! – Anh lớn tiếng và chỉ dấu in rất rõ một kiểu" giầy thanh lịch "! Đây, anh trông!

    Rồi anh gọi to Frédéric Larsan:

    - Ông Fred ơi! Những" bước chân thanh lịch "trên đường cái có phải đã có từ lúc xảy ra vụ mưu sát không?

    - Phải đấy, anh bạn, phải đấy, chúng được ghi lại rất kỹ – Fred trả lời nhưng không ngẩng đầu lên – anh thấy đó, có những bước chạy tới, có những bước chạy đi.

    - Và nó còn mang theo một chiếc xe đạp – anh phóng viên kêu lên – Đến đây!

    Sau khi nhìn dấu bánh xe đạp lăn theo những" bước chân thanh lịch "cả hai chiều tới, đi, tôi mong có thể xen vô một câu:

    - Chiếc xe đạp giải thích được tại sao những bước chân thô lỗ của tên sát nhân biến mất. Tên sát nhân có bước chân thô lỗ đã lên xe đạp. Tên tòng phạm của nó," kẻ có bước chân thanh lịch "đã đến đợi nó ở bờ hồ với chiếc xe đạp. Ta có thể đặt giả thiết là tên sát nhân đã hành động nhằm phục vụ tên mang giày hạng sang này không?

    - Không! Không! – Rouletabille nở nụ cười khó hiểu – tôi chờ đợi những bước chân này từ buổi đầu vụ án. Giờ tôi có chúng rồi, tôi không bỏ chúng cho các ông đâu. Đây chính là dấu chân kẻ sát nhân!

    - Thế những dấu giày, những bước chân thô lỗ thì sao?

    - Cũng là bước chân của nó, tên sát nhân.

    - Vậy là có những hai tên sát nhân?

    - Không, chỉ có một, và nó không có tòng phạm nào cả!

    - Giỏi lắm! Giỏi lắm! – Từ chỗ đang đứng Frédéric Larsan lên tiếng hoan hô.

    - Đây nhé – anh phóng viên nói tiếp và chỉ cho chúng tôi thấy chỗ đất bị gót giầy thô lỗ đạp lên – Nó ngồi ở đây và tháo đôi giầy thô lỗ nó mang để đánh lừa pháp luật ra, rồi có lẽ vẫn đem theo bên người, nó đứng lên bằng đôi chân trần và ung dung, chậm bước, nó tiến ra đường cái, tay dắt xe đạp. Nó không dám liều lĩnh cỡi lên xe đạp chạy trên con đường mòn mấp mô này. Thêm điểm nữa chứng minh, là dấu bánh xe đạp in nhẹ và ngập ngừng trên đường mòn quá xấu dù đất mềm. Nếu trên xe có người ngồi, vết bánh xe lăn tất phải lún vào đất sâu hơn. Không, không; ở đây chỉ có một người, là tên sát nhân, nó đi bộ!

    - Hoan hô! Hoan hô! – Ngài Fred lại reo to.

    Rồi thình lình, ngài bước lại chỗ chúng tôi, đứng phưỡn ngực trước mặt Robert Darzac:

    - Nếu có một chiếc xe đạp ở đây, chúng ta có thể chứng minh lý luận của ông bạn trẻ này là đúng, thưa ông Robert Darzac. Ông không biết ở lâu đài có cái nào ư?

    - Không – Robert Darzac đáp – làm gì có! Chiếc của tôi thì lần chót đến lâu đài trước vụ mưu sát, tôi đã mang về Paris bốn ngày nay rồi.

    - Uổng quá! – Giọng ngài Fred cực kỳ sắc lạnh.

    Rồi quay lại Rouletabille.

    - Nếu cứ đà này tiếp tục, ông sẽ thấy hai chúng ta cùng đi tới những kết luận giống nhau. Ông có ý kiến gì về cách thức tên sát nhân đã ra thoát" Căn Phòng Vàng "không?

    - Có, tôi có một ý kiến – Bạn tôi đáp gọn.

    - Tôi cũng có – Fred nói tiếp – và chắc cùng ý kiến với ông. Trong vấn đề này, không làm gì có hai cách lập luận.. Tôi còn đợi thủ trưởng tôi đến rồi mới trình bày ý kiến trước dự thẩm.

    - A! Thế ra ông Giám Đốc Cảnh Sát Công An sắp đến đây?

    - Phải, trưa nay, để cho đối chất trong phòng thí nghiệm, trước dự thẩm, tất cả những ai đã thủ hoặc đã có thể thủ một vai trò nào đó trong tấn thảm kịch này. Hứa hẹn nhiều màn hấp dẫn. Đáng buồn là ông không được dự.

    - Tôi sẽ dự – Rouletabille quả quyết.

    - Thật sao? Ông quả là nhân vật phi thường trong lứa tuổi của ông. Giọng nhà thám tử không che giấu vẻ mỉa mai. – Ông có triển vọng trở nên một thám tử kỳ tài.. Nếu ông hành động có phương pháp hơn một chút. Nếu ông bớt để cho linh tính trong đầu ông dẫn dắt. Tôi đã có nhiều dịp quan sát thấy như vậy, thưa ông Rouletabille, ông lý luận nhiều quá. Ông ít để cho óc nhận xét hướng dẫn về chiếc khăn tay đẫm máu và bàn tay đỏ trên tường, ông nói sao? Ông, ông đã trông thấy bàn tay đỏ trên tường, còn tôi, tôi chỉ thấy chiếc khăn tay, vậy thì..

    - Chậc! Rouletabille hơi sửng sốt – Tên sát nhân đã bị thương ở bàn tay do khẩu súng của cô Stangerson!

    - Ôi, một nhận xét thô bạo, theo trực giác. Hãy coi chừng, lập luận của ông quá" thẳng "đấy, ông Rouletabille, khoa luận lý sẽ chơi ông một vố cay nếu ông hành hạ nó như vậy. Trong nhiều tình huống, ta phải nâng niu nó, đứng xa mà ve vuốt nó nhẹ nhàng. Ông Rouletabille, ông đã có lý khi nói về khẩu súng của cô Stangerson. Chắc chắn là" nạn nhân "đã bắn. Nhưng ông đã lầm khi nói rằng phát súng ấy gây thương tích cho hung thủ ở bàn tay.

    - Tôi tin chắc như vậy! – Rouletabille dõng dạc.

    Fred lạnh lùng chặn lại:

    - Nhận xét sai rồi! Nhận xét sai rồi! Việc nghiên cứu chiếc khăn tay, những vệt nhỏ tròn, đỏ tía rắc ra nhiều chỗ, hình một chất lỏng nhỏ giọt mà tôi nhận thấy trên các dấu chân" chính lúc bàn chân đặt xuống đất "chứng minh với tôi rằng tên sát nhân không bị thương vì trúng đạn!

    Thưa ông Rouletabille, tên sát nhân bị đổ máu mũi.

    Ngài Fred nói thật nghiêm lúc. Vậy mà tôi vẫn không dằn nổi một tiếng kêu sửng sốt.

    Chàng phóng viên nhìn Fred, Fred nhìn lại. Và Fred rút ra ngay một kết luận:

    - Kẻ đổ máu trong bàn tay và trong khăn tay, đã chùi tay lên tường. Điều này rất quan trọng! Vì" Kẻ sát nhân chẳng cần phải bị thương ở bàn tay mới là kẻ sát nhân ".

    Rouletabille ngẫm nghĩ một lúc, đoạn nói:

    - Có một điều, thưa ông Frédéric Larsan, có một điều hệ trọng hơn rất nhiều việc hành hạ thô bạo khoa luận lý, đó là cái tinh thần chủ quan chuyên biệt của một số thám tử; nó khiến các ông này, với tất cả thiện chí," từ từ uốn lý luận theo chiều hướng những nhu cầu của nhận định họ có sẵn. "Ông đã có sẵn ý kiến về tên sát nhân, thưa ông Fred, ông đừng chối và tên sát nhân của ông không được phép bị thương ở bàn tay, nếu không thế thì ý kiến của ông tự nó sẽ sụp đổ, ông đã đi tìm và ông tìm thấy cái khác. Cái phương pháp khởi đi từ ý kiến người ta tự tạo ra trước về tên sát nhân để rồi đi tới những chứng cứ người ta cần có, thật là nguy hiểm, thưa ông Fred, thật nguy hiểm. Phương pháp ấy có thể dẫn ông đi xa. Ông nên coi chừng kẻo phạm sai lầm tư pháp, thưa ông Fred. Nó đang rình ông đấy. Rồi nhếch mép cười lạt, hai tay thọc túi quần, mặt hơi lộ vẻ giễu cợt, Rouletabille giương cặp mắt nhỏ tinh quái nhìn sửng ngài Fred.

    Frédéric Larsan im lặng quan sát thằng nhỏ con dám dương dương tự đắc giỏi hơn mình. Ông ta nhún vai chào chúng tôi và bỏ đi, sải những bước chân dài, cây can to gõ xuống đường kêu lốc cốc.

    Rouletabille nhìn nhà thám tử xa dần, đoạn anh quay lại chúng tôi, gương mặt lộ nét vui mừng và đã tràn trề đắc thắng.

    - Tôi sẽ hạ lão – Anh long trọng tuyên bố – Tôi sẽ hạ ngài Fred dù ngài là bậc kỳ tài. Tôi sẽ hạ tất cả bọn chúng. Và ngài Fred, một nhân vật lừng danh, một thám tử thượng đẳng, Fred quái kiệt, Fred có một không hai, vậy mà lý luận như một thằng khờ, như một thằng khờ, như một thằng khờ!" Anh tung người lên cao, hai chân đập vào nhau, biểu diễn một màn nhảy mèo vồ chuột. Bỗng anh cắt đứt vũ điệu nửa chừng. Tôi đưa mắt tôi đến chỗ mắt anh hướng tới. Thì ra Robert Darzac đang thất sắc nhìn xuống mặt đường mòn những dấu chân của mình nằm cạnh "dấu giầy thanh lịch". Hai thứ dấu giầy không có một nét nào khác. Chúng tôi tưởng ông xỉu đến nơi. Cặp mắt trợn trừng vì kinh hoảng né tránh chúng tôi một lát trong khi bàn tay phải đưa lên run rẩy vuốt bộ râu quai nón viền quanh gương mặt lương thiện, hiền lành và tuyệt vọng của ông. Cuối cùng, ông gượng trấn tĩnh, chào chúng tôi và bằng một giọng lạc hẳn đi, ông nói cần về lâu đài gấp rồi quay đi vội vã.

    - "Quỷ thật!" Rouletabille lẩm bẩm, cả anh phóng viên cũng có vẻ kinh hãi. Anh rút trong ví ra một tờ giấy trắng, như tôi đã thấy anh làm lúc trước, và dùng kéo cắt đường vòng cái dấu "giầy thanh lịch" của tên sát nhân, lấy mẫu ở ngay đó, dưới đất. Đoạn anh đem chiếc đế giầy mới bằng giấy này đặt lên trên dấu chân mang giầy cao cổ của ông Darzac. Khi hai mẫu vừa vặn ăn

    Khớp nhau hoàn toàn, Rouletabille đứng dậy, miệng nhắc lại câu vừa nói:

    - Quỷ thật! Tôi không dám hé răng góp một lời, vì nghĩ lúc này, những gì chạy qua đầu óc Rouletabille chắc phải nghiêm trọng lắm.

    Anh nói:

    - Thế mà mình cứ tưởng Robert Darzac là người thật thà.

    Rồi anh kéo tay tôi đi về quán "Vọng Lâu" thấp thoáng trước mặt chúng tôi cách đó một cây số bên đường cái, cạnh một lùm cây nhỏ.
     
    AmiLee thích bài này.
  10. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 10: Chúng tôi sẽ ăn thịt đỏ - ngay bây giờ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quán "Vọng Lâu" chẳng có gì gây ấn tượng, nhưng tôi vốn yêu thích những căn nhà lụp xụp, các xà gỗ đã đen thui vì thời gian và khói bếp, những quán trọ của thời ngựa xe rong ruỗi đường trường, những kiến trúc rung rinh chẳng bao lâu đã chỉ còn là kỷ niệm. Chúng lui vào dĩ vãng, chúng ràng buộc với lịch sử, chúng tiếp tục một cái gì đó và chúng gợi cho ta nhớ đến những chuyện cổ tích Đường Xa, khi có những cuộc phiêu lưu xảy ra trên đường thật.

    Tôi thấy ngay là quán "Vọng Lâu" được xây cũng ít nhất hai thế kỷ, có lẽ hơn. Chỗ nào cũng thấy đá vụn, vôi gạch long lở rời khỏi cái sườn gỗ vững vàng với những khung chữ X và chữ V vẫn còn hiên ngang chống đỡ mái nhà mục nát. Cái mái này đã nghiêng nghiêng sụp xuống hàng cột chẳng khác cái mũ kết trên trán người say rượu. Bên trên khung cửa ra vào, một tấm bảng hiệu rên lên ken két khi thoảng qua một làn gió mùa thu. Một nghệ sĩ trong vùng đã vẽ lên đây hình một ngọn tháp nóc nhọn và một cây đèn lồng giống cảnh trong lâu đài Glandier. Dưới tấm bảng hiệu này, trên ngưỡng cửa, một ông mặt mũi khá dữ tợn, áng chừng đang chơi vơi trong những tư tưởng tối đen, nếu xét theo những nếp nhăn trên trán và cặp lông mày giao nhau một cách khó thương.

    Khi chúng tôi đến đã quá gần, lão mới thèm để mắt tới và, chẳng lấy gì làm niềm nở, hỏi chúng tôi muốn gì. Chắc hẳn đây là ông chủ đáng ghét của cái quán dễ thương này. Chúng tôi ngỏ ý muốn ăn bữa trưa, lão nói huỵch toẹt là chả có gì ăn và không thỏa mãn chúng tôi được. Trong lúc nói, lão nhìn chúng tôi bằng con mắt nghi kỵ mà tôi không sao hiểu nổi lý do.

    - Ông có thể yên tâm dọn ăn cho chúng tôi – Rouletabille nói – chúng tôi không phải cảnh sát.

    - Tôi sợ gì cảnh sát. Tôi chả sợ ai cả?

    Tôi ra dấu cho bạn hiểu chẳng nên kèo nài thêm mất công, nhưng bạn tôi rõ ràng cố ý vào bằng được, đã luồn nhanh dưới nách chủ quán vào trong nhà.

    - Vào đi – anh gọi tôi – ở đây được lắm.

    Thật vậy, trong lò sưởi củi đang cháy to. Chúng tôi lại gần giơ tay hơ lùa cho ấm, vì sáng hôm ấy khí lạnh mùa đông đã bắt đầu lảng vảng không gian. Căn phòng khá lớn: Hai chiếc bàn gỗ dầy, vài ghế đẩu, một quầy dài trên sắp những chai si-rô và rượu mạnh. Ba khung cửa sổ trông ra đường cái. Trên tường, một tờ tranh màu trình bày một cô gái Paris cười toe toét nâng cao một ly rượu quảng cáo cho hơi men "đặc sắc" của một loại vang trắng mới sản xuất. Trên tấm ván nhỏ bắc ngang đầu lò sưởi, lỏng chỏng một đống những bình, những hũ bằng đá cát và bằng sứ.

    - Đây rồi, chiếc bếp lò quá tốt để quay một con gà – Rouletabille nói.

    - Chả có con gà nào – chủ quán đáp – một con thỏ ốm cũng không.

    - Tôi biết! Bạn tôi phản ứng bằng giọng châm chọc khiến tôi ngạc nhiên – "Tôi biết bây giờ sắp phải ăn thịt đỏ - ngay bây giờ."

    Thú thật, tôi chẳng hiểu mô tê gì về câu nói của Rouletabille. Tại sao anh bảo chủ quán vậy? Và tại sao lão chủ quán vừa nghe câu này đã bật ra một tiếng chửi thề nhưng vội hãm lại ngay rồi tình nguyện phục dịch chúng tôi một cách ngoan ngoãn, y hệt ông Robert Darzac khi nghe câu thần chú: "Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn của nó, cũng như ánh sáng của khu vườn." Đúng là bạn tôi có tài làm cho kẻ khác hiểu mình bằng những câu hoàn toàn không ai hiểu. Tôi đưa nhận xét này với anh, và anh mỉm cười. Tôi nóng lòng được anh cho vài lời giải thích, nhưng anh đã giơ một ngón tay lên miệng, rõ ràng không những anh không chịu nói mà còn đòi tôi phải im lặng.

    Trong lúc ấy, chủ quán đẩy một cánh cửa nhỏ gọi to xuống nhà dưới đòi mang lên nửa tá trứng và "miếng thịt nạc". Lệnh này được thi hành mau chóng bởi một thiếu phụ duyên dáng, tóc vàng óng với cặp mắt dịu dàng mở to nhìn chúng tôi bỡ ngỡ.

    Chủ quán giở giọng cộc cằn:

    - Thôi cút! Nếu thằng áo xanh vác xác đến, đừng có để tao thấy cái bản mặt mày!

    Người đàn bà lặng lẽ rút lui, Rouletabille cầm mấy quả trứng trong tô và miếng thịt bày trên đĩa mà người thiếu phụ vừa mang lên, cẩn thận để cả bên mình, nhấc cái chảo và tấm vĩ nướng treo trong bếp rồi bắt đầu đánh trứng trong khi chờ thịt chín trong lò. Anh lại gọi chủ quán lấy thêm hai chai rượu táo, sau đó làm bộ như chẳng thèm để ý đến chủ quán cũng như chủ quán ít quan tâm đến anh. Lão chủ quán hết nhìn anh chòng chọc lại nhìn tôi với vẻ lo lắng mà lão cố giấu không được. Lão bỏ mặc chúng tôi làm bếp và đi đặt hai bộ đồ ăn cho chúng tôi ở bàn gần cửa sổ. Chợt, tôi nghe lão lầm bầm: "A! Nó đây rồi!"

    Và lão biến sắc, trên mặt chỉ còn nét hận thù khủng khiếp. Lão đến sát cửa sổ nhìn ra đường cái. Tôi chẳng cần báo hiệu cho Rouletabille. Anh chàng đã buông vội món trứng tráng vọt tới cạnh chủ quán trước của sổ. Tôi cũng đến đứng bên anh.

    Một người đàn ông bận toàn nhung xanh, đội mũ kết tròn đồng màu, miệng ngậm ống vố, đủng đỉnh chậm bước trên đường cái. Một khẩu súng trường đeo chéo vai, gã cử động khoan thai như một nhà quý tộc. Tuổi trạc bốn mươi lăm, tóc và râu mép muối tiêu. Bảnh trai dễ sợ. Gã mang kính kẹp mũi. Khi ngang qua quán hàng, gã có vẻ ngần ngừ không biết có nên vào không, liếc trộm chúng tôi, thả mấy bụm khói ống vố, rồi vẫn bước chân uể oải, gã tiếp tục đi thẳng.

    Rouletabille và tôi cùng nhìn chủ quán. Mắt lão tóe lửa, hai quả đấm lăm lăm, môi run, chừng đó đủ tiết lộ với chúng tôi mớ cảm xúc hỗn độn đang vò xé tâm can lão. "Mày không vào hôm nay là phúc tổ cho mày đó, con!" Lão rít giọng căm tức.

    - Ai thế, ông chủ? Rouletabille miệng hỏi tay vẫn ngoáy tô trứng.

    - Thằng áo xanh! – Chủ quán gầm lên. – Ông không biết nó à? Càng hay cho ông đấy. Quen với hạng người đó chẳng ích chi. Nó làm bảo vệ cho ông Stangerson.

    - Ông không ưa gã lắm thì phải – Anh phóng viên vừa hỏi vừa đổ trứng vào chảo mỡ.

    - Người vùng này có ai ưa nó, thưa ông. Nó là thằng phách lối, ngày xưa chắc cũng có tí tiền. Nó chê bai những người nghèo khó phải làm tôi tớ để kiếm sống. Thì bảo vệ cũng là một thứ tôi tớ như ai, phải không ông? Nó cứ làm như nó là chủ lâu đài Glandier, tất cả đất đai, tất cả rừng cây là của nó không bằng. Không bao giờ nó cho người nghèo lấy một miếng bánh ăn trên bãi cỏ, trên "bãi cỏ của nó!"

    - Thỉnh thoảng gã có đến đây ư?

    - Nó đến suốt ấy. Nhưng tôi sẽ cho nó biết tôi không ưa nhìn thấy cái mặt nó. Cách đây một tháng nó có làm gì phiền đến tôi đâu. Quán "Vọng Lâu" đối với nó chẳng là cái chất gì! Nó không có thì giờ! Nó còn mãi tán tỉnh chị chủ quán "Ba bông huệ" ở Saint Michel. Bây giờ ba cái trò mèo mỡ lăng nhăng hết ăn tiền, nó đi kiếm mối chỗ khác. Quyến rũ con gái, bám váy đàn bà, thằng đểu cáng, không có một người tử tế nào chịu nổi nó, cái thằng ấy. Đây này, vợ chồng anh canh cổng lâu đài cũng không ưa nó, cái "thằng áo xanh"!

    - Thế ra vợ chồng anh canh cổng lâu đài là những người tử tế hả ông chủ quán?

    - Cứ gọi tôi là già Mathieu, tên tôi đấy! Phải rồi, cũng đúng như tên tôi là Mathieu, Thưa ông đúng, tôi tin họ là những người tử tế.

    - Thế mà họ bị bắt giữ rồi.

    - Thì đã sao? Chứng minh được cái gì? Ôi, mà tôi chả hơi sức đâu đi dính vào chuyện người khác.

    - Ông nghĩ sao về vụ mưu sát?

    - Vụ mưu sát cô tiểu thư đáng thương kia hả? Tội nghiệp, một cô gái hiền, vùng này ai cũng mến. Tôi nghĩ thế nào ư?

    - Vâng, ông nghĩ thế nào về vụ này? - Chả thế nào cả, mà cũng rất nhiều, nhưng có liên can gì đến ai.

    - Kể cả tôi sao? – Roulelabille cố nài. Chủ quán liếc xéo anh, lầu bầu trong miệng: "Kể cả ông.."

    Trứng đã tráng xong. Chúng tôi ngồi vào bàn và ăn trong im lặng. Bỗng cửa ra vào mở toang, một bà già rách như tổ đỉa, chống gậy, cái đầu lắc lư, mớ tóc bạc rủ mấy lọn rối bết xuống váng trán cáu ghét, hiện ra trên ngưỡng cửa.

    - A! Đây rồi, mẹ Agenoux! Lâu quá không ai thấy mẹ.

    "Tôi bệnh quá là bệnh, suýt chết!" – Bà lão đáp – "Ông có tí đồ ăn thừa nào cho" Con Vật Của Chúa "không đấy!"

    Và bà đi vào trong quán, một con mèo to dễ sợ theo sau. Tôi không hề tưởng tượng có con mèo to cỡ vậy bao giờ. Nó nhìn chúng tôi và phát ra một tiếng "meo" tuyệt vọng khiến chúng tôi rùng mình. Chưa bao giờ tôi nghe một tiếng kêu ghê rợn như vậy. Hình như bị tiếng mèo gào lôi cuốn, một người đàn ông bước vào quán, sau bà lão – chính là "gã áo xanh". Gã giơ tay lên vành mũ kết chào chúng tôi và ngồi vào bàn bên cạnh.

    "Cho tôi ly rượu táo đi, già Mathieu"

    Khi "gã áo xanh" bước vào, toàn thân già Mathieu lập tức bật ra một cử động vũ bão nhằm phía kẻ mới đến, nhưng rõ ràng lão tự trấn áp và trả lời:

    "Hết rượu táo rồi, còn mấy chai cuối để cho hai ông đây, sạch nhách"

    - Thế cho tôi một ly vang trắng cũng được. – "Gã áo xanh" nói tiếp, không hề tỏ vẻ ngạc nhiên.

    - Vang trắng cũng hết. Cái gì cũng hết. Chẳng còn gì ráo. – Lão Mathieu nhắc lại lần nữa, giọng khàn đi. Tất cả đều hết trơn hết trọi!

    - Bà Mathieu khỏe không?

    Chủ quán nghe câu hỏi của "gã áo xanh", quay nhìn gã, hai quả đấm nắm chặt, mặt mày hung tợn đến độ tôi đã tưởng lao ra tay ngay tức khắc, nhưng không, lão chỉ nói:

    - Bà ấy khỏe, cảm ơn!

    Hóa ra là người thiếu phụ có cặp mắt dịu hiền xuất hiện lúc nãy là vợ cái tên nhà quê thô bạo đáng ghê tởm này, một con người mà tất cả những cái xấu xa thể xác phải lu mờ trước cái bỉ ổi tinh thần: Máu ghen.

    Rập mạnh cánh cửa đánh rầm, chủ quán ra khỏi phòng. Mẹ Agenoux vẫn đứng đó, tay tỳ đầu gậy, với con quái miêu dưới vành váy. "Gã áo xanh" hỏi bà:

    - Mẹ bệnh hay sao hở mẹ Agenoux, đã tám ngày nay không ai gặp?

    - Vâng, thưa ông bảo vệ, tôi chỉ dậy được có ba lần để đi cầu nguyện thánh nữ Geneviève, thánh bổn mạng của chúng ta, còn bao nhiêu thì giờ cứ nằm dài trên chõng. Săn sóc tôi, chỉ độc có "Con Vật Của Chúa".

    - Nó không bao giờ rời mẹ sao?

    - Không bao giờ, ngày cũng như đêm.

    - Mẹ chắc không?

    - Như chắc có thiên đàng.

    - Thế thì mẹ Agenoux ơi, tại sao người ta nghe tiếng gào của "Con Vật Của Chúa" suốt trong đêm xảy ra án mạng?

    Mẹ Agenoux đứng thẳng người trước gã bảo vệ, gõ cây gậy xuống sàn nhà kêu lốp cốp:

    - Tôi không biết gì ráo. Nhưng ông muốn tôi nói cho mà nghe không? Trên cõi đời này, không có hai con vật có tiếng gào như vậy. Thế mà, cả tôi nữa, đêm án mạng, tôi cũng nghe bên ngoài có tiếng gào của "Con Vật Của Chúa" trong khi nó ngồi lù lù trên đầu gối tôi, thưa ông bảo vệ, và không hề kêu lấy một tiếng, tôi xin thề độc. Khi nghe cái tiếng quái gở ấy, tôi đã làm dấu thánh giá, y như khi nghe tiếng kêu của ma quỷ vậy!

    Trong lúc gã bảo vệ đặt câu hỏi vừa rồi, tôi vẫn chú ý nhìn gã và bắt gặp trên môi gã một cái nhếch cười cay độc và xỏ xiên. Đúng lúc ấy, có tiếng cãi nhau kịch liệt vẳng đến tai chúng tôi. Hình như cả tiếng đấm đá lịch bịch, như một vụ ẩu đả, như có kẻ bị đánh vùi.

    "Gã áo xanh" đứng phắt dậy, hốt hoảng chạy ra khung cửa bên cạnh lò sưởi nhưng cửa vụt mở và chủ quán hiện ra bảo "gã áo xanh" :

    - Cứ yên trí, thưa ông bảo vệ, vợ tôi nó đau răng đấy thôi! Rồi lão cười gằn. - Đây nè, mẹ Agenoux, có cục mỡ cho mèo của mẹ đây nè.

    Lão đưa cho bà già một cái gói. Bà già vồ nhanh như chớp và đi ra, con mèo theo bén gót. "Gã áo xanh" hỏi:

    - Ông không muốn dọn cho tôi cái gì ăn ư?

    Lão Mathieu hết còn kìm hãm lửa hận thù:

    - Không có gì cho anh hết! Không có gì cho anh hết! Anh đi đi!

    "Gã áo xanh" ung dung nhồi ống vố, mồi lửa, chào chúng tôi và đi ra. Gã vừa bước qua ngưỡng cửa thì lão Mathieu đã rập cánh của sau lưng gã một cái rầm, đoạn quay lại chúng tôi, hai mắt rực tia máu đỏ, sùi bọt mép, lão dứ dứ quả đấm về phía cánh cửa vừa khép lại sau lưng người lão căm thù, rồi rít giọng:

    - Tôi không biết ông là ai, ông, người đến nói với tôi "bây giờ sắp phải ăn thịt đỏ". Nhưng nếu ông thích quan tâm thì đấy, nó đấy, tên sát nhân là nó đấy!

    Dứt lời, lão Mathieu bỏ đi ngay. Rouletabille quay lại bếp lò, hoan hỉ:

    - Bây giờ, chúng ta nướng thịt ăn. Anh thấy món rượu táo thế nào. Hơi chát phải không? Tôi khoái vậy.

    Ngày hôm đó, chúng tôi không còn thấy mặt già Mathieu nữa. Quán ăn lặng ngắt như tờ lúc chúng tôi từ giã nó sau khi để lại trên bàn ăn năm quan trả tiền ăn uống. Tiếp đó, Rouletabille bắt tôi cuốc bộ gần một dặm đường xung quanh dinh cơ của giáo sư Stangerson. Anh dừng lại mười phút ở góc một con đường nhỏ đổ bồ hóng đen thui, gần các túp lều của mấy ông làm lò than dựng trong cái mảnh rừng thánh nữ Geneviève, giáp con lộ chạy từ Epinay đến Corbeil.

    Anh cho tôi biết chắc chắn lên sát nhân đã qua chỗ này "xét theo thể trạng những dấu giầy thô lỗ" trước khi lọt vào khu dinh cơ và núp trong lùm cây.

    - Vậy anh không tin là gã bảo vệ có liên can trong vụ này? Tôi ngắt lời anh.

    - Cái đó xét sau. Ngay lúc này, những gì lão chủ quán nói về gã không làm tôi bận tâm. Lão phát nguyện với lòng, thù hận. Đâu phải vì "gã áo xanh" mà tôi kéo anh đến ăn trưa ở quán "Vọng Lâu".

    Nói đoạn, Rouletabille lẻn vào – và tôi cũng lẻn theo anh – vào tới căn nhà nhỏ gần cổng sắt trước dùng làm gia cư cho vợ chồng anh gác mới bị bắt giữ lúc sáng nay.

    Bằng một thế đu bay điệu nghệ, anh chui tọt vào căn nhà, qua lỗ hổng sát nóc còn để ngỏ và mười phút sau, chui ra với một câu mà ở miệng anh nó mang nhiều ý nghĩa "đen quá!"

    Trong lúc chúng tôi sắp sửa lên đường trở lại lâu đài thì có tiếng huyên náo ngoài cổng sắt. Một chiếc xe hơi tới và từ lâu đài có người chạy ra. Rouletabille trỏ một người đàn ông đang trên xe bước xuống.

    - Giám Đốc cảnh sát Công An đó. Để rồi chúng ta xem Frédéric Larsan có cái gì trong bụng và ông ta có láu cá hơn ai không.

    Sau xe Giám Đốc Công An, có ba xe khác đi theo đầy nhóc phóng viên, nhà báo, ai cũng muốn vào hoa viên. Nhưng bên ngoài cổng sắt đã có hai hiến binh chặn lại không cho ai qua. Giám Đốc Công An vỗ về họ bằng lời hứa là đến chiều sẽ cho báo chí tối đa tin tức mà không gây trở ngại cho cuộc thẩm cứu đang tiến hành.
     
    AmiLee thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...