Chương 11: Lời giải thích của ngài Frédéric Larsan:
Trong cả đống tài liệu mà tôi gom góp được trong vụ Bí mật "Căn Phòng Vàng", có một thứ thú vị nhất. Đó là bản tường thuật buổi hỏi cung tất cả mọi người liên quan trong hiện vụ, diễn ra trưa hôm ấy trong phòng thí nghiệm của giáo sư Stangerson, trước viên Giám Đốc Cảnh Sát Công An. Nó được thảo dưới ngọn bút của ông Maleine – viên đăng kiểm, người cũng giống ông Dự thẩm, thường viết văn trong những giờ rảnh rỗi.
Tài liệu ấy đáng lẽ góp phần vào một quyển sách mang tên: Những Buổi Hỏi Cung Do Tôi Thực Hiện, nhưng chẳng bao giờ được ra mắt độc giả thân yêu. Tài liệu này, chính viên đăng kiểm đã đem cho tôi ít lâu sau màn "gỡ nút ly kỳ" của một vụ án độc nhất trong vườn hoa muôn sắc của lịch sử tư pháp. Nó như sau đây. Nó chỉ là một đoạn văn ghi chép khô khan những câu hỏi, đáp. Viên đăng kiểm thường xen vào cảm tưởng riêng của ông ta. Bản Tường Thuật Của Đăng kiểm:
Đã một giờ qua, ông Dự thẩm và tôi có mặt trong "Căn Phòng vàng" cùng với nhà thầu khoán đã xây cất ngôi biệt thất theo họa đồ của giáo sư Stangerson. Nhà thầu khoán đem theo một người thợ. Ông De Marquet cho lau rửa, kỳ cọ hoàn toàn các bức tường, nghĩa là lột hết lớp giấy dán trang trí. Những nhát cuốc bổ xuống khắp nơi, đã chứng minh với chúng tôi không hề có cửa ngõ, ngóc ngách nào trong phòng. Sàn nhà và trần nhà được dò tìm kỹ lưỡng. Chúng tôi không phát hiện được gì. Chẳng có gì để chúng tôi phát hiện.
Ông De Marquet có vẻ lấy làm thú vị và không ngớt nhắc đi nhắc lại:
- Vụ án thật là hay! Ông thầu khoán ơi, vụ án thật là hay! Ông sẽ thấy không bao giờ chúng ta hiểu nổi làm thế nào tên sát nhân ra thoát căn phòng này! Thình lình, ông De Marquet mặt mày đang hớn hở bởi vì chẳng hiểu mô tê gì; vụt nhớ ra nhiệm vụ mình là tìm hiểu, vội gọi viên Đội Trưởng Hiến Binh:
- Này, qua bên lâu đài mời giáo sư Stangerson và ông Robert Darzac đến gặp tôi tại phòng thí nghiệm, cả bố Jacques nữa, và cho người áp giải đến luôn hai người gác cổng.
Năm phút sau, toàn thể quân số được tập họp trong phòng thí nghiệm. Ông Giám Đốc Cảnh Sát Công An vừa tới Glandier cũng nhập bọn với chúng tôi cùng một lúc. Tôi đã ngồi vào bàn giấy ông Stangerson, sẵn sàng làm việc, thì ông De Marquet khai mạc bằng một bài thuyết trình ngắn, độc đáo cũng như bất ngờ:
- Thưa quý vị, xét vì các cuộc hỏi cung không đem lại kết quả gì, bây giờ nếu muốn, chúng ta thử bỏ cái phương pháp hỏi cung cũ một lần cho biết. Tôi sẽ không đòi quý vì đến trước mặt tôi lần lượt từng người. Không, chúng ta tất cả ở lại đây: Ông Stangerson, ông Robert Darzac, bố Jacques, hai người canh cổng, ông Giám Đốc Cảnh Sát công An, ông De Marquet và tôi! Tất cả chúng ta ở đây đều bình đẳng, hai người canh cổng hãy tạm quên đi một lúc là họ đang bị bắt giam. "Chúng ta cùng nhau nói chuyện". Tôi mời quý vị đến "để nói chuyện". Chúng ta đang ở giữa phạm trường tội ác, vậy chúng, ta nói chuyện gì đây nếu không phải là chuyện tội ác? Nào chúng ta nói đi! Nói cho thật nhiều, nói một cách thông minh hoặc nói một cách ngu xuẩn cũng được nữa. Cứ cái gì chạy qua óc là nói liền! Chúng ta nói bất chấp phương pháp, vì phương pháp chẳng đi tới đâu. Tôi xin dâng một lời cầu nguyện lên thần May rủi, cái may rủi chi phối những điều chúng ta quan niệm! Nào, chúng ta bắt đầu!
Đến đây, ông đi qua mặt tôi nói khẽ:
- Đó, ông thấy chưa, cảnh này coi được lắm! Ông, ông có thể tưởng tượng ra không? Tôi sẽ lấy nó dựng một lớp ngắn cho một vở bi hài đang thai nghén.
Và ông xoa tay tỏ ý hài lòng. Tôi đưa mắt nhìn giáo sư Stangerson. Tia hy vọng vừa nhóm lên trong ông do phiếu khám bệnh lần chót của các bác sĩ phỏng định cô Stangerson có cơ may được chữa lành các vết thương, không đủ xóa nhòa trên gương mặt thanh cao những vết hằn của nỗi đau thương vô tận. Ông già tưởng con gái không sống nổi nên toàn thân đã rũ riệt, không sinh lực. Trước kia, đã nhiều lần tôi có dịp thấy ông Stangerson trong các buổi lễ chính thức. Ngay từ phút đầu, tôi đã chú ý đến ánh mắt trong veo của ông chẳng khác ánh mắt đứa trẻ thơ: Ánh mắt ngây thơ, ánh mắt cao khiết và bất tử của người phát minh hay kẻ điên khùng. Trong những buổi lễ ấy, ông luôn luôn có cô con gái đứng sau, hoặc bên cạnh vì người ta đồn hai cha con không bao giờ lìa nhau, cùng làm việc chung từ nhiều năm qua. Người trinh nữ ba mươi lăm tuổi, nhưng trông chưa tới ba mươi đã nguyện dâng đời mình trọn vẹn cho khoa học, vẫn còn khơi dậy trong công chúng niềm cảm phục trước tấm nhan sắc kiêu sa, trong sạch, không tỳ ố, một vẻ đẹp chiến thắng cả thời gian lẫn tình yêu. Lúc ấy, ai dám bảo sẽ có một ngày rất gần, tôi đứng bên giường cô nằm bệnh với mớ giấy tờ, và sẽ thấy cô hầu như thoi thóp vận dụng sức tàn để kể cho chúng tôi nghe việc cô bị mưu toan sát hại quái đản nhất, kỳ bí nhất mà đời tôi bây giờ mới được nghe là một. Ai dám bảo rằng tôi sẽ thấy trước mặt, như buổi trưa hôm ấy tôi đã thấy, một người cha tuyệt vọng uổng công giải thích tại sao kẻ định giết con gái ông đã có thể thoát khỏi tay ông. Vậy thì, cái công việc ta làm trong câm lặng, ở tận nơi thâm sơn cùng cốc tối tăm này, nếu nó không đảm bảo cho ta tránh thoát những tai họa của cuộc sống và cái chết.
Ông De Marquet ra vẻ quan trọng:
- Thế này nhé, ông Stangerson! Xin ông đặt mình vào đúng vị trí ông ngồi lúc cô Stangerson từ đây đi vào phòng cô. Ông Stangerson đứng dậy và đi đến chỗ còn cách cửa vào "Căn Phòng Vàng" năm mươi phân, ông lên tiếng bằng một giọng nói không âm thanh, không mầu sắc, một giọng nói tôi nhận thấy không còn sức sống:
- Tôi ở chỗ này, khoảng mười một giờ, sau khi hoàn tất mau chóng một thí nghiệm hóa học trên mấy cái lọ nhỏ, tôi cho đẩy bàn giấy đến tận đây, vì bố Jacques buổi tối phải lo lau chùi sạch vài ba bộ máy, lúc ấy cần có tất cả khoảng rộng ở sau lưng tôi để làm việc. Khi con gái tôi đứng dậy hôn tôi rồi chào bố Jacques, nó phải lách người hơi khó khăn một chút giữa bàn giấy và cửa phòng mới vào được. Nói thế để ông thấy rằng tôi ở một chỗ rất gần nơi tội ác sắp diễn ra.
- Thế cái bàn giấy? – Tôi ngắt lời ông, (Xin nhớ: Tôi bây giờ là ông đăng kiểm) trong khi xía vô "câu chuyện" này tôi có ý chiều theo sở thích của cấp trên tôi. – Thế cái bàn giấy, thưa ông Stangerson, ngay khi ông nghe tiếng kêu cứu: "Nó giết tôi" và tiếng súng nổ thì cái bàn giấy ấy ra sao? "
Bố Jacques trả lời câu hỏi này thay ông chủ:
- Chúng tôi đẩy nó vào sát tường, chỗ này này, suýt soát như bây giờ đó, để chúng tôi rộng chân nhào tới cửa phòng, thưa ông đăng kiểm.
Tôi lần theo dòng lý luận của tôi, thứ lý luận mà thật ra tôi chỉ ban cho nó tầm quan trọng của một giả thiết yếu xìu:
- Cái bàn giấy ở gần căn phòng đến độ một người từ trong khom lưng chạy ra có thể chui qua bên dưới trốn mất mà không ai nhìn thấy được không?
-" Ông vẫn cứ quên "– Giáo sư Stangerson mệt mỏi cắt ngang –" rằng con gái tôi đã khóa trái cánh cửa và cài luôn cả chốt trong, Rằng cửa vẫn còn đóng, rằng chúng tôi cùng hợp sức phá cửa ngay từ lúc hành động mưu sát mới bắt đầu, rằng chúng tôi vẫn ở ngoài cửa trong khi cuộc vật lộn giữa tên sát nhân với đứa con gái tội nghiệp của tôi đang tiếp diễn, rằng tiếng động của cuộc vật lộn này còn vang đến tai chúng tôi và chúng tôi nghe rõ tiếng đứa con gái khốn khổ của tôi rên xiết dưới sức bóp của những ngón tay kẻ sát nhân còn để lại quanh cổ nó nhiều thương tích máu. Dù hắn tấn công con tôi nhanh cách mấy, chúng tôi cũng đã nhanh không kém và chúng tôi đã tới ngay lập tức đằng sau cánh cửa ngăn cách chúng tôi với thảm kịch đang diễn ra? Tôi đứng dậy, đi đến khung cửa, khom mình xem xét lại rất cẩn thận. Đoạn tôi thẳng người lên và phác một cử chỉ chán nản. Thử tưởng tượng, tấm ván dưới của cánh cửa có thể đã được mở ra, mà cánh cửa không cần mở hết, thì vấn đề giải quyết xong rồi. Nhưng khốn nỗi, giả thuyết này không chấp nhận được sau khi xem xét cánh cửa. Nó là một cánh cửa gỗ sồi chắc và dày, đóng thành một khối đồng nhất không thể cách ly. Thật quá rõ, mặc dầu nó đã bị đập phá hư hại nặng..
- Ô! – Bố Jacques lên tiếng – nó là một cánh cửa lâu đời, gỗ rất chắc, cửa lâu đài được mang đến đây từ lâu, loại cánh cửa ngày nay người ta không làm nữa. Chúng tôi phải dùng đến thanh sắt này mới phá được nó, bốn người cả thảy, vì có chị gác cũng góp thêm một tay, chị ta thật can đảm, thưa ông Dự thẩm! Dẫu sao, thật đau khổ khi thấy họ ở tù, giờ phút này!
Bố Jacques chưa dứt câu nói đầy xót thương và cố phản đối này thì tiếng khóc và tiếng rên của vợ chồng người canh cổng đã lại nấc lên tôi chưa hề thấy những bị can nào mau nước mắt như vậy. Tôi đâm ra chán ngấy. Giả sử họ – có oan thật đi chăng nữa, tôi không hiểu sao lại có những con người thiếu khí phách trước đau khổ đến thế. Một thái độ chững chạc trong tình huống như thế này có phải đáng giá hơn tất cả những nước mắt, những tuyệt vọng thường là vờ vịt và giả trá.
- Ê! – Ông De Marquet gắt – một lần nữa, thôi đi, đừng có rên rỉ mãi thế! Và vì ích lợi của vợ chồng các người. Hãy cho chúng tôi biết các người làm gì dưới cái cửa sổ ở biệt thất, trong lúc có kẻ toan giết cô chủ của mình trong phòng. Bởi lẽ các người đang ở một chỗ rất gần biệt thất khi gặp bố Jacques chạy ngang.
- Chúng tôi đến tiếp cứu!
Hai vợ chồng sướt mướt. Rồi người đàn bà giữa hai cơn nấc, gào to:
- Ôi chao! Tôi mà bắt được thằng khốn nạn, thằng giết người ấy, tôi sẽ cho nó nếm mùi thống khổ!
Và chúng tôi, một lần nữa, không sao lấy được từ miệng họ đến hai lời khai nghiêm chỉnh. Họ tiếp tục chối, viện đến Trời và Đất, tất cả thần thánh làm chứng rằng họ đang ở trên giường ngủ khi nghe một tiếng súng nổ.
- Không phải một, mà những hai phát. Thấy chưa, rõ ràng các người khai láo. Nếu các người nghe thấy tiếng nọ tất các người phải nghe cả tiếng kia!
- Chúa ơi! Thưa ông Dự Thẩm, chúng tôi chỉ nghe phát thứ hai. Chắc là khi phát thứ nhất nổ, chúng tôi còn ngủ.
- Có hai phát súng nổ, đúng – bố Jacques xen vô – Tôi tin chắc số đạn tôi nạp còn nguyên trong ổ, sau chúng tôi tìm thấy hai vỏ đạn cháy và hai đầu đạn. Chúng tôi đã nghe hai tiếng nổ sau cánh cửa phải thế không, thưa ông Stangerson?
- Đúng thế – ông giáo sư xác nhận – hai phát súng, một phát tiếng đục, một phát nổ vang.
- Tại sao các người cứ khai láo mãi? – Ông Marquet quay lại vợ chồng anh gác cổng – Các người cho rằng Cảnh Sát cũng ngu như các người sao! Tất cả chứng tỏ các người ở ngoài nhà, gần biệt thất, lúc án mạng xảy ra. Các người làm gì lúc đó? Các người không muốn khai ư? Các người im lặng nghĩa là tòng phạm với hung thủ! Còn tôi – ông hướng về giáo sư Stangerson – Còn tôi, tôi chỉ có thể giải thích việc hung thủ tẩu thoát bằng sự hỗ trợ của hai kẻ tòng phạm này. Cánh cửa vừa bị phá sập, trong khi ông, ông Stangerson, ông mãi lo cho cô con gái khốn khổ thì tên gác cổng cùng vợ y đã giúp cho tên sát nhân chạy trốn dễ dàng. Nó lẩn sau lưng hai vợ chồng, chuồn tới cửa sổ gian tiền đình và nhảy ra hoa viên. Chính tên gác cổng đã đóng cửa sổ lại vì rốt cục những cánh cửa sổ này không thể tự nhiên đóng lại được! Đó là những gì tôi tìm ra. Còn ai thấy chi khác, xin cứ nêu lên.
Giáo sư Stangerson cất tiếng:
- Không có lẽ! Tôi không tin hai người gác cổng của tôi đã nhúng tay vào tội ác với tên sát nhân, mặc dù tôi không hiểu họ làm gì trong vườn hoa vào giờ khuya khoắt ấy. Tôi nói: Không có lẽ! Bởi vì chị gác cầm cây đèn và đứng trấn trên ngưỡng cửa không nhúc nhích, bởi vì tôi, cửa vừa bị phá là tôi nhảy bổ vào quỳ bên con tôi, và không thể có kẻ nào vào ra được phòng bằng cửa ấy mà bước qua người con tôi và đụng phải tôi! Không có lẽ, bởi vì bố Jacques và anh gác chỉ cần một cái liếc mắt nhanh quét cả phòng và dưới gầm giường như tôi lúc nhảy vào là đủ thấy không còn người nào trong phòng, ngoài con gái tôi đang hấp hối.
- Còn ông, ông Darzac, ông nghĩ sao? Nãy giờ ông chưa nói – Dự thẩm hỏi.
Ông Darzac trả lời rằng ông chẳng nghĩ gì hết.
- Và ông, ông Giám Đốc Công An? Giám Đốc Sở Công An cảnh sát, ông Dax, cho tới bây giờ chỉ nghe và xem xét hiện trường. Nhưng rồi ông cũng mở miệng.
- Trong khi chờ đợi phát hiện thủ phạm, cần phải tìm ra động cơ phạm tội. Như vậy, chúng ta mới có thể tiến xa hơn.
- Thưa ông Giám Đốc Công An, động cơ tội ác có vẻ là tình, thứ tình đê tiện – ông Dự thẩm trả lời – Những dấu vết tên sát nhân để lại, tấm khăn tay thô kệch và chiếc mũ nồi dơ dáy khiến chúng tôi tin rằng thủ phạm không thuộc một tầng lớp xã hội cao lắm. Vợ chồng người canh cổng có cho chúng ta biết nhiều hơn về điểm này.
Ông Giám Đốc Công An, hướng tới giáo sư Stangerson và bằng giọng nói lạnh lùng mà theo tôi, nó biểu hiện những nhận định thông minh, một bản lãnh được tôi luyện già dặn, ông hỏi:
- Phải cô Stangerson sắp sửa làm lễ thành hôn không, thưa giáo sư?
Ông Stangerson đau đớn nhìn Robert Darzac:
- Với người bạn thân mà tôi sẽ sung sướng được gọi là con, với ông Robert Darzac.
- Cô Stangerson đã khỏe lại nhiều, sẽ lành các vết thương và bình phục mau chóng. Đây chỉ là một cuộc hôn nhân bị trì hoãn ít lâu thôi, phải vậy không, thưa giáo sư? – Ông Giám Đốc Công An hỏi thêm.
- Tôi hy vọng thế.
- Sao vậy? Giáo sư không tin tưởng ư?
Ông Stangerson nín lặng. Nỗi lòng xao xuyến của ông Robert Darzac hiện rõ qua bàn tay run run nắm sợi dây đeo đồng hồ, vì chẳng có gì qua nổi mắt tôi. Ông Dax thì ho khúc khắc giống như ông De Marquet khi bối rối:
- Xin ông hiểu cho, thưa giáo sư; rằng trong một vụ rắc rối như vụ này, chúng tôi không thể bỏ sót một tí gì, chúng tôi cần biết tất cả, từ một chi tiết vụn vặt nhất, hời hợt nhất có liên quan đến nạn nhân, cần biết cả một chỉ dẫn bề ngoài tưởng như vô nghĩa nhất. Vậy trong tình trạng hiện tại chúng ta hầu như chắc chắn cô Stangerson sẽ sống, có cái gì khiến giáo sư nghĩ rằng cuộc hôn nhân này có thể sẽ không thành tựu? Vì giáo sư nói "tôi hy vọng". Niềm hy vọng ở trường hợp này, tôi coi như một nghi hoặc. Tại sao giáo sư nghi hoặc?
Ông Stangerson cố trấn tĩnh tinh thần trước khi trả lời:
- Thưa vâng, ông nói đúng. Tốt hơn cũng nên để ông biết một việc mà nó sẽ có vẻ quan trọng, nếu tôi giấu ông. Vả chăng, ông Robert Darzac cũng đồng ý với tôi.
Lúc này, gương mặt xanh xao của ông Roberl Darzac tôi thấy không được bình thường. Ông ra dấu với giáo sư. Theo tôi, nếu ông Darzac chỉ trả lời bằng cách ra dấu thì đó là vì ông không thốt nổi nên lời.
- Đầu đuôi thế này, thưa ông Giám Đốc Công An, – giáo sư Stangerson kể, – con gái tôi đã thề không bao giờ lìa xa tôi, và nó quyết giữ trọn lời thề dù tôi hết sức năn nỉ, vì đã nhiều lần tôi cố thuyết phục nó lấy chồng, tôi coi đấy là bổn phận. Cha con tôi quen ông Robert Darzac từ nhiều năm. Ông Robert Darzac yêu con gái tôi. Dù có lúc tôi tưởng ông cũng được yêu lại, vì mới đây tôi đã vui mừng nghe chính miệng con gái tôi báo tin nó thuận kết hôn với một người mà tôi hoàn toàn xứng ý. Tôi đã cao tuổi, thưa ông, và cái giờ phút tôi biết chắc sau tôi, cô Stangerson sẽ có được bên mình, để yêu thương và tiếp nối công việc chung của cha con tôi, một người mà tôi mến mộ, mà tôi quí trọng vì tấm lòng quảng đại và vì khoa học của ông, cái giờ phút ấy là hạnh phúc tuyệt vời của đời tôi đó. Thế nhưng, thưa ông Giám Đốc Công An, hai ngày trước khi xảy ra tai họa, tôi không hiểu – nó nghĩ sao mà lại đổi ý, không thành hôn với ông Robert Darzac.
Đến đây, phòng họp chìm vào im lặng, một khoảnh khắc nghiêm trọng, nặng nề. Ông Dax hỏi tiếp:
- Cô Stangerson không đưa ra với giáo sư một lời giải thích, không cho biết vì lý do nào hay sao?
- Nó nói bây giờ nó già rồi, không muốn lấy chồng, rằng nó đã chờ đợi quá lâu, nó đã suy nghĩ kỹ, nó rất cảm phục và yêu ông Robert Darzac nữa, nhưng tốt hơn hết nên dừng lại ở đây, rằng mọi sự nên tiếp tục như trước, rằng nó rất vui sướng thấy những liên hệ thuần khiết bạn bè giữa cha con tôi với ông Robert Darzac sẽ siết chặt tình thân hơn nữa, nhưng xin tất cả đừng bao giờ ai đề cập với nó câu chuyện hôn nhân.
- Thế thì lạ thật! – Ông Dax lẩm bẩm.
- Lạ thật! – Ông De Marquet lặp lại.
Giáo sư Stangerson nhếch môi phác một nụ cười héo hắt và lạnh, ông nói tiếp:
- Phía đó, không phải chỗ ông tìm ra động cơ tội ác đâu, thưa ông!
- Dầu sao, – ông Dax nóng nảy, trong vụ này, động cơ tội ác không phải là trộm cắp!
- Ô, cái đó thì chúng tôi yên trí rồi – ông Dự thẩm kêu lên.
Đến đây, cửa phòng thí nghiệm vụt mở, viên đội trưởng Hiến Binh mang vào trình Dự thẩm một tấm danh thiếp. Ông De Marquet đọc xong buông một tiếng rên đùng đục, đoạn nói:
- A! Thế này thì quá lắm!
- Gì vậy? – Ông Giám Đốc Công An kinh ngạc. - Danh thiếp một anh phóng viên quèn Joseph Rouletabille với dòng chữ: "Một trong những động cơ tội ác là ăn trộm".
Giám Đốc Công An tủm tỉm cười:
- A! A! Chàng tuổi trẻ Rouletabille, tôi đã có nghe nói về anh này, được coi như có biệt tài. Xin ông cứ cho vào, thưa ông Dự thẩm.
Và người ta cho ông Joseph Rouletabille vào phòng. Tôi đã làm quen với anh ta trong chuyến xe lửa đưa chúng tôi buổi sáng hôm ấy đến Epinay Sur-Orgé. Anh ta gần như chẳng nể nang gì tôi, cố tình xông vào toa chúng tôi ngồi, và tôi thích nói ngay tức khắc rằng những điệu bộ và cái vẻ ngông nghênh của anh ta làm như đã biết tỏng những gì bí ẩn trong một vụ án mà bộ máy tư pháp còn mù mờ đã làm tôi ứa gan. Anh chàng này hình như chưa tới hai mươi tuổi, và với cái vẻ trắng trợn anh ta dám hỏi han bàn luận nọ kia với chúng tôi, tôi thấy anh ta đặc biệt khả ố. Hơn nữa, anh ta có một kiểu nói năng rõ ràng là muốn giễu cợt chúng tôi.
Thế là ông Joseph Rouletabille bước vào phòng thí nghiệm. Ông chào chúng tôi xong, đứng nghiêm trang đợi Dự thẩm cho phép lên tiếng. Ông Dự thẩm nói:
- Sao ông, ông tự cho mình là người biết rõ động cơ tội ác, và cái động cơ ấy, nghịch lại mọi sự hiển nhiên, chính là ăn trộm?
- Không, thưa ông Dự thẩm, tôi không hề nói thế. Tôi không nói động cơ tội ác trong vụ này là ăn trộm và tôi không tin là như vậy.
- Thế thì tấm danh thiếp này nghĩa là sao?
- Nó có nghĩa một trong những động cơ tội ác là ăn trộm.
- Ông căn cứ vào đâu?
- Vào cái này! Mời quý vị đi theo tôi.
Và anh chàng yêu cầu chúng tôi theo anh sang gian tiền đình. Chúng tôi đi đến đó, anh liền lại buồng rửa mặt và yêu cầu ông Dự thẩm quỳ gối bên cạnh anh. Cái buồng rửa mặt nhỏ có ánh sáng lọt vào qua khung cửa lắp kính và khi cửa mở thì nó lại càng sáng choang khắp mọi chỗ. Ông De Marquet và ông Rouletabille phục xuống ngưỡng cửa. Anh phóng viên chỉ một góc lát đá hoa, nói:
- Sàn đá buồng rửa mặt ít lâu nay bố Jacques không lau chùi. Cứ trông lớp bụi này khắc biết. Ông coi đây, dấu hai đế giầy to bản với tí bụi to đen kèm theo dấu chân của thủ phạm đã in khắp nơi. Chất tro này không là gì khác hơn bụi than rắc đầy con đường mòn mà người ta phải theo để băng qua cánh rừng, đi thẳng từ Epinay đến Giandier. Chắc quý vị biết chỗ này có một khu xóm nhỏ của thợ làm than, họ sản xuất than củi ở đó rất nhiều. Tên sát nhân có lẽ đã làm như sau:
Nó lẻn vào đây buổi trưa, khi không có ai trong biệt thất, và nó đã phạm tội ăn trộm.
- Nhưng mà trộm cái gì mới được chứ? Ông thấy mất trộm ở chỗ nào đâu? Ai chứng minh với ông là có mất trộm? Tất cả chúng tôi nhao nhao tấn công một lúc.
- Cái dấu chân nó dẫn tôi đến chỗ tìm ra vụ trộm. – chàng phóng viên nói tiếp.
- Là cái này! – Ông De Marquet cắt ngang trong lúc vẫn quỳ gối dưới đất.
- Chứ còn gì nữa? – ông Rouletabille xác nhận. Rồi ông De Marquet cắt nghĩa quả thật trên làn bụi phủ sàn đá, bùn cạnh dấu hai chiếc đế gầy, có vết hằn còn mới trông rõ đường viền một bao đồ nặng hình chữ nhật, có vết dây cột vòng quanh cũng phân biệt được dễ dàng.
- Thế ra ông đến đây rồi ư, ông Rouletabille? Tôi đã cho lệnh bố Jacques không để ai vào cơ mà, bố có nhiệm vụ canh gác biệt thất.
- Xin ông đừng la rầy bố Jacques, tôi đã đến với ông Robert Darzac.
- A! Thật thế sao? – Ông De Marquet cao giọng vì bực tức và liếc xéo ông Darzac vẫn thẫn thờ ngồi im lặng. Ông Rouletabille nói tiếp:
- Khi thấy vết cái bọc đồ ở ngang cạnh dấu đế giầy thì tôi không còn nghi ngờ gì về vụ trộm, nhưng trộm đâu có mang theo một bọc nặng đến chỗ nó định ăn trộm. Nó đã đóng cái bọc ấy ở đây, chắc chắn với những đồ ăn trộm ở đây, rồi đem đến giấu ở xó này, chủ ý sẽ xẹt qua ôm theo lúc đào tẩu. Nó đã đem đôi giầy thô lỗ của nó đặt ở đây, bên cạnh bọc đồ, vì mời quý vị xem kỹ, không hề có dấu chân nào dẫn đến đôi giày này, và hai đế giầy sắp hàng ngang bên cạnh nhau, như thể cặp đế giầy ở trạng thái nghỉ và không có bàn chân người đạp bên trong. Như thế, ta sẽ hiểu rằng tên sát nhân khi từ "Căn Phòng Vàng" chạy ra, nó đã không để lại dấu chân nào trong phòng thí nghiệm và gian tiền đình. Sau khi lọt vào "Căn Phòng Vàng" với đôi giầy của nó, nó đã tụt giầy ra, chắc hẳn vì vướng chân hoặc muốn bớt thật nhiều tiếng động. Những dấu chân nó qua gian tiền đình và phòng thí nghiệm lúc đến thì đã được bố Jacques vô tình lau rửa sạch sau đó. Điều này có nghĩa là tên sát nhân đã vào biệt thất bằng khung cửa sổ mở của gian tiền đình trong thời gian bố Jacques vắng mặt lần thứ nhất trước khi lau nhà lúc năm giờ rưỡi! Tên sát nhân sau khi tháo giầy chắc vì vướng cẳng, đã cầm đôi giày trên tay mang đến phòng rửa mặt, đứng trên bục cửa mà đặt đôi giầy xuống sàn nhà, bởi trên lớp bụi ở phòng rửa mặt không có dấu chân trần hoặc mang tất ngắn hoặc xỏ trong đôi giầy khác. Vậy là nó đã đặt giầy nó bên cạnh bọc đồ. Việc ăn trộm lúc này đã hoàn tất. Đoạn, nó trở lại "Căn Phòng Vàng" chui vào gầm giường. Thân xác nó dưới gầm giường còn in đủ dấu vết trên sàn nhà và cả trên tấm thảm ở khoảng này hơi cộm lên một chút và nhầu nát. Có cả vài cọng rơm mới bị tróc ra cũng chứng tỏ tên sát nhân có mai phục dưới gầm giường.
- Phải, phải, cái đó chúng tôi biết rồi. - Ông De Marquet ngắt lời.
- Sự kiện nó trở lại gầm giường, – anh phóng viên non choẹt và kỳ quặc nói tiếp, – chứng tỏ không phải chỉ do một động cơ ăn trộm thúc đẩy. Quý vị chớ nghĩ là nó trốn vào đó trong lúc vội vã vì trông thấy qua cửa sổ gian tiền đình, hoặc bố Jacques, hoặc cha con cô Stangerson sắp về tới biệt thất. Nó có thể leo lên gác nóc và nấp tại đó đợi dịp tẩu thoát có phải dễ dàng hơn bao nhiêu không, nếu ý đồ nó là chạy trốn. Không! Không! Nó cần phải ở trong "Căn Phòng Vàng"
Đến đây, ông Giám Đốc Công An can thiệp:
- Lập luận khá lắm, anh bạn trẻ! Tôi xin có lời khen phục và tuy chúng ta chưa biết tên sát nhân trốn đi bằng cách nào, nhưng chúng ta đã theo nó từng bước một đến đây và trông thấy nó làm gì: Nó ăn trộm. Thế nhưng nó ăn trộm cái chi?
- Những vật cực kỳ quý giá! – Anh phóng viên trả lời. Đúng lúc ấy, chúng tôi nghe một tiếng kêu thất thanh phát ra từ phòng thí nghiệm, chúng tôi vội vàng chạy sang thì bắt gặp ông Stangerson mắt trợn ngược, tay chân run lẩy bẩy. Ông chỉ cho chúng tôi thấy một cái tủ kiểu tàng thư cửa mở toang và bên trong trống không. Đoạn, ông buông mình rơi phịch xuống chiếc ghế bành lớn đã được đẩy tới trước bàn giấy và rên rỉ:
- Một lần nữa, tôi bị mất trộm rồi. Tiếp theo là một giọt nước mắt, một giọt nước mắt nặng nề, chảy dài trên má ông giáo sư đau khổ.
- Cần nhất, xin quý vị đừng ai nói hở với con gái tôi vụ mất trộm này, nó sẽ đau đớn hơn tôi nữa. Ông buông một tiếng thở dài thọc mệt, rồi bằng một giọng thê lương không bao giờ tôi quên nổi, ông hổn hển: - Thôi, cũng chẳng sao, miễn là nó sống!
- Cô ấy sẽ sống! – Tiếng Robert Darzac cất lên nghe xúc động lạ lùng.
- Và chúng tôi sẽ tìm lại cho giáo sư các vật mất trộm – ông Dax nói – Nhưng, xin cho biết giáo sư đã mất những gì trong tủ này?
- "Hai mươi năm của đời tôi!" – vì giáo sư bác học nổi danh trả lời, giọng khản đặc – hay đúng hơn của đời chúng tôi, con gái tôi và tôi. Vâng, những tài liệu quý nhất của chúng tôi, những quan hệ bí mật nhất về các cuộc thí nghiệm và công trình nghiên cứu của chúng tôi suốt hai mươi năm ròng đều cất trong đó. Một công phu chọn lọc thực sự trong muôn vàn tư liệu xếp đầy cái tủ này. Đây là một tổn thất vô phương cứu vãn đối với chúng tôi, và tôi dám nói, đối với khoa học nữa. Tất cả các giai đoạn tôi phải trải qua để tới được chứng cứ quyết định về tình trạng vật chất bị tiêu diệt, chúng tôi đã trần thuật, dán nhãn, chú giải kỹ lưỡng rồi minh họa bằng hình vẽ và ảnh chụp. Toàn bộ xếp cả ở đây. Tấm hoành đồ ba kiểu máy mới, một dùng để nghiên cứu sự hao mòn dưới ảnh hưởng tia sáng tử ngoại, nơi các vật thể đã được truyền điện; một kiểu nữa làm hiện rõ thể tiêu hao điện khí dưới tác động các phân tử vật chất ly tán chứa trong hơi khí ngọn lửa; kiểu thứ ba rất tinh vi, là máy điện nghiệm ngưng tụ vi phân, cả một tuyển tập những khúc tuyến của chúng tôi phô diễn các đặc tính cơ bản của thực chất trung gian giữa những vật có khả năng thăng bằng, và ê-te không thể thăng bằng của vật thể, còn chưa ai biết. Một tập bản thảo tôi định cho ấn hành dưới tiêu đề: Những Kim Loại Hư Hao. Còn gì nữa? Còn gì nữa? Kẻ tới đây đã cướp đi của tôi tất cả, con gái tôi và sự nghiệp tôi, trái tim tôi và linh hồn tôi. "Trên chiếc ghế bành nơi ông Stangerson lả người gục mặt, ông Robert Darzac tỳ khuỷu tay cố giấu hai hàng nước mắt, khiến chút xíu nữa tôi đã có thiện cảm với ông, mặc dầu thái độ lạ lùng và vẻ xúc động kỳ quái ở ông khiến tự nhiên tôi thấy khó chịu, coi ông như một nhân vật bí hiểm khôn dò. Chỉ có ông Rouletabille, như thì giờ quí báu và sứ mạng của ông trên trái đất không cho phép ông mủi lòng trước cảnh đau thương của nhân loại, vẫn điềm nhiên bước đến bên chiếc tủ trống không, giơ tay chỉ vào nó, nhìn ông Giám Đốc Cảnh Sát Công An, rồi phá tan bầu không khí im lặng tôn nghiêm mà chúng tôi đang giữ để tỏ lòng kính trọng niềm đau tuyệt vọng của nhà đại bác học Stangerson. Ông ta đưa ra vài lời giải thích đối với chúng tôi thật nhạt về cách ông ta suy luận để tin là có vụ trộm xảy ra, do việc khám phá cùng một lúc những dấu vết trong buồng rửa mặt tôi đã kể ở trên, với cái tủ quí trống trơn trong phòng thí nghiệm. Nhưng hiện tượng đầu tiên đập vào mắt ông ta là hình thù dị dạng của chiếc tủ đóng bằng sắt để chống mọi hỏa hoạn bất ngờ, vẻ kiên cố của nó và một cái tủ như tủ này dùng để bảo tồn những vật được người ta quí báu hơn hết mọi thứ thế mà trên cánh cửa sắt lại đeo toòng teng chiếc" chìa khóa của nó ". Lẽ thường, không ai sắm tủ sắt để rồi bỏ ngỏ. Rốt cuộc, chiếc chìa khóa nhỏ ấy, đầu đồng, rất là phức tạp, dường như thu hút sự chú ý đặc biệt của ông Joseph Rouletabille trong khi chúng tôi chẳng ai thèm để ý đến nó. Với chúng tôi, người lớn chứ đâu phải trẻ con, cảnh một chiếc chìa khóa cắm ở của tủ thường gợi ra ý nghĩ an toàn, nhưng với ông Rouletabille, dĩ nhiên là bậc kỳ tài – như José Dupuy nói trong Năm Trăm Triệu Tay Giác Đấu:" Kỳ tài, Kỳ tài nha-sĩ! "– cảnh chìa khóa cắm ở cánh cửa tủ lại gợi ra ý nghĩ một vụ trộm.
Chúng tôi sắp sửa biết lý do. Nhưng trước khi cho quý vị cùng biết lý do này, tôi cần thưa rằng ông De Marquet tỏ vẻ rất băn khoăn, không hiểu nên mừng về cái bước tiến mới mà anh phóng viên nọ đã giúp cho cuộc thẩm cứu của ông, hay là ông phải lấy làm buồn bã vì cái bước tiến ấy không do ông thực hiện. Nghề nghiệp chúng tôi có những chua cay như vậy đó, nhưng chúng tôi không có quyền khiếp nhược và phải giày xéo lên tự ái khi cần phục vụ lợi ích chung. Bởi thế ông De Marquet đành tự chế và thấy rằng nên góp lời khen ngợi với ông Dax thì hơn, mà ông Dax thì không tiếc lời đề cao ông Rouletabille. Anh phóng viên tép riu nhún vai khiêm nhường:" Không có chi! ".
Tôi thầm ước gì tặng cho gã một cái bạt tai nẩy lửa thì sướng ôi là sướng, nhất là trong lúc nói tiếp :(vẫn là ông đăng kiểm đang kể chuyện chứ không phải là" tôi "ban đầu nhé)
- Xin ông hỏi giùm giáo sư Stangerson, ai là người được giao nhiệm vụ giữ chiếc chìa khóa này.
- Con gái tôi – nhà bác học trả lời – và chiếc chìa khóa không bao giờ rời nó.
- A! Thế thì mọi sự lại khác hơn rồi, không còn phù hợp với khái niệm của ông Rouletabille nữa – Ông De Marquet reo lớn mừng rỡ – Nếu chiếc chìa khóa này không bao giờ rời cô Stangerson thì tức là tên sát nhân đêm ấy đã đợi cô Stangerson ở trong phòng để chiếm đoạt chiếc chìa khóa và vụ trộm chỉ có thể diễn ra sau vụ mưu sát! Nhưng sau vụ mưu sát thì đã có ngay bốn người ở trong phòng thí nghiệm! Quả thật, tôi hết còn hiểu gì nữa! Và ông De Marquet nhắc lại, với vẻ thịnh nộ chán chường nhưng đối với ông, thật ra nó vốn là điểm tột cùng của niềm say mê thầm kín, vì không biết tôi đã nói chưa nhỉ, không bao giờ ông cảm thấy sung sướng bằng lúc ông không hiểu gì cả:".. hết còn hiểu gì nữa! "
-" Vụ trộm ", – anh phóng viên đủng đỉnh cãi, chỉ có thể xảy ra trước vụ" mưu sát "Điều này không thể nghi ngờ, vì một lẽ mà ông tin và vì nhiều lẽ mà tôi tin. Và khi tên sát nhân lọt vào biệt thất, nó đã có sẵn trong tay chiếc chìa khóa đầu đồng.
- Không có thể. – Ông Stangerson giọng dịu dàng.
- Rất có thể. Thưa giáo sư, đây là chứng cứ?
Rồi thằng quỷ con lôi trong túi ra một số báo ngày 21 tháng mười (tôi nhớ vụ mưu sát xảy ra trong đêm 24 rạng ngày 25) và chỉ cho chúng tôi thấy một lời rao vội. Anh đọc:
-" Hôm qua, tôi đánh mất một ví tay phụ nữ bằng Sa-tanh đen trong mấy nhà hàng lớn ở Louve. Chiếc ví đựng vài thứ vặt vãnh trong đó có một chìa khóa nhỏ đầu đồng. Ai bắt được sẽ có một món tiền thưởng trọng hậu. Xin viết thư lại tại bưu điện, về văn phòng 40, gửi cho: M. A. T. H. S. N. "Những chữ cái này- anh phóng viên nói tiếp – chẳng phải tên cô Stangerson là gì? Cái chìa khóa đầu đồng ấy chẳng phải cái chìa khóa này là gì? Tôi hay đọc mục rao vặt lắm. Trong nghề của tôi cũng như trong nghề của ông, thưa ông Dự thẩm, cần phải đọc những lời rao vặt liên quan đến cá nhân. Thế mới phát hiện được nhiều mưu mô! Nhiều chìa khóa mở các mưu mô không phải luôn luôn có đầu đồng, nhưng không kém phần đáng chú ý. Lời rao vặt này, đặc biệt bởi cái vẻ bí ẩn mà người đàn bà đánh mất chiếc chìa khóa, một vật chẳng nguy hại gì lắm, bao trùm quanh mình, lời rao vặt này làm tôi sửng sốt. Chìa khóa gì mà bà ta quí đến thế? Hứa cả một món hậu tạ lớn! Và tôi nghĩ đến sáu chữ M. A. T. H. S. N. Bốn chữ đầu chỉ rõ ngay một tiểu danh phụ nữ:" Tất nhiên – tôi thầm nghĩ – Math. Mathilde. Người đàn bà đánh mất chiếc chìa khóa đầu đồng tên là Mathilde L. Nhưng hai chữ sau thì tôi chịu thua. Bởi vậy, tôi liệng tờ báo đi lo công chuyện khác. Đến khi, bốn ngày sau, các nhật báo phát hành buổi chiều với những đầu đề chữ lớn ở trang nhất loan tin về vụ mưu sát cô Mathilde Stangerson, thì chẳng cần suy nghĩ, cái tên Mathilde lập tức gợi cho tôi nhớ đến những chữ cái ở lời rao vặt! Hơi thắc mắc, tôi hỏi xin ban biên tập số báo cũ ngày hôm ấy. Tôi đã quên hẳn hai chữ chót: S, N. Khi thấy lại hai chữ này, tôi không ghìm nổi một tiếng kêu: "Stangerson". Tôi nhào lên một chiếc xe ngựa cho thuê, hối hả đến Văn Phòng 40 Bưu Điện. Tôi hỏi: "Ông có thư cho M. A. T. H. S. N không?". Nhân viên phụ trách đáp: "Không!". Rồi thấy tôi cố nài, khẩn khoản xin tìm kỹ lại cho, ông ta hơi gắt: "Thôi đi, ông ơi, giỡn hoài! Có, tôi có nhận một phong thư đề những chữ đầu tên M. A. T. H. S. N. Nhưng tôi đã phát cho một bà đã đến lấy ba ngày nay rồi. Hôm nay, tới lượt ông đòi nữa. Hôm kia, cũng có một ông đến hỏi, cứ kèo nài dai nhách à! Tôi ngán cái trò chơi tai ác này rồi đó". Tôi thèm hỏi thêm ông ta về hai nhân vật đã đến lấy thư; nhưng hoặc vì ông ta muốn trốn sau bức tường bí mật nghề nghiệp – chắc ông ta cho rằng mình đã nói quá nhiều – hoặc quả thật ông ta đã bị một trò đùa nghịch quấy rầy quá đáng, ông ta cương quyết không trả lời tôi nữa ".
Rouletabille ngừng nói. Chúng tôi tất cả đều nín lặng. Mỗi người rút từ câu chuyện thư bưu bưu điện ra những kết luận riêng. Trên thực tế, dường như bây giờ người ta đã nắm được một đường dây vững chắc sắp sửa có thể lần theo cái vụ án" Không thể chụp bắt "này".
Lát sau, ông Stangerson lên tiếng:
- Thế thì gần như chắc chắn con gái tôi đã đánh mất chiếc chìa khóa ấy. Nó không muốn cho tôi biết để tránh cho tôi nỗi lo sợ, và nó đã yêu cầu người bắt được chìa khóa viết thư lưu tại bưu điện để nó kín đáo đến lấy. Rõ ràng nó sợ nếu cho địa chỉ, tất sẽ có nhiều cuộc đi lại tiếp xúc, khiến tôi hay biết việc mất chìa khóa. Âu cũng là điều rất hợp lý và rất tự nhiên thôi. Bởi vì, thưa ông, tôi đã từng bị mất trộm!
- Ở đâu? Và bao giờ? – Ông Giám Đốc Công An hỏi dồn.
- Ô! Nhiều năm rồi, tận Châu Mỹ, ở Philadelphie. Nó đã ăn trộm trong phòng thí nghiệm của tôi hai phát minh có thể làm giàu cho cả một dân tộc, không những chẳng bao giờ tôi biết kẻ trộm là ai, mà chẳng bao giờ tôi nghe nói gì đến "vật bị mất trộm". Rồi để phá hư những toan tính của tên trộm, tôi đã đích thân tung hai phát minh đó vào lãnh vực quần chúng làm cho vật bị mất trộm không còn giá trị độc quyền. Từ ngày ấy, tôi trở thành rất đa nghi. Tôi tự giam mình thật kín khi làm việc. Tất cả song sắt các cửa sổ, ngôi biệt thất cô lập, cái tủ chính tôi đặt đóng ổ khóa đặc biệt với cái chìa độc nhất, tất cả nhưng cái ấy là kết quả bao nhiêu lo sợ phát sinh từ một kinh nghiệm đau buồn.
Ông Dax ngỏ một lời khen ngợi: "Hay quá!"
Ông Joseph Rouletabille thì hỏi thăm về chiếc ví tay. Cả giáo sư Stangerson, cả bố Jacques từ mấy ngày nay không ai trông thấy chiếc ví tay của cô Stangerson. Vài giờ sau đó, chúng tôi được biết do chính cô Stangerson kể lại, rằng chiếc ví quả có bị đánh cắp hoặc cô làm thất lạc, và mọi sự xảy ra đúng như cô kể, rằng ngày 23 tháng 10 cô đến Văn Phòng 40 bưu điện và nơi đây đã trao cho cô một phong thư mà nội dung là một trò đùa nhảm nhí. Cô đã đốt đi ngay. Để trở lại với buổi khai cung, hay đúng hơn, buổi "đàm luận" của chúng tôi, tôi cần nêu rõ điểm này: Ông Giám Đốc Công An hỏi giáo sư Stangerson: Con gái ông đi Paris làm gì ngày 20 tháng 10 là ngày mất chiếc ví tay, thì chúng tôi được biết cô đã lên thủ đô, có ông Robert Darzac đi kèm, và ông Robert Darzac từ hôm đó tới ngày hôm sau vụ mưu sát, người ta "không thấy đến lâu đài". Sự kiện ông Robert Darzac cặp kè bên cạnh cô Stangerson trong những cửa hàng lớn ở Louve khi chiếc ví tay biến mất không ai không biết, và cần nói thêm, nó thu hút rất mạnh sự chú ý của chúng tôi. Buổi nói chuyện tự do giữa thẩm phán, bị can, nhân chứng và nhà báo sắp kết thúc thì xảy ra một đột biến thật sự có kịch tính, điều mà xưa nay ông De Marquet không bao giờ chê bỏ.
Viên đội trưởng Hiến binh thông báo có Frédéric Larsan xin vào dự cuộc đàm thoại. Lập tức thỉnh cầu được chấp thuận ngay. Ông ta xách một đôi giày thô, móp, bết bùn đất liệng vào phòng thí nghiệm và hô:
- Đây, đôi giày tên sát nhân đã mang! Ông có nhận ra không, bố Jacques? Bố Jacques cúi nhìn đôi giày da dơ dáy, và giựt mình sửng sốt, công nhận đó là đôi giầy cũ của mình đã vứt bỏ lẫn trong đám đồ phế thải ở một góc gác nóc. Ông già lúng túng đến nỗi phải rút khăn tay xì mũi để giấu cơn xúc động. Tức thì, Frédéric Larsan trỏ chiếc khăn tay bố Jacques đang xì mũi, tuyên bố: - Đây, một chiếc khăn tay giống chiếc lượm được trong "Căn Phòng Vàng" một cách lạ lùng.
- A! Tôi biết chứ – bố Jacques run rẩy trả lời – Hai cái hầu như y hệt nhau.
- Sau hết – Frédéric Larsan dõng dạc thuyết tiếp – Cái mũ bát cũng tìm thấy trong "Căn Phòng Vàng" là của ông sếp bố Jacques đội ngày xưa. Tất cả những điểm này, thưa ông Giám Đốc Công An và ông Dự thẩm, chứng tỏ theo tôi – ơ kìa, bình tĩnh lại đi, ông lão! – Larsan nói với bố Jacques đang muốn xỉu – mọi cái theo tôi, chứng tỏ tên sát nhân định che giấu con người thật của nó. Nó cải trang khá trắng trợn, hay ít nhất chúng ta xem như trắng trợn, bởi vì chúng ta chắc chắn kẻ sát nhân không phải bố Jacques, người không hề rời giáo sư Stangerson một lúc nào. Nhưng quý vị thử tưởng tượng coi, nếu tối hôm ấy – ông Stangerson không kéo dài buổi làm việc khuya, nếu sau khi rời con gái, ông đã về ngay lâu đài, rồi cô Stangerson bị sát hại đúng lúc không có ai trong phòng thí nghiệm và bố Jacques ngủ vùi trong gác nóc thì: Chẳng còn ai còn nghi ngờ mà không quyết đoán ngay bố Jacques chính là kẻ sát nhân. Bố Jacques thoát tội chỉ là nhờ vào thời điểm tấn thảm kịch nổ ra quá sớm. Chắc hẳn tên sát nhân nghe bên này im lặng, tưởng phòng thí nghiệm không có ai và giờ hành động của nó đã tới. Kẻ đã có thể lẻn vào đây và sắp đặt những tội chứng rõ rệt đổ thừa cho bố Jacques, nhất định phải là người quen trong nhà. Nó lọt vào đây chính xác vào giờ nào? Trưa? Hay tối? Tôi không dám quyết. Một kẻ quen thuộc mọi việc, mọi người trong biệt thất đã lẻn vào "Căn Phòng Vàng" đúng giờ thuận tiện cho nó.
- Nhưng nó vào sao được nếu phòng thí nghiệm có người?
- Làm sao chúng ta biết, thưa ông! – Larsan cãi – Đã có một bữa ăn chiều trong phòng thí nghiệm, rồi gia nhân đi lại phục dịch, lại còn một cuộc thử nghiệm hóa học khoảng từ mười giờ đến mười một giờ, giáo sư Stangerson, con gái ông và bố Jacques quây quanh mấy chiếc hỏa lò ở một góc lò lớn. Ai dám nói rằng tên sát nhân không phải là một người quen! Đã không lợi dụng lúc này để lẻn vào "Căn Phòng Vàng" sau khi tháo bỏ giầy để lại phòng rửa mặt.
- Không có ai! – Giáo sư Stangerson lắc đầu. - Không có lẽ, nhưng không phải là không có thể. Bởi vậy tôi không khẳng định gì cả. Còn việc nó ra thế nào thì lại là chuyện khác! Làm sao nó chạy thoát? Thưa rằng "một cách tự nhiên nhất trần đời"!
Trong khoảnh khắc, Frédéric Larsan nín lặng. Cái khoảnh khắc này, chúng tôi thấy nó dài quá. Chúng tôi lắng đợi ông ta mở miệng lại mà người muốn phát sốt, cũng dễ hiểu thôi.
- Tôi chưa hề vào "Căn Phòng Vàng" – Frédéric Larsan nói tiếp – nhưng tôi trộm nghĩ quý vị đã có bằng chứng rằng người ở trong phòng chỉ có thể ra bằng cửa lớn. Thì chính là bằng cửa lớn mà tên sát nhân đã đi ra. Vả chăng, vì lẽ không thể nào khác được nên phải vậy. Nó đã phạm tội ác trong phòng và nó đã ra bằng cửa lớn! Ra lúc nào? Lúc dễ dàng nhất đối với nó, lúc nào việc đi ra đối với nó trở thành dễ cắt nghĩa nhất, dễ cắt nghĩa đến độ không sao tìm được cách cắt nghĩa nào khác, vậy chúng ta hãy xem xét những "lúc" theo sau tội ác. Lúc thứ nhất thì ở trước cửa, sẵn sàng chặn đường nó, có ông Stangerson và bố Jacques. Lúc thứ hai, bố Jacques vắng mặt vài phút, ông Stangerson một mình ở lại trước cửa. Lúc thứ ba, ông gác cổng đến với ông Stangerson. Lúc thứ tư, trước cửa có ông Stangerson, anh gác cổng, vợ anh và bố Jacques. Lúc thứ năm, cửa bị phá, bốn người ùa vào "Căn Phòng Vàng". Cái lúc nó tẩu thoát dễ cắt nghĩa nhất chính là lúc trước cửa có ít người nhất. Có một lúc chỉ có một người: Đó là lúc ông Stangerson ở lại một mình trước cửa. Trừ trường hợp buộc chết cho bố Jacques là tòng phạm bằng im lặng, và tôi không tin bố Jacques là tòng phạm, bởi lẽ bố Jacques sẽ không ra khỏi biệt thất để đi xem xét cái của sổ của "Căn Phòng Vàng", nếu bố đã thấy cửa mở và tên sát nhân ở trong chạy ra. Thế thì cửa chỉ mở lúc ông Stangerson có một mình và nó đi ra. Đến đây, chúng ta cần chấp nhận rằng ông Stangerson có những lý do vững mạnh để không bắt giữ hoặc hô hoán bắt giữ tên sát nhân, vì ông đã để mặc cho nó tới tận cửa sổ gian tiền đình, rồi đóng cửa sổ lại khi nó đã leo qua! Xong việc này, vì bố Jacques sắp trở lại và cần để bố thấy lại mọi sự đâu vẫn yên đấy, cô Stangerson chắc bị cha quở trách sao đó nên mặc dầu thương tích trầm trọng, vẫn còn đủ sức để khóa trái căn "Căn Phòng Vàng" và cài chốt lại như cũ trước khi cô gục xuống sàn nhà chết giấc. Chúng ta không biết kẻ nào phạm tội ác, chúng ta không biết ông và cô Stangerson là nạn nhân của tên khốn nạn nào, nhưng không thể nghi ngờ, cha con cô biết nó là ai! Cái bí mật này phải vô cùng khủng khiếp đến đỗi người cha đã không ngần ngại bỏ con gái đang hấp hối sau cánh cửa mà chính cô đã đóng lại, khủng khiếp đến độ ông đành để tên sát nhân tẩu thoát. Vậy đó, làm gì có cách nào khác trên đời để giải thích việc tên sát nhân trốn ra khỏi "Căn Phòng Vàng".
Không khí im lặng tiếp theo tràng thuyết minh bi thảm và sáng sủa này có một cái gì ghê rợn. Hết thảy chúng tôi cùng đau đớn cho vị giáo sư danh tiếng bị lập luận tàn nhẫn của Frédéric Larsan dồn đến chân tường, bị buộc phải, hoặc thú thực với chúng tôi nỗi thống khổ của mình, hoặc câm nín, một lời thú tội còn khủng khiếp hơn. Con người ấy, pho tượng hiện thân của đau đớn từ từ đứng dậy. Ông giơ cao tay thành một cử chỉ long trọng đến nỗi chúng tôi phải kính cẩn cúi đầu như trước một biểu tượng thần thiêng rồi bằng giọng sang sảng như phải vận dụng hết nguồn sinh lực còn lại, ông dằn từng tiếng:
- Tôi xin thề trên đầu con gái tôi đang hấp hối, rằng tôi không hề rời cái cửa này từ lúc nghe tiếng kêu cứu tuyệt vọng của con tôi, rằng cửa này không hề mở khi tôi chỉ có một mình trong phòng thí nghiệm, và cuối cùng khi tôi cùng ba người giúp việc ùa vào "Căn Phòng Vàng" thì tên sát nhân không còn trong đó nữa! Tôi thề không biết tên sát nhân là ai!
Tôi có cần nói thêm hay không, rằng dù nghe một lời thề long trọng dường ấy, chúng tôi vẫn không tin ông Stangerson. Frédéric Larsan vừa hé cho chúng tôi thấy thấp thoáng sự thật, lẽ đâu chúng tôi chịu để cho nó biến nhanh như vậy. Khi ông De Marquet tuyên bố cuộc "hội thoại" chấm dứt và chúng tôi sửa soạn rời phòng thí nghiệm thì bỗng anh phóng viên non, tên Joseph Rouletabille nhãi ranh tiến lại bên ông Stangerson, cầm tay ông một cách hết sức kính cẩn, và tôi nghe gã nói.
- Riêng tôi, tôi tin ông, thưa giáo sư!
Tôi xin ngừng ở đây đoạn kể về bài tường thuật của ông Maleine, đăng kiểm tại tòa án Corbeil. Khỏi cần minh xác với quý vị độc giả rằng tất cả những gì diễn ra trong phòng thí nghiệm đã được chính Rouletabille kể lại với tôi rất trung thực và ngay tức khắc.
Tài liệu ấy đáng lẽ góp phần vào một quyển sách mang tên: Những Buổi Hỏi Cung Do Tôi Thực Hiện, nhưng chẳng bao giờ được ra mắt độc giả thân yêu. Tài liệu này, chính viên đăng kiểm đã đem cho tôi ít lâu sau màn "gỡ nút ly kỳ" của một vụ án độc nhất trong vườn hoa muôn sắc của lịch sử tư pháp. Nó như sau đây. Nó chỉ là một đoạn văn ghi chép khô khan những câu hỏi, đáp. Viên đăng kiểm thường xen vào cảm tưởng riêng của ông ta. Bản Tường Thuật Của Đăng kiểm:
Đã một giờ qua, ông Dự thẩm và tôi có mặt trong "Căn Phòng vàng" cùng với nhà thầu khoán đã xây cất ngôi biệt thất theo họa đồ của giáo sư Stangerson. Nhà thầu khoán đem theo một người thợ. Ông De Marquet cho lau rửa, kỳ cọ hoàn toàn các bức tường, nghĩa là lột hết lớp giấy dán trang trí. Những nhát cuốc bổ xuống khắp nơi, đã chứng minh với chúng tôi không hề có cửa ngõ, ngóc ngách nào trong phòng. Sàn nhà và trần nhà được dò tìm kỹ lưỡng. Chúng tôi không phát hiện được gì. Chẳng có gì để chúng tôi phát hiện.
Ông De Marquet có vẻ lấy làm thú vị và không ngớt nhắc đi nhắc lại:
- Vụ án thật là hay! Ông thầu khoán ơi, vụ án thật là hay! Ông sẽ thấy không bao giờ chúng ta hiểu nổi làm thế nào tên sát nhân ra thoát căn phòng này! Thình lình, ông De Marquet mặt mày đang hớn hở bởi vì chẳng hiểu mô tê gì; vụt nhớ ra nhiệm vụ mình là tìm hiểu, vội gọi viên Đội Trưởng Hiến Binh:
- Này, qua bên lâu đài mời giáo sư Stangerson và ông Robert Darzac đến gặp tôi tại phòng thí nghiệm, cả bố Jacques nữa, và cho người áp giải đến luôn hai người gác cổng.
Năm phút sau, toàn thể quân số được tập họp trong phòng thí nghiệm. Ông Giám Đốc Cảnh Sát Công An vừa tới Glandier cũng nhập bọn với chúng tôi cùng một lúc. Tôi đã ngồi vào bàn giấy ông Stangerson, sẵn sàng làm việc, thì ông De Marquet khai mạc bằng một bài thuyết trình ngắn, độc đáo cũng như bất ngờ:
- Thưa quý vị, xét vì các cuộc hỏi cung không đem lại kết quả gì, bây giờ nếu muốn, chúng ta thử bỏ cái phương pháp hỏi cung cũ một lần cho biết. Tôi sẽ không đòi quý vì đến trước mặt tôi lần lượt từng người. Không, chúng ta tất cả ở lại đây: Ông Stangerson, ông Robert Darzac, bố Jacques, hai người canh cổng, ông Giám Đốc Cảnh Sát công An, ông De Marquet và tôi! Tất cả chúng ta ở đây đều bình đẳng, hai người canh cổng hãy tạm quên đi một lúc là họ đang bị bắt giam. "Chúng ta cùng nhau nói chuyện". Tôi mời quý vị đến "để nói chuyện". Chúng ta đang ở giữa phạm trường tội ác, vậy chúng, ta nói chuyện gì đây nếu không phải là chuyện tội ác? Nào chúng ta nói đi! Nói cho thật nhiều, nói một cách thông minh hoặc nói một cách ngu xuẩn cũng được nữa. Cứ cái gì chạy qua óc là nói liền! Chúng ta nói bất chấp phương pháp, vì phương pháp chẳng đi tới đâu. Tôi xin dâng một lời cầu nguyện lên thần May rủi, cái may rủi chi phối những điều chúng ta quan niệm! Nào, chúng ta bắt đầu!
Đến đây, ông đi qua mặt tôi nói khẽ:
- Đó, ông thấy chưa, cảnh này coi được lắm! Ông, ông có thể tưởng tượng ra không? Tôi sẽ lấy nó dựng một lớp ngắn cho một vở bi hài đang thai nghén.
Và ông xoa tay tỏ ý hài lòng. Tôi đưa mắt nhìn giáo sư Stangerson. Tia hy vọng vừa nhóm lên trong ông do phiếu khám bệnh lần chót của các bác sĩ phỏng định cô Stangerson có cơ may được chữa lành các vết thương, không đủ xóa nhòa trên gương mặt thanh cao những vết hằn của nỗi đau thương vô tận. Ông già tưởng con gái không sống nổi nên toàn thân đã rũ riệt, không sinh lực. Trước kia, đã nhiều lần tôi có dịp thấy ông Stangerson trong các buổi lễ chính thức. Ngay từ phút đầu, tôi đã chú ý đến ánh mắt trong veo của ông chẳng khác ánh mắt đứa trẻ thơ: Ánh mắt ngây thơ, ánh mắt cao khiết và bất tử của người phát minh hay kẻ điên khùng. Trong những buổi lễ ấy, ông luôn luôn có cô con gái đứng sau, hoặc bên cạnh vì người ta đồn hai cha con không bao giờ lìa nhau, cùng làm việc chung từ nhiều năm qua. Người trinh nữ ba mươi lăm tuổi, nhưng trông chưa tới ba mươi đã nguyện dâng đời mình trọn vẹn cho khoa học, vẫn còn khơi dậy trong công chúng niềm cảm phục trước tấm nhan sắc kiêu sa, trong sạch, không tỳ ố, một vẻ đẹp chiến thắng cả thời gian lẫn tình yêu. Lúc ấy, ai dám bảo sẽ có một ngày rất gần, tôi đứng bên giường cô nằm bệnh với mớ giấy tờ, và sẽ thấy cô hầu như thoi thóp vận dụng sức tàn để kể cho chúng tôi nghe việc cô bị mưu toan sát hại quái đản nhất, kỳ bí nhất mà đời tôi bây giờ mới được nghe là một. Ai dám bảo rằng tôi sẽ thấy trước mặt, như buổi trưa hôm ấy tôi đã thấy, một người cha tuyệt vọng uổng công giải thích tại sao kẻ định giết con gái ông đã có thể thoát khỏi tay ông. Vậy thì, cái công việc ta làm trong câm lặng, ở tận nơi thâm sơn cùng cốc tối tăm này, nếu nó không đảm bảo cho ta tránh thoát những tai họa của cuộc sống và cái chết.
Ông De Marquet ra vẻ quan trọng:
- Thế này nhé, ông Stangerson! Xin ông đặt mình vào đúng vị trí ông ngồi lúc cô Stangerson từ đây đi vào phòng cô. Ông Stangerson đứng dậy và đi đến chỗ còn cách cửa vào "Căn Phòng Vàng" năm mươi phân, ông lên tiếng bằng một giọng nói không âm thanh, không mầu sắc, một giọng nói tôi nhận thấy không còn sức sống:
- Tôi ở chỗ này, khoảng mười một giờ, sau khi hoàn tất mau chóng một thí nghiệm hóa học trên mấy cái lọ nhỏ, tôi cho đẩy bàn giấy đến tận đây, vì bố Jacques buổi tối phải lo lau chùi sạch vài ba bộ máy, lúc ấy cần có tất cả khoảng rộng ở sau lưng tôi để làm việc. Khi con gái tôi đứng dậy hôn tôi rồi chào bố Jacques, nó phải lách người hơi khó khăn một chút giữa bàn giấy và cửa phòng mới vào được. Nói thế để ông thấy rằng tôi ở một chỗ rất gần nơi tội ác sắp diễn ra.
- Thế cái bàn giấy? – Tôi ngắt lời ông, (Xin nhớ: Tôi bây giờ là ông đăng kiểm) trong khi xía vô "câu chuyện" này tôi có ý chiều theo sở thích của cấp trên tôi. – Thế cái bàn giấy, thưa ông Stangerson, ngay khi ông nghe tiếng kêu cứu: "Nó giết tôi" và tiếng súng nổ thì cái bàn giấy ấy ra sao? "
Bố Jacques trả lời câu hỏi này thay ông chủ:
- Chúng tôi đẩy nó vào sát tường, chỗ này này, suýt soát như bây giờ đó, để chúng tôi rộng chân nhào tới cửa phòng, thưa ông đăng kiểm.
Tôi lần theo dòng lý luận của tôi, thứ lý luận mà thật ra tôi chỉ ban cho nó tầm quan trọng của một giả thiết yếu xìu:
- Cái bàn giấy ở gần căn phòng đến độ một người từ trong khom lưng chạy ra có thể chui qua bên dưới trốn mất mà không ai nhìn thấy được không?
-" Ông vẫn cứ quên "– Giáo sư Stangerson mệt mỏi cắt ngang –" rằng con gái tôi đã khóa trái cánh cửa và cài luôn cả chốt trong, Rằng cửa vẫn còn đóng, rằng chúng tôi cùng hợp sức phá cửa ngay từ lúc hành động mưu sát mới bắt đầu, rằng chúng tôi vẫn ở ngoài cửa trong khi cuộc vật lộn giữa tên sát nhân với đứa con gái tội nghiệp của tôi đang tiếp diễn, rằng tiếng động của cuộc vật lộn này còn vang đến tai chúng tôi và chúng tôi nghe rõ tiếng đứa con gái khốn khổ của tôi rên xiết dưới sức bóp của những ngón tay kẻ sát nhân còn để lại quanh cổ nó nhiều thương tích máu. Dù hắn tấn công con tôi nhanh cách mấy, chúng tôi cũng đã nhanh không kém và chúng tôi đã tới ngay lập tức đằng sau cánh cửa ngăn cách chúng tôi với thảm kịch đang diễn ra? Tôi đứng dậy, đi đến khung cửa, khom mình xem xét lại rất cẩn thận. Đoạn tôi thẳng người lên và phác một cử chỉ chán nản. Thử tưởng tượng, tấm ván dưới của cánh cửa có thể đã được mở ra, mà cánh cửa không cần mở hết, thì vấn đề giải quyết xong rồi. Nhưng khốn nỗi, giả thuyết này không chấp nhận được sau khi xem xét cánh cửa. Nó là một cánh cửa gỗ sồi chắc và dày, đóng thành một khối đồng nhất không thể cách ly. Thật quá rõ, mặc dầu nó đã bị đập phá hư hại nặng..
- Ô! – Bố Jacques lên tiếng – nó là một cánh cửa lâu đời, gỗ rất chắc, cửa lâu đài được mang đến đây từ lâu, loại cánh cửa ngày nay người ta không làm nữa. Chúng tôi phải dùng đến thanh sắt này mới phá được nó, bốn người cả thảy, vì có chị gác cũng góp thêm một tay, chị ta thật can đảm, thưa ông Dự thẩm! Dẫu sao, thật đau khổ khi thấy họ ở tù, giờ phút này!
Bố Jacques chưa dứt câu nói đầy xót thương và cố phản đối này thì tiếng khóc và tiếng rên của vợ chồng người canh cổng đã lại nấc lên tôi chưa hề thấy những bị can nào mau nước mắt như vậy. Tôi đâm ra chán ngấy. Giả sử họ – có oan thật đi chăng nữa, tôi không hiểu sao lại có những con người thiếu khí phách trước đau khổ đến thế. Một thái độ chững chạc trong tình huống như thế này có phải đáng giá hơn tất cả những nước mắt, những tuyệt vọng thường là vờ vịt và giả trá.
- Ê! – Ông De Marquet gắt – một lần nữa, thôi đi, đừng có rên rỉ mãi thế! Và vì ích lợi của vợ chồng các người. Hãy cho chúng tôi biết các người làm gì dưới cái cửa sổ ở biệt thất, trong lúc có kẻ toan giết cô chủ của mình trong phòng. Bởi lẽ các người đang ở một chỗ rất gần biệt thất khi gặp bố Jacques chạy ngang.
- Chúng tôi đến tiếp cứu!
Hai vợ chồng sướt mướt. Rồi người đàn bà giữa hai cơn nấc, gào to:
- Ôi chao! Tôi mà bắt được thằng khốn nạn, thằng giết người ấy, tôi sẽ cho nó nếm mùi thống khổ!
Và chúng tôi, một lần nữa, không sao lấy được từ miệng họ đến hai lời khai nghiêm chỉnh. Họ tiếp tục chối, viện đến Trời và Đất, tất cả thần thánh làm chứng rằng họ đang ở trên giường ngủ khi nghe một tiếng súng nổ.
- Không phải một, mà những hai phát. Thấy chưa, rõ ràng các người khai láo. Nếu các người nghe thấy tiếng nọ tất các người phải nghe cả tiếng kia!
- Chúa ơi! Thưa ông Dự Thẩm, chúng tôi chỉ nghe phát thứ hai. Chắc là khi phát thứ nhất nổ, chúng tôi còn ngủ.
- Có hai phát súng nổ, đúng – bố Jacques xen vô – Tôi tin chắc số đạn tôi nạp còn nguyên trong ổ, sau chúng tôi tìm thấy hai vỏ đạn cháy và hai đầu đạn. Chúng tôi đã nghe hai tiếng nổ sau cánh cửa phải thế không, thưa ông Stangerson?
- Đúng thế – ông giáo sư xác nhận – hai phát súng, một phát tiếng đục, một phát nổ vang.
- Tại sao các người cứ khai láo mãi? – Ông Marquet quay lại vợ chồng anh gác cổng – Các người cho rằng Cảnh Sát cũng ngu như các người sao! Tất cả chứng tỏ các người ở ngoài nhà, gần biệt thất, lúc án mạng xảy ra. Các người làm gì lúc đó? Các người không muốn khai ư? Các người im lặng nghĩa là tòng phạm với hung thủ! Còn tôi – ông hướng về giáo sư Stangerson – Còn tôi, tôi chỉ có thể giải thích việc hung thủ tẩu thoát bằng sự hỗ trợ của hai kẻ tòng phạm này. Cánh cửa vừa bị phá sập, trong khi ông, ông Stangerson, ông mãi lo cho cô con gái khốn khổ thì tên gác cổng cùng vợ y đã giúp cho tên sát nhân chạy trốn dễ dàng. Nó lẩn sau lưng hai vợ chồng, chuồn tới cửa sổ gian tiền đình và nhảy ra hoa viên. Chính tên gác cổng đã đóng cửa sổ lại vì rốt cục những cánh cửa sổ này không thể tự nhiên đóng lại được! Đó là những gì tôi tìm ra. Còn ai thấy chi khác, xin cứ nêu lên.
Giáo sư Stangerson cất tiếng:
- Không có lẽ! Tôi không tin hai người gác cổng của tôi đã nhúng tay vào tội ác với tên sát nhân, mặc dù tôi không hiểu họ làm gì trong vườn hoa vào giờ khuya khoắt ấy. Tôi nói: Không có lẽ! Bởi vì chị gác cầm cây đèn và đứng trấn trên ngưỡng cửa không nhúc nhích, bởi vì tôi, cửa vừa bị phá là tôi nhảy bổ vào quỳ bên con tôi, và không thể có kẻ nào vào ra được phòng bằng cửa ấy mà bước qua người con tôi và đụng phải tôi! Không có lẽ, bởi vì bố Jacques và anh gác chỉ cần một cái liếc mắt nhanh quét cả phòng và dưới gầm giường như tôi lúc nhảy vào là đủ thấy không còn người nào trong phòng, ngoài con gái tôi đang hấp hối.
- Còn ông, ông Darzac, ông nghĩ sao? Nãy giờ ông chưa nói – Dự thẩm hỏi.
Ông Darzac trả lời rằng ông chẳng nghĩ gì hết.
- Và ông, ông Giám Đốc Công An? Giám Đốc Sở Công An cảnh sát, ông Dax, cho tới bây giờ chỉ nghe và xem xét hiện trường. Nhưng rồi ông cũng mở miệng.
- Trong khi chờ đợi phát hiện thủ phạm, cần phải tìm ra động cơ phạm tội. Như vậy, chúng ta mới có thể tiến xa hơn.
- Thưa ông Giám Đốc Công An, động cơ tội ác có vẻ là tình, thứ tình đê tiện – ông Dự thẩm trả lời – Những dấu vết tên sát nhân để lại, tấm khăn tay thô kệch và chiếc mũ nồi dơ dáy khiến chúng tôi tin rằng thủ phạm không thuộc một tầng lớp xã hội cao lắm. Vợ chồng người canh cổng có cho chúng ta biết nhiều hơn về điểm này.
Ông Giám Đốc Công An, hướng tới giáo sư Stangerson và bằng giọng nói lạnh lùng mà theo tôi, nó biểu hiện những nhận định thông minh, một bản lãnh được tôi luyện già dặn, ông hỏi:
- Phải cô Stangerson sắp sửa làm lễ thành hôn không, thưa giáo sư?
Ông Stangerson đau đớn nhìn Robert Darzac:
- Với người bạn thân mà tôi sẽ sung sướng được gọi là con, với ông Robert Darzac.
- Cô Stangerson đã khỏe lại nhiều, sẽ lành các vết thương và bình phục mau chóng. Đây chỉ là một cuộc hôn nhân bị trì hoãn ít lâu thôi, phải vậy không, thưa giáo sư? – Ông Giám Đốc Công An hỏi thêm.
- Tôi hy vọng thế.
- Sao vậy? Giáo sư không tin tưởng ư?
Ông Stangerson nín lặng. Nỗi lòng xao xuyến của ông Robert Darzac hiện rõ qua bàn tay run run nắm sợi dây đeo đồng hồ, vì chẳng có gì qua nổi mắt tôi. Ông Dax thì ho khúc khắc giống như ông De Marquet khi bối rối:
- Xin ông hiểu cho, thưa giáo sư; rằng trong một vụ rắc rối như vụ này, chúng tôi không thể bỏ sót một tí gì, chúng tôi cần biết tất cả, từ một chi tiết vụn vặt nhất, hời hợt nhất có liên quan đến nạn nhân, cần biết cả một chỉ dẫn bề ngoài tưởng như vô nghĩa nhất. Vậy trong tình trạng hiện tại chúng ta hầu như chắc chắn cô Stangerson sẽ sống, có cái gì khiến giáo sư nghĩ rằng cuộc hôn nhân này có thể sẽ không thành tựu? Vì giáo sư nói "tôi hy vọng". Niềm hy vọng ở trường hợp này, tôi coi như một nghi hoặc. Tại sao giáo sư nghi hoặc?
Ông Stangerson cố trấn tĩnh tinh thần trước khi trả lời:
- Thưa vâng, ông nói đúng. Tốt hơn cũng nên để ông biết một việc mà nó sẽ có vẻ quan trọng, nếu tôi giấu ông. Vả chăng, ông Robert Darzac cũng đồng ý với tôi.
Lúc này, gương mặt xanh xao của ông Roberl Darzac tôi thấy không được bình thường. Ông ra dấu với giáo sư. Theo tôi, nếu ông Darzac chỉ trả lời bằng cách ra dấu thì đó là vì ông không thốt nổi nên lời.
- Đầu đuôi thế này, thưa ông Giám Đốc Công An, – giáo sư Stangerson kể, – con gái tôi đã thề không bao giờ lìa xa tôi, và nó quyết giữ trọn lời thề dù tôi hết sức năn nỉ, vì đã nhiều lần tôi cố thuyết phục nó lấy chồng, tôi coi đấy là bổn phận. Cha con tôi quen ông Robert Darzac từ nhiều năm. Ông Robert Darzac yêu con gái tôi. Dù có lúc tôi tưởng ông cũng được yêu lại, vì mới đây tôi đã vui mừng nghe chính miệng con gái tôi báo tin nó thuận kết hôn với một người mà tôi hoàn toàn xứng ý. Tôi đã cao tuổi, thưa ông, và cái giờ phút tôi biết chắc sau tôi, cô Stangerson sẽ có được bên mình, để yêu thương và tiếp nối công việc chung của cha con tôi, một người mà tôi mến mộ, mà tôi quí trọng vì tấm lòng quảng đại và vì khoa học của ông, cái giờ phút ấy là hạnh phúc tuyệt vời của đời tôi đó. Thế nhưng, thưa ông Giám Đốc Công An, hai ngày trước khi xảy ra tai họa, tôi không hiểu – nó nghĩ sao mà lại đổi ý, không thành hôn với ông Robert Darzac.
Đến đây, phòng họp chìm vào im lặng, một khoảnh khắc nghiêm trọng, nặng nề. Ông Dax hỏi tiếp:
- Cô Stangerson không đưa ra với giáo sư một lời giải thích, không cho biết vì lý do nào hay sao?
- Nó nói bây giờ nó già rồi, không muốn lấy chồng, rằng nó đã chờ đợi quá lâu, nó đã suy nghĩ kỹ, nó rất cảm phục và yêu ông Robert Darzac nữa, nhưng tốt hơn hết nên dừng lại ở đây, rằng mọi sự nên tiếp tục như trước, rằng nó rất vui sướng thấy những liên hệ thuần khiết bạn bè giữa cha con tôi với ông Robert Darzac sẽ siết chặt tình thân hơn nữa, nhưng xin tất cả đừng bao giờ ai đề cập với nó câu chuyện hôn nhân.
- Thế thì lạ thật! – Ông Dax lẩm bẩm.
- Lạ thật! – Ông De Marquet lặp lại.
Giáo sư Stangerson nhếch môi phác một nụ cười héo hắt và lạnh, ông nói tiếp:
- Phía đó, không phải chỗ ông tìm ra động cơ tội ác đâu, thưa ông!
- Dầu sao, – ông Dax nóng nảy, trong vụ này, động cơ tội ác không phải là trộm cắp!
- Ô, cái đó thì chúng tôi yên trí rồi – ông Dự thẩm kêu lên.
Đến đây, cửa phòng thí nghiệm vụt mở, viên đội trưởng Hiến Binh mang vào trình Dự thẩm một tấm danh thiếp. Ông De Marquet đọc xong buông một tiếng rên đùng đục, đoạn nói:
- A! Thế này thì quá lắm!
- Gì vậy? – Ông Giám Đốc Công An kinh ngạc. - Danh thiếp một anh phóng viên quèn Joseph Rouletabille với dòng chữ: "Một trong những động cơ tội ác là ăn trộm".
Giám Đốc Công An tủm tỉm cười:
- A! A! Chàng tuổi trẻ Rouletabille, tôi đã có nghe nói về anh này, được coi như có biệt tài. Xin ông cứ cho vào, thưa ông Dự thẩm.
Và người ta cho ông Joseph Rouletabille vào phòng. Tôi đã làm quen với anh ta trong chuyến xe lửa đưa chúng tôi buổi sáng hôm ấy đến Epinay Sur-Orgé. Anh ta gần như chẳng nể nang gì tôi, cố tình xông vào toa chúng tôi ngồi, và tôi thích nói ngay tức khắc rằng những điệu bộ và cái vẻ ngông nghênh của anh ta làm như đã biết tỏng những gì bí ẩn trong một vụ án mà bộ máy tư pháp còn mù mờ đã làm tôi ứa gan. Anh chàng này hình như chưa tới hai mươi tuổi, và với cái vẻ trắng trợn anh ta dám hỏi han bàn luận nọ kia với chúng tôi, tôi thấy anh ta đặc biệt khả ố. Hơn nữa, anh ta có một kiểu nói năng rõ ràng là muốn giễu cợt chúng tôi.
Thế là ông Joseph Rouletabille bước vào phòng thí nghiệm. Ông chào chúng tôi xong, đứng nghiêm trang đợi Dự thẩm cho phép lên tiếng. Ông Dự thẩm nói:
- Sao ông, ông tự cho mình là người biết rõ động cơ tội ác, và cái động cơ ấy, nghịch lại mọi sự hiển nhiên, chính là ăn trộm?
- Không, thưa ông Dự thẩm, tôi không hề nói thế. Tôi không nói động cơ tội ác trong vụ này là ăn trộm và tôi không tin là như vậy.
- Thế thì tấm danh thiếp này nghĩa là sao?
- Nó có nghĩa một trong những động cơ tội ác là ăn trộm.
- Ông căn cứ vào đâu?
- Vào cái này! Mời quý vị đi theo tôi.
Và anh chàng yêu cầu chúng tôi theo anh sang gian tiền đình. Chúng tôi đi đến đó, anh liền lại buồng rửa mặt và yêu cầu ông Dự thẩm quỳ gối bên cạnh anh. Cái buồng rửa mặt nhỏ có ánh sáng lọt vào qua khung cửa lắp kính và khi cửa mở thì nó lại càng sáng choang khắp mọi chỗ. Ông De Marquet và ông Rouletabille phục xuống ngưỡng cửa. Anh phóng viên chỉ một góc lát đá hoa, nói:
- Sàn đá buồng rửa mặt ít lâu nay bố Jacques không lau chùi. Cứ trông lớp bụi này khắc biết. Ông coi đây, dấu hai đế giầy to bản với tí bụi to đen kèm theo dấu chân của thủ phạm đã in khắp nơi. Chất tro này không là gì khác hơn bụi than rắc đầy con đường mòn mà người ta phải theo để băng qua cánh rừng, đi thẳng từ Epinay đến Giandier. Chắc quý vị biết chỗ này có một khu xóm nhỏ của thợ làm than, họ sản xuất than củi ở đó rất nhiều. Tên sát nhân có lẽ đã làm như sau:
Nó lẻn vào đây buổi trưa, khi không có ai trong biệt thất, và nó đã phạm tội ăn trộm.
- Nhưng mà trộm cái gì mới được chứ? Ông thấy mất trộm ở chỗ nào đâu? Ai chứng minh với ông là có mất trộm? Tất cả chúng tôi nhao nhao tấn công một lúc.
- Cái dấu chân nó dẫn tôi đến chỗ tìm ra vụ trộm. – chàng phóng viên nói tiếp.
- Là cái này! – Ông De Marquet cắt ngang trong lúc vẫn quỳ gối dưới đất.
- Chứ còn gì nữa? – ông Rouletabille xác nhận. Rồi ông De Marquet cắt nghĩa quả thật trên làn bụi phủ sàn đá, bùn cạnh dấu hai chiếc đế gầy, có vết hằn còn mới trông rõ đường viền một bao đồ nặng hình chữ nhật, có vết dây cột vòng quanh cũng phân biệt được dễ dàng.
- Thế ra ông đến đây rồi ư, ông Rouletabille? Tôi đã cho lệnh bố Jacques không để ai vào cơ mà, bố có nhiệm vụ canh gác biệt thất.
- Xin ông đừng la rầy bố Jacques, tôi đã đến với ông Robert Darzac.
- A! Thật thế sao? – Ông De Marquet cao giọng vì bực tức và liếc xéo ông Darzac vẫn thẫn thờ ngồi im lặng. Ông Rouletabille nói tiếp:
- Khi thấy vết cái bọc đồ ở ngang cạnh dấu đế giầy thì tôi không còn nghi ngờ gì về vụ trộm, nhưng trộm đâu có mang theo một bọc nặng đến chỗ nó định ăn trộm. Nó đã đóng cái bọc ấy ở đây, chắc chắn với những đồ ăn trộm ở đây, rồi đem đến giấu ở xó này, chủ ý sẽ xẹt qua ôm theo lúc đào tẩu. Nó đã đem đôi giầy thô lỗ của nó đặt ở đây, bên cạnh bọc đồ, vì mời quý vị xem kỹ, không hề có dấu chân nào dẫn đến đôi giày này, và hai đế giầy sắp hàng ngang bên cạnh nhau, như thể cặp đế giầy ở trạng thái nghỉ và không có bàn chân người đạp bên trong. Như thế, ta sẽ hiểu rằng tên sát nhân khi từ "Căn Phòng Vàng" chạy ra, nó đã không để lại dấu chân nào trong phòng thí nghiệm và gian tiền đình. Sau khi lọt vào "Căn Phòng Vàng" với đôi giầy của nó, nó đã tụt giầy ra, chắc hẳn vì vướng chân hoặc muốn bớt thật nhiều tiếng động. Những dấu chân nó qua gian tiền đình và phòng thí nghiệm lúc đến thì đã được bố Jacques vô tình lau rửa sạch sau đó. Điều này có nghĩa là tên sát nhân đã vào biệt thất bằng khung cửa sổ mở của gian tiền đình trong thời gian bố Jacques vắng mặt lần thứ nhất trước khi lau nhà lúc năm giờ rưỡi! Tên sát nhân sau khi tháo giầy chắc vì vướng cẳng, đã cầm đôi giày trên tay mang đến phòng rửa mặt, đứng trên bục cửa mà đặt đôi giầy xuống sàn nhà, bởi trên lớp bụi ở phòng rửa mặt không có dấu chân trần hoặc mang tất ngắn hoặc xỏ trong đôi giầy khác. Vậy là nó đã đặt giầy nó bên cạnh bọc đồ. Việc ăn trộm lúc này đã hoàn tất. Đoạn, nó trở lại "Căn Phòng Vàng" chui vào gầm giường. Thân xác nó dưới gầm giường còn in đủ dấu vết trên sàn nhà và cả trên tấm thảm ở khoảng này hơi cộm lên một chút và nhầu nát. Có cả vài cọng rơm mới bị tróc ra cũng chứng tỏ tên sát nhân có mai phục dưới gầm giường.
- Phải, phải, cái đó chúng tôi biết rồi. - Ông De Marquet ngắt lời.
- Sự kiện nó trở lại gầm giường, – anh phóng viên non choẹt và kỳ quặc nói tiếp, – chứng tỏ không phải chỉ do một động cơ ăn trộm thúc đẩy. Quý vị chớ nghĩ là nó trốn vào đó trong lúc vội vã vì trông thấy qua cửa sổ gian tiền đình, hoặc bố Jacques, hoặc cha con cô Stangerson sắp về tới biệt thất. Nó có thể leo lên gác nóc và nấp tại đó đợi dịp tẩu thoát có phải dễ dàng hơn bao nhiêu không, nếu ý đồ nó là chạy trốn. Không! Không! Nó cần phải ở trong "Căn Phòng Vàng"
Đến đây, ông Giám Đốc Công An can thiệp:
- Lập luận khá lắm, anh bạn trẻ! Tôi xin có lời khen phục và tuy chúng ta chưa biết tên sát nhân trốn đi bằng cách nào, nhưng chúng ta đã theo nó từng bước một đến đây và trông thấy nó làm gì: Nó ăn trộm. Thế nhưng nó ăn trộm cái chi?
- Những vật cực kỳ quý giá! – Anh phóng viên trả lời. Đúng lúc ấy, chúng tôi nghe một tiếng kêu thất thanh phát ra từ phòng thí nghiệm, chúng tôi vội vàng chạy sang thì bắt gặp ông Stangerson mắt trợn ngược, tay chân run lẩy bẩy. Ông chỉ cho chúng tôi thấy một cái tủ kiểu tàng thư cửa mở toang và bên trong trống không. Đoạn, ông buông mình rơi phịch xuống chiếc ghế bành lớn đã được đẩy tới trước bàn giấy và rên rỉ:
- Một lần nữa, tôi bị mất trộm rồi. Tiếp theo là một giọt nước mắt, một giọt nước mắt nặng nề, chảy dài trên má ông giáo sư đau khổ.
- Cần nhất, xin quý vị đừng ai nói hở với con gái tôi vụ mất trộm này, nó sẽ đau đớn hơn tôi nữa. Ông buông một tiếng thở dài thọc mệt, rồi bằng một giọng thê lương không bao giờ tôi quên nổi, ông hổn hển: - Thôi, cũng chẳng sao, miễn là nó sống!
- Cô ấy sẽ sống! – Tiếng Robert Darzac cất lên nghe xúc động lạ lùng.
- Và chúng tôi sẽ tìm lại cho giáo sư các vật mất trộm – ông Dax nói – Nhưng, xin cho biết giáo sư đã mất những gì trong tủ này?
- "Hai mươi năm của đời tôi!" – vì giáo sư bác học nổi danh trả lời, giọng khản đặc – hay đúng hơn của đời chúng tôi, con gái tôi và tôi. Vâng, những tài liệu quý nhất của chúng tôi, những quan hệ bí mật nhất về các cuộc thí nghiệm và công trình nghiên cứu của chúng tôi suốt hai mươi năm ròng đều cất trong đó. Một công phu chọn lọc thực sự trong muôn vàn tư liệu xếp đầy cái tủ này. Đây là một tổn thất vô phương cứu vãn đối với chúng tôi, và tôi dám nói, đối với khoa học nữa. Tất cả các giai đoạn tôi phải trải qua để tới được chứng cứ quyết định về tình trạng vật chất bị tiêu diệt, chúng tôi đã trần thuật, dán nhãn, chú giải kỹ lưỡng rồi minh họa bằng hình vẽ và ảnh chụp. Toàn bộ xếp cả ở đây. Tấm hoành đồ ba kiểu máy mới, một dùng để nghiên cứu sự hao mòn dưới ảnh hưởng tia sáng tử ngoại, nơi các vật thể đã được truyền điện; một kiểu nữa làm hiện rõ thể tiêu hao điện khí dưới tác động các phân tử vật chất ly tán chứa trong hơi khí ngọn lửa; kiểu thứ ba rất tinh vi, là máy điện nghiệm ngưng tụ vi phân, cả một tuyển tập những khúc tuyến của chúng tôi phô diễn các đặc tính cơ bản của thực chất trung gian giữa những vật có khả năng thăng bằng, và ê-te không thể thăng bằng của vật thể, còn chưa ai biết. Một tập bản thảo tôi định cho ấn hành dưới tiêu đề: Những Kim Loại Hư Hao. Còn gì nữa? Còn gì nữa? Kẻ tới đây đã cướp đi của tôi tất cả, con gái tôi và sự nghiệp tôi, trái tim tôi và linh hồn tôi. "Trên chiếc ghế bành nơi ông Stangerson lả người gục mặt, ông Robert Darzac tỳ khuỷu tay cố giấu hai hàng nước mắt, khiến chút xíu nữa tôi đã có thiện cảm với ông, mặc dầu thái độ lạ lùng và vẻ xúc động kỳ quái ở ông khiến tự nhiên tôi thấy khó chịu, coi ông như một nhân vật bí hiểm khôn dò. Chỉ có ông Rouletabille, như thì giờ quí báu và sứ mạng của ông trên trái đất không cho phép ông mủi lòng trước cảnh đau thương của nhân loại, vẫn điềm nhiên bước đến bên chiếc tủ trống không, giơ tay chỉ vào nó, nhìn ông Giám Đốc Cảnh Sát Công An, rồi phá tan bầu không khí im lặng tôn nghiêm mà chúng tôi đang giữ để tỏ lòng kính trọng niềm đau tuyệt vọng của nhà đại bác học Stangerson. Ông ta đưa ra vài lời giải thích đối với chúng tôi thật nhạt về cách ông ta suy luận để tin là có vụ trộm xảy ra, do việc khám phá cùng một lúc những dấu vết trong buồng rửa mặt tôi đã kể ở trên, với cái tủ quí trống trơn trong phòng thí nghiệm. Nhưng hiện tượng đầu tiên đập vào mắt ông ta là hình thù dị dạng của chiếc tủ đóng bằng sắt để chống mọi hỏa hoạn bất ngờ, vẻ kiên cố của nó và một cái tủ như tủ này dùng để bảo tồn những vật được người ta quí báu hơn hết mọi thứ thế mà trên cánh cửa sắt lại đeo toòng teng chiếc" chìa khóa của nó ". Lẽ thường, không ai sắm tủ sắt để rồi bỏ ngỏ. Rốt cuộc, chiếc chìa khóa nhỏ ấy, đầu đồng, rất là phức tạp, dường như thu hút sự chú ý đặc biệt của ông Joseph Rouletabille trong khi chúng tôi chẳng ai thèm để ý đến nó. Với chúng tôi, người lớn chứ đâu phải trẻ con, cảnh một chiếc chìa khóa cắm ở của tủ thường gợi ra ý nghĩ an toàn, nhưng với ông Rouletabille, dĩ nhiên là bậc kỳ tài – như José Dupuy nói trong Năm Trăm Triệu Tay Giác Đấu:" Kỳ tài, Kỳ tài nha-sĩ! "– cảnh chìa khóa cắm ở cánh cửa tủ lại gợi ra ý nghĩ một vụ trộm.
Chúng tôi sắp sửa biết lý do. Nhưng trước khi cho quý vị cùng biết lý do này, tôi cần thưa rằng ông De Marquet tỏ vẻ rất băn khoăn, không hiểu nên mừng về cái bước tiến mới mà anh phóng viên nọ đã giúp cho cuộc thẩm cứu của ông, hay là ông phải lấy làm buồn bã vì cái bước tiến ấy không do ông thực hiện. Nghề nghiệp chúng tôi có những chua cay như vậy đó, nhưng chúng tôi không có quyền khiếp nhược và phải giày xéo lên tự ái khi cần phục vụ lợi ích chung. Bởi thế ông De Marquet đành tự chế và thấy rằng nên góp lời khen ngợi với ông Dax thì hơn, mà ông Dax thì không tiếc lời đề cao ông Rouletabille. Anh phóng viên tép riu nhún vai khiêm nhường:" Không có chi! ".
Tôi thầm ước gì tặng cho gã một cái bạt tai nẩy lửa thì sướng ôi là sướng, nhất là trong lúc nói tiếp :(vẫn là ông đăng kiểm đang kể chuyện chứ không phải là" tôi "ban đầu nhé)
- Xin ông hỏi giùm giáo sư Stangerson, ai là người được giao nhiệm vụ giữ chiếc chìa khóa này.
- Con gái tôi – nhà bác học trả lời – và chiếc chìa khóa không bao giờ rời nó.
- A! Thế thì mọi sự lại khác hơn rồi, không còn phù hợp với khái niệm của ông Rouletabille nữa – Ông De Marquet reo lớn mừng rỡ – Nếu chiếc chìa khóa này không bao giờ rời cô Stangerson thì tức là tên sát nhân đêm ấy đã đợi cô Stangerson ở trong phòng để chiếm đoạt chiếc chìa khóa và vụ trộm chỉ có thể diễn ra sau vụ mưu sát! Nhưng sau vụ mưu sát thì đã có ngay bốn người ở trong phòng thí nghiệm! Quả thật, tôi hết còn hiểu gì nữa! Và ông De Marquet nhắc lại, với vẻ thịnh nộ chán chường nhưng đối với ông, thật ra nó vốn là điểm tột cùng của niềm say mê thầm kín, vì không biết tôi đã nói chưa nhỉ, không bao giờ ông cảm thấy sung sướng bằng lúc ông không hiểu gì cả:".. hết còn hiểu gì nữa! "
-" Vụ trộm ", – anh phóng viên đủng đỉnh cãi, chỉ có thể xảy ra trước vụ" mưu sát "Điều này không thể nghi ngờ, vì một lẽ mà ông tin và vì nhiều lẽ mà tôi tin. Và khi tên sát nhân lọt vào biệt thất, nó đã có sẵn trong tay chiếc chìa khóa đầu đồng.
- Không có thể. – Ông Stangerson giọng dịu dàng.
- Rất có thể. Thưa giáo sư, đây là chứng cứ?
Rồi thằng quỷ con lôi trong túi ra một số báo ngày 21 tháng mười (tôi nhớ vụ mưu sát xảy ra trong đêm 24 rạng ngày 25) và chỉ cho chúng tôi thấy một lời rao vội. Anh đọc:
-" Hôm qua, tôi đánh mất một ví tay phụ nữ bằng Sa-tanh đen trong mấy nhà hàng lớn ở Louve. Chiếc ví đựng vài thứ vặt vãnh trong đó có một chìa khóa nhỏ đầu đồng. Ai bắt được sẽ có một món tiền thưởng trọng hậu. Xin viết thư lại tại bưu điện, về văn phòng 40, gửi cho: M. A. T. H. S. N. "Những chữ cái này- anh phóng viên nói tiếp – chẳng phải tên cô Stangerson là gì? Cái chìa khóa đầu đồng ấy chẳng phải cái chìa khóa này là gì? Tôi hay đọc mục rao vặt lắm. Trong nghề của tôi cũng như trong nghề của ông, thưa ông Dự thẩm, cần phải đọc những lời rao vặt liên quan đến cá nhân. Thế mới phát hiện được nhiều mưu mô! Nhiều chìa khóa mở các mưu mô không phải luôn luôn có đầu đồng, nhưng không kém phần đáng chú ý. Lời rao vặt này, đặc biệt bởi cái vẻ bí ẩn mà người đàn bà đánh mất chiếc chìa khóa, một vật chẳng nguy hại gì lắm, bao trùm quanh mình, lời rao vặt này làm tôi sửng sốt. Chìa khóa gì mà bà ta quí đến thế? Hứa cả một món hậu tạ lớn! Và tôi nghĩ đến sáu chữ M. A. T. H. S. N. Bốn chữ đầu chỉ rõ ngay một tiểu danh phụ nữ:" Tất nhiên – tôi thầm nghĩ – Math. Mathilde. Người đàn bà đánh mất chiếc chìa khóa đầu đồng tên là Mathilde L. Nhưng hai chữ sau thì tôi chịu thua. Bởi vậy, tôi liệng tờ báo đi lo công chuyện khác. Đến khi, bốn ngày sau, các nhật báo phát hành buổi chiều với những đầu đề chữ lớn ở trang nhất loan tin về vụ mưu sát cô Mathilde Stangerson, thì chẳng cần suy nghĩ, cái tên Mathilde lập tức gợi cho tôi nhớ đến những chữ cái ở lời rao vặt! Hơi thắc mắc, tôi hỏi xin ban biên tập số báo cũ ngày hôm ấy. Tôi đã quên hẳn hai chữ chót: S, N. Khi thấy lại hai chữ này, tôi không ghìm nổi một tiếng kêu: "Stangerson". Tôi nhào lên một chiếc xe ngựa cho thuê, hối hả đến Văn Phòng 40 Bưu Điện. Tôi hỏi: "Ông có thư cho M. A. T. H. S. N không?". Nhân viên phụ trách đáp: "Không!". Rồi thấy tôi cố nài, khẩn khoản xin tìm kỹ lại cho, ông ta hơi gắt: "Thôi đi, ông ơi, giỡn hoài! Có, tôi có nhận một phong thư đề những chữ đầu tên M. A. T. H. S. N. Nhưng tôi đã phát cho một bà đã đến lấy ba ngày nay rồi. Hôm nay, tới lượt ông đòi nữa. Hôm kia, cũng có một ông đến hỏi, cứ kèo nài dai nhách à! Tôi ngán cái trò chơi tai ác này rồi đó". Tôi thèm hỏi thêm ông ta về hai nhân vật đã đến lấy thư; nhưng hoặc vì ông ta muốn trốn sau bức tường bí mật nghề nghiệp – chắc ông ta cho rằng mình đã nói quá nhiều – hoặc quả thật ông ta đã bị một trò đùa nghịch quấy rầy quá đáng, ông ta cương quyết không trả lời tôi nữa ".
Rouletabille ngừng nói. Chúng tôi tất cả đều nín lặng. Mỗi người rút từ câu chuyện thư bưu bưu điện ra những kết luận riêng. Trên thực tế, dường như bây giờ người ta đã nắm được một đường dây vững chắc sắp sửa có thể lần theo cái vụ án" Không thể chụp bắt "này".
Lát sau, ông Stangerson lên tiếng:
- Thế thì gần như chắc chắn con gái tôi đã đánh mất chiếc chìa khóa ấy. Nó không muốn cho tôi biết để tránh cho tôi nỗi lo sợ, và nó đã yêu cầu người bắt được chìa khóa viết thư lưu tại bưu điện để nó kín đáo đến lấy. Rõ ràng nó sợ nếu cho địa chỉ, tất sẽ có nhiều cuộc đi lại tiếp xúc, khiến tôi hay biết việc mất chìa khóa. Âu cũng là điều rất hợp lý và rất tự nhiên thôi. Bởi vì, thưa ông, tôi đã từng bị mất trộm!
- Ở đâu? Và bao giờ? – Ông Giám Đốc Công An hỏi dồn.
- Ô! Nhiều năm rồi, tận Châu Mỹ, ở Philadelphie. Nó đã ăn trộm trong phòng thí nghiệm của tôi hai phát minh có thể làm giàu cho cả một dân tộc, không những chẳng bao giờ tôi biết kẻ trộm là ai, mà chẳng bao giờ tôi nghe nói gì đến "vật bị mất trộm". Rồi để phá hư những toan tính của tên trộm, tôi đã đích thân tung hai phát minh đó vào lãnh vực quần chúng làm cho vật bị mất trộm không còn giá trị độc quyền. Từ ngày ấy, tôi trở thành rất đa nghi. Tôi tự giam mình thật kín khi làm việc. Tất cả song sắt các cửa sổ, ngôi biệt thất cô lập, cái tủ chính tôi đặt đóng ổ khóa đặc biệt với cái chìa độc nhất, tất cả nhưng cái ấy là kết quả bao nhiêu lo sợ phát sinh từ một kinh nghiệm đau buồn.
Ông Dax ngỏ một lời khen ngợi: "Hay quá!"
Ông Joseph Rouletabille thì hỏi thăm về chiếc ví tay. Cả giáo sư Stangerson, cả bố Jacques từ mấy ngày nay không ai trông thấy chiếc ví tay của cô Stangerson. Vài giờ sau đó, chúng tôi được biết do chính cô Stangerson kể lại, rằng chiếc ví quả có bị đánh cắp hoặc cô làm thất lạc, và mọi sự xảy ra đúng như cô kể, rằng ngày 23 tháng 10 cô đến Văn Phòng 40 bưu điện và nơi đây đã trao cho cô một phong thư mà nội dung là một trò đùa nhảm nhí. Cô đã đốt đi ngay. Để trở lại với buổi khai cung, hay đúng hơn, buổi "đàm luận" của chúng tôi, tôi cần nêu rõ điểm này: Ông Giám Đốc Công An hỏi giáo sư Stangerson: Con gái ông đi Paris làm gì ngày 20 tháng 10 là ngày mất chiếc ví tay, thì chúng tôi được biết cô đã lên thủ đô, có ông Robert Darzac đi kèm, và ông Robert Darzac từ hôm đó tới ngày hôm sau vụ mưu sát, người ta "không thấy đến lâu đài". Sự kiện ông Robert Darzac cặp kè bên cạnh cô Stangerson trong những cửa hàng lớn ở Louve khi chiếc ví tay biến mất không ai không biết, và cần nói thêm, nó thu hút rất mạnh sự chú ý của chúng tôi. Buổi nói chuyện tự do giữa thẩm phán, bị can, nhân chứng và nhà báo sắp kết thúc thì xảy ra một đột biến thật sự có kịch tính, điều mà xưa nay ông De Marquet không bao giờ chê bỏ.
Viên đội trưởng Hiến binh thông báo có Frédéric Larsan xin vào dự cuộc đàm thoại. Lập tức thỉnh cầu được chấp thuận ngay. Ông ta xách một đôi giày thô, móp, bết bùn đất liệng vào phòng thí nghiệm và hô:
- Đây, đôi giày tên sát nhân đã mang! Ông có nhận ra không, bố Jacques? Bố Jacques cúi nhìn đôi giày da dơ dáy, và giựt mình sửng sốt, công nhận đó là đôi giầy cũ của mình đã vứt bỏ lẫn trong đám đồ phế thải ở một góc gác nóc. Ông già lúng túng đến nỗi phải rút khăn tay xì mũi để giấu cơn xúc động. Tức thì, Frédéric Larsan trỏ chiếc khăn tay bố Jacques đang xì mũi, tuyên bố: - Đây, một chiếc khăn tay giống chiếc lượm được trong "Căn Phòng Vàng" một cách lạ lùng.
- A! Tôi biết chứ – bố Jacques run rẩy trả lời – Hai cái hầu như y hệt nhau.
- Sau hết – Frédéric Larsan dõng dạc thuyết tiếp – Cái mũ bát cũng tìm thấy trong "Căn Phòng Vàng" là của ông sếp bố Jacques đội ngày xưa. Tất cả những điểm này, thưa ông Giám Đốc Công An và ông Dự thẩm, chứng tỏ theo tôi – ơ kìa, bình tĩnh lại đi, ông lão! – Larsan nói với bố Jacques đang muốn xỉu – mọi cái theo tôi, chứng tỏ tên sát nhân định che giấu con người thật của nó. Nó cải trang khá trắng trợn, hay ít nhất chúng ta xem như trắng trợn, bởi vì chúng ta chắc chắn kẻ sát nhân không phải bố Jacques, người không hề rời giáo sư Stangerson một lúc nào. Nhưng quý vị thử tưởng tượng coi, nếu tối hôm ấy – ông Stangerson không kéo dài buổi làm việc khuya, nếu sau khi rời con gái, ông đã về ngay lâu đài, rồi cô Stangerson bị sát hại đúng lúc không có ai trong phòng thí nghiệm và bố Jacques ngủ vùi trong gác nóc thì: Chẳng còn ai còn nghi ngờ mà không quyết đoán ngay bố Jacques chính là kẻ sát nhân. Bố Jacques thoát tội chỉ là nhờ vào thời điểm tấn thảm kịch nổ ra quá sớm. Chắc hẳn tên sát nhân nghe bên này im lặng, tưởng phòng thí nghiệm không có ai và giờ hành động của nó đã tới. Kẻ đã có thể lẻn vào đây và sắp đặt những tội chứng rõ rệt đổ thừa cho bố Jacques, nhất định phải là người quen trong nhà. Nó lọt vào đây chính xác vào giờ nào? Trưa? Hay tối? Tôi không dám quyết. Một kẻ quen thuộc mọi việc, mọi người trong biệt thất đã lẻn vào "Căn Phòng Vàng" đúng giờ thuận tiện cho nó.
- Nhưng nó vào sao được nếu phòng thí nghiệm có người?
- Làm sao chúng ta biết, thưa ông! – Larsan cãi – Đã có một bữa ăn chiều trong phòng thí nghiệm, rồi gia nhân đi lại phục dịch, lại còn một cuộc thử nghiệm hóa học khoảng từ mười giờ đến mười một giờ, giáo sư Stangerson, con gái ông và bố Jacques quây quanh mấy chiếc hỏa lò ở một góc lò lớn. Ai dám nói rằng tên sát nhân không phải là một người quen! Đã không lợi dụng lúc này để lẻn vào "Căn Phòng Vàng" sau khi tháo bỏ giầy để lại phòng rửa mặt.
- Không có ai! – Giáo sư Stangerson lắc đầu. - Không có lẽ, nhưng không phải là không có thể. Bởi vậy tôi không khẳng định gì cả. Còn việc nó ra thế nào thì lại là chuyện khác! Làm sao nó chạy thoát? Thưa rằng "một cách tự nhiên nhất trần đời"!
Trong khoảnh khắc, Frédéric Larsan nín lặng. Cái khoảnh khắc này, chúng tôi thấy nó dài quá. Chúng tôi lắng đợi ông ta mở miệng lại mà người muốn phát sốt, cũng dễ hiểu thôi.
- Tôi chưa hề vào "Căn Phòng Vàng" – Frédéric Larsan nói tiếp – nhưng tôi trộm nghĩ quý vị đã có bằng chứng rằng người ở trong phòng chỉ có thể ra bằng cửa lớn. Thì chính là bằng cửa lớn mà tên sát nhân đã đi ra. Vả chăng, vì lẽ không thể nào khác được nên phải vậy. Nó đã phạm tội ác trong phòng và nó đã ra bằng cửa lớn! Ra lúc nào? Lúc dễ dàng nhất đối với nó, lúc nào việc đi ra đối với nó trở thành dễ cắt nghĩa nhất, dễ cắt nghĩa đến độ không sao tìm được cách cắt nghĩa nào khác, vậy chúng ta hãy xem xét những "lúc" theo sau tội ác. Lúc thứ nhất thì ở trước cửa, sẵn sàng chặn đường nó, có ông Stangerson và bố Jacques. Lúc thứ hai, bố Jacques vắng mặt vài phút, ông Stangerson một mình ở lại trước cửa. Lúc thứ ba, ông gác cổng đến với ông Stangerson. Lúc thứ tư, trước cửa có ông Stangerson, anh gác cổng, vợ anh và bố Jacques. Lúc thứ năm, cửa bị phá, bốn người ùa vào "Căn Phòng Vàng". Cái lúc nó tẩu thoát dễ cắt nghĩa nhất chính là lúc trước cửa có ít người nhất. Có một lúc chỉ có một người: Đó là lúc ông Stangerson ở lại một mình trước cửa. Trừ trường hợp buộc chết cho bố Jacques là tòng phạm bằng im lặng, và tôi không tin bố Jacques là tòng phạm, bởi lẽ bố Jacques sẽ không ra khỏi biệt thất để đi xem xét cái của sổ của "Căn Phòng Vàng", nếu bố đã thấy cửa mở và tên sát nhân ở trong chạy ra. Thế thì cửa chỉ mở lúc ông Stangerson có một mình và nó đi ra. Đến đây, chúng ta cần chấp nhận rằng ông Stangerson có những lý do vững mạnh để không bắt giữ hoặc hô hoán bắt giữ tên sát nhân, vì ông đã để mặc cho nó tới tận cửa sổ gian tiền đình, rồi đóng cửa sổ lại khi nó đã leo qua! Xong việc này, vì bố Jacques sắp trở lại và cần để bố thấy lại mọi sự đâu vẫn yên đấy, cô Stangerson chắc bị cha quở trách sao đó nên mặc dầu thương tích trầm trọng, vẫn còn đủ sức để khóa trái căn "Căn Phòng Vàng" và cài chốt lại như cũ trước khi cô gục xuống sàn nhà chết giấc. Chúng ta không biết kẻ nào phạm tội ác, chúng ta không biết ông và cô Stangerson là nạn nhân của tên khốn nạn nào, nhưng không thể nghi ngờ, cha con cô biết nó là ai! Cái bí mật này phải vô cùng khủng khiếp đến đỗi người cha đã không ngần ngại bỏ con gái đang hấp hối sau cánh cửa mà chính cô đã đóng lại, khủng khiếp đến độ ông đành để tên sát nhân tẩu thoát. Vậy đó, làm gì có cách nào khác trên đời để giải thích việc tên sát nhân trốn ra khỏi "Căn Phòng Vàng".
Không khí im lặng tiếp theo tràng thuyết minh bi thảm và sáng sủa này có một cái gì ghê rợn. Hết thảy chúng tôi cùng đau đớn cho vị giáo sư danh tiếng bị lập luận tàn nhẫn của Frédéric Larsan dồn đến chân tường, bị buộc phải, hoặc thú thực với chúng tôi nỗi thống khổ của mình, hoặc câm nín, một lời thú tội còn khủng khiếp hơn. Con người ấy, pho tượng hiện thân của đau đớn từ từ đứng dậy. Ông giơ cao tay thành một cử chỉ long trọng đến nỗi chúng tôi phải kính cẩn cúi đầu như trước một biểu tượng thần thiêng rồi bằng giọng sang sảng như phải vận dụng hết nguồn sinh lực còn lại, ông dằn từng tiếng:
- Tôi xin thề trên đầu con gái tôi đang hấp hối, rằng tôi không hề rời cái cửa này từ lúc nghe tiếng kêu cứu tuyệt vọng của con tôi, rằng cửa này không hề mở khi tôi chỉ có một mình trong phòng thí nghiệm, và cuối cùng khi tôi cùng ba người giúp việc ùa vào "Căn Phòng Vàng" thì tên sát nhân không còn trong đó nữa! Tôi thề không biết tên sát nhân là ai!
Tôi có cần nói thêm hay không, rằng dù nghe một lời thề long trọng dường ấy, chúng tôi vẫn không tin ông Stangerson. Frédéric Larsan vừa hé cho chúng tôi thấy thấp thoáng sự thật, lẽ đâu chúng tôi chịu để cho nó biến nhanh như vậy. Khi ông De Marquet tuyên bố cuộc "hội thoại" chấm dứt và chúng tôi sửa soạn rời phòng thí nghiệm thì bỗng anh phóng viên non, tên Joseph Rouletabille nhãi ranh tiến lại bên ông Stangerson, cầm tay ông một cách hết sức kính cẩn, và tôi nghe gã nói.
- Riêng tôi, tôi tin ông, thưa giáo sư!
Tôi xin ngừng ở đây đoạn kể về bài tường thuật của ông Maleine, đăng kiểm tại tòa án Corbeil. Khỏi cần minh xác với quý vị độc giả rằng tất cả những gì diễn ra trong phòng thí nghiệm đã được chính Rouletabille kể lại với tôi rất trung thực và ngay tức khắc.