Trinh Thám Bí Ẩn Trong Căn Phòng Vàng – Gaston Leroux - Hương Thu Dịch

Thảo luận trong 'Convert' bắt đầu bởi Huongthu2401, 11 Tháng mười 2021.

  1. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 11: Lời giải thích của ngài Frédéric Larsan:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong cả đống tài liệu mà tôi gom góp được trong vụ Bí mật "Căn Phòng Vàng", có một thứ thú vị nhất. Đó là bản tường thuật buổi hỏi cung tất cả mọi người liên quan trong hiện vụ, diễn ra trưa hôm ấy trong phòng thí nghiệm của giáo sư Stangerson, trước viên Giám Đốc Cảnh Sát Công An. Nó được thảo dưới ngọn bút của ông Maleine – viên đăng kiểm, người cũng giống ông Dự thẩm, thường viết văn trong những giờ rảnh rỗi.

    Tài liệu ấy đáng lẽ góp phần vào một quyển sách mang tên: Những Buổi Hỏi Cung Do Tôi Thực Hiện, nhưng chẳng bao giờ được ra mắt độc giả thân yêu. Tài liệu này, chính viên đăng kiểm đã đem cho tôi ít lâu sau màn "gỡ nút ly kỳ" của một vụ án độc nhất trong vườn hoa muôn sắc của lịch sử tư pháp. Nó như sau đây. Nó chỉ là một đoạn văn ghi chép khô khan những câu hỏi, đáp. Viên đăng kiểm thường xen vào cảm tưởng riêng của ông ta. Bản Tường Thuật Của Đăng kiểm:

    Đã một giờ qua, ông Dự thẩm và tôi có mặt trong "Căn Phòng vàng" cùng với nhà thầu khoán đã xây cất ngôi biệt thất theo họa đồ của giáo sư Stangerson. Nhà thầu khoán đem theo một người thợ. Ông De Marquet cho lau rửa, kỳ cọ hoàn toàn các bức tường, nghĩa là lột hết lớp giấy dán trang trí. Những nhát cuốc bổ xuống khắp nơi, đã chứng minh với chúng tôi không hề có cửa ngõ, ngóc ngách nào trong phòng. Sàn nhà và trần nhà được dò tìm kỹ lưỡng. Chúng tôi không phát hiện được gì. Chẳng có gì để chúng tôi phát hiện.

    Ông De Marquet có vẻ lấy làm thú vị và không ngớt nhắc đi nhắc lại:

    - Vụ án thật là hay! Ông thầu khoán ơi, vụ án thật là hay! Ông sẽ thấy không bao giờ chúng ta hiểu nổi làm thế nào tên sát nhân ra thoát căn phòng này! Thình lình, ông De Marquet mặt mày đang hớn hở bởi vì chẳng hiểu mô tê gì; vụt nhớ ra nhiệm vụ mình là tìm hiểu, vội gọi viên Đội Trưởng Hiến Binh:

    - Này, qua bên lâu đài mời giáo sư Stangerson và ông Robert Darzac đến gặp tôi tại phòng thí nghiệm, cả bố Jacques nữa, và cho người áp giải đến luôn hai người gác cổng.

    Năm phút sau, toàn thể quân số được tập họp trong phòng thí nghiệm. Ông Giám Đốc Cảnh Sát Công An vừa tới Glandier cũng nhập bọn với chúng tôi cùng một lúc. Tôi đã ngồi vào bàn giấy ông Stangerson, sẵn sàng làm việc, thì ông De Marquet khai mạc bằng một bài thuyết trình ngắn, độc đáo cũng như bất ngờ:

    - Thưa quý vị, xét vì các cuộc hỏi cung không đem lại kết quả gì, bây giờ nếu muốn, chúng ta thử bỏ cái phương pháp hỏi cung cũ một lần cho biết. Tôi sẽ không đòi quý vì đến trước mặt tôi lần lượt từng người. Không, chúng ta tất cả ở lại đây: Ông Stangerson, ông Robert Darzac, bố Jacques, hai người canh cổng, ông Giám Đốc Cảnh Sát công An, ông De Marquet và tôi! Tất cả chúng ta ở đây đều bình đẳng, hai người canh cổng hãy tạm quên đi một lúc là họ đang bị bắt giam. "Chúng ta cùng nhau nói chuyện". Tôi mời quý vị đến "để nói chuyện". Chúng ta đang ở giữa phạm trường tội ác, vậy chúng, ta nói chuyện gì đây nếu không phải là chuyện tội ác? Nào chúng ta nói đi! Nói cho thật nhiều, nói một cách thông minh hoặc nói một cách ngu xuẩn cũng được nữa. Cứ cái gì chạy qua óc là nói liền! Chúng ta nói bất chấp phương pháp, vì phương pháp chẳng đi tới đâu. Tôi xin dâng một lời cầu nguyện lên thần May rủi, cái may rủi chi phối những điều chúng ta quan niệm! Nào, chúng ta bắt đầu!

    Đến đây, ông đi qua mặt tôi nói khẽ:

    - Đó, ông thấy chưa, cảnh này coi được lắm! Ông, ông có thể tưởng tượng ra không? Tôi sẽ lấy nó dựng một lớp ngắn cho một vở bi hài đang thai nghén.

    Và ông xoa tay tỏ ý hài lòng. Tôi đưa mắt nhìn giáo sư Stangerson. Tia hy vọng vừa nhóm lên trong ông do phiếu khám bệnh lần chót của các bác sĩ phỏng định cô Stangerson có cơ may được chữa lành các vết thương, không đủ xóa nhòa trên gương mặt thanh cao những vết hằn của nỗi đau thương vô tận. Ông già tưởng con gái không sống nổi nên toàn thân đã rũ riệt, không sinh lực. Trước kia, đã nhiều lần tôi có dịp thấy ông Stangerson trong các buổi lễ chính thức. Ngay từ phút đầu, tôi đã chú ý đến ánh mắt trong veo của ông chẳng khác ánh mắt đứa trẻ thơ: Ánh mắt ngây thơ, ánh mắt cao khiết và bất tử của người phát minh hay kẻ điên khùng. Trong những buổi lễ ấy, ông luôn luôn có cô con gái đứng sau, hoặc bên cạnh vì người ta đồn hai cha con không bao giờ lìa nhau, cùng làm việc chung từ nhiều năm qua. Người trinh nữ ba mươi lăm tuổi, nhưng trông chưa tới ba mươi đã nguyện dâng đời mình trọn vẹn cho khoa học, vẫn còn khơi dậy trong công chúng niềm cảm phục trước tấm nhan sắc kiêu sa, trong sạch, không tỳ ố, một vẻ đẹp chiến thắng cả thời gian lẫn tình yêu. Lúc ấy, ai dám bảo sẽ có một ngày rất gần, tôi đứng bên giường cô nằm bệnh với mớ giấy tờ, và sẽ thấy cô hầu như thoi thóp vận dụng sức tàn để kể cho chúng tôi nghe việc cô bị mưu toan sát hại quái đản nhất, kỳ bí nhất mà đời tôi bây giờ mới được nghe là một. Ai dám bảo rằng tôi sẽ thấy trước mặt, như buổi trưa hôm ấy tôi đã thấy, một người cha tuyệt vọng uổng công giải thích tại sao kẻ định giết con gái ông đã có thể thoát khỏi tay ông. Vậy thì, cái công việc ta làm trong câm lặng, ở tận nơi thâm sơn cùng cốc tối tăm này, nếu nó không đảm bảo cho ta tránh thoát những tai họa của cuộc sống và cái chết.

    Ông De Marquet ra vẻ quan trọng:

    - Thế này nhé, ông Stangerson! Xin ông đặt mình vào đúng vị trí ông ngồi lúc cô Stangerson từ đây đi vào phòng cô. Ông Stangerson đứng dậy và đi đến chỗ còn cách cửa vào "Căn Phòng Vàng" năm mươi phân, ông lên tiếng bằng một giọng nói không âm thanh, không mầu sắc, một giọng nói tôi nhận thấy không còn sức sống:

    - Tôi ở chỗ này, khoảng mười một giờ, sau khi hoàn tất mau chóng một thí nghiệm hóa học trên mấy cái lọ nhỏ, tôi cho đẩy bàn giấy đến tận đây, vì bố Jacques buổi tối phải lo lau chùi sạch vài ba bộ máy, lúc ấy cần có tất cả khoảng rộng ở sau lưng tôi để làm việc. Khi con gái tôi đứng dậy hôn tôi rồi chào bố Jacques, nó phải lách người hơi khó khăn một chút giữa bàn giấy và cửa phòng mới vào được. Nói thế để ông thấy rằng tôi ở một chỗ rất gần nơi tội ác sắp diễn ra.

    - Thế cái bàn giấy? – Tôi ngắt lời ông, (Xin nhớ: Tôi bây giờ là ông đăng kiểm) trong khi xía vô "câu chuyện" này tôi có ý chiều theo sở thích của cấp trên tôi. – Thế cái bàn giấy, thưa ông Stangerson, ngay khi ông nghe tiếng kêu cứu: "Nó giết tôi" và tiếng súng nổ thì cái bàn giấy ấy ra sao? "

    Bố Jacques trả lời câu hỏi này thay ông chủ:

    - Chúng tôi đẩy nó vào sát tường, chỗ này này, suýt soát như bây giờ đó, để chúng tôi rộng chân nhào tới cửa phòng, thưa ông đăng kiểm.

    Tôi lần theo dòng lý luận của tôi, thứ lý luận mà thật ra tôi chỉ ban cho nó tầm quan trọng của một giả thiết yếu xìu:

    - Cái bàn giấy ở gần căn phòng đến độ một người từ trong khom lưng chạy ra có thể chui qua bên dưới trốn mất mà không ai nhìn thấy được không?

    -" Ông vẫn cứ quên "– Giáo sư Stangerson mệt mỏi cắt ngang –" rằng con gái tôi đã khóa trái cánh cửa và cài luôn cả chốt trong, Rằng cửa vẫn còn đóng, rằng chúng tôi cùng hợp sức phá cửa ngay từ lúc hành động mưu sát mới bắt đầu, rằng chúng tôi vẫn ở ngoài cửa trong khi cuộc vật lộn giữa tên sát nhân với đứa con gái tội nghiệp của tôi đang tiếp diễn, rằng tiếng động của cuộc vật lộn này còn vang đến tai chúng tôi và chúng tôi nghe rõ tiếng đứa con gái khốn khổ của tôi rên xiết dưới sức bóp của những ngón tay kẻ sát nhân còn để lại quanh cổ nó nhiều thương tích máu. Dù hắn tấn công con tôi nhanh cách mấy, chúng tôi cũng đã nhanh không kém và chúng tôi đã tới ngay lập tức đằng sau cánh cửa ngăn cách chúng tôi với thảm kịch đang diễn ra? Tôi đứng dậy, đi đến khung cửa, khom mình xem xét lại rất cẩn thận. Đoạn tôi thẳng người lên và phác một cử chỉ chán nản. Thử tưởng tượng, tấm ván dưới của cánh cửa có thể đã được mở ra, mà cánh cửa không cần mở hết, thì vấn đề giải quyết xong rồi. Nhưng khốn nỗi, giả thuyết này không chấp nhận được sau khi xem xét cánh cửa. Nó là một cánh cửa gỗ sồi chắc và dày, đóng thành một khối đồng nhất không thể cách ly. Thật quá rõ, mặc dầu nó đã bị đập phá hư hại nặng..

    - Ô! – Bố Jacques lên tiếng – nó là một cánh cửa lâu đời, gỗ rất chắc, cửa lâu đài được mang đến đây từ lâu, loại cánh cửa ngày nay người ta không làm nữa. Chúng tôi phải dùng đến thanh sắt này mới phá được nó, bốn người cả thảy, vì có chị gác cũng góp thêm một tay, chị ta thật can đảm, thưa ông Dự thẩm! Dẫu sao, thật đau khổ khi thấy họ ở tù, giờ phút này!

    Bố Jacques chưa dứt câu nói đầy xót thương và cố phản đối này thì tiếng khóc và tiếng rên của vợ chồng người canh cổng đã lại nấc lên tôi chưa hề thấy những bị can nào mau nước mắt như vậy. Tôi đâm ra chán ngấy. Giả sử họ – có oan thật đi chăng nữa, tôi không hiểu sao lại có những con người thiếu khí phách trước đau khổ đến thế. Một thái độ chững chạc trong tình huống như thế này có phải đáng giá hơn tất cả những nước mắt, những tuyệt vọng thường là vờ vịt và giả trá.

    - Ê! – Ông De Marquet gắt – một lần nữa, thôi đi, đừng có rên rỉ mãi thế! Và vì ích lợi của vợ chồng các người. Hãy cho chúng tôi biết các người làm gì dưới cái cửa sổ ở biệt thất, trong lúc có kẻ toan giết cô chủ của mình trong phòng. Bởi lẽ các người đang ở một chỗ rất gần biệt thất khi gặp bố Jacques chạy ngang.

    - Chúng tôi đến tiếp cứu!

    Hai vợ chồng sướt mướt. Rồi người đàn bà giữa hai cơn nấc, gào to:

    - Ôi chao! Tôi mà bắt được thằng khốn nạn, thằng giết người ấy, tôi sẽ cho nó nếm mùi thống khổ!

    Và chúng tôi, một lần nữa, không sao lấy được từ miệng họ đến hai lời khai nghiêm chỉnh. Họ tiếp tục chối, viện đến Trời và Đất, tất cả thần thánh làm chứng rằng họ đang ở trên giường ngủ khi nghe một tiếng súng nổ.

    - Không phải một, mà những hai phát. Thấy chưa, rõ ràng các người khai láo. Nếu các người nghe thấy tiếng nọ tất các người phải nghe cả tiếng kia!

    - Chúa ơi! Thưa ông Dự Thẩm, chúng tôi chỉ nghe phát thứ hai. Chắc là khi phát thứ nhất nổ, chúng tôi còn ngủ.

    - Có hai phát súng nổ, đúng – bố Jacques xen vô – Tôi tin chắc số đạn tôi nạp còn nguyên trong ổ, sau chúng tôi tìm thấy hai vỏ đạn cháy và hai đầu đạn. Chúng tôi đã nghe hai tiếng nổ sau cánh cửa phải thế không, thưa ông Stangerson?

    - Đúng thế – ông giáo sư xác nhận – hai phát súng, một phát tiếng đục, một phát nổ vang.

    - Tại sao các người cứ khai láo mãi? – Ông Marquet quay lại vợ chồng anh gác cổng – Các người cho rằng Cảnh Sát cũng ngu như các người sao! Tất cả chứng tỏ các người ở ngoài nhà, gần biệt thất, lúc án mạng xảy ra. Các người làm gì lúc đó? Các người không muốn khai ư? Các người im lặng nghĩa là tòng phạm với hung thủ! Còn tôi – ông hướng về giáo sư Stangerson – Còn tôi, tôi chỉ có thể giải thích việc hung thủ tẩu thoát bằng sự hỗ trợ của hai kẻ tòng phạm này. Cánh cửa vừa bị phá sập, trong khi ông, ông Stangerson, ông mãi lo cho cô con gái khốn khổ thì tên gác cổng cùng vợ y đã giúp cho tên sát nhân chạy trốn dễ dàng. Nó lẩn sau lưng hai vợ chồng, chuồn tới cửa sổ gian tiền đình và nhảy ra hoa viên. Chính tên gác cổng đã đóng cửa sổ lại vì rốt cục những cánh cửa sổ này không thể tự nhiên đóng lại được! Đó là những gì tôi tìm ra. Còn ai thấy chi khác, xin cứ nêu lên.

    Giáo sư Stangerson cất tiếng:

    - Không có lẽ! Tôi không tin hai người gác cổng của tôi đã nhúng tay vào tội ác với tên sát nhân, mặc dù tôi không hiểu họ làm gì trong vườn hoa vào giờ khuya khoắt ấy. Tôi nói: Không có lẽ! Bởi vì chị gác cầm cây đèn và đứng trấn trên ngưỡng cửa không nhúc nhích, bởi vì tôi, cửa vừa bị phá là tôi nhảy bổ vào quỳ bên con tôi, và không thể có kẻ nào vào ra được phòng bằng cửa ấy mà bước qua người con tôi và đụng phải tôi! Không có lẽ, bởi vì bố Jacques và anh gác chỉ cần một cái liếc mắt nhanh quét cả phòng và dưới gầm giường như tôi lúc nhảy vào là đủ thấy không còn người nào trong phòng, ngoài con gái tôi đang hấp hối.

    - Còn ông, ông Darzac, ông nghĩ sao? Nãy giờ ông chưa nói – Dự thẩm hỏi.

    Ông Darzac trả lời rằng ông chẳng nghĩ gì hết.

    - Và ông, ông Giám Đốc Công An? Giám Đốc Sở Công An cảnh sát, ông Dax, cho tới bây giờ chỉ nghe và xem xét hiện trường. Nhưng rồi ông cũng mở miệng.

    - Trong khi chờ đợi phát hiện thủ phạm, cần phải tìm ra động cơ phạm tội. Như vậy, chúng ta mới có thể tiến xa hơn.

    - Thưa ông Giám Đốc Công An, động cơ tội ác có vẻ là tình, thứ tình đê tiện – ông Dự thẩm trả lời – Những dấu vết tên sát nhân để lại, tấm khăn tay thô kệch và chiếc mũ nồi dơ dáy khiến chúng tôi tin rằng thủ phạm không thuộc một tầng lớp xã hội cao lắm. Vợ chồng người canh cổng có cho chúng ta biết nhiều hơn về điểm này.

    Ông Giám Đốc Công An, hướng tới giáo sư Stangerson và bằng giọng nói lạnh lùng mà theo tôi, nó biểu hiện những nhận định thông minh, một bản lãnh được tôi luyện già dặn, ông hỏi:

    - Phải cô Stangerson sắp sửa làm lễ thành hôn không, thưa giáo sư?

    Ông Stangerson đau đớn nhìn Robert Darzac:

    - Với người bạn thân mà tôi sẽ sung sướng được gọi là con, với ông Robert Darzac.

    - Cô Stangerson đã khỏe lại nhiều, sẽ lành các vết thương và bình phục mau chóng. Đây chỉ là một cuộc hôn nhân bị trì hoãn ít lâu thôi, phải vậy không, thưa giáo sư? – Ông Giám Đốc Công An hỏi thêm.

    - Tôi hy vọng thế.

    - Sao vậy? Giáo sư không tin tưởng ư?

    Ông Stangerson nín lặng. Nỗi lòng xao xuyến của ông Robert Darzac hiện rõ qua bàn tay run run nắm sợi dây đeo đồng hồ, vì chẳng có gì qua nổi mắt tôi. Ông Dax thì ho khúc khắc giống như ông De Marquet khi bối rối:

    - Xin ông hiểu cho, thưa giáo sư; rằng trong một vụ rắc rối như vụ này, chúng tôi không thể bỏ sót một tí gì, chúng tôi cần biết tất cả, từ một chi tiết vụn vặt nhất, hời hợt nhất có liên quan đến nạn nhân, cần biết cả một chỉ dẫn bề ngoài tưởng như vô nghĩa nhất. Vậy trong tình trạng hiện tại chúng ta hầu như chắc chắn cô Stangerson sẽ sống, có cái gì khiến giáo sư nghĩ rằng cuộc hôn nhân này có thể sẽ không thành tựu? Vì giáo sư nói "tôi hy vọng". Niềm hy vọng ở trường hợp này, tôi coi như một nghi hoặc. Tại sao giáo sư nghi hoặc?

    Ông Stangerson cố trấn tĩnh tinh thần trước khi trả lời:

    - Thưa vâng, ông nói đúng. Tốt hơn cũng nên để ông biết một việc mà nó sẽ có vẻ quan trọng, nếu tôi giấu ông. Vả chăng, ông Robert Darzac cũng đồng ý với tôi.

    Lúc này, gương mặt xanh xao của ông Roberl Darzac tôi thấy không được bình thường. Ông ra dấu với giáo sư. Theo tôi, nếu ông Darzac chỉ trả lời bằng cách ra dấu thì đó là vì ông không thốt nổi nên lời.

    - Đầu đuôi thế này, thưa ông Giám Đốc Công An, – giáo sư Stangerson kể, – con gái tôi đã thề không bao giờ lìa xa tôi, và nó quyết giữ trọn lời thề dù tôi hết sức năn nỉ, vì đã nhiều lần tôi cố thuyết phục nó lấy chồng, tôi coi đấy là bổn phận. Cha con tôi quen ông Robert Darzac từ nhiều năm. Ông Robert Darzac yêu con gái tôi. Dù có lúc tôi tưởng ông cũng được yêu lại, vì mới đây tôi đã vui mừng nghe chính miệng con gái tôi báo tin nó thuận kết hôn với một người mà tôi hoàn toàn xứng ý. Tôi đã cao tuổi, thưa ông, và cái giờ phút tôi biết chắc sau tôi, cô Stangerson sẽ có được bên mình, để yêu thương và tiếp nối công việc chung của cha con tôi, một người mà tôi mến mộ, mà tôi quí trọng vì tấm lòng quảng đại và vì khoa học của ông, cái giờ phút ấy là hạnh phúc tuyệt vời của đời tôi đó. Thế nhưng, thưa ông Giám Đốc Công An, hai ngày trước khi xảy ra tai họa, tôi không hiểu – nó nghĩ sao mà lại đổi ý, không thành hôn với ông Robert Darzac.

    Đến đây, phòng họp chìm vào im lặng, một khoảnh khắc nghiêm trọng, nặng nề. Ông Dax hỏi tiếp:

    - Cô Stangerson không đưa ra với giáo sư một lời giải thích, không cho biết vì lý do nào hay sao?

    - Nó nói bây giờ nó già rồi, không muốn lấy chồng, rằng nó đã chờ đợi quá lâu, nó đã suy nghĩ kỹ, nó rất cảm phục và yêu ông Robert Darzac nữa, nhưng tốt hơn hết nên dừng lại ở đây, rằng mọi sự nên tiếp tục như trước, rằng nó rất vui sướng thấy những liên hệ thuần khiết bạn bè giữa cha con tôi với ông Robert Darzac sẽ siết chặt tình thân hơn nữa, nhưng xin tất cả đừng bao giờ ai đề cập với nó câu chuyện hôn nhân.

    - Thế thì lạ thật! – Ông Dax lẩm bẩm.

    - Lạ thật! – Ông De Marquet lặp lại.

    Giáo sư Stangerson nhếch môi phác một nụ cười héo hắt và lạnh, ông nói tiếp:

    - Phía đó, không phải chỗ ông tìm ra động cơ tội ác đâu, thưa ông!

    - Dầu sao, – ông Dax nóng nảy, trong vụ này, động cơ tội ác không phải là trộm cắp!

    - Ô, cái đó thì chúng tôi yên trí rồi – ông Dự thẩm kêu lên.

    Đến đây, cửa phòng thí nghiệm vụt mở, viên đội trưởng Hiến Binh mang vào trình Dự thẩm một tấm danh thiếp. Ông De Marquet đọc xong buông một tiếng rên đùng đục, đoạn nói:

    - A! Thế này thì quá lắm!

    - Gì vậy? – Ông Giám Đốc Công An kinh ngạc. - Danh thiếp một anh phóng viên quèn Joseph Rouletabille với dòng chữ: "Một trong những động cơ tội ác là ăn trộm".

    Giám Đốc Công An tủm tỉm cười:

    - A! A! Chàng tuổi trẻ Rouletabille, tôi đã có nghe nói về anh này, được coi như có biệt tài. Xin ông cứ cho vào, thưa ông Dự thẩm.

    Và người ta cho ông Joseph Rouletabille vào phòng. Tôi đã làm quen với anh ta trong chuyến xe lửa đưa chúng tôi buổi sáng hôm ấy đến Epinay Sur-Orgé. Anh ta gần như chẳng nể nang gì tôi, cố tình xông vào toa chúng tôi ngồi, và tôi thích nói ngay tức khắc rằng những điệu bộ và cái vẻ ngông nghênh của anh ta làm như đã biết tỏng những gì bí ẩn trong một vụ án mà bộ máy tư pháp còn mù mờ đã làm tôi ứa gan. Anh chàng này hình như chưa tới hai mươi tuổi, và với cái vẻ trắng trợn anh ta dám hỏi han bàn luận nọ kia với chúng tôi, tôi thấy anh ta đặc biệt khả ố. Hơn nữa, anh ta có một kiểu nói năng rõ ràng là muốn giễu cợt chúng tôi.

    Thế là ông Joseph Rouletabille bước vào phòng thí nghiệm. Ông chào chúng tôi xong, đứng nghiêm trang đợi Dự thẩm cho phép lên tiếng. Ông Dự thẩm nói:

    - Sao ông, ông tự cho mình là người biết rõ động cơ tội ác, và cái động cơ ấy, nghịch lại mọi sự hiển nhiên, chính là ăn trộm?

    - Không, thưa ông Dự thẩm, tôi không hề nói thế. Tôi không nói động cơ tội ác trong vụ này là ăn trộm và tôi không tin là như vậy.

    - Thế thì tấm danh thiếp này nghĩa là sao?

    - Nó có nghĩa một trong những động cơ tội ác là ăn trộm.

    - Ông căn cứ vào đâu?

    - Vào cái này! Mời quý vị đi theo tôi.

    Và anh chàng yêu cầu chúng tôi theo anh sang gian tiền đình. Chúng tôi đi đến đó, anh liền lại buồng rửa mặt và yêu cầu ông Dự thẩm quỳ gối bên cạnh anh. Cái buồng rửa mặt nhỏ có ánh sáng lọt vào qua khung cửa lắp kính và khi cửa mở thì nó lại càng sáng choang khắp mọi chỗ. Ông De Marquet và ông Rouletabille phục xuống ngưỡng cửa. Anh phóng viên chỉ một góc lát đá hoa, nói:

    - Sàn đá buồng rửa mặt ít lâu nay bố Jacques không lau chùi. Cứ trông lớp bụi này khắc biết. Ông coi đây, dấu hai đế giầy to bản với tí bụi to đen kèm theo dấu chân của thủ phạm đã in khắp nơi. Chất tro này không là gì khác hơn bụi than rắc đầy con đường mòn mà người ta phải theo để băng qua cánh rừng, đi thẳng từ Epinay đến Giandier. Chắc quý vị biết chỗ này có một khu xóm nhỏ của thợ làm than, họ sản xuất than củi ở đó rất nhiều. Tên sát nhân có lẽ đã làm như sau:

    Nó lẻn vào đây buổi trưa, khi không có ai trong biệt thất, và nó đã phạm tội ăn trộm.

    - Nhưng mà trộm cái gì mới được chứ? Ông thấy mất trộm ở chỗ nào đâu? Ai chứng minh với ông là có mất trộm? Tất cả chúng tôi nhao nhao tấn công một lúc.

    - Cái dấu chân nó dẫn tôi đến chỗ tìm ra vụ trộm. – chàng phóng viên nói tiếp.

    - Là cái này! – Ông De Marquet cắt ngang trong lúc vẫn quỳ gối dưới đất.

    - Chứ còn gì nữa? – ông Rouletabille xác nhận. Rồi ông De Marquet cắt nghĩa quả thật trên làn bụi phủ sàn đá, bùn cạnh dấu hai chiếc đế gầy, có vết hằn còn mới trông rõ đường viền một bao đồ nặng hình chữ nhật, có vết dây cột vòng quanh cũng phân biệt được dễ dàng.

    - Thế ra ông đến đây rồi ư, ông Rouletabille? Tôi đã cho lệnh bố Jacques không để ai vào cơ mà, bố có nhiệm vụ canh gác biệt thất.

    - Xin ông đừng la rầy bố Jacques, tôi đã đến với ông Robert Darzac.

    - A! Thật thế sao? – Ông De Marquet cao giọng vì bực tức và liếc xéo ông Darzac vẫn thẫn thờ ngồi im lặng. Ông Rouletabille nói tiếp:

    - Khi thấy vết cái bọc đồ ở ngang cạnh dấu đế giầy thì tôi không còn nghi ngờ gì về vụ trộm, nhưng trộm đâu có mang theo một bọc nặng đến chỗ nó định ăn trộm. Nó đã đóng cái bọc ấy ở đây, chắc chắn với những đồ ăn trộm ở đây, rồi đem đến giấu ở xó này, chủ ý sẽ xẹt qua ôm theo lúc đào tẩu. Nó đã đem đôi giầy thô lỗ của nó đặt ở đây, bên cạnh bọc đồ, vì mời quý vị xem kỹ, không hề có dấu chân nào dẫn đến đôi giày này, và hai đế giầy sắp hàng ngang bên cạnh nhau, như thể cặp đế giầy ở trạng thái nghỉ và không có bàn chân người đạp bên trong. Như thế, ta sẽ hiểu rằng tên sát nhân khi từ "Căn Phòng Vàng" chạy ra, nó đã không để lại dấu chân nào trong phòng thí nghiệm và gian tiền đình. Sau khi lọt vào "Căn Phòng Vàng" với đôi giầy của nó, nó đã tụt giầy ra, chắc hẳn vì vướng chân hoặc muốn bớt thật nhiều tiếng động. Những dấu chân nó qua gian tiền đình và phòng thí nghiệm lúc đến thì đã được bố Jacques vô tình lau rửa sạch sau đó. Điều này có nghĩa là tên sát nhân đã vào biệt thất bằng khung cửa sổ mở của gian tiền đình trong thời gian bố Jacques vắng mặt lần thứ nhất trước khi lau nhà lúc năm giờ rưỡi! Tên sát nhân sau khi tháo giầy chắc vì vướng cẳng, đã cầm đôi giày trên tay mang đến phòng rửa mặt, đứng trên bục cửa mà đặt đôi giầy xuống sàn nhà, bởi trên lớp bụi ở phòng rửa mặt không có dấu chân trần hoặc mang tất ngắn hoặc xỏ trong đôi giầy khác. Vậy là nó đã đặt giầy nó bên cạnh bọc đồ. Việc ăn trộm lúc này đã hoàn tất. Đoạn, nó trở lại "Căn Phòng Vàng" chui vào gầm giường. Thân xác nó dưới gầm giường còn in đủ dấu vết trên sàn nhà và cả trên tấm thảm ở khoảng này hơi cộm lên một chút và nhầu nát. Có cả vài cọng rơm mới bị tróc ra cũng chứng tỏ tên sát nhân có mai phục dưới gầm giường.

    - Phải, phải, cái đó chúng tôi biết rồi. - Ông De Marquet ngắt lời.

    - Sự kiện nó trở lại gầm giường, – anh phóng viên non choẹt và kỳ quặc nói tiếp, – chứng tỏ không phải chỉ do một động cơ ăn trộm thúc đẩy. Quý vị chớ nghĩ là nó trốn vào đó trong lúc vội vã vì trông thấy qua cửa sổ gian tiền đình, hoặc bố Jacques, hoặc cha con cô Stangerson sắp về tới biệt thất. Nó có thể leo lên gác nóc và nấp tại đó đợi dịp tẩu thoát có phải dễ dàng hơn bao nhiêu không, nếu ý đồ nó là chạy trốn. Không! Không! Nó cần phải ở trong "Căn Phòng Vàng"

    Đến đây, ông Giám Đốc Công An can thiệp:

    - Lập luận khá lắm, anh bạn trẻ! Tôi xin có lời khen phục và tuy chúng ta chưa biết tên sát nhân trốn đi bằng cách nào, nhưng chúng ta đã theo nó từng bước một đến đây và trông thấy nó làm gì: Nó ăn trộm. Thế nhưng nó ăn trộm cái chi?

    - Những vật cực kỳ quý giá! – Anh phóng viên trả lời. Đúng lúc ấy, chúng tôi nghe một tiếng kêu thất thanh phát ra từ phòng thí nghiệm, chúng tôi vội vàng chạy sang thì bắt gặp ông Stangerson mắt trợn ngược, tay chân run lẩy bẩy. Ông chỉ cho chúng tôi thấy một cái tủ kiểu tàng thư cửa mở toang và bên trong trống không. Đoạn, ông buông mình rơi phịch xuống chiếc ghế bành lớn đã được đẩy tới trước bàn giấy và rên rỉ:

    - Một lần nữa, tôi bị mất trộm rồi. Tiếp theo là một giọt nước mắt, một giọt nước mắt nặng nề, chảy dài trên má ông giáo sư đau khổ.

    - Cần nhất, xin quý vị đừng ai nói hở với con gái tôi vụ mất trộm này, nó sẽ đau đớn hơn tôi nữa. Ông buông một tiếng thở dài thọc mệt, rồi bằng một giọng thê lương không bao giờ tôi quên nổi, ông hổn hển: - Thôi, cũng chẳng sao, miễn là nó sống!

    - Cô ấy sẽ sống! – Tiếng Robert Darzac cất lên nghe xúc động lạ lùng.

    - Và chúng tôi sẽ tìm lại cho giáo sư các vật mất trộm – ông Dax nói – Nhưng, xin cho biết giáo sư đã mất những gì trong tủ này?

    - "Hai mươi năm của đời tôi!" – vì giáo sư bác học nổi danh trả lời, giọng khản đặc – hay đúng hơn của đời chúng tôi, con gái tôi và tôi. Vâng, những tài liệu quý nhất của chúng tôi, những quan hệ bí mật nhất về các cuộc thí nghiệm và công trình nghiên cứu của chúng tôi suốt hai mươi năm ròng đều cất trong đó. Một công phu chọn lọc thực sự trong muôn vàn tư liệu xếp đầy cái tủ này. Đây là một tổn thất vô phương cứu vãn đối với chúng tôi, và tôi dám nói, đối với khoa học nữa. Tất cả các giai đoạn tôi phải trải qua để tới được chứng cứ quyết định về tình trạng vật chất bị tiêu diệt, chúng tôi đã trần thuật, dán nhãn, chú giải kỹ lưỡng rồi minh họa bằng hình vẽ và ảnh chụp. Toàn bộ xếp cả ở đây. Tấm hoành đồ ba kiểu máy mới, một dùng để nghiên cứu sự hao mòn dưới ảnh hưởng tia sáng tử ngoại, nơi các vật thể đã được truyền điện; một kiểu nữa làm hiện rõ thể tiêu hao điện khí dưới tác động các phân tử vật chất ly tán chứa trong hơi khí ngọn lửa; kiểu thứ ba rất tinh vi, là máy điện nghiệm ngưng tụ vi phân, cả một tuyển tập những khúc tuyến của chúng tôi phô diễn các đặc tính cơ bản của thực chất trung gian giữa những vật có khả năng thăng bằng, và ê-te không thể thăng bằng của vật thể, còn chưa ai biết. Một tập bản thảo tôi định cho ấn hành dưới tiêu đề: Những Kim Loại Hư Hao. Còn gì nữa? Còn gì nữa? Kẻ tới đây đã cướp đi của tôi tất cả, con gái tôi và sự nghiệp tôi, trái tim tôi và linh hồn tôi. "Trên chiếc ghế bành nơi ông Stangerson lả người gục mặt, ông Robert Darzac tỳ khuỷu tay cố giấu hai hàng nước mắt, khiến chút xíu nữa tôi đã có thiện cảm với ông, mặc dầu thái độ lạ lùng và vẻ xúc động kỳ quái ở ông khiến tự nhiên tôi thấy khó chịu, coi ông như một nhân vật bí hiểm khôn dò. Chỉ có ông Rouletabille, như thì giờ quí báu và sứ mạng của ông trên trái đất không cho phép ông mủi lòng trước cảnh đau thương của nhân loại, vẫn điềm nhiên bước đến bên chiếc tủ trống không, giơ tay chỉ vào nó, nhìn ông Giám Đốc Cảnh Sát Công An, rồi phá tan bầu không khí im lặng tôn nghiêm mà chúng tôi đang giữ để tỏ lòng kính trọng niềm đau tuyệt vọng của nhà đại bác học Stangerson. Ông ta đưa ra vài lời giải thích đối với chúng tôi thật nhạt về cách ông ta suy luận để tin là có vụ trộm xảy ra, do việc khám phá cùng một lúc những dấu vết trong buồng rửa mặt tôi đã kể ở trên, với cái tủ quí trống trơn trong phòng thí nghiệm. Nhưng hiện tượng đầu tiên đập vào mắt ông ta là hình thù dị dạng của chiếc tủ đóng bằng sắt để chống mọi hỏa hoạn bất ngờ, vẻ kiên cố của nó và một cái tủ như tủ này dùng để bảo tồn những vật được người ta quí báu hơn hết mọi thứ thế mà trên cánh cửa sắt lại đeo toòng teng chiếc" chìa khóa của nó ". Lẽ thường, không ai sắm tủ sắt để rồi bỏ ngỏ. Rốt cuộc, chiếc chìa khóa nhỏ ấy, đầu đồng, rất là phức tạp, dường như thu hút sự chú ý đặc biệt của ông Joseph Rouletabille trong khi chúng tôi chẳng ai thèm để ý đến nó. Với chúng tôi, người lớn chứ đâu phải trẻ con, cảnh một chiếc chìa khóa cắm ở của tủ thường gợi ra ý nghĩ an toàn, nhưng với ông Rouletabille, dĩ nhiên là bậc kỳ tài – như José Dupuy nói trong Năm Trăm Triệu Tay Giác Đấu:" Kỳ tài, Kỳ tài nha-sĩ! "– cảnh chìa khóa cắm ở cánh cửa tủ lại gợi ra ý nghĩ một vụ trộm.

    Chúng tôi sắp sửa biết lý do. Nhưng trước khi cho quý vị cùng biết lý do này, tôi cần thưa rằng ông De Marquet tỏ vẻ rất băn khoăn, không hiểu nên mừng về cái bước tiến mới mà anh phóng viên nọ đã giúp cho cuộc thẩm cứu của ông, hay là ông phải lấy làm buồn bã vì cái bước tiến ấy không do ông thực hiện. Nghề nghiệp chúng tôi có những chua cay như vậy đó, nhưng chúng tôi không có quyền khiếp nhược và phải giày xéo lên tự ái khi cần phục vụ lợi ích chung. Bởi thế ông De Marquet đành tự chế và thấy rằng nên góp lời khen ngợi với ông Dax thì hơn, mà ông Dax thì không tiếc lời đề cao ông Rouletabille. Anh phóng viên tép riu nhún vai khiêm nhường:" Không có chi! ".

    Tôi thầm ước gì tặng cho gã một cái bạt tai nẩy lửa thì sướng ôi là sướng, nhất là trong lúc nói tiếp :(vẫn là ông đăng kiểm đang kể chuyện chứ không phải là" tôi "ban đầu nhé)

    - Xin ông hỏi giùm giáo sư Stangerson, ai là người được giao nhiệm vụ giữ chiếc chìa khóa này.

    - Con gái tôi – nhà bác học trả lời – và chiếc chìa khóa không bao giờ rời nó.

    - A! Thế thì mọi sự lại khác hơn rồi, không còn phù hợp với khái niệm của ông Rouletabille nữa – Ông De Marquet reo lớn mừng rỡ – Nếu chiếc chìa khóa này không bao giờ rời cô Stangerson thì tức là tên sát nhân đêm ấy đã đợi cô Stangerson ở trong phòng để chiếm đoạt chiếc chìa khóa và vụ trộm chỉ có thể diễn ra sau vụ mưu sát! Nhưng sau vụ mưu sát thì đã có ngay bốn người ở trong phòng thí nghiệm! Quả thật, tôi hết còn hiểu gì nữa! Và ông De Marquet nhắc lại, với vẻ thịnh nộ chán chường nhưng đối với ông, thật ra nó vốn là điểm tột cùng của niềm say mê thầm kín, vì không biết tôi đã nói chưa nhỉ, không bao giờ ông cảm thấy sung sướng bằng lúc ông không hiểu gì cả:".. hết còn hiểu gì nữa! "

    -" Vụ trộm ", – anh phóng viên đủng đỉnh cãi, chỉ có thể xảy ra trước vụ" mưu sát "Điều này không thể nghi ngờ, vì một lẽ mà ông tin và vì nhiều lẽ mà tôi tin. Và khi tên sát nhân lọt vào biệt thất, nó đã có sẵn trong tay chiếc chìa khóa đầu đồng.

    - Không có thể. – Ông Stangerson giọng dịu dàng.

    - Rất có thể. Thưa giáo sư, đây là chứng cứ?

    Rồi thằng quỷ con lôi trong túi ra một số báo ngày 21 tháng mười (tôi nhớ vụ mưu sát xảy ra trong đêm 24 rạng ngày 25) và chỉ cho chúng tôi thấy một lời rao vội. Anh đọc:

    -" Hôm qua, tôi đánh mất một ví tay phụ nữ bằng Sa-tanh đen trong mấy nhà hàng lớn ở Louve. Chiếc ví đựng vài thứ vặt vãnh trong đó có một chìa khóa nhỏ đầu đồng. Ai bắt được sẽ có một món tiền thưởng trọng hậu. Xin viết thư lại tại bưu điện, về văn phòng 40, gửi cho: M. A. T. H. S. N. "Những chữ cái này- anh phóng viên nói tiếp – chẳng phải tên cô Stangerson là gì? Cái chìa khóa đầu đồng ấy chẳng phải cái chìa khóa này là gì? Tôi hay đọc mục rao vặt lắm. Trong nghề của tôi cũng như trong nghề của ông, thưa ông Dự thẩm, cần phải đọc những lời rao vặt liên quan đến cá nhân. Thế mới phát hiện được nhiều mưu mô! Nhiều chìa khóa mở các mưu mô không phải luôn luôn có đầu đồng, nhưng không kém phần đáng chú ý. Lời rao vặt này, đặc biệt bởi cái vẻ bí ẩn mà người đàn bà đánh mất chiếc chìa khóa, một vật chẳng nguy hại gì lắm, bao trùm quanh mình, lời rao vặt này làm tôi sửng sốt. Chìa khóa gì mà bà ta quí đến thế? Hứa cả một món hậu tạ lớn! Và tôi nghĩ đến sáu chữ M. A. T. H. S. N. Bốn chữ đầu chỉ rõ ngay một tiểu danh phụ nữ:" Tất nhiên – tôi thầm nghĩ – Math. Mathilde. Người đàn bà đánh mất chiếc chìa khóa đầu đồng tên là Mathilde L. Nhưng hai chữ sau thì tôi chịu thua. Bởi vậy, tôi liệng tờ báo đi lo công chuyện khác. Đến khi, bốn ngày sau, các nhật báo phát hành buổi chiều với những đầu đề chữ lớn ở trang nhất loan tin về vụ mưu sát cô Mathilde Stangerson, thì chẳng cần suy nghĩ, cái tên Mathilde lập tức gợi cho tôi nhớ đến những chữ cái ở lời rao vặt! Hơi thắc mắc, tôi hỏi xin ban biên tập số báo cũ ngày hôm ấy. Tôi đã quên hẳn hai chữ chót: S, N. Khi thấy lại hai chữ này, tôi không ghìm nổi một tiếng kêu: "Stangerson". Tôi nhào lên một chiếc xe ngựa cho thuê, hối hả đến Văn Phòng 40 Bưu Điện. Tôi hỏi: "Ông có thư cho M. A. T. H. S. N không?". Nhân viên phụ trách đáp: "Không!". Rồi thấy tôi cố nài, khẩn khoản xin tìm kỹ lại cho, ông ta hơi gắt: "Thôi đi, ông ơi, giỡn hoài! Có, tôi có nhận một phong thư đề những chữ đầu tên M. A. T. H. S. N. Nhưng tôi đã phát cho một bà đã đến lấy ba ngày nay rồi. Hôm nay, tới lượt ông đòi nữa. Hôm kia, cũng có một ông đến hỏi, cứ kèo nài dai nhách à! Tôi ngán cái trò chơi tai ác này rồi đó". Tôi thèm hỏi thêm ông ta về hai nhân vật đã đến lấy thư; nhưng hoặc vì ông ta muốn trốn sau bức tường bí mật nghề nghiệp – chắc ông ta cho rằng mình đã nói quá nhiều – hoặc quả thật ông ta đã bị một trò đùa nghịch quấy rầy quá đáng, ông ta cương quyết không trả lời tôi nữa ".

    Rouletabille ngừng nói. Chúng tôi tất cả đều nín lặng. Mỗi người rút từ câu chuyện thư bưu bưu điện ra những kết luận riêng. Trên thực tế, dường như bây giờ người ta đã nắm được một đường dây vững chắc sắp sửa có thể lần theo cái vụ án" Không thể chụp bắt "này".

    Lát sau, ông Stangerson lên tiếng:

    - Thế thì gần như chắc chắn con gái tôi đã đánh mất chiếc chìa khóa ấy. Nó không muốn cho tôi biết để tránh cho tôi nỗi lo sợ, và nó đã yêu cầu người bắt được chìa khóa viết thư lưu tại bưu điện để nó kín đáo đến lấy. Rõ ràng nó sợ nếu cho địa chỉ, tất sẽ có nhiều cuộc đi lại tiếp xúc, khiến tôi hay biết việc mất chìa khóa. Âu cũng là điều rất hợp lý và rất tự nhiên thôi. Bởi vì, thưa ông, tôi đã từng bị mất trộm!

    - Ở đâu? Và bao giờ? – Ông Giám Đốc Công An hỏi dồn.

    - Ô! Nhiều năm rồi, tận Châu Mỹ, ở Philadelphie. Nó đã ăn trộm trong phòng thí nghiệm của tôi hai phát minh có thể làm giàu cho cả một dân tộc, không những chẳng bao giờ tôi biết kẻ trộm là ai, mà chẳng bao giờ tôi nghe nói gì đến "vật bị mất trộm". Rồi để phá hư những toan tính của tên trộm, tôi đã đích thân tung hai phát minh đó vào lãnh vực quần chúng làm cho vật bị mất trộm không còn giá trị độc quyền. Từ ngày ấy, tôi trở thành rất đa nghi. Tôi tự giam mình thật kín khi làm việc. Tất cả song sắt các cửa sổ, ngôi biệt thất cô lập, cái tủ chính tôi đặt đóng ổ khóa đặc biệt với cái chìa độc nhất, tất cả nhưng cái ấy là kết quả bao nhiêu lo sợ phát sinh từ một kinh nghiệm đau buồn.

    Ông Dax ngỏ một lời khen ngợi: "Hay quá!"

    Ông Joseph Rouletabille thì hỏi thăm về chiếc ví tay. Cả giáo sư Stangerson, cả bố Jacques từ mấy ngày nay không ai trông thấy chiếc ví tay của cô Stangerson. Vài giờ sau đó, chúng tôi được biết do chính cô Stangerson kể lại, rằng chiếc ví quả có bị đánh cắp hoặc cô làm thất lạc, và mọi sự xảy ra đúng như cô kể, rằng ngày 23 tháng 10 cô đến Văn Phòng 40 bưu điện và nơi đây đã trao cho cô một phong thư mà nội dung là một trò đùa nhảm nhí. Cô đã đốt đi ngay. Để trở lại với buổi khai cung, hay đúng hơn, buổi "đàm luận" của chúng tôi, tôi cần nêu rõ điểm này: Ông Giám Đốc Công An hỏi giáo sư Stangerson: Con gái ông đi Paris làm gì ngày 20 tháng 10 là ngày mất chiếc ví tay, thì chúng tôi được biết cô đã lên thủ đô, có ông Robert Darzac đi kèm, và ông Robert Darzac từ hôm đó tới ngày hôm sau vụ mưu sát, người ta "không thấy đến lâu đài". Sự kiện ông Robert Darzac cặp kè bên cạnh cô Stangerson trong những cửa hàng lớn ở Louve khi chiếc ví tay biến mất không ai không biết, và cần nói thêm, nó thu hút rất mạnh sự chú ý của chúng tôi. Buổi nói chuyện tự do giữa thẩm phán, bị can, nhân chứng và nhà báo sắp kết thúc thì xảy ra một đột biến thật sự có kịch tính, điều mà xưa nay ông De Marquet không bao giờ chê bỏ.

    Viên đội trưởng Hiến binh thông báo có Frédéric Larsan xin vào dự cuộc đàm thoại. Lập tức thỉnh cầu được chấp thuận ngay. Ông ta xách một đôi giày thô, móp, bết bùn đất liệng vào phòng thí nghiệm và hô:

    - Đây, đôi giày tên sát nhân đã mang! Ông có nhận ra không, bố Jacques? Bố Jacques cúi nhìn đôi giày da dơ dáy, và giựt mình sửng sốt, công nhận đó là đôi giầy cũ của mình đã vứt bỏ lẫn trong đám đồ phế thải ở một góc gác nóc. Ông già lúng túng đến nỗi phải rút khăn tay xì mũi để giấu cơn xúc động. Tức thì, Frédéric Larsan trỏ chiếc khăn tay bố Jacques đang xì mũi, tuyên bố: - Đây, một chiếc khăn tay giống chiếc lượm được trong "Căn Phòng Vàng" một cách lạ lùng.

    - A! Tôi biết chứ – bố Jacques run rẩy trả lời – Hai cái hầu như y hệt nhau.

    - Sau hết – Frédéric Larsan dõng dạc thuyết tiếp – Cái mũ bát cũng tìm thấy trong "Căn Phòng Vàng" là của ông sếp bố Jacques đội ngày xưa. Tất cả những điểm này, thưa ông Giám Đốc Công An và ông Dự thẩm, chứng tỏ theo tôi – ơ kìa, bình tĩnh lại đi, ông lão! – Larsan nói với bố Jacques đang muốn xỉu – mọi cái theo tôi, chứng tỏ tên sát nhân định che giấu con người thật của nó. Nó cải trang khá trắng trợn, hay ít nhất chúng ta xem như trắng trợn, bởi vì chúng ta chắc chắn kẻ sát nhân không phải bố Jacques, người không hề rời giáo sư Stangerson một lúc nào. Nhưng quý vị thử tưởng tượng coi, nếu tối hôm ấy – ông Stangerson không kéo dài buổi làm việc khuya, nếu sau khi rời con gái, ông đã về ngay lâu đài, rồi cô Stangerson bị sát hại đúng lúc không có ai trong phòng thí nghiệm và bố Jacques ngủ vùi trong gác nóc thì: Chẳng còn ai còn nghi ngờ mà không quyết đoán ngay bố Jacques chính là kẻ sát nhân. Bố Jacques thoát tội chỉ là nhờ vào thời điểm tấn thảm kịch nổ ra quá sớm. Chắc hẳn tên sát nhân nghe bên này im lặng, tưởng phòng thí nghiệm không có ai và giờ hành động của nó đã tới. Kẻ đã có thể lẻn vào đây và sắp đặt những tội chứng rõ rệt đổ thừa cho bố Jacques, nhất định phải là người quen trong nhà. Nó lọt vào đây chính xác vào giờ nào? Trưa? Hay tối? Tôi không dám quyết. Một kẻ quen thuộc mọi việc, mọi người trong biệt thất đã lẻn vào "Căn Phòng Vàng" đúng giờ thuận tiện cho nó.

    - Nhưng nó vào sao được nếu phòng thí nghiệm có người?

    - Làm sao chúng ta biết, thưa ông! – Larsan cãi – Đã có một bữa ăn chiều trong phòng thí nghiệm, rồi gia nhân đi lại phục dịch, lại còn một cuộc thử nghiệm hóa học khoảng từ mười giờ đến mười một giờ, giáo sư Stangerson, con gái ông và bố Jacques quây quanh mấy chiếc hỏa lò ở một góc lò lớn. Ai dám nói rằng tên sát nhân không phải là một người quen! Đã không lợi dụng lúc này để lẻn vào "Căn Phòng Vàng" sau khi tháo bỏ giầy để lại phòng rửa mặt.

    - Không có ai! – Giáo sư Stangerson lắc đầu. - Không có lẽ, nhưng không phải là không có thể. Bởi vậy tôi không khẳng định gì cả. Còn việc nó ra thế nào thì lại là chuyện khác! Làm sao nó chạy thoát? Thưa rằng "một cách tự nhiên nhất trần đời"!

    Trong khoảnh khắc, Frédéric Larsan nín lặng. Cái khoảnh khắc này, chúng tôi thấy nó dài quá. Chúng tôi lắng đợi ông ta mở miệng lại mà người muốn phát sốt, cũng dễ hiểu thôi.

    - Tôi chưa hề vào "Căn Phòng Vàng" – Frédéric Larsan nói tiếp – nhưng tôi trộm nghĩ quý vị đã có bằng chứng rằng người ở trong phòng chỉ có thể ra bằng cửa lớn. Thì chính là bằng cửa lớn mà tên sát nhân đã đi ra. Vả chăng, vì lẽ không thể nào khác được nên phải vậy. Nó đã phạm tội ác trong phòng và nó đã ra bằng cửa lớn! Ra lúc nào? Lúc dễ dàng nhất đối với nó, lúc nào việc đi ra đối với nó trở thành dễ cắt nghĩa nhất, dễ cắt nghĩa đến độ không sao tìm được cách cắt nghĩa nào khác, vậy chúng ta hãy xem xét những "lúc" theo sau tội ác. Lúc thứ nhất thì ở trước cửa, sẵn sàng chặn đường nó, có ông Stangerson và bố Jacques. Lúc thứ hai, bố Jacques vắng mặt vài phút, ông Stangerson một mình ở lại trước cửa. Lúc thứ ba, ông gác cổng đến với ông Stangerson. Lúc thứ tư, trước cửa có ông Stangerson, anh gác cổng, vợ anh và bố Jacques. Lúc thứ năm, cửa bị phá, bốn người ùa vào "Căn Phòng Vàng". Cái lúc nó tẩu thoát dễ cắt nghĩa nhất chính là lúc trước cửa có ít người nhất. Có một lúc chỉ có một người: Đó là lúc ông Stangerson ở lại một mình trước cửa. Trừ trường hợp buộc chết cho bố Jacques là tòng phạm bằng im lặng, và tôi không tin bố Jacques là tòng phạm, bởi lẽ bố Jacques sẽ không ra khỏi biệt thất để đi xem xét cái của sổ của "Căn Phòng Vàng", nếu bố đã thấy cửa mở và tên sát nhân ở trong chạy ra. Thế thì cửa chỉ mở lúc ông Stangerson có một mình và nó đi ra. Đến đây, chúng ta cần chấp nhận rằng ông Stangerson có những lý do vững mạnh để không bắt giữ hoặc hô hoán bắt giữ tên sát nhân, vì ông đã để mặc cho nó tới tận cửa sổ gian tiền đình, rồi đóng cửa sổ lại khi nó đã leo qua! Xong việc này, vì bố Jacques sắp trở lại và cần để bố thấy lại mọi sự đâu vẫn yên đấy, cô Stangerson chắc bị cha quở trách sao đó nên mặc dầu thương tích trầm trọng, vẫn còn đủ sức để khóa trái căn "Căn Phòng Vàng" và cài chốt lại như cũ trước khi cô gục xuống sàn nhà chết giấc. Chúng ta không biết kẻ nào phạm tội ác, chúng ta không biết ông và cô Stangerson là nạn nhân của tên khốn nạn nào, nhưng không thể nghi ngờ, cha con cô biết nó là ai! Cái bí mật này phải vô cùng khủng khiếp đến đỗi người cha đã không ngần ngại bỏ con gái đang hấp hối sau cánh cửa mà chính cô đã đóng lại, khủng khiếp đến độ ông đành để tên sát nhân tẩu thoát. Vậy đó, làm gì có cách nào khác trên đời để giải thích việc tên sát nhân trốn ra khỏi "Căn Phòng Vàng".

    Không khí im lặng tiếp theo tràng thuyết minh bi thảm và sáng sủa này có một cái gì ghê rợn. Hết thảy chúng tôi cùng đau đớn cho vị giáo sư danh tiếng bị lập luận tàn nhẫn của Frédéric Larsan dồn đến chân tường, bị buộc phải, hoặc thú thực với chúng tôi nỗi thống khổ của mình, hoặc câm nín, một lời thú tội còn khủng khiếp hơn. Con người ấy, pho tượng hiện thân của đau đớn từ từ đứng dậy. Ông giơ cao tay thành một cử chỉ long trọng đến nỗi chúng tôi phải kính cẩn cúi đầu như trước một biểu tượng thần thiêng rồi bằng giọng sang sảng như phải vận dụng hết nguồn sinh lực còn lại, ông dằn từng tiếng:

    - Tôi xin thề trên đầu con gái tôi đang hấp hối, rằng tôi không hề rời cái cửa này từ lúc nghe tiếng kêu cứu tuyệt vọng của con tôi, rằng cửa này không hề mở khi tôi chỉ có một mình trong phòng thí nghiệm, và cuối cùng khi tôi cùng ba người giúp việc ùa vào "Căn Phòng Vàng" thì tên sát nhân không còn trong đó nữa! Tôi thề không biết tên sát nhân là ai!

    Tôi có cần nói thêm hay không, rằng dù nghe một lời thề long trọng dường ấy, chúng tôi vẫn không tin ông Stangerson. Frédéric Larsan vừa hé cho chúng tôi thấy thấp thoáng sự thật, lẽ đâu chúng tôi chịu để cho nó biến nhanh như vậy. Khi ông De Marquet tuyên bố cuộc "hội thoại" chấm dứt và chúng tôi sửa soạn rời phòng thí nghiệm thì bỗng anh phóng viên non, tên Joseph Rouletabille nhãi ranh tiến lại bên ông Stangerson, cầm tay ông một cách hết sức kính cẩn, và tôi nghe gã nói.

    - Riêng tôi, tôi tin ông, thưa giáo sư!

    Tôi xin ngừng ở đây đoạn kể về bài tường thuật của ông Maleine, đăng kiểm tại tòa án Corbeil. Khỏi cần minh xác với quý vị độc giả rằng tất cả những gì diễn ra trong phòng thí nghiệm đã được chính Rouletabille kể lại với tôi rất trung thực và ngay tức khắc.
     
  2. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 12: Cây ba toong của Frederic Larsan

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mãi đến sáu giờ đồng hồ, tôi mới rời lâu đài, mang theo bài báo được bạn tôi viết vội trong phòng khách nhỏ mà ông Robert Darzac đã cho chúng tôi sử dụng. Anh phóng viên sẽ ngủ lại lâu đài theo lời mời mến khách khó hiểu của ông Roberl Darzac, người mà trong những giờ phút đau thương hiện tại, giáo sư Stangerson đặt trọn niềm tin để bàn bạc việc nhà.

    Tuy nhiên, anh muốn đi tiễn tôi đến tận ga Epinay. Lúc ngang qua vườn hoa, anh nói:

    - Frédéric Larsan giỏi thật là giỏi, quả không thẹn với tiếng đồn. Anh biết ông ta làm thế nào mà tìm thấy đôi giầy của bố Jacques không? Gần chỗ chúng ta bắt gặp những "dấu chân thanh lịch" đồng thời những dấu giày thô biến mất, hiện ra một vết trũng hình chữ nhật chứng tỏ mới đây thôi, đã có một phiến đá nằm đó. Larsan tìm phiến đá không thấy, ông ta nghĩ ngay ra tên sát nhân đã dùng nó để cột giữ dưới đáy hồ đôi giầy nó muốn tống khứ đi cho rảnh. Fred thật tài tình và thành quả việc ông ta tìm kiếm đã chứng minh như vậy. Điều này, quả thật tôi không nghĩ đến, nhưng nói cho công bằng thì tâm trí tôi đã phiêu du ngã khác, bởi vì căn cứ trên một số quá nhiều chứng tích giả mạo về con đường nó đi qua do tên sát nhân để lại và trên kích thước những dấu chân đen phù hợp với kích thước những bước chân bố Jacques tôi đã ghi nhận trên sàn nhà "Căn Phòng Vàng" trong lúc bố không hay biết, trước mắt tôi thì bằng cớ đã rõ rệt là tên sát nhân muốn đánh lạc hướng nghi ngờ ra ngoài ông lão bộc. Chính vì thế mà tôi dám nói với bố, anh nhớ lại mà coi, rằng nếu người ta tìm thấy chiếc mũ nồi trong căn phòng bi thảm nọ thì nhất định nó phải giống cái mũ của bố, rồi tôi lại mô tả chiếc khăn tay lượm được cũng giống hệt cái khăn tay bố thường dùng. Larsan và tôi nhất trí với nhau đến đây, nhưng từ đây trở đi thì chúng tôi không còn nhất trí nữa. Và điểm này sẽ là một sự rất ghê gớm, vì ông ta với tất cả thiện chí đang đi tới một sai lầm mà tôi quyết sẽ chống lại với "hai bàn tay trắng"!

    Tôi kinh ngạc nghe giọng nói quyết liệt của bạn tôi khi anh thốt ra câu chót. Anh còn nhắc lại lần nữa:

    - Phải! Tồi tệ! Tồi tệ! Nhưng có thật chống "bằng tư tưởng" nghĩa là chống với "hai bàn tay trắng" không?

    Lúc này chúng tôi đi qua phía sau lâu đài. Đêm đã xuống. Một khung cửa sổ trên lầu nhất còn mở hé. Ánh sáng yếu ớt hắt ra cùng vài tiếng động khiến chúng tôi chú ý và tiến bước cho tới khi đụng một góc cửa ra vào ở ngay dưới khung cửa sổ. Rouletabille thì thầm cho tôi biết cái cửa sổ kia là của phòng cô Stangerson. Những tiếng động đã khiến chúng tôi dừng bước bỗng im bặt một lúc rồi lại nổi lên. Những tiếng rên siết nghẹn ngào. Chúng tôi chỉ nghe rõ vài từ: "Tội nghiệp Robert!" - Rouletabille đặt tay lên vai tôi, ghé tai nói nhỏ:

    - Nếu chúng ta biết được trong căn phòng kia đang xảy ra chuyện gì thì cuộc điều tra của tôi sẽ kết thúc mau chóng.

    Anh đảo mắt nhìn quanh. Bóng đêm bao phủ dầy đặc. Chúng tôi không nhìn được xa hơn cái bãi cỏ hẹp ven bờ trồng cây cao trải dài sau lâu đài. Nhưng tiếng thổn thức lại ngừng.

    "Mình nghe không rõ" – Rouletabille lại nói – "thì thử dòm coi"

    Và anh vừa kéo tôi đi vừa ra dấu cho tôi thật nhẹ bước, qua hết bãi cỏ đến tận một cây phong cứng cáp in bóng trắng mờ trong đêm đen. Cây phong này vươn lên giữa khung của sổ và những cành đầu tiên của nó chĩa ngang gần như đụng tầm cao của tầng lầu nhất lâu đài. Từ những cành này, chắc chắn có thể nhìn thấy những gì đang xảy ra trong phòng cô Stangerson. Và đó nhất định là chủ ý của Rouletabille. Vì, sau khi ra lệnh cho tôi ở yên một chỗ, anh vòng đôi tay rắn chắc ôm thân cây leo lên. Anh biến nhanh vào đám cành lá um lùm, rồi hoàn toàn im lặng. Đằng kia, trước mắt tôi, khung của sổ mở hé vẫn hắt ra ánh sáng nhưng không thấy bóng người thấp thoáng qua vùng ánh sáng. Cây phong trên đầu tôi vẫn lặng lẽ. Tôi chờ. Thình lình, từ trong vùng cành lá thoảng vào tai tôi mấy tiếng:

    "Đi trước đi!"

    "Xin mời, cứ đi trước đi!"

    À, ra người ta trò chuyện với nhau trên cao, trên đầu tôi. Người ta lễ phép nhường nhau, và tôi xiết nỗi ngạc nhiên khi thấy xuất hiện trên thân cây nhẵn nhụi hai bóng người thoáng cái đã chạm đất! Rouletabille leo lên một mình, và trở xuống với một người khác!

    "Chào ông Sainclair!"

    Thì ra Frédéric Larsan. Nhà thám tử đã có mặt trên cây lúc anh phóng viên yên chí có một mình. Chả người nào để ý đến vẻ ngỡ ngàng của tôi. Tôi chắc từ ngọn cây trinh sát họ đã chứng kiến một pha đầy yêu thương và tuyệt vọng giữa cô Stangerson đau đớn nằm dài và ông Darzac quỳ phục bên giường bệnh. Phóng viên và thám tử, mỗi anh rút lấy một kết luận khác anh kia. Chẳng có gì khó để đoán được cái pha ấy đã tạo một hậu quả mãnh liệt trong đầu Rouletabille "bênh vực Robert Darzac" nhưng trong óc Larsan thì nó chỉ chứng tỏ một thủ đoạn đạo đức giả biểu hiện bằng một nghệ thuật cao cường nơi vị hôn phu của cô Stangerson.

    Khi tới cổng sắt hoa viên, Larsan chợt ngăn chúng tôi lại:

    - Ấy! Cây ba toong của tôi!

    - Ông quên cây ba toong à? – Rouletabille hỏi.

    - Vâng – nhà thám tử đáp – Tôi để gần gốc cây lúc nãy.

    Rồi ông ta hấp tấp quay lại, rồi sẽ bắt kịp chúng tôi ngay.

    - Anh có để ý cây ba toong của Frédéric Larsan không?

    – Rouletabille hỏi tôi khi chỉ còn hai đứa – Cây ba toong mới tinh khôi, chưa bao giờ tôi thấy ở tay ông ta. Ông ta có vẻ cần nó lắm, không lúc nào chịu rời, làm như sợ nó rơi vào tay người lạ. Cây ba toong này, ông ta lấy ở đâu? Một người không cầm ba toong bao giờ bỗng dưng từ sau ngày xảy ra vụ mưu sát ở Glandier lại không bao giờ chịu đi một bước mà không chống ba toong thì lạ thật, không phải chuyện tự nhiên. Hôm chúng ta tới lâu đài, lúc trông thấy ổng, ổng đút đồng hồ vào túi và lượm cây ba toong dưới đất cầm tay, một cử chỉ tôi đã lầm mà không cho là quan trọng!

    Lúc này, chúng tôi đã ra ngoài khu hoa viên. Rouletabille không nói gì. Tư tưởng anh chắc chưa rời cây ba toong của Frédéric Larsan. Tôi có bằng chứng ấy khi đi xuống bờ biển Epinay anh bảo tôi:

    - Frédéric Larsan đã tới trước tôi, ông ta bắt đầu cuộc điều tra riêng trước tôi, đã có thì giờ để biết những gì tôi không biết và thấy những gì tôi không thấy, không rõ ông ta tìm thấy cây ba toong này ở đâu. Rồi anh tiếp:

    - Rất có thể điểm ông ta nghi ngờ hay hơn thế nữa, lý luận của ông ta, đi thẳng một mạch tới Robert Darzac, chắc phải dựa trên một cái gì rõ rành rành sờ nắn được và ông ta đã sờ nắn tới, "chỉ có ông ta" thôi, còn tôi, tôi lại không sờ nắn được nắn. Quái thật, cây ba toong ấy ông ta tìm thấy ở đâu?

    Đến Epinay, vì còn phải đợi xe hơn hai mươi phút, chúng tôi vào một quán giải khát giết thì giờ. Hầu như ngay tức khắc, sau chúng tôi cửa lại mở liền và Frédéric Larsan bước vào tay vung cây ba toong quí báu. Ông ta cười tươi. - Tôi tìm thấy rồi! Ba chúng tôi ngồi chung bàn. Rouletabille không rời mắt khỏi cây ba toong. Anh mãi nhìn nên không thấy Larsan ra mật hiệu cho một nhân viên hỏa xa, một thanh niên rất trẻ để một chòm râu cằm nhỏ vàng biếng chải. Anh ta liền đứng dậy trả tiền ăn uống, chào và đi ra. Chính tôi cũng chẳng thấy cái ám hiệu kia quan trọng gì nếu nó không trở lại ký ức tôi vài ngày sau đó, khi chòm râu vàng tái xuất hiện vào một trong những giây phút bi thảm nhất của truyện này. Lúc ấy tôi mới biết chòm râu vàng là đệ tử của Larsan được giao nhiệm vụ canh chừng hành khách đi lại trong ga Epinay-Sur-Orge, vì Larsan không bỏ sót việc gì biết đâu sẽ có khi hữu ích. Tôi lại nhìn Rouletabille:

    - A! Thưa ông Fred, – anh nói, ông có cây ba toong này từ bao giờ vậy nhỉ. Tôi thấy lúc nào ông cũng đi đứng hai tay thọc túi quần cơ mà.

    - Của người ta cho – nhà thám tử đáp.

    - Chắc là mới đây..

    - Không, họ cho tôi từ khi ở Luân Đôn. –

    À phải, ông ở Luân Đôn về, thưa ông Fred. Tôi coi một chút được không ông?

    - Được chứ!

    Fred đưa cây ba toong cho Roulelabille cây ba toong to bằng tre già, đầu khoằm có cẩn một vòng vàng. Rouletabille xem xét tỉ mỉ:

    - Ô này – anh ngẩng một bộ mặt hóm hỉnh nhìn lên – người ta biếu ông ở Luân Đôn một cây ba toong bán ở Pháp! Đây mời ông đọc, nhãn hiệu khắc chữ nhỏ: "Cassene, 6bis, Opéra."

    - Ở Luân Đôn người ta đưa giặt được quần áo trắng thì người Anh có thể mua ba toong ở Paris chứ sao.

    Rouletabille trả lại cây ba toong, khi đưa tôi vào trong toa tầu hỏa rồi, anh hỏi:

    - Ông nhớ địa chỉ không đấy?

    - Nhớ! Cassene, 6bis, opéra. Yên trí đi, sáng mai ông sẽ nhận được mấy chữ của tôi.

    Ngay tối đó, ở Paris, tôi đến gặp ông Cassene bán ba toong và dù. Sau đó tôi viết cho anh: "Một người đàn ông được miêu tả đúng hình dạng Robert Darzac, cùng khổ người, hơi gù, đội mũ quả dưa, đã đến mua một cây ba toong giống cây của Fred, đúng buổi tối hôm xảy ra vụ ám sát, khoảng tám giờ. Từ hai năm nay, ông Cassene không hề bán cây ba toong nào như vậy. Cây ba toong của Fred còn mới nguyên. Vậy đúng là cây ông ta hiện nắm trong tay. Không phải chính ông ta đã mua nó, vì lúc ấy ông ta đang ở Luân Đôn.

    Cũng như Rouletabille, tôi nghĩ" ông ta đã tìm thấy ở một chỗ nào đó quanh quẩn bên ông Robert Darzac ". Nhưng, như anh vẫn nói, tên sát nhân đã có mặt trong" Căn Phòng Vàng"từ năm giờ hoặc cho là sáu giờ đi, mà vụ mưu sát mãi khoảng nữa đêm mới xảy ra thì việc mua cây ba toong này đương nhiên cung cấp cho Robert Darzac một bằng chứng ngoại phạm vững vàng không bác bỏ được.
     
  3. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 13: "Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn của nó, cũng như khu vườn không mất đi ánh sáng"

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tám ngày sau những chuyện tôi vừa kể là ngày 2 tháng mười một, tôi nhận được ở Paris, phát tận nhà, một bức điện tín nội dung như sau: "Đến ngay Glandier bằng chuyến xe lửa sớm nhất. Mang những khẩu súng theo. Thân. Rouletabille."

    Hình như tôi đã có thưa cùng quý vị, rằng hồi đó, là một luật sư trẻ đang còn tập sự và rất ít việc, tôi thường lui tới pháp đình để làm quen với nghề nghiệp hơn là để bênh vực cô nhi quả phụ. Cho nên tôi không ngạc nhiên thấy Rouletabille gọi tôi đi khơi khơi, vả lại anh cũng biết tôi rất khoái theo dõi các vụ phiêu lưu trong nghề báo của anh nói chung, và nhất là vụ Glandier, nói riêng. Từ tám ngày nay, tôi chỉ được tin tức vụ này qua một số lớn bài tường thuật xô bồ đăng trên các nhật báo và vài dòng qua vắn tắt của Rouletabille trên tờ Epoque. Mấy dòng tin vắn này tiết lộ câu chuyện "khúc xương cừu" và cho chúng tôi biết những dấu vết trên khúc xương đã được phân chất và xác định đúng là "máu người", có cả dấu còn tươi nguyên của "máu cô Stangerson". Nhưng dấu cũ thì do những tộc ác có thể lâu từ nhiều năm trước để lại.

    Hãy thử tưởng tượng báo chí thế giới sôi sục ra sao. Chưa bao giờ có vụ án mạng nổi tiếng nào lại gây hoang mang dư luận mạnh như vụ này, ấy là cuộc thẩm cứu của Dự thẩm có vẻ chẳng tiến triển gì ráo. Cho nên tôi sẽ mừng rỡ xiết bao khi được bạn tôi mời đến gặp anh ở Glandier, nếu bức điện không thòng thêm câu: "Mang những khẩu súng theo".

    Tôi khó hiểu quá. Nếu Rouletabille điện cho tôi phải mang súng theo, tất nhiên anh đã có dự liệu sẽ có dịp dùng đến. Song, tôi xin thú nhận mà không chút thẹn thùng, tôi chẳng phải một đấng anh hùng lỗi lạc. Nhưng làm sao được! Ngày hôm ấy, vấn đề là một người bạn chắc đang gặp khó khăn kêu gọi mình đến cứu nguy, nên tôi không hề ngần ngại, và sau khi xem lại cẩn thận khẩu súng lục duy nhất đã được nạp đạn đàng hoàng, tôi đi ra ga Orleans. Dọc đường, tôi suy nghĩ, khẩu súng lục chỉ là một món vũ khí, mà ở bức điện của Rouletabille chỉ súng viết số nhiều, tôi bèn ghé vào một cửa hàng bán vũ khí và mua một khẩu súng nhỏ thật tốt mong có được dịp vui tặng bạn.

    Tôi hy vọng được Rouletabille ra đón ở ga Epinay, nhưng không thấy. Tuy nhiên, có chiếc xe ngựa chờ sẵn và đưa tôi về Glandier. Cổng sắt chẳng có ai. Lúc đến tận ngưỡng cửa lâu đài tôi mới trông thấy anh. Anh vồn vã chào và ôm lấy tôi liến thoắng hỏi thăm sức khỏe. Khi vào gian phòng khách nhỏ cũ kỹ mà tôi đã có nói trước đây, Rouletabille mời tôi ngồi và vào đề ngay:

    - Hỏng bét!

    - Cái gì hỏng?

    - Tất cả. – Anh lại gần ghé sát tai tôi:" "Frédéric Larsan quyết đi tới cùng để cột cổ Robert Darzac".

    Điều này, tôi chẳng lấy làm lạ kể từ lúc tôi thấy người chồng chưa cưới của cô Stangerson tái mặt trước những dấu chân mình.

    Tuy vậy, tôi vặn ngay:

    - Ơ hay! Thế còn cây ba toong?

    - Cây ba toong! Vẫn ở trong tay Frédéric Larsan, ông ta không lúc nào rời nó.

    - Nhưng mà nó không cho Robert Darzac một bằng chứng ngoại phạm hay sao?

    - Làm gì có chuyện đó. Tôi dò ôn tồn hỏi han Robert Darzac, ông nhất định chối không hề mua cây ba toong nào ở nhà Cassene, tối hôm ấy cũng như mọi hôm khác. Dù sao, "tôi không quả quyết điều gì vì ông Darzac có nhiều lúc im lặng một cách quái gở đến nỗi người ta không biết cho thật đúng phải nghĩ thế nào về những lời ông ta nói".

    - Trong óc Frédéric Larsan, cây ba toong này phải quý giá lắm, nó là cây ba toong tang chứng. Nhưng bằng cách nào? Vì vẫn căn cứ theo giờ giấc đã mua, nó không thể nằm trong tay kẻ sát nhân được.

    - Giờ giấc không gây bối rối cho Larsan. Ông ta không bó buộc phải áp dụng phương pháp của tôi, nó bắt đầu bằng cách nhét tên sát nhân vào "Căn Phòng Vàng" khoảng từ năm đến sáu giờ chiều. Còn với ông ta, có cái gì ngăn cản ông ta nhét nó vào từ mười đến mười một giờ khuya? Giờ này đúng thời gian cha con cô Stangerson với bố Jacques phụ giúp, đang làm một cuộc thử nghiệm hóa học say mê trong khu vực của phòng thí nghiệm có đặt những chiếc hỏa lò con. Larsan sẽ nói rằng lên sát nhân lẻn vào sau lưng họ, giả thiết coi bộ rất có lý. Ông ta đã khai với Dự thẩm như vậy. Nhưng xét kỹ thì lập luận này không đứng vững, vì lẽ kẻ quen thân với gia đình – nếu quả có kẻ quen thân – phải biết rằng ông giáo sư sắp rời biệt thất, và nếu là người quen thân tất nó sẽ chờ ông già đi khỏi rồi mới hành động có phải an toàn hơn không. Tội gì nó liều lĩnh băng qua phòng thí nghiệm trong khi ông giáo sư còn đó? Vả chăng, kẻ quen thân ấy lọt vào biệt thất lúc nào? Cần làm sáng tỏ chừng ấy điểm trước khi chấp nhận giả thuyết của Larsan. Riêng tôi, tôi không phí thì giờ vào chuyện này vì tôi có một phương pháp không thể đánh đổ, nó không cho phép tôi bận tâm với cái thuyết tưởng tượng ấy. Có điều lúc này tôi bị buộc phải ngậm miệng trong khi Larsan thì đôi khi được nói, có thể rồi ra mọi sự sẽ đi đến chỗ kết tội ông Darzac nếu không có tôi ở đây!

    Anh chàng nói câu này đầy vẻ tự phụ – Bởi vì, chống lại ông Darzac còn có "nhiều dấu vết bên ngoài" kém ghê gớm không khác câu chuyện cây ba toong, câu chuyện mà tôi vẫn không hiểu, càng không hiểu khi thấy Larsan ngang nhiên xuất hiện trước ông Darzac với cây ba toong của chính ông Darzac. Tôi hiểu rất nhiều trong phương pháp hành động của Larsan, nhưng chuyện cây ba toong thì thật tình tôi chưa hiểu?

    - Frédéric Larsan còn ở lâu đài không?

    - Còn, không hề đi đâu! Ông ta ngủ luôn ở đó, như tôi, theo lời thỉnh cầu của giáo sư Stangerson. Ông Stangerson đối xử với Fred y hệt Robert Darzac đối xử với tôi. Bị Frédéric Larsan tố cáo là biết mặt tên sát nhân và đã giúp cho nó trốn thoát, ông Stangerson quyết dành mọi sự dễ dàng cho kẻ buộc tội ông để đi tới chỗ phát hiện sự thật. Ông Robert Darzac xử với tôi cũng y như thế.

    - Nhưng anh, anh tin Robert Darzac vô tội không?

    - Đã có một lúc tôi tin ông Robert Darzac là thủ phạm. Đó là khi chúng ta tới đây lần đầu. Thôi, đã đến lúc tôi kể anh nghe chuyện gì đã xảy ra giữa ông Darzac và tôi.

    Đến đây, Rouletabille ngừng nói và hỏi tôi có mang vũ khí theo không. Tôi đưa anh hai khẩu súng lục. Anh xem xét cẩn thận rồi chỉ nói một câu: "Tuyệt rồi", đoạn trả lại tôi cả hai khẩu.

    - Chúng ta liệu có phải dùng đến không? – Tôi hỏi.

    - Chắc tối nay phải dùng. Chúng ta ngủ đêm ở đây. Có gì phiền anh không?

    - Trái lại – tôi trả lời và nét mặt tôi lộ vẻ khôi hài thế nào mà Rouletabille cười rộ:

    - Thôi đi! Thôi đi! – anh nói khi đã ngừng cười – lúc này không phải lúc cười. Ta nói chuyện nghiêm túc thôi. Ông có nhớ câu: "Vùng ơi, hãy mở ra!" ở cửa cái lâu đài đầy rẫy bí ẩn này không?

    - Nhớ. "Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn của nó, cũng như khu vườn không mất đi ánh sáng". Và cũng câu này một nửa bị cháy xém anh đã tìm thấy trên một mảnh giấy trong đống than tàn ở phòng thí nghiệm chứ gì.

    - Đúng, và phía dưới mảnh giấy, ngọn lửa còn kiêng nể chỗ ghi ngày tháng: "23 tháng mười". Anh nhớ kỹ cho cái ngày tháng này, nó quan trọng lắm đấy. Bây giờ tôi xin nói anh nghe về cái câu kỳ cục nọ. Tôi không hiểu anh có biết, rằng hai ngày trước vụ ám sát, nghĩa là ngày 23, cha con cô Stangerson có đi dự một buổi chiêu đãi ở điện Elysée. Họ ăn luôn bữa tối ở đấy, tôi chắc thế. Điều rõ rệt là họ đã ở lại dự tiệc chiêu đãi, "bởi vì tôi đã trông thấy hai người". Tôi cũng có mặt ở đó vì lý do nghề nghiệp. Tôi có nhiệm vụ phỏng vấn một vị trong nhóm các nhà bác học thuộc Viện Hàn Lâm Philadelphie, những người được chào mừng ngày hôm đó. Cho đến hôm ấy, tôi chưa hề thấy mặt ông Stangerson và cô con gái bao giờ. Tôi ngồi ở gian phòng khách phía trước phòng tiếp các vị đại sứ, đang thả hồn vào cõi mộng vu vơ thì bỗng ngửi thấy mùi hương thơm ngát của thiếu phụ bận đồ đen thoáng qua. Anh sẽ hỏi tôi: "Mùi hương thơm ngát của thiếu phụ bận đồ đen" là cái gì. Anh chỉ cần biết đó là thứ dầu thơm mà tôi ưa thích vô cùng vì nó được sức vào người một thiếu phụ chuyên mặt đồ đen, người đã từng có cử chỉ hiền mẫu đối với tôi thuở còn bé. Người đàn bà hôm ấy kín đáo sức "hương thơm của thiếu phụ bận đồ đen" lại bận đồ trắng. Nàng đẹp mê hồn. Tôi không thể dằn lòng mà không đứng dậy đi theo nàng, theo cả hương thơm của nàng. Một người đàn ông, hay đúng hơn một ông già, đưa cánh tay cho nàng vịn và dìu đi. Hai người lướt tới đâu, người ta ngoái cổ dòm tới đó. Tôi nghe đám đông xầm xì: "Giáo sư Stangerson và con gái ông đó!" Thế là tôi biết tôi đang đi theo ai. Hai cha con gặp ông Robert Darzac, người tôi đã biết mặt. Giáo sư Stangerson ngồi chiếc ghế bành trong phòng triễn lãm, bận đàm luận với một nhà bác học Mỹ trong khi ông Robert Darzac đưa cô Stangerson vào gian nhà gương. Tôi vẫn lẽo đẽo theo sau. Tối hôm ấy, thời tiết trong lành. Các cửa ra vườn đều mở. Cô Stangerson ném một tấm khăn vuông mỏng lên vai và tôi thấy rõ ràng chính cô khẩn cầu ông Robert Darzac đi với cô vào chốn hiu quạnh của vườn cây. Tôi đi theo luôn vì chú ý đến vẻ bối rối lúc ấy của ông Robert Darzac. Họ thong dong chậm bước men theo dãy tường chạy dọc đại lộ Mangny. Tôi đi vào lối giữa, nghĩa là song song với hai nhân vật của tôi. Thế rồi, tôi "cúp" ngang sân cỏ để chạm trán với họ. Đêm tối quá, chân tôi đạp trên cỏ êm không tiếng động. Hai người dừng lại trong vùng ánh sáng chập chờn của cây đèn mờ, đầu chụm vào nhau, cúi xuống một mảnh giấy trên tay cô Stangerson, hình như cùng đọc một cái gì đáng quan tâm ghê lắm. Tôi cũng dừng lại, giữa bóng tối và thinh lặng bao vây. Họ không trông thấy tôi và tôi nghe rõ cô Stangerson tay gấp tờ giấy miệng nhắc lại: Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn của nó, cũng như khu vườn không mất đi ánh sáng. Cô đọc với giọng vừa đắng cay vừa tuyệt vọng, tiếp đến một tràng cười đau xót đến nỗi tôi tin nó sẽ ở lại bên tai tôi mãi mãi. Nhưng còn câu được đọc lên, câu này do miệng ông Robert Darzac: Thế thì để có được em, tôi phải phạm một tội ác hay sao? Ông Robert Darzac ở trạng thái bị kích thích lạ lùng. Ông cầm tay cô Stangerson đưa lên môi hồi lâu, và cứ nhìn đôi vai ông rung động, tôi nghĩ rằng ông khóc. Rồi, họ lại dìu nhau đi. "Khi tôi trở lại gian triển lãm" – Rouletabille kể tiếp – "tôi không thấy ông Robert Darzac nữa, từ đó tôi chỉ gặp lại ông ở Glandier sau vụ mưu sát, nhưng tôi trông thấy cô Stangerson, ông Stangerson và các đại biểu Philadelphie. Cặp bên cô Stangerson lúc này là Arthur Rance. Nhà bác học Mỹ truyện trò sôi nổi, cặp mắt trong khi nói, long lanh một tia sáng dị kỳ. Tôi tin chắc cô Stanerson chẳng để lọt vào tai một tiếng nào trong bài văn của ông Arthur Rance, cặp mắt cô lộ vẻ dửng dưng hoàn toàn. Ông Arthur mặt mũi đỏ gay vì bị chứng xung huyết. Chắc ông khoái uống rượu gin. Khi cha con cô Stangerson đi khỏi, ông tiến lại tủ rượu rồi từ đây không rời nó nữa. Tôi đến với ông và giúp ông một vài việc lặt vặt giữa cảnh huyên náo. Ông cám ơn tôi và cho biết sẽ trở về Mỹ ba ngày nữa, tức ngày 26 (hôm sau vụ mưu sát). Tôi gợi chuyện ông về Philadelphie. Ông nói đã ở thành phố này hai mươi lăm năm và chính ở đó ông quen biết cha con nhà bác học trứ đanh Stangerson. Tới đây, ông rót sâm-banh uống tỳ tỳ và tôi nghĩ ông sẽ không bao giờ ngừng uống. Tôi chia tay ông lúc ông đã gần tới mức say thật sự." "Buổi tối của tôi hôm ấy là như vậy đó, anh bạn ơi. Tôi không rõ bởi một thứ dự kiến nào mà hình ảnh cha con cô Stangerson không hề rời tôi suốt đêm ấy, và xin để anh nghĩ sao thì nghĩ về tác động nơi tôi, khi cái tin cô Stangerson bị mưu sát được tung ra. Làm sao không nhớ lại những câu:" Thế thì muốn có được em, tôi phải phạm một tội ác? ". Nhưng câu tôi nói với Robert Darzac khi mình gặp ông ta ở Glandier không phải câu này. Chỉ cần đọc cái câu có vấn đề nhà cổ và vườn cây mà cô Stangerson đã đọc trên mảnh giấy cầm tay hôm ấy là đủ để các cửa lâu đài mở rộng đón chúng ta. Lúc đó, tôi có tin ông Robert Darzac là thủ phạm vụ mưu sát hay không? Không! Tôi không nghĩ mình đã tin hẳn như vậy. Lúc ấy, tôi không nghĩ nghiêm chỉnh" một cái gì "cả. Tài liệu tôi gom góp được còn ít quá." Nhưng tôi cần "ông ta chứng minh ngay lập tức với tôi là ông ta không bị thương ở bàn tay. Khi chỉ còn lại ông ta với tôi, tôi kể ông ta nghe do một sự tình cờ tôi đã biết câu chuyện ông ta nói trong vườn Elysée với cô Stangerson. Kể đến đoạn tôi nghe lọt câu:" Thế thì muốn có được em, tôi phải phạm một tội ác hay sao? "Ông ta giựt mình bối rối, nhưng vẫn không bối rối bằng lúc nghe câu" nhà cổ.. ". Cái điều nó làm ông kinh sợ bàng hoàng là nghe tự miệng tôi kể lại rằng trong ngày ông ta đến gặp cô Stangerson ở Elysée thì buổi trưa hôm ấy cô nàng đã đến văn phòng 40 bưu điện để lấy bức thư có lẽ là bức thư hai người cùng đọc trong vườn Elysée và kết thúc bằng câu:" Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn của nó, cũng như khu vườn không mất đi ánh sáng ". Giả thuyết này sau đó được xác nhận đúng, anh còn nhớ chứ, khi tôi phát giác trong đống than tàn phòng thí nghiệm một mảnh nhỏ của lá thư cháy dở ghi rõ ngày 23 tháng mười. Lá thư được viết và được văn phòng bưu điện phát ra cùng ngày. Chẳng có gì nghi ngờ là lúc từ Elysée về nhà, ngay đêm ấy, cô Stangerson đã định đốt lá thư tai hại này đi. Ông Robert Darzac thì uổng công cố chối việc lá thư có một liên hệ nào đó với vụ mưu sát. Tôi cho ông ta hay rằng trong một vụ án bí hiểm như vụ này, ông không có quyền giấu giếm những người đại diện pháp luật về câu chuyện lá thư, rằng tôi tin chắc lá thư có tầm quan trọng đáng kể, rằng thanh âm tuyệt vọng trong giọng cô Stangerson nhắc lại câu nói ác nghiệt kia, rằng chính tiếng khóc của ông ta, Robert Darzac, và câu hăm dọa phạm tội ông ta thốt ra sau khi đọc xong lá thư, nhưng cái đó không cho phép tôi nghi ngờ điều vừa khẳng định. Robert Darzac mỗi lúc một thêm lúng túng. Tôi bèn quyết định lợi dụng ưu thế của mình.

    " Đáng lẽ ông sắp làm lễ thành hôn, thưa ông "– Tôi làm bộ hững hờ và không nhìn người đối thoại nữa – rồi bỗng nhiên, cuộc hôn nhân ấy trở thành không thể thực hiện vì tác giả bức thư kia phá đám, bởi lẽ vừa đọc xong lá thư; ông nói ngay đến một tội ác cần phải phạm để khỏi mất cô Stangerson." Vậy thì có một kẻ xen vào giữa ông và cô Stangerson, kẻ đó ngăn cấm không cho cô lấy chồng, một kẻ sẽ giết cô trước khi cô kết hôn! Và tôi kết thúc bài diễn văn ngắn như sau: "Giờ đây, thưa ông, ông chỉ còn việc cho tôi biết tên kẻ sát nhân!"

    Có lẽ tôi đã vô tình thốt ra những lời khủng kiếp. Khi ngước nhìn Robert Darzac tôi bắt gặp một gương mặt tái ngắt, một vầng trán đẫm mồ hôi, cặp mắt lạc thần. Ông ta thảng thốt:

    - Thưa ông, tôi xin ông một điều có lẽ đối với ông nó có vẻ điên rồ vô nghĩa, nhưng để đổi lấy nó, tôi bằng lòng bỏ mạng sống của tôi. Tôi van ông đừng tiết lộ trước các vị thẩm phán những gì ông đã thấy và đã nghe ở trong vườn Elysée. Trước các vị thẩm phán hay trước bất cứ ai trên cõi đời này. Tôi xin thề với ông tôi vô tội. Tôi biết và tôi cảm thấy ông tin tôi. Nhưng tôi thà bị coi như kẻ phạm tội hơn là thấy pháp luật nghi ngờ soi mói vào cái câu: "Ngôi nhà cổ không mất đi sức hấp dẫn của nó, cũng như khu vườn không mất đi ánh sáng". Câu này không thể để cho pháp luật biết được. Toàn thể vụ án ở trong tay ông, tôi trao nó cho ông. Nhưng xin ông hãy quên đi cái buổi tối ở điện Elysée. Ông có cả trăm con đường khác dẫn ông đến việc vạch mặt kẻ sát nhân! Tôi sẽ mở những con đường ấy cho ông, tôi sẽ giúp ông. Ông có muốn ở hẳn đây không? Lên tiếng ở đây như chủ nhà? Ăn, ngủ ở đây luôn? Canh chừng mọi hành vi của tôi và của tất cả những người khác. Ông sẽ ở Glandier như thể ông là chủ lâu đài, thưa ông, nhưng xin ông hãy quên đi cái buổi tối ở Elysée

    Đến đây, Rouletabille ngừng lại để lấy hơi một chút. Giờ thì tôi hiểu, thái độ lạ lùng của Robert Darzac đối với bạn tôi và tại sao bạn tôi có thể ngang nhiên đóng đô ngay tại hiện trường dễ dàng quá vậy. Mọi điều tôi vừa được biết càng kích thích óc hiếu kỳ của tôi mạnh hơn. Tôi yêu cầu Rouletabille thỏa mãn nó thêm nữa. Đã xảy ra những gì ở Glandier từ tám ngày nay? Bạn tôi chẳng đã nói cùng tôi rằng bây giờ, để buộc tội Robert Darzac, có những dấu vết bên ngoài cũng ghê gớm không kém câu chuyện cây ba toong do Larsan tìm thấy đó ư?

    "Hình như tất cả quy tụ lại kết tội Darzac" – Bạn tôi trả lời – "và tình thế trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Ông Robert Darzac có vẻ buông trôi mọi sự; bất chấp tất cả. Ông ta lầm. Nhưng chẳng có gì trên đời khiến được ông ta quan tâm, ngoài sức khỏe của cô Stangerson tiến triển đều đặn mỗi ngày cho đến khi một biến cố còn bí ẩn hơn cái bí ẩn của" Căn Phòng Vàng "bỗng xảy ra đột ngột.

    - Làm gì có chuyện đó! – Tôi phản đối um sùm – làm gì có biến cố nào bí ẩn hơn cái bí ẩn của" Căn Phòng Vàng "?

    - Trước hết, ta hãy trở lại với Robert Darzac cái đã – Rouletabille trấn an tôi – Tôi vừa nói tất cả hòa nhau tấn công ông ta." Những bước chân thanh lịch "do Frédéric Larsan ghi nhận có vẻ rõ ràng là bước chân người chồng chưa cưới của cô Stangerson". Dấu bánh xe đạp có thể cũng là dấu bánh xe của ông ta, việc này đã được kiểm tra nghiêm chỉnh. Từ khi có chiếc xe đạp, ông ta vẫn để nó ở lâu đài. Tại sao ông ta lại mang nó về Paris nhằm vào đúng lúc ấy? Có phải ông định tâm không trở lại lâu đài nữa? Có phải chăng, cuộc hôn nhân của ông tan vỡ sẽ kéo theo việc cắt đứt mọi quan hệ giữa ông với gia đình Stangerson? Mọi người đương sự đều quả quyết các quan hệ cũ vẫn tiếp tục. Rồi sao? Frédéric Larsan thì lại tin rằng "mọi sự tan vỡ cả". Từ hôm Robert Darzac cùng cô Stangerson đi dạo trong các gian hàng lớn ở Louve cho đến hôm sau ngày xảy ra vụ mưu sát, chàng rể hụt không hề trở lại Glandier. Xin nhớ cô Stangerson đã mất chiếc ví tay và chìa khóa đầu đồng trong khi có ông Robert Darzac đi kèm. Từ ngày ấy đến buổi tối ở Elysée, vị giảng sư đại học Sorbonne và cô Stangerson không thấy xuất hiện bên nhau nữa. Nhưng có thể họ biên thư cho nhau. Cô Stangerson đã đi lãnh bức thư lưu ở Văn Phòng 40 bưu điện, bức thư mà Frédéric Larsan cho là của Robert Darzac, vì Frédéric Larsan không biết gì về chuyện ở Elysée nên nghĩ rằng chính Rober Darzac đã đánh cắp ví tay và chìa khóa với dụng ý cưỡng ép cô Stangerson chiều theo ý mình bằng cách chiếm đoạt những giấy tờ quí giá nhất của người cha và chỉ hoàn lại với điều kiện cuộc hôn nhân thành tựu. Tất cả các tình tiết có vẻ một giả thuyết đáng ngờ và hầu như vô lý – như chính ngài Fred nói với tôi – nếu không có cái khác, mà cái khác đây còn nghiêm trọng hơn nhiều nữa. Trước hết, một chuyện quái gở tôi không hiểu nổi, là chính Robert Darzac đã đích thân ngày 24, đến văn phòng bưu điện xin lãnh bức thư do cô Stangerson lãnh ra hôm trước rồi. Cách mô tả người đàn ông đến lấy thư phù hợp từng điểm một với nhân dạng ông Darzac. Ông này, khi được Dự thẩm hỏi với tính cách chiếu lệ thôi, đã chối không hề tới văn phòng bưu điện. Tôi thì tôi tin ông Robert Darzac, vì cứ cho rằng chính ông ta viết bức thư ấy đi – điều này tôi không chấp nhận – ông ta biết cô Stangerson lãnh ra rồi cơ mà, bởi lẽ đã thấy tận mắt lá thư ấy trên tay cô Stangerson trong vườn Elysée. Vậy rõ ràng hôm sau, ngày 24, không phải ông ta đến Văn phòng 40 xin lãnh một bức thư mà ông ta đã biết không còn ở đó nữa. Theo tôi, đây là một kẻ giống ông ta lạ lùng và chính là tên ăn trộm chiếc ví tay. Hắn viết thư này đòi hỏi cái gì đó ở chủ nhân chiếc ví, cô Stangerson, "một cái gì mà hắn không thấy đến". Chắc hắn ngạc nhiên và thắc mắc không rõ bức thư hắn gởi đi với hàng chữ để bì: M. A. T. H. S. N. Có người lãnh ra chưa. Do đó mà có việc hắn đến văn phòng bưu điện và khẩn khoản đòi lãnh bức thư cho bằng được. Rồi hắn tức giận bỏ đi. Bức thư đã có người lãnh ra, mà cái điều hắn yêu sách không được thỏa mãn! Hắn đòi hỏi cái gì? Không ai biết, ngoài cô Stangerson. Cụ thể vẫn là ngày hôm sau người ta hay tin cô Stangerson bị mưu sát suýt chết trong đêm và ngày hôm sau nữa thì đến tôi phát giác ông giáo sư cùng một lúc bị mất trộm bởi cái chìa khóa mục tiêu của bức thư lưu trí bưu điện. Như thế thì với tôi, người đàn ông đã tới văn phòng bưu điện chính là kẻ sát nhân, và toàn bộ lập luận này, tóm lại rất hợp lẽ, về những lý do đã thúc đẩy kẻ kia đến văn phòng bưu điện lăng xăng, Frédéric Larzac cũng nắm được, nhưng lại áp dụng vào Robert Darzac. Anh nên biết, rằng ông Dự thẩm, rằng ông Larsan, rằng cả chính tôi, ba người đã cố gắng hết sức để tìm tòi ở văn phòng bưu điện những chi tiết chính xác về nhân vật quái dị ngày 24 tháng mười, nhưng chẳng ai biết hắn ở đâu tới và rồi hắn đi đâu!

    Ngoài kiểu miêu tả hình dạng giống hệt Robert Darzac thì chả còn gì. Tôi đã cho rao mấy dòng trên các nhật báo lớn nhất: "Một món tiền thưởng rất hậu dành cho ông đánh xe nào đã đưa một người khách đàn ông đến văn phòng 40 bưu điện trong buổi sáng ngày 24 tháng mười, khoảng mười giờ. Xin mời ông đến ban biên tập báo Epoque, hỏi ông R. Chẳng kết quả gì.

    Tóm tắt, tên đó có thể đã đi bộ đến, nhưng vì quá vội vàng, biết đâu nó chả đi xe. Trong lời rao trên báo, tôi không miêu tả hình dạng tên đó, chủ ý để tất cả các ông đánh xe ngựa vào khoảng giờ đó đã có đưa một người khách tới Văn phòng 40 bưu điện đều đến tôi hết. Nhưng chẳng có một ai. Ngày đêm tôi thắc mắc tự hỏi: Thế thì người đàn ông giống Robert Darzac một cách dị thường kia, kẻ đến lấy thư và cũng là kẻ đã mua cây ba toong hiện ở trong tay Frédéric Larsan là ai? Điều nghiêm trọng hơn hết là vào giờ ấy, giờ mà kẻ có hình dạng giống hệt Robert Darzac đến văn phòng 40 bưu điện lấy thư thì ông Robert có giờ giảng dạy ở Sorbonnes nhưng đã bỏ không lên lớp. Một giáo sư đồng nghiệp dạy thay ông. Và khi được hỏi giờ ấy ông bận gì, ông trả lời: Dạo chơi rừng Boulogne. Anh, anh nghĩ sao về một ông giáo sư bỏ giờ dạy, đi chơi rừng Boulogne để cho bạn phải thay mình lên lớp? Sau chót, cho anh biết cái này mới là kỳ cục, nếu ông Robert Darzac chịu thú nhận đi chơi rừng Boulogne trong buổi sáng ngày 24 thì ông lại không thể cho biết đã dùng thì giờ làm gì trong đêm 24 rạng ngày 25! Frédéric Larsan hỏi ông về điểm này, ông phớt tỉnh trả lời rằng ông làm gì ở Paris là việc riêng của ông không liên quan gì đến ai. Thế là Frédéric Larsan lớn tiếng thề sẽ một mình, không cần ai giúp đỡ, phanh phui ra. Tất cả những cái đó có vẻ xác minh vài giả thuyết của ngài Fred. Nhất là sự kiện Robert Darzac ở trong" Căn Phòng Vàng "chạy ra có thể làm vụng thêm lời giải thích của nhà thám tử về đường lối tên sát nhân tẩu thoát. Ông Stangerson đã mặc cho Robert Darzac chạy đi để tránh một tai tiếng động trời! Vả chăng chính cái giả thuyết mà tôi cho là sai này đã đánh lạc hướng Frédéric Larsan, và nó sẽ không gây khó chịu cho tôi chút nào, nếu không có một kẻ vô tội bị hàm oan. Giờ đây, có thật cái giả thuyết ấy đánh lạc hướng đi của Frédéric Larsan không? Thế đó! Thế đó! Thế đó!

    - Mà này. Chưa biết chừng Frédéric Larsan có lý cũng nên! – Tôi kêu to ngắt lời Rouletabille – Anh có chắc ông Darzac vô tội không? Tôi thấy nhiều điểm trùng hợp đáng buồn quá đi.

    - Những chuyện trùng hợp là những kẻ thù nguy hiểm nhất của sự thật.

    - Giờ ông Dự thẩm nghĩ sao?

    - Ông Dự thẩm De Marquet ngần ngại không muốn qui tội cho Robert Darzac mà không có chứng cứ gì rõ rệt. Làm thế, không những ông ta bị toàn thể công luận chống đối, chưa kể đại học Sorbonne, mà cả cha con cô Stangerson nữa. Cô Stangerson yêu tha thiết Robert Darzac. Dù cô có nhìn thấy tên sát nhân quá ít, người ta khó lòng làm cho quần chúng tin rằng cô lại không nhận ra nó là Robert Darzac, nếu Robert Darzac là kẻ sát nhân. Đành rằng" Căn Phòng vàng"rất tối, nhưng vẫn có cây đèn đêm thắp sáng cơ mà, anh đừng quên. Thế đó, ông bạn, vụ này đang đi tới đó thì cách đây ba ngày, hay đúng hơn, ba đêm, xảy ra cái biến cố xưa nay chưa từng có mà tôi nói với anh ban nãy
     
  4. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 14: Tôi trông chờ kẻ sát nhân vào tối nay

    Bấm để xem
    Đóng lại
    "Tôi phải đưa anh đến tận nơi tận chỗ" – Rouletabille nói tiếp – "để anh hiểu, hay đúng hơn để anh tin rằng vụ này không sao hiểu nổi. Riêng tôi, tôi cầm chắc mình đã thấy được cái mà thiên hạ đang tìm: Đó là bằng cách nào tên sát nhân đi ra thoát" Căn Phòng Vàng ", không cần đồng phạm, không cần ông Stangerson làm ngơ. Giả thuyết của tôi, khi nào tôi chưa nắm hẳn được hình dung nhân cách thủ phạm thì tôi chưa tiết lộ nó thế nào, nhưng tôi tin nó đúng và trong mọi trường hợp, nó hoàn toàn tự nhiên, tôi muốn nói: Hoàn toàn đơn giản. Còn chuyện xảy ra cách đây ba đêm, chính trong lâu đài này thì hai mươi bốn giờ qua, tôi thấy nó vượt qua mọi năng lực của óc tưởng tượng. Hơn thế, cái giả thuyết gì đây đang vươn lên từ tận cùng sâu thẳm trong tôi nó vô lý quá, vô lý đến độ hầu như tôi thà ở lại trong bóng tối của tình trạng không thể giải đáp có lẽ còn dễ chịu hơn.

    Đến đây anh phóng viên lôi tôi ra ngoài. Anh dẫn tôi đi một vòng quanh lâu đài, chân đạp lên cành cây khô kêu răng rắc. Đó là tiếng động duy nhất tôi nghe lúc ấy, tòa lâu đài đầy vẻ hoang phế. Những viên đá tảng già nua, nước tù đọng trong các hầm hố quanh Vọng lâu, mảnh đất cô liêu phủ đầy rác rưởi của một mùa hè vừa chết, bộ xương đen của các thân cây to, tất cả hùa nhau tạo cho cái nơi quạnh quẽ bị ám ảnh bởi một bí ẩn hãi hùng này thành một cảnh tượng sầu não.

    Chúng tôi đi quanh ngọn Vọng lâu và gặp" gã áo xanh ", anh chàng bảo vệ. Gã đi ngang qua chúng tôi, rất gần, nhưng không một lời chào hỏi như thể chúng tôi không có ở đấy. Gã vẫn y nguyên hình dạng mà tôi thấy lần đầu khi nhìn qua khung cửa kính quán hàng lão Mathieu, vẫn khẩu súng trường đeo chéo vai, tẩu thuốc ngậm trên miệng, kính kẹp trên sống mũi.

    - Con chim thiệt lạ! – Rouletabille thầm thì bên tai tôi – Anh nói chuyện với gã chưa? – Tôi hỏi.

    - Rồi, nhưng chẳng thu được gì. Hỏi, gã chỉ trả lời lung tung, nhún vai và bỏ đi. Thường ngày, gã ở trên lầu nhất Vọng lâu, một căn rộng ngày xưa làm phòng diễn thuyết. Gã ẩn kín như gấu, ra ngoài là phải mang theo súng trường. Gã chỉ dễ thương với đàn bà con gái. Gã hay lấy cớ đi đuổi những kẻ săn bắn ban đêm trái phép để thức dậy nửa khuya nhưng tôi ngờ gã đi đến

    Nơi hẹn hò trai gái. Chị hầu phòng của cô Stangerson là tình nhân của gã đấy. Hiện giờ gã đang chết mệt với bà vợ lão Mathieu, chủ quán. Những lão Mathieu canh giữ vợ nghiệt quá, và tôi tin chính cái cảnh hầu như không thể đến gần bà Mathieu làm cho gã thêm ủ rũ và lầm lỳ. Một gã bảnh trai, chải chuốt, con người quá kỹ gần đến mức hào hoa, đám phụ nữ trong một vòng tròn bốn dặm quanh đây là mê gã hết.

    Khi đã vượt khỏi Vọng lâu ở đầu cánh trái, chúng tôi đi ngang phía sau lâu đài, Rouletabille chỉ cho tôi thấy một khung cửa sổ mà tôi nhận ra nó là một trong những cửa sổ mở vào các gian phòng dành cho cô Stangerson.

    - Nếu anh đi qua đây hai đêm trước vào lúc một giờ sáng thì anh đã thấy kẻ tôi tớ của anh đấy, trên đầu một chiếc thang sắp sửa lọt vào lâu đài bằng cửa sổ lầu một.

    Thấy tôi lộ vẻ kinh hãi về buổi tập thể dục ban đêm của anh, anh yêu cầu tôi hết sức chú ý cách bài trí bên ngoài tòa lâu đài, rồi sau đó chúng tôi vào bên trong.

    " Bây giờ, "! Bạn tôi nói –" tôi đưa anh đi thăm lầu nhất bên cánh hữu chỗ tôi ở.

    Để cho dễ hiểu cách sắp đặt các phòng ốc, tôi xin trình bày dưới mắt bạn đọc sơ đồ tầng lầu nhất của cánh hữu. Sơ đồ do Rouletabille vẽ hôm sau ngày xảy ra cái hiện tượng dị kỳ mà bạn đọc sắp biết với đầy đủ mọi chi tiết của nó:

    1. Chỗ Rouletabille đặt Frédéric Larsan.

    2. Chỗ Rouletabille đặt bõ Jacques.

    3. Chỗ Rouletabille đặt ông Stangerson.

    4. Cửa sổ Rouletabille leo qua để vào.

    5. Cửa sổ Rouletabille thấy đã mở, lúc ở phòng mình bước ra. Anh đóng nó lại. Tất cả cửa sổ

    Và cửa ra vào khác đều đóng.

    6. Sân thượng xây trên hàng bao lơn tầng trệt.

    Rouletabille ra hiệu cho tôi theo anh leo một cầu thang kép đồ sộ lên tới lầu nhất thì san thành mặt phẳng. Từ cái mặt phẳng này, người ta đi thẳng đến cánh hữu hoặc cánh tả của lâu đài bằng một hành lang cao và rộng, chạy dài suốt chiều dọc tòa nhà thông ra đến mặt tiền lâu đài quay về hướng Bắc.

    Những phòng có cửa sổ mở ra hướng Nam đều có cửa lớn mở ra hành lang này. Giáo sư Stangerson ở cánh trái lâu đài. Cô Stangerson ở bên cánh phải. Chúng tôi đi vào hành lang cánh phải. Một tấm thảm hẹp trải trên sàn gỗ đánh xi sáng loáng như mặt gương hút mất tiếng động của bước chân. Rouletabille thì thào dặn tôi đi thật cẩn thận vì sắp qua trước phòng cô Stangerson. Anh cho tôi hay khu vực cô Stangerson ở gồm một phòng ngủ, một phòng đợi, một phòng tắm nhỏ, một phòng dành tiếp bạn gái và một phòng khách chung. Dĩ nhiên, người ta có thể đi từ phòng nọ qua phòng kia mà không cần trở ra hành lang. Chỉ có phòng khách chung và phòng đợi là có cửa lớn mở ra hành lang. Cái hành lang này chạy dài, thẳng tắp, cho tới đầu tòa nhà, hướng đông, thông ra ngoài bởi một cửa sổ cao (cửa sổ số 2 trên sơ đồ). Tới độ hai phần ba chiều dài, nó chặn đầu và tạo thành góc thẳng với một hành lang khác ngoặt theo cánh hữu lâu đài.

    Để cho truyện kể được sáng sủa, chúng tôi gọi cái hành lang đi từ cầu thang đến tận cửa sổ phía Đông là "hành lang thẳng", còn đoạn hành lang chạy ngoặt theo cánh hữu và đụng "hành lang thẳng" tạo thành một góc vuông là "hành lang ngoặt".

    Phòng của Rouletabille ở chính góc ngã ba hai hành lang gặp nhau này, kế đến phòng Frédéric Larsan sát bên. Hai cửa lớn của hai phòng đều mở ra "hành lang ngoặt", còn cửa ra vào phòng cô Stangerson thì mở ra "hành lang thẳng" (xin coi sơ đồ). Rouletabille đẩy cửa phòng anh, mời tôi vào rồi vào sau, khép cửa, cài chốt cẩn thận, tôi chưa kịp nhìn xem đồ đạc anh bày biện ra sao thì anh đã thốt một tiếng kêu kinh ngạc, chỉ cho tôi thấy trên chiếc bàn tròn xoay, một chiếc kính kẹp mũi.

    "Cái gì thế này?" – Anh hỏi bâng quơ – "Sao lại có cái kính kẹp mũi trên bàn mình?"

    Tôi khó trả lời anh quá.

    - Hay là "– anh nói tiếp –" hay là cái kính này chính là "vật mình đang tìm" và là một kính kẹp mũi viễn thị

    Anh nhảy sổ tới với lấy cái kính, tay ve vuốt cặp mắt thủy tinh lồi, rồi trừng trừng nhìn tôi một cách thật là dễ sợ:

    "Ô!.. Ô!"

    Anh cứ nhắc đi nhắc lại: Ô! Ô! Chẳng khác một kẻ tự nhiên phát khùng.

    Anh đứng đấy, đặt tay lên vai tôi, cười thảng thốt như người mất trí và nói:

    - Cái kính kẹp mũi này nó làm tôi phát điên lên mất! Vì thế là việc ấy có thể xảy ra, anh thấy không, "nói theo toán học", nhưng "nói theo nhân tính" thì nó không thể xảy ra. Hoặc giả..

    Bỗng ngoài cửa có hai tiếng gõ nhè nhẹ.

    Rouletabille mở hé ra một cánh. Một khuôn mặt ló vào. Tôi nhận ra vợ anh canh cổng, người đã được dẫn đi qua trước mặt tôi đến biệt thất để khai cung, và tôi sửng sốt, vì vẫn tưởng chị ta còn bị giam. Người đàn bà nói rất khẽ:

    - Ở trong khe ván sàn nhà ấy!

    Rouletabille đáp: "Cảm ơn!" và khuôn mặt kia biến mất. Anh cài cửa thật kỹ đoạn quay lại tôi, ngớ ngẩn thốt ra những câu không ai hiểu nổi:

    "Bởi vì việc ấy có thể xảy ra" theo toán học ", tại sao nó lại không thể xảy ra" theo nhân tính "nhỉ. Nhưng nếu nó có thể xảy ra" theo nhân tính "thì vụ này thật là khủng kiếp"

    Tôi cắt dứt tràng độc thoại kỳ cục của Rouletabille:

    - Vợ chồng chị canh cổng được trả tự do rồi à?

    - Phải, – chính tôi vận động cho họ được thả. Tôi đang cần có người đáng tin cậy. Chị vợ thật tận tụy hết lòng, còn anh chồng sẵn sàng chết vì tôi. Và chiếc kẹp mũi có cặp mắt viễn thị, chắc chắn tôi sắp cần đến những người sẵn sàng vì tôi liều chết!

    - Ô! Ô! – Tôi reo lên – anh bạn nói mà không cười. Và chừng nào thì có người phải liều chết vì anh?

    - Tối nay! Vì tôi cần cho anh hay: Tối nay, tôi đợi kẻ sát nhân!

    - Ô! Ô! Ô! Anh đợi kẻ sát nhân tối nay. Thật ư, anh đợi kẻ sát nhân tối nay. Vậy ra anh biết kẻ sát nhân là ai rồi?

    - Ô! Ô! Ô! Bây giờ có thể là tôi biết hắn. Nếu tôi khăng khăng nhất quyết đã biết hắn thì tôi là thằng điên, vì lối suy nghĩ theo toán học của tôi đem lại những kết quả kinh hoàng, đáng ghê sợ, đến nỗi tôi hy vọng rằng còn có thể tôi lầm! Ô! Tôi hết sức hy vọng mình lầm.

    - Sao, tên sát nhân mới cách đây năm phút anh không biết hắn là ai, thế mà bây giờ anh nói tối nay anh đợi hắn, nghĩa là sao?

    - Bởi vì tôi biết hắn phải đến.

    Rouletabille nhồi thuốc vào tẩu, chậm rãi, chậm rãi, rồi anh mồi lửa. Cảnh tượng này báo trước một chuyện kể hấp dẫn nhất trong các chuyện kể sắp bắt đầu.

    Bỗng, có ai đi ngoài hành lang, qua cửa phòng chúng tôi. Rouletabille lắng nghe. Tiếng chân xa dần.

    - Frédéric Larsan có trong phòng ông ta không? – Tôi chỉ vào vách tường hỏi.

    - Không, ông ta không có trong phòng. Có lẽ đi Paris sáng nay rồi. Ông ta vẫn dò theo dấu chân Darzac. Mà ông Darzac sáng nay cũng đi Paris. Vụ này sắp kết thúc tồi lệ lắm đây. Tôi dự đoán ông Darzac sẽ bị bắt nội tám ngày nữa. Cái tai hại nhất là tất cả dường như hợp nhau trút hết tội lỗi lên đầu anh chàng khốn khổ nọ: Mọi biến cố, mọi sự việc, mọi người không có giây nào qua đi mà không mang lại một tố giác mới nhằm vào ông Darzac. Dự thẩm bị tấn công tới tấp về mặt này đến mờ cả mắt. Vả chăng, tôi hiểu vì sao người ta mù quáng. Người ta sẽ bị mù

    Quáng, trừ phi..

    Nhưng Frédéric Larsan đâu phải tay mơ.

    Rouletabille thoáng nhăn mặt, vẻ khinh miệt:

    - Trước tôi tưởng Frédéric Larsan tài giỏi hơn thế này nhiều đấy chứ. Cố nhiên, đây không phải lần đầu. Tôi đã khiếp phục ông ta ghê gớm ngay từ khi tôi chưa biết phương pháp làm việc của ông ta thế nào. Giờ thì tôi thấy rồi, dở ẹc. Ông ta nổi tiếng chỉ nhờ khéo xoay xở nhưng thiếu phân tách triết lý. Lối tính toan các nhận thức của ông ta quá nghèo nàn.

    Tôi nhìn Rouletabille và không thể nhịn cười khi nghe một gã con trai non nớt mười tám xuân xanh dám coi thường một bậc đàn anh năm chục tuổi và từng chứng minh một bản lãnh thám tử siêu việt nhất Châu Âu.

    - Anh cười à – Rouletabille nói tiếp – anh lầm rồi! Tôi thề với anh sẽ cho ông ta rớt đài, mà rớt một cách tiếng tăm vang dội cơ. Nhưng tôi phải làm mau mới được, vì ông ta đang có lợi thế quá lớn, trên chân tôi rồi, cái lợi thế do ông Robert Darzac tiếp sức cho ông ta và tối nay nó còn tăng thêm nữa. Anh nghĩ coi: Mỗi lần tên sát nhân tới lâu đài, ông Robert Darzac do một định mệnh trớ trêu, lại cứ nhè vắng mặt, mà đã thế còn từ chối không cho biết đã làm gì, ở đâu, trong thời gian vắng mặt.

    - Mỗi lần tên sát nhân tới lâu đài! – Tôi kêu lên – Thế ra hắn có đến lần nữa rồi?

    - Phải, trong cái đêm bất hủ đã xảy ra hiện tượng ấy?

    Vậy là tôi sắp sửa được biết cái hiện tượng bất hủ mà Rouletabille nói xa nói gần từ nửa giờ qua chưa giải thích, nó là cái gì. Nhưng tôi đã tập được thói quen không bao giờ hối thúc anh khi anh thuật chuyện. Anh cứ việc cao hứng lúc nào thì nói lúc ấy, hoặc lúc nào cho là cần thiết, và ít lo thỏa mãn óc tò mò của tôi, cho bằng làm một bài tóm lược đầy đủ cho chính mình về một biến cố cơ bản đáng để anh quan tâm. Sau cùng, bằng những câu ngắn, nói nhanh, anh kể tôi nghe những chuyện lạ lùng nó nhận chìm tôi trong một trạng thái gần như mê mụ, vì thật ra, những hiện lượng của cái khoa học còn chưa ai biết, ví dụ – thuật thôi miên, cũng không khó cắt nghĩa bằng cái hiện tượng tên sát nhân vụt biến mất đúng lúc có tới bốn người cùng chụp bắt nó. Tôi nói đến thuật thôi miên cũng như nói đến hơi điện mà chúng ta không biết gì về bản chất và biết quá ít về các định luật của nó, bởi lẽ ngay lúc ấy, vụ này đối với tôi chỉ giải thích được bằng cái không thể giải thích, nghĩa là bằng một biến cố ở ngoài các định luật thiên nhiên ai cũng biết. Nhưng, nếu tôi có được bộ óc của Rouletabille thì cũng có như anh cái "linh cảm của cách giải thích tự nhiên", vì cái lạ lùng nhất trong tất cả các bí ẩn của lâu đài Glandier đúng là cái phương pháp tự nhiên mà Rouletabille cắt nghĩa những bí ẩn ấy?

    Trong số giấy má anh chàng trao lại tôi có một cuốn sổ tay ghi lại bài tường thuật đầy đủ về "hiện tượng tên sát nhân vụt biến mất" cùng những suy luận của bạn tôi về việc này. Tôi nghĩ nên trình bày với quý vì bản tường thuật đó thì hay hơn là tiếp tục kể lại cuộc đàm thoại giữa tôi với Rouletabille, bởi tôi sợ trong một truyện như truyện này, lỡ ra có một chữ thêm thắt vào làm cho không đúng cách phô diễn của sự thật tuyệt đối là sự thật.
     
  5. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 15: Cạm bẫy

    Bấm để xem
    Đóng lại
    (Trích từ sổ tay của Joseph Rouletabille)

    Đêm vừa qua, đêm 29 rạng 30 Tháng mười – Joseph Rouletabille viết – tôi thức giấc khoảng một giờ sáng. Vì bệnh mất ngủ hay vì tiếng động bên ngoài? Tiếng kêu của "Con Vật Của Chúa" ghê rợn vẳng lại từ cuối hoa viên. Tôi đứng dậy ra mở của sổ. Gió lạnh, mưa rơi. Bóng tối dầy đặc, im lặng. Tôi đóng cửa sổ. Cái tiếng kêu quái gở kia vẫn tiếp tục xé rách màng đêm.

    Tôi mặc vội quần dài và áo khoác. Thời tiết này, đến con mèo cũng không dám ở ngoài vậy thì ai đây, ai trong đêm tối, sát bên lâu dài, đang bắt chước tiếng gào của con mèo không bao giờ rời mẹ Agenoux? Tôi cần một cây gậy to và ngắn, vũ khí duy nhất của tôi lúc bấy giờ, và không một tiếng động; tôi từ từ mờ cửa. Tôi bước ra hành lang. Một cây đèn phản quang thắp sáng. Ngọn lửa chập chờn như bi gió lay động. Tôi thật sự cảm thấy luồng gió này. Tôi quay đầu lại. Đằng sau tôi, một khung cửa sổ mở rộng. Chính là khung cửa sổ ở cuối dẫy hành lang chạy qua phòng Frédéric Larsan và phòng tôi, cái hành lang mà tôi gọi là "hành lang ngoặt" để phân biệt nó với cái "hành lang thẳng" chạy qua phòng cô Stangerson. Hai hành lang gặp nhau tạo thành góc vuông. Vậy ai đã để mở cửa sổ này, hay ai vừa mở nó ra? Tôi đến bên cửa sổ, thò đầu ra ngoài, cúi nhìn xuống. Dưới cửa sổ, cách chừng một mét, có một khoảng sân thượng dùng làm mái cho một căn phòng nhỏ đội bao lơn ở tầng trệt. Nếu cần, người ta có thể nhảy từ cửa sổ xuống sân thượng, rồi từ đó tụt xuống sân chính diện lâu đài. Kẻ đã theo con đường này rõ ràng là không có trong tay chìa khóa cửa ra vào gian tiền đình. Nhưng tại sao tôi cứ tưởng tượng ra cái màn thể dục ban đêm này làm chi? Tại vì một khung cửa sổ để mở? Có thể đây chỉ là sơ sót của gia nhân. Tôi đóng khung cửa sổ lại và tự cười thầm, có cái cửa sổ để mở mà sao mình cũng dựng lên lắm bi kịch một cách dễ dàng đến thế. Lại có liếng "Con Thú Nhà Trời" gào trong đêm lạnh.

    Rồi sau, im lặng. Mưa đã ngừng đập các khuông cửa kính. Tất cả yên ngủ trong lâu đài. Với vô vàn thận trọng, tôi rón rén đi trên tấm thảm trải hành lang. Tới góc hành lang thẳng, tôi thò đầu ra ngó chừng cẩn thận. Trong hành lang này, một cây đèn phản quang khác chiếu sáng toàn bộ đồ đạc ở đây. Ba chiếc ghế bành và vài khung cảnh treo trên tường. Tôi làm gì ở đây nhỉ! Chưa bao giờ lâu đài vắng lặng như lúc này. Tất cả đều say ngủ. Linh tính nào thúc giục tôi đi về phòng cô Stangerson? Có cái gì dẫn dụ tôi đi về hướng ấy?

    Tại sao tự đáy lòng tôi có tiếng thét gọi: "Đi đi, đến tận phòng cô Stangerson đi!". Tôi cúi nhìn tấm thảm dưới chân và "thấy rằng những bước chân tôi đi về phía phòng cô Stangerson được dẫn dắt bởi những bước chân khác đã đi trước đến đó?

    Đúng rồi, trên tấm thảm này, nhiều dấu chân dính bùn từ bên ngoài còn in rõ rành rành, và tôi đang đi theo những dấu chân ấy để đến phòng cô Stangerson. Kinh hoàng! Kinh hoàng! Tôi nhận ra những" bước chân thanh lịch ", đó là" bước chân kẻ sát nhân! "

    Hắn từ ngoài đã lọt được vào đây trong đêm mưa lạnh này. Nếu người ta có thể từ hành lang tụt xuống đất qua khung cửa sổ và khoảng sân thượng thì ngược lại, người ta cũng có thể ở dưới đất leo lên bằng cách ấy.

    Tên sát nhân hiện ở đây, trong lâu đài," vì những bước chân không thấy đi trở lại ". Hắn đã lẻn vào lâu đài bằng khung của sổ mở ở cuối hành lang ngoặt. Hắn đi qua cửa phòng Frédéric Larsan, qua cửa phòng tôi, rẽ phải, vào hành lang thẳng, và đã vào phòng cô Stangerson. Tôi đang ở khu nhà dành cho cô Stangerson trước cửa phòng đợi. Cửa phòng đợi mở hé, tôi đẩy vào không nghe một tiếng động. Tôi đứng trong phòng đợi và kìa, ngay dưới cánh cửa ra vào thông sang phòng bên có một vạch ánh sáng dài. Tôi lắng nghe. Chả thấy gì. Không một tiếng động, không cả một hơi thở. A! Làm sao biết được chuyện gì đang xảy ra trong im lìm, sau cánh cửa kia? Ghé mắt dòm lỗ khóa, tôi biết ổ khóa đã được khóa trái và chìa cắm bên trong. Mà tên sát nhân thì đang ở trong đó! Tất nhiên, hắn phải ở trong đó.

    Lần này, hắn còn chạy thoát nữa không? Mọi sự tùy ở tôi. Bình tĩnh và nhất là chớ có vụng về! Phải nhìn vào căn phòng này xem sao. Vào bằng lối phòng khách lớn được chăng? Như thế thì phải băng qua phòng khách nhỏ và tên sát nhân sẽ chuồn mất bằng cửa ra hành lang, cái cửa tôi đang quay lưng lại đây.

    " Theo tôi, đêm nay hiện chưa có tội ác xảy ra vì cái im lặng của phòng khách nhỏ không mang ý nghĩa gì! Trong đó, có hai người gác bệnh ngủ đêm cho tới khi cô Stangerson khỏe hẳn.

    Nếu tôi đã gần như chắc chắn tên sát nhân đang ở trong đó thì tại sao không báo động ngay? Có thể hắn chuồn mất nhưng cũng có thể tôi cứu được cô Stangerson? Và biết đâu, kẻ gian đến đây đêm nay không phải một tên sát nhân? Cửa lớn phòng ngủ đã được mở sẵn cho hắn vào: Ai mở? – Và đã được đóng lại: Ai đóng? Hắn đã vào đêm nay, trong phòng này, qua một cửa lớn chắc chắn khóa trái phía trong, vì cô Stangerson tối nào cũng tự giam mình trong phòng cùng những người gác bệnh. Ai đã xoay chìa khóa mở cửa cho nó vào? Hai người gác bệnh ư?

    Hai kẻ nô bộc trung thành: Bà già hầu phòng với cô con gái Sylvie? Không có lý. Vả chăng, hai mẹ con ngủ bên phòng khách nhỏ, mà cô Stangerson rất lo lắng, rất thận trọng theo như ông Robert Darzac nói với tôi, đã đích thân bố trí giữ an ninh cho mình từ khi cô khá khỏe để đi được vài bước trong phòng, mà tôi cũng chưa thấy cô ở trong phòng đi ra. Nỗi lo âu và thận trọng bất ngờ của cô Stangerson khiến ông Darzac kinh ngạc và cũng làm tôi suy nghĩ. Trong vụ "Căn Phòng Vàng" chẳng có gì nghi ngờ, cô gái khốn khổ kia rõ ràng cố ý chờ kẻ sát nhân.

    Đêm nay, cô có chờ nó nữa không? Ai đã xoay chìa khóa cửa cho nó vào và nó hiện còn ở trong đó. Nếu "chính cô Stangerson" thì sao? Vì rốt cuộc cô có thể sợ, chắc cô đã sợ nó đến nhưng lại có lý do để mở cửa cho nó! "Để bị cưỡng bách phải mở cửa cho nó. Cuộc hẹn hò này thật khủng khiếp! Cuộc hẹn hò của tội ác! Nhất định không phải một cuộc hẹn hò yêu đương, vì cô Stangerson yêu tha thiết ông Darzac, tôi biết. Những dòng suy tưởng này lướt qua trí tôi như một ánh chớp lóe trong bóng tối. A! Giá mình biết được. Đằng sau cánh cửa kia, nếu có nhiều im lặng thế, tức là người ta cần được im lặng. Việc tôi can thiệp vào có thể hại nhiều hơn lợi.

    Biết sao? Ai dám nói sự can thiệp của tôi không gây ra tức thời một tội ác? A! Giá mình thấy và biết mà không phá mất im lặng! Tôi bước ra ngoài phòng đợi. Tôi đến cầu thang giữa, đi xuống, tới gian tiền đình. Tôi chạy hết sức nhẹ bước về căn phòng nhỏ ở tầng trệt, nơi bố Jacques ngủ từ sau vụ mưu sát bên biệt thất.

    Tôi gặp bố còn mặc nguyên quần áo làm việc, mắt trợn trừng như lạc thần. Bố không tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi. Bố nói bố thức giấc vì tiếng gào của" Con Vật Của Chúa "và bố nghe tiếng chân người ngoài hoa viên, những bước chân lướt nhanh trước cửa sổ phòng bố. Bố liền nhìn qua của sổ và đã trông thấy một con ma đen vút qua. Tôi hỏi bố có vũ khí gì không.

    Không, bố chẳng còn thứ vũ khí gì từ khi Dự thẩm tịch thu của bố khẩu súng lục. Tôi kéo bố đi, chúng tôi ra hoa viên bằng một cửa nhỏ sau nhà. Chúng tôi đi men dọc lâu đài cho tới chỗ đứng dưới phòng ngủ cô Stangerson. Đến đây, tôi dí bố Jacques đứng sát tường, cấm bố không được động đậy. Còn tôi, chọn lúc trăng bị đám mây che tối, tôi rảo bước qua mặt cửa sổ nhưng ở ngoài hình vuông ánh sáng từ cửa sổ hắt ra; vì cánh cửa sổ mở hé. Dự phòng chăng? Để có thể ra bằng cửa sổ nhanh hơn, nếu có kẻ đã vào phòng bằng cửa lớn? Ô! Ô! Kẻ nào dám nhảy qua cửa sổ này khó lòng giữ cho cái cổ khỏi gãy! Ai dám bảo tên sát nhân không thủ sợi dây thừng?

    Chắc nó đã lo cả chứ. A! Giá biết được trong phòng kia đang xảy ra chuyện gì? Biết được tại sao trong đó im lặng! Tôi quay lại bố Jacques ghé tai bố buông một tiếng:" Thang ". Ban đầu tôi đã nghĩ đến cái cây cao trước đó tám ngày tôi đã dùng làm đài quan sát, nhưng tôi lại thấy ngay rằng cái cửa sổ mở hé theo một kiểu mà nếu leo lên cây lần này, tôi sẽ chẳng trông thấy gì ở trong phòng. Vả chăng, không những tôi muốn thấy mà còn muốn nghe và hành động.

    Bố Jacques luống cuống, hầu như run rẩy. Bố biến mất một lúc rồi trở lại không có thang. Bố đứng xa khoa hai tay làm hiệu cho tôi đến gấp. Tôi chạy lại bên bố. Bố thở ra rất nhẹ:" Đi, ông! "

    Bố dẫn tôi đi quanh lâu đài. Đến vọng lâu, bố nói:

    " Tôi đến tìm thang trong căn phòng thấp ở vọng lâu, phòng dùng làm kho chứa đồ phế thải cho chú làm vườn và tôi. Cửa vọng lâu thì mở mà cái thang không còn đây, Lúc đi ra, nhờ trăng sáng tôi thấy nó ở kia kìa!

    Và bố chỉ về đầu đằng kia lâu đài cho tôi thấy một cái thang dựng đứng, đầu thang dựa vào những "con quạ" đỡ khoảng sân thượng, dưới khung cửa sổ mà lúc ra khỏi phòng tôi thấy nó để mở. Bị khoảnh sân thượng che mắt, tôi đã không thấy cái thang dựng ở dưới. Với cái thang này thì lọt vào hàng lang ngoặt trên lầu nhất là việc cực dễ, và tôi không còn nghi hoặc, đó chính là con đường kẻ gian đã đi qua.

    Chúng tôi chạy lại chỗ dựng thang. Nhưng lúc định nhấc nó đem đi, bố Jacques bỗng trỏ khung cửa ra vào hé mở của căn phòng nhỏ tầng trệt ở đầu cánh hữu lâu đài, căn phòng mà trần nhà là khoảng sân thượng tôi vừa nói. Bố Jacques khẽ đẩy cánh cửa, dòm vào trong và thì thào: "Gã không có đây!"

    - "Ai?"

    - "Gã bảo vệ!"

    Miệng bố lại ghé tai tôi lần nữa:

    - Ông biết không, anh bảo vệ ngủ ở phòng này, từ khi Vọng Lâu được khởi công sửa chữa! Rồi cũng một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa ấy, bố chỉ cho tôi thấy cửa ra vào mở hé, cái thang, khoảng sân thượng và khung cửa sổ trên hành lang ngoặt mà lúc nãy tôi đã đóng lại.

    Lúc đó tôi nghĩ gì? Tôi có thì giờ để nghĩ không? Tôi "cảm thấy" đúng hơn là tôi nghĩ.

    Cố nhiên, tôi cảm thấy, rằng "nếu gã bảo vệ ở trên kia, trong phòng" (tôi nói: "Nếu", vì bây giờ ngoài cái thang và căn phòng của gã vắng người, không còn dấu vết nào khác cho phép tôi nghi ngờ gã) nếu gã hiện ở trên đó thì đúng là gã đã trèo lên cái thang này, leo qua cái cửa sổ này, chứ những gian nhà đằng sau căn phòng mới của gã, là chỗ ở của vợ chồng anh quản gia và chị bếp với những căn nhà bếp, chặn không cho gã đi lối vào gian tiền đình để đến cầu thang phía trong lâu đài mà lên. "Nếu đúng là gã bảo vệ đã theo đường này lên thì hẳn tối qua, với gã là chuyện quá dễ để viện một cớ gì đó, lên hành lang và cố ý làm cho khung cửa sổ chỉ khép hờ hai cánh thật khít, làm sao ở bên ngoài chỉ đẩy một cái là mở được, và gã nhảy vào hành lang.

    Cái cần thiết đòi cửa sổ không được đóng chặt phía trong rõ ràng giới hạn phạm vi truy lùng thủ phạm. Kẻ sát nhân phải là" người trong nhà "trừ trường hợp có đồng lõa – mà tôi thì không tin nó có đồng lõa – trừ phi" chính cô Stangerson sắp đặt để cho cái cửa sổ không đóng chặt phía trong ". Nhưng nếu thế thì cái bí ẩn khủng khiếp nó bức bách cô Stangerson phải triệt bỏ mọi trở ngại ngăn cách cô với kẻ định giết cô là cái gì đây? Tôi nhấc cái thang và chúng tôi quay trở lại phía sau lâu đài. Cửa sổ phòng cô Stangerson vẫn mở hé, màn của đã kéo nhưng hai mép không khít nhau, còn để một vạch ánh sáng lớn chạy đài trên bãi cỏ dưới chân tôi. Tôi dựng thang, áp đầu thang vào chỗ bên dưới cửa sổ. Tôi gần như chắc chắn không gây một tiếng động." Và trong lúc bố Jacques ở lại dưới chân thang "thì tôi, tôi leo lên thang, rất thong thả, rất thong thả, mang theo cây gậy ngắn. Tôi cố nín thở. Tôi nhấc chân lên, hạ chân xuống, vô cùng thận trọng. Bỗng một đám mây to kéo đến đổ một trận mưa rào. Hên đấy! Nhưng thình lình, tiếng gào rùng rợn của" Con Vật Của Chúa "ghìm chân tôi đứng lại giữa thang. Tôi thấy như nó gào ngay sau lưng tôi, chỉ cách vài mét. Hay tiếng gào này là một ám hiệu? Một tên đồng lõa của nó đã trông thấy tôi ở trên thang? Tiếng gào này để gọi tên kia đến cửa sổ! Có lẽ đúng!

    Nguy rồi." Tên kia đang ở cửa sổ! ". Tôi cảm thấy cái đầu hắn ở ngay bên trên đầu tôi, tôi nghe rõ cả hơi thở? Thế mà tôi lại không thể nhìn thấy hắn. Tôi mà hơi nhúc nhích cái đầu bây giờ là chết với hắn. Liệu hắn sắp nhìn thấy tôi không? Liệu trong đêm tối hắn có cúi đầu dòm xuống không? Không! Hắn bỏ đi. Hắn đã chẳng nhìn thấy gì. Tôi cảm thấy, hơn là nghe, hắn đang rón rén đi vào phòng. Tôi liền bước lên vài bậc thang nữa. Đầu tôi đã tới ngang tầm viên đá bệ cửa sổ.

    Trán tôi nhô cao hơn viên đá này. Mắt tôi ghé vào khe hở giữa hai riềm màn che cửa, tôi nhìn và thấy. Hắn kia. Hắn ngồi trước bàn giấy nhỏ của cô Stangerson, hắn đang viết. Hắn quay lưng lại. Có cây nến để trước mặt hắn.

    Nhưng vì hắn cắm cúi bên ngọn nến lung linh nên ánh lửa chiếu vào nó thành cái bóng méo mó không thật. Tôi chỉ nhìn thấy một cái lưng thô, hơi còng.

    Có điều lạ: Cô Stangerson không có đây. Giường cô còn phẳng nguyên. Vậy cô ngủ đâu đêm nay? Chắc ở phòng bên cạnh với mấy người đàn bà, giả dụ vậy thôi. Mừng được thấy tên kia có một mình. Tâm trí thảnh thơi để sửa soạn một cái bẫy.

    Nhưng, người đang ngồi viết kia là ai vậy nhỉ. Dưới mắt tôi, hắn nghiễm nhiên ngồi vào bàn giấy làm như ở nhà mình. Nếu không có những" dấu chân kẻ sát nhân "trên tấm thảm hành lang, nếu không có khung cửa sổ mở, nếu không có cái thang thì tôi đã sẵn sàng nghĩ rằng người này là kẻ có quyền ở đây và nó ở đây một cách bình thường với những duyên cớ bình thường mà tôi chưa biết. Nhưng, còn nghi ngờ gì nữa tên lạ mặt bí mật này chính là hung thủ vụ" Căn Phòng Vàng ", cô Stangerson đã phải chịu những ngón đòn chí mạng của hắn mà không tố cáo! A! Giá tôi thấy mặt hắn! Vồ được hắn! Nắm đầu hắn!

    Nếu tôi nhảy vào phòng bây giờ, hắn sẽ trốn, hoặc qua phòng đợi, hoặc qua khung cửa lớn bên phải thông sang phòng khách nhỏ. Từ đây, hắn băng qua phòng khách lớn ra hành lang là thoát mất. Thế nhưng, hiện tôi còn giữ hắn, giữ được năm phút, và tôi giữ hắn vững hơn bỏ hắn vào một cái lồng. Hắn làm gì kìa, một mình, trong phòng cô Stangerson? Hắn viết cái gì? Viết cho ai? Tôi tụt xuống, đặt thang dưới đất. Bố Jacques đi theo tôi. Chúng tôi về lâu đài. Tôi sai bố Jacques đánh thức giáo sư Stangerson. Bố phải ở lại phòng ông chờ tôi và không được nói gì chính xác trước khi tôi tới. Còn tôi, tôi đi đánh thức Frédéric Larsan. Thật chán cho tôi quá. Giá cứ làm việc một mình, hưởng trọn cái may mắn bất ngờ trong vụ này đang khi Larsan ngủ vùi có phải thống khoái biết bao. Nhưng bố Jacques với ông Stangerson là những ông cụ già, tôi thì hình như chưa phát triển đầy đủ. Có lẽ tôi thiếu sức mạnh. Còn Larsan ông ta đã quen với người bị đánh đấm, bị quật ngã, bị dựng đậy, bị còng tay. Larsan mở cửa cho tôi, mặt mũi ngơ ngác, mắt híp lại vì ngủ dở giấc, chỉ chực tống cổ tôi đi, không chịu tin những tưởng tượng của thằng tôi – một phóng viên xoàng xĩnh. Tôi phải quả quyết với ông ta rằng:" Hắn hiện ở đây! "

    " Lạ nhỉ "– ông ta lẩm bẩm. –" Tôi tưởng đã bỏ nó lại Paris lúc trưa nay rồi chứ! "

    Larsan mặc vội quần áo và giắt vào người khẩu súng lục. Chúng tôi nhẹ bước ra hành lang.

    Larsan hỏi:

    - Hắn ở đâu?

    - Trong phòng cô Stangerson.

    - Còn cô Stangerson?

    - Không có trong phòng.

    - Ta tới đó đi!

    - Đừng! Hễ động một cái là hắn chuồn mất. Hắn có ba lối thoát thân cơ mà, cửa ra vào, cửa sổ, phòng khách nhỏ với mấy người đàn bà.

    - Tôi sẽ bắn.

    - Nhưng lỡ hụt? Ngộ hắn chỉ bị thương? Hắn sẽ lại trốn mất! Ấy là chưa kể hắn cũng có súng, chắc chắn như vậy. Không được, ông cứ để tôi điều khiển vụ này, tôi chịu hết trách nhiệm.

    - Tùy anh! – ông ta chấp nhận, có phần nào phấn khởi.

    Thế là, sau khi soát lại kỹ càng tất cả cửa sổ dọc hai hành lang đều đóng kín và chắc chắn, tôi cắt Frédéric Larsan đứng ở đầu hành lang ngoặt, trước khung cửa sổ mà trước đó tôi thấy mở và đã tự tay đóng lại. Tôi dặn Fred:

    - Bằng bất cứ giá nào, ông không được rời vị trí này, cho tới khi tôi lên tiếng gọi ông. Tôi tin chắc chắn trăm phần trăm hắn sẽ trở lại cửa sổ này và tính tẩu thoát qua lối này khi bị rượt đuổi, vì hắn đã vào bằng lối này và sửa soạn trốn ra bằng lối này. Ông giữ một vị trí nguy hiểm đấy nhé.

    - Còn anh, vị trí nào? – Fred hỏi.

    - Tôi, tôi nhảy vào phòng và nắm đầu nó mang đến cho ông!

    - Vậy, anh lấy khẩu súng của tôi đi. Đưa cây gậy của anh cho tôi.

    - Cảm ơn. Ông quả là người hùng.

    Và tôi cầm khẩu súng của Fred. Tôi sắp phải một mình đương đầu với kẻ gian ở đằng kia, hắn đang viết trong phòng, và được khẩu súng này giắt lưng thì còn gì bằng.

    Tới đây, tôi rời Fred sau khi cắt ông ta đứng rình ở cửa sổ số 5 trên sơ đồ. Rồi vẫn đề phòng từng ly, từng tí, tôi tiến về khu phòng ông Stangerson bên cánh trái lâu đài. Tôi gặp ông ở cạnh bố Jacques. Ông bố già chấp hành nghiêm chỉnh lời tôi căn dặn, chỉ hối ông chủ mặc quần áo gấp. Lúc ấy tôi mới cho ông hay bằng vài câu vắn tắt những gì đang xảy ra. Ông cũng vũ trang một khẩu súng ngắn và đi theo tôi.

    Chẳng mấy chốc, ba chúng tôi ra tới hành lang. Mọi sự diễn ra kể từ lúc tôi trông thấy tên sát nhân ngồi trước bàn giấy đến giờ kéo dài không đầy mười phút. Ông Stangerson muốn nhảy xổ vào giết hắn ngay tức khắc: Cũng là sự thường. Tôi khuyên ông trước hết nên đề phòng rủi ro,

    " Vì nóng giết hắn mà để hắn sổng mất ".

    Khi tôi đã thề với ông rằng con gái ông không ở trong phòng, và cô không bị nguy hiểm nào đe dọa, ông mới dịu đi và để yên cho tôi điều động mọi việc. Tôi dặn dò thêm bố Jacques và ông Stangerson, họ chỉ chạy đến chỗ tôi khi tôi cất tiếng gọi hoặc khi tôi nổ một phát súng rồi tôi cắt bố Jacques đứng trước khung cửa sổ ở đầu hành lang thẳng. Tôi chọn vị trí này cho bố Jacques vì tôi tính: Tên sát nhân ở phòng ra bị chặn bắt, chạy theo hành lang tìm đến cái cửa sổ hắn để ngỏ lúc vào, nhưng đến ngã ba chỗ hai hành lang gặp nhau, hắn chợt thấy trước cửa sổ ấy có Larsan đứng gác trong hành lang ngoặt, đành tiếp tục chạy suốt hành lang thẳng. Phía này, hắn lại đụng bố Jacques chặn không cho nó nhảy xuống hoa viên qua khung của sổ ở đầu hành lang thẳng. Chắc chắn tên sát nhân lâm vào cảnh ngộ này phải hành động như vậy, nếu hắn thông thuộc đường lối (giả thiết đó tôi không nghi ngờ gì hết). Thật thế, dưới cửa sổ này bên ngoài có xây một thứ cột chống tường lồi ra, trong khi tất cả các cửa sổ khác ở hai hành lang đều mở trên những hào, hố với một chiều cao hầu như không thể nhảy xuống mà không gãy cổ. Mọi cửa sổ và cửa ra vào đều đóng, đóng cẩn thận và đóng chặt, kể cả cửa ra vào kho phế thải ở đầu hành lang thẳng, tôi kiểm tra lại tất cả thật nhanh.

    Xong xuôi, như tôi vừa nói, sau khi chỉ định vị trí cho bố Jacques và" đã thấy bố đứng vào cẩn thận ", tôi cắt ông Stangerson đứng trước mặt phẳng đầu cầu thang, không xa cửa ra vào phòng đợi của con gái ông. Mọi sự đem lại dự đoán rằng khi tôi khởi sự lùa tên sát nhân ở trong phòng ngủ, hắn sẽ chạy trốn qua phòng đợi tốt hơn là qua phòng khách nhỏ nơi có mấy người đàn bà gác bệnh mà cửa ra vào chắc cô Stangerson đã đích thân đóng kỹ, nếu như tôi nghĩ, cô đã lánh sang căn phòng khách nhỏ này" để khỏi thấy mặt tên sát nhân vào phòng mình! "Song" bằng cách nào hắn cũng phải nhào ra hành lang, nơi những người của tôi cắt đặt đang đợi nó trên mọi ngã đường có thể tẩu thoát.

    Ra tới hành lang, hắn thấy bên tay trái có ông Stangerson hầu như ở ngay sát cạnh, hắn liền quẹo tay phải hướng về hành lang ngoặt "cũng chính là con đường chạy trốn hắn đã chuẩn bị từ trước". Thế là kẹt, hắn phải nạp mạng cho chúng tôi.

    Nhưng chúng tôi chỉ có thể vào phòng khách nhỏ bằng lối đi qua phòng khách lớn, mà cửa vào phòng khách lớn thì cô Stangerson sợ hãi đã khóa chặt rồi. Như vậy, kế hoạch này nếu nẩy sinh từ khối óc thông sáng của một thầy đội cảnh sát thì không thể thực hiện. Nhưng tôi, kẻ bó buộc phải suy nghĩ, tôi tự nhủ, dù tôi có toàn quyền sử dụng căn phòng khách nhỏ, tôi cũng vẫn duy trì kế hoạch của tôi như vừa trình bày, bởi mọi kế hoạch khác tấn công thẳng qua mỗi cửa ra vào của phòng ngủ sẽ "ngăn cách chúng tôi người nọ với người kia vào lúc cần chống chọi với kẻ gian", trong khi kế hoạch của tôi thì tập hợp mọi người cùng tấn công một lúc "ở chỗ tôi qui định một cách chính xác gần như theo toán pháp. Cái chỗ ấy là ngã ba giao điểm hai hành lang.

    Cắt đặt ba người đâu vào đấy xong, tôi ra ngoài, chạy đi lấy cái thang, lại dựng nó áp tường, rồi nắm chắc khẩu súng trong tay, tôi trèo lên.

    Tôi cố ý chậm chạp và chính xác để chắc chắn không bỏ sót tí gì trong những tình tiết bao quanh cái hiện tượng lạ lùng mà, cho tới khi có sự kiện mới và lối giải thích tự nhiên, tôi thấy, để chứng minh" tính phân rã của vật chất ", tôi dám nói luôn là tính phân rã" tức thì"của vật chất, cái hiện tượng lạ lùng ấy đã chứng minh được rất hay, hay hơn tất cả những chứng minh khoa học của giáo sư danh tiếng Stangerson
     
  6. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 16: Hiện tượng lạ về tính phân rã của vật chất

    Bấm để xem
    Đóng lại
    (Trích trong sổ tay của Rouletabille)

    Đây, một lần nữa tôi đến với viên đá bệ cửa sổ – Rouletabille ghi tiếp – và một lần nữa tôi nhô cao hơn viên đá ấy. Hai tấm màn cửa sổ vẫn y nguyên như cũ với một khe hở ở giữa, tôi sửa soạn dòm vào, lòng lo lắng không hiểu mình sẽ bắt gặp tên sát nhân trong một tư thế nào. Hay hắn vẫn ngồi trước bàn giấy, đang viết? Nhưng có thể hắn không còn đó! Và hắn đã trốn đi cách nào? Tôi chả còn "giữ cái thang của hắn" đây ư?

    Tôi cố giữ bình tĩnh. Tôi đưa đầu vào gần tí nữa. Tôi dòm vào, hắn còn kia. Tôi thấy lại cái lưng thô, méo mó vì những bóng hình đen tối do ngọn nến tạo ra. Chỉ có khác là "hắn" không viết nữa và cây nến không còn để trên bàn. Cây nến đặt dưới sàn nhà trong lúc tên nọ khom lưng nhìn xuống. Tư thế dị kỳ, nhưng tốt cho tôi. Tôi lấy lại hơi thở. Tôi leo lên nữa. Tôi đã tới những bậc chót. Bàn tay trái tôi giơ ra bám thành cửa sổ. Bám được rồi, tim tôi đập ghê quá. Tôi đưa súng lên miệng cắn chặt. Bàn tay phải tôi giờ cũng bám được thành cửa sổ. Một động tác chớp nhoáng cần thiết, một cái nhún bằng sức hai cổ tay đu người lên, và tôi sắp đứng trên cửa sổ. Miễn sao cái thang! Ấy, thế là. Tôi đang cần bắt một điểm tựa khá vững trên cái thang nhưng bàn chân tôi chưa kịp rời thang thì đã cảm thấy hắn lạng đi. Hắn quẹt vào tường rồi đổ ụp xuống đất. May sao hai đầu gối tôi đã đụng viên đá. Bằng một thế đu lên mà tôi tin là nhanh vô địch, tôi dướn người đứng thẳng trên hòn đá.

    Nhưng tên sát nhân còn nhanh hơn tôi. Hắn đã nghe tiếng cái thang quẹt vào tường và lập tức tôi thấy cái lưng quái dị nhỏm dậy. Hắn đứng thẳng lên, quay người lại. Ôi chao, cái đầu hắn kìa.

    Tôi có thấy rõ cái đầu hắn không nhỉ. Cây nến để dưới sàn nhà chỉ đủ sáng hai cẳng hắn. Từ mặt bàn trở lên, trong phòng chỉ toàn bóng tối, toàn đêm đen. Tôi thấy một cái đầu, tóc dày, râu rậm, cặp mắt của tên điên một bộ mặt xanh xao với hai chòm ria mép ngoác rộng. Màu sắc, trong cái giây phút tối tăm này, tôi cố nhận định màu sắc của tóc râu, thì thấy hắn hung đỏ, là tôi thấy như vậy, tôi nghĩ như vậy. Tôi không hề quen biết gương mặt này. Tóm lại, đó là cảm tưởng chính của tôi khi thấy loáng thoáng cái hình ảnh ấy trong bóng tối mờ ảo. Tôi không quen biết bộ mặt này, "hay ít nhất tôi không nhận ra hắn!"

    A! Bây giờ phải làm thật gấp! Phải làm nhanh như gió! Như bão! Như sét! Nhưng hỡi ôi! Hỡi ôi! "Có những động tác cần thiết." Trong khi tôi làm những động tác cần thiết, nhún hai cổ tay, tỳ một đầu gối lên hòn đá, rồi cả hai chân cùng tung lên, thì tên kia đã trông thấy qua khung cửa sổ và như tôi đã tiên liệu, hắn lao ra cửa phòng đợi, đủ thì giờ mở cửa chạy trốn.

    Nhưng tôi nhào tới sau hắn, súng cầm tay. Tôi thét to: "Bắt lấy hắn!" Tôi bay qua căn phòng nhanh như tên bắn, thế mà còn kịp thấy "trên bàn có một lá thư". Tôi suýt vồ được hắn trong phòng đợi, vì hắn đã phải mất một giây để mở của. Tôi đã gần nắm được hắn. Hắn đập cái rầm trước mũi tôi cánh cửa phòng đợi mở ra hành lang. Nhưng tôi mọc cánh. Tôi phi thân ra hành lang chỉ cách hắn ba mét.

    Ông Stangerson và tôi chạy ngang nhau rượt theo hắn. Tên sát nhân, vẫn như tôi dự liệu, bắt đường hành lang bên phải, nghĩa là con đường được sửa soạn trước cho có trốn.

    "Bắt lấy hắn, Jacques! Bắt lấy hắn, Larsan!" Tôi la chói lói. Hắn không thể thoát tay chúng tôi! Tôi bỗng rú lên một tiếng vui mừng, một tiếng rú đắc thắng, man dại – Tên sát nhân đã chạy tới giao điểm hai hành lang trước chúng tôi chưa đầy hai giây đồng hồ và thế là cuộc gặp gỡ do tôi quyết định, phút đụng độ ác liệt không sao tránh khỏi bèn xảy ra.

    Tất cả chúng tôi đâm sầm vào nhau ở ngã ba này. Ông Stangerson và tôi từ đầu nọ hành lang chạy đến, bố Jacques ở đầu kia chạy lại và Frédéric Larsan thì từ hành lang ngoặt phóng tới. Chúng tôi húc vào nhau té lăn ra đất. "Nhưng tên sát nhân không có đó!" Chúng tôi nhìn nhau bằng những cặp mắt ngơ ngác, kinh hoàng trước cái "hư ảo" này:

    "Tên sát nhân không có đó!" Hắn đâu rồi? Hắn đâu rồi? Hắn đâu rồi? – Tất cả chúng tôi thảng thốt kêu lên: "Hắn đâu rồi?" "Làm sao hắn trốn được?

    Tôi thét to trong một cơn thịnh nộ lớn hơn nỗi kinh hoàng.

    - Tôi đã đụng vào hắn rồi chứ. – Frédéric Larsan than tiếc.

    - Rõ ràng hắn ở đây, tôi đã nghe hơi thở của hắn phà vào mặt! – Bố Jacques tiếp lời.

    - Chúng tôi cũng đụng hắn rồi! – Ông Stangerson và tôi nhắc lại." Hắn đâu rồi? Hắn đâu rồi? Hắn đâu rồi!.."Chúng tôi chạy như lũ điên suốt cả hai hành lang. Chúng tôi xem lại các cửa lớn, cửa nhỏ. Cửa nào cũng đóng chặt, kín mít. Hắn đã không mở được vì chúng tôi thấy mọi cửa còn đóng cả. Hơn nữa, tên sát nhân bị săn đuổi như vậy, chẳng lẽ đã mở được một cái cửa mà chúng tôi không trông thấy thì chẳng hóa ra sự kiện này còn quái gở hơn sự kiện chính con người hắn biến mất hay sao? Hắn đâu rồi? Hắn đâu rồi? Hắn không thể vượt qua một cửa ra vào, một cửa sổ hay bất cứ một cái gì. Hắn không thể vượt qua thân xác chúng tôi.

    Xin thú thật, ngay lúc ấy, tôi thất đảm. Vì cuối cùng, ánh sáng chan hòa trong hành lang này không hề có cửa sập, cửa bí mật khoét trong tường, không hề có một cái gì có thể dùng làm nơi ẩn trốn. Chúng tôi tốc ngược những chiếc ghế bành, lật tung các khung ảnh – chẳng có gì! Chẳng có gì! Giá có chiếc lọ nào ở đây chúng tôi cũng dòm vào nữa.
     
  7. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 17: Hành lang kỳ lạ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cô Mathilde Stangerson xuất hiện trên ngưỡng cửa phòng đợi – cuốn sổ tay của Rouletabille ghi tiếp – Chúng tôi đã đến gần cửa phòng này, trong dãy hành lang mà xảy ra cái hiện tượng không ai hiểu nổi. Có những lúc người ta cảm thấy đầu óc loãng ra, tan đi mất.

    Một viên đạn trúng đầu, một cái sọ nổ tung, tụ điểm của các nguồn suy luận bị ám sát, lý trí vỡ vụn, tất cả những đau đớn này thật có thể sánh với các cảm giác đang làm tôi kiệt sức, "nó làm tôi trống rỗng", tất cả trong tôi chao đảo, rất quân bình, thế là tôi kết liễu cái tôi biết suy tưởng, – suy tưởng theo cách nghĩ rất người của tôi!

    Sự sụp đổ tinh thần một cơ sở duy lý kéo theo sự sụp đổ hiện thực cái thị kiến sinh lý, trong lúc hai con mắt vẫn tinh tường, cả một đoàn khủng khiếp đánh vào cân não!

    May thay, cô Stangerson xuất hiện nơi ngưỡng cửa phòng đợi. Tôi trông thấy cô, và đây là dịp tốt để cho đầu óc đang rối bét của tôi lãng khuây đi chút đỉnh. Tôi thở mạnh. Tôi hít hương thơm người đàn bà bận đồ đen ở nơi cô. Bà bận đồ đen thân mến, người không bao giờ tôi còn gặp lại! Trời hỡi! Mười năm ròng rã của đời tôi, một nửa cuộc đời tôi để được thấy lại người đàn bà bận đồ đen. Nhưng, khốn khổ! Tôi chỉ còn gặp lại, họa hoằn, gì nữa, một chút hương thơm gần giống cái hương thơm chỉ mình tôi cảm nhận được, để đến hít thở trong gian phòng phiếm luận của tôi thời niên thiếu!

    Chính cái kỷ niệm sâu sắc về làn hương thơm yêu dấu của người đây, hơi bà mặc đồ đen, nó bắt tôi đi tới người phụ nữ kia, cô con gái mặc toàn đồ trắng, và xanh xao quá, xinh đẹp quá, đang đứng trên ngưỡng cửa "cái hành lang không thể hiểu nổi. Mớ tóc mây vàng óng vén lên trên gáy để lộ ngôi sao đỏ ở thái dương, vết thương suýt làm nàng mất mạng. Khi tôi mới bắt đầu nắm sợi dây lý luận của tôi bằng đúng cái đầu phải nắm, trong vụ này, tôi đã hình dung đêm xảy ra bí ẩn" Căn Phòng Vàng ", cô Stangerson vấn tóc kiểu băng-đô.

    " Nhưng trước khi bước chân vào "Căn Phòng Vàng", tôi biết lập luận gì, nếu không có mớ tóc chải băng-đô? "Và bây giờ thì tôi chẳng lập luận gì nữa, kể từ lúc có vấn đề" Cái hàng lang không thể hiểu nổi ". Tôi đứng đây, ngơ ngẩn trước cô Stangerson xanh xao và quá đẹp. Cô choàng một tấm áo rộng mặc trong nhà, trắng toát một màu thơ mộng. Trông cô như một hiện hình mờ ảo, một bóng ma hiền lành. Cha cô dang rộng đôi tay ôm cô vào lòng. Ông hôn cô tới tấp làm như cố đoạt lại người con yêu một lần nữa, vì quả đúng là một lần nữa, ông lại suýt mất con! Ông không dám hỏi con câu nào. Ông kéo cô vào phòng.

    Chúng tôi theo. Vì phải tìm hiểu chứ! Cửa phòng khách nhỏ đã mở. Hai bộ mặt khiếp đảm của những người gác bệnh quay về chúng tôi. Cô Stangerson hỏi có chuyện gì mà ồn ào, náo động?

    Cô nói:" Có gì đâu, đơn giản lắm! "

    - Đơn giản à! Đơn giản à!

    Đêm nay cô không muốn ngủ phòng mình mà sang nằm chung với hai người đàn bà gác bệnh bên phòng khách nhỏ. Và ba người khóa chặt của phòng. Từ sau đêm bị giết hụt, cô thường bị những cơn hốt hoảng, kinh hãi bất thần, cũng rất dễ hiểu thôi, đúng không?

    Ai sẽ hiểu được tại sao vào chính đêm nay," cái đêm nó phải đến ", cô lại tự giam mình với hai người gác bệnh, do một" tình cờ "phúc đức nào? Ai sẽ hiểu được tại sao cô khước từ ý muốn của ông Stangerson ngủ lại phòng khách của con gái, vì con gái ông đang run sợ. Ai sẽ hiểu được tại sao lá thư ban nãy nằm trên mặt bàn trong phòng" giờ không còn đây nữa "! Kẻ nào hiểu được sẽ nói: Cô Stangerson biết tên sát nhân còn đến nữa, cô không thể ngăn cản nó đến nữa, cô không thể báo động với ai, vì cần để tên sát nhân trong vòng bí mật, cha cô không biết, không ai được biết, trừ Robert Darzac, vì bây giờ Robert Darzac phải biết nó rồi.

    Có thể ông đã biết nó từ trước. Nên nhớ lại câu nói ở vườn Elysée:" Chẳng lẽ để được em, tôi phải phạm một tội ác? "

    Tội ác nào? Giết ai? Nếu không phải là" giết kẻ phá đám ", tên sát nhân? Còn câu này nữa, cũng đừng quên.

    Khi tôi hỏi:" Ông có khó chịu thấy tôi vạch mặt kẻ sát nhân không? "Ông Darzac đã trả lời:" A! Tôi muốn được tự tay giết chết nó! "Tôi nói tiếp:" Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi! "Đúng đấy. Sự thật, sự thật, ông Darzac thừa biết tên sát nhân là ai, đến nỗi ông sợ tôi truy ra nó," trong khi vẫn muốn giết chết nó ".

    Ông ta trợ giúp cho cuộc điều tra của tôi được dễ dàng chỉ vì hai lý do: Trước hết, bởi tôi ép buộc ông, sau để trông chừng bảo vệ người yêu được kỹ hơn. Tôi theo cô vào phòng, vào phòng cô – Tôi nhìn cô, rồi nhìn chỗ để lá thư lúc nãy. Cô Stangerson lấy lá thư đi rồi, thư ấy viết cho cô, tất nhiên. Ôi! Tội nghiệp, cô run quá, cô run vì nghe câu chuyện ly kỳ cha cô kể lại, chuyện tên sát nhân đã đột nhập phòng cô và nó bị săn đuổi như thế nào. Nhưng rõ ràng, thật quá rõ ràng là cô chỉ được an tâm hẳn, lúc biết chắc tên sát nhân, do một yêu thuật quái đản nào đó, đã thoát tay chúng tôi trong gang tấc. Thế rồi, có một màn im lặng. Im lặng lạ lùng.

    Tất cả chúng tôi đứng ỳ ra đó nhìn cô đăm đăm. Cha cô, Larsan, bố Jacques và tôi. Những ý nghĩ nào đang xoay quanh cô trong cái im lặng này? Sau biến cố đêm nay, sau cái bí ẩn của" hàng lang không thể hiểu nổi ", sau việc tên sát nhân có mặt trong phòng cô một cách diệu kỳ, thì dường như tất cả các ý nghĩ, tất cả, từ những ý nghĩ mông lung trong đầu bố Jacques đến những ý nghĩ đang được" đẻ ra "trong óc ông Stangerson, tất cả có thể được bộc lộ bằng câu này, để nói với cô:" Cô ơi! Cô biết rõ điều bí ẩn, cô hãy giải thích cho chúng tôi nghe, biết đâu chúng tôi chả cứu được cô! "

    Ôi! Tôi mong ước cứu cô, cứu cô thoát được chính cô, thoát được tay kẻ định giết cô! Tôi phát khóc. Vâng, tôi cảm thấy nước mắt ràn rụa trước bao nhiêu thống khổ bị buộc phải che giấu một cách quá thương tâm. Nàng đứng kia, cô gái có hương thơm của" người đàn bà bận đồ đen ", rốt cuộc tôi cũng thấy nàng, ở nhà nàng, trong phòng nàng, trong cái phòng mà nàng không muốn tiếp tôi, trong cái phòng" mà nàng im lặng ", mà nàng còn tiếp tục im lặng. Kể từ cái giờ phút bi thảm của" Căn Phòng Vàng ", chúng tôi cứ xoay quanh người đàn bà bí hiểm và câm nín này để cố biết những gì nàng biết. Niềm ao ước cùng ý chí sắt đá của chúng tôi muốn biết, chắc đối với nàng là thêm một cực hình. Ai đám bảo rằng, nếu" chúng tôi biết thì cái sự chúng tôi biết được điều bí ẩn của nàng "sẽ chẳng là điểm xuất phát cho một thảm kịch còn khủng khiếp hơn nhưng thảm kịch đã diễn ra ở đây?

    Ai dám bảo chúng tôi rằng nàng sẽ không vì thế mà chết? Tuy nhiên, nàng đã suýt chết và chúng tôi chẳng biết gì, nhưng tôi, nếu tôi biết nó là" ai ", tôi sẽ biết tất cả. Ai? Ai? Ai? Và bởi không biết nó là ai, tôi đành im, vì xót thương nàng, vì còn nghi ngờ chi nữa, nàng biết, chính nàng biết" nó "đã làm cách nào để ra thoát" Căn Phòng Vàng ", thế mà nàng im lặng. Vậy tại sao tôi lại phải nói?

    Khi nào tôi biết nó là ai," tôi sẽ nói, nói với nó! "Bây giờ cô Stangerson nhìn chúng tôi, nhưng cái nhìn xa vắng, như thể chúng tôi không có mặt trong phòng cô. Ông Stangerson phá tan bầu không khí im lìm. Ông tuyên bố từ nay sẽ không rời chỗ ở của cô con gái. Con gái ông liền phản đối kịch liệt nhưng vô hiệu, Ông Stangerson khăng khăng không nhượng bộ. Ông nói sẽ đến ở ngay đôm nay. Đoạn, mải lo cho sức khỏe con gái, ông trách cô đã vội xuống giường đi lại, rồi tự nhiên ông thủ thỉ với cô những chuyện rất trẻ con, ông mỉm cười với cô, ông không biết rõ ông đang nói gì, làm gì vì giáo sư danh tiếng điên cái đầu rồi. Ông nhắc đi nhắc lại những câu vu vơ, chẳng ăn nhập gì với nhau, nó chứng tỏ tâm trí ông đang rối loạn mà tâm trí chúng tôi cũng chẳng kém gì.

    Thế rồi, cô Stangerson đáp lại bằng những câu rất thường:" Ba ơi! Ba ơi! "Nhưng giọng cô đau đớn tột cùng, đến nỗi cha cô bật lên nức nở. Bố Jacques rút khăn tay hỉ mũi, cả Frédéric Larsan cũng quay đi giấu cơn xúc động. Còn tôi thì hết chịu nổi rồi, tôi không nghĩ gì nữa, tôi không cảm thấy gì nữa. Tôi rơi xuống dưới cả hàng cây cỏ. Tôi ghê tởm chính mình tôi. Từ hôm xảy ra vụ mưu sát ở" Căn Phòng vàng ", đây là lần đầu, cũng như tôi, Frédéric Larsan đứng trước cô Stangerson. Cũng như tôi, ông ta thường cố để được hỏi cô vài câu, nhưng không hơn gì tôi, bị cô từ chối. Với ông ta cũng như với tôi, người ta luôn luôn đưa ra một câu trả lời: Cô Stangerson quá yếu, không tiếp chúng tôi được.

    Buổi khai cung trước dự thẩm làm cô đủ mệt rồi. Ở đây có một hàm ý xấu, rõ ràng không muốn giúp chúng tôi trong cuộc điều tra. Tôi, thì chẳng lấy thế làm lạ, nhưng luôn luôn Frédéric ngạc nhiên, dù rằng trong vụ này, Frédéric Larsan và tôi mỗi người có một quan niệm khác hẳn nhau. Cha con ôm nhau khóc, và tôi ngạc nhiên nghe nhắc đi nhắc lại tự đáy lòng mình: Cứu nàng đi! Cứ cứu nàng đi, mặc kệ ý nàng! Cứu nàng mà không làm khổ nàng! Cứu nàng mà" nó "không nói gì được!" Nó "là ai?" Nó ", tên sát nhân. Hãy chít cổ nó, khóa miệng nó lại! Nhưng Robert Darzac đã cho ta hiểu:" Muốn khóa miệng nó thì phải giết nó. Đó là kết luận đúng lý rút từ những câu ông Darzac thảng thốt nói ra. Tôi, tôi có quyền giết kẻ mưu toan sát hại cô Stangerson không? – không. Nhưng nó thử hiến tôi một cơ hội coi. Vấn đề là để biết nó có thật bằng xương bằng thịt không? Vấn đề là thấy được cái xác chết của nó, bởi vì không thể bắt sống nó! A! Làm sao cho người con gái kia hiểu, người con gái không buồn nhìn đến chúng tôi, đang chìm đắm trong nỗi kinh hoàng của mình, trong đau khổ của cha, làm sao cho nàng hiểu rằng tôi có khả năng làm tất cả để cứu nàng, phải rồi, tôi lại bắt đầu nắm sợi dây lý luận của tôi bằng đúng cái đầu phải nắm và tôi sẽ thực hiện những việc lạ lùng. Tôi tiến lại phía cô.

    Tôi muốn nói lên, tôi muốn van xin cô hãy tin ở tôi, tôi muốn cho cô nghe bằng vài lời vắn tắt mà chỉ tôi với cô hiểu, rằng tôi biết kẻ toan giết cô đã ra thoát "Căn Phòng Vàng" bằng cách nào, rằng lời đã đoán được một nửa cái bí ẩn của cô và tôi hết lòng thương xót cô. Nhưng kìa, cô lại có cử chỉ yêu cầu chúng tôi rút lui đi, để cô một mình, cái cử chỉ biểu hiện tâm trạng mỏi mệt, cần nghỉ ngơi ngay tức khắc, ông Stangerson bèn mời chúng tôi ai về buồng nấy, cảm ơn chúng tôi, đuổi khéo chúng tôi đi chỗ khác. Frédéric Larsan và tôi chào từ giã rồi kéo theo bố Jacques, chúng tôi trở ra hành lang. T

    Ôi nghe Frédéric Larzac lẩm bẩm: Lạ nhỉ! Lạ nhỉ!.. và ra dấu cho tôi vào phòng mình. Đến ngưỡng cửa, ông ta quay lại bố Jacques hỏi:

    - Bố thấy nó rõ chứ?

    - Ai?

    - Thằng đó

    - Còn phải hỏi? Một hàm râu xồm đỏ dễ sợ, tóc đỏ.

    - Tôi cũng đã thấy nó như vậy, tôi nói.

    - Tôi cũng thế, Frédéric Larsan tiếp theo.

    Giờ chỉ còn anh cả Fred với tôi để bàn việc này trong phòng Fred. Chúng tôi trao đổi tay đôi cả giờ, đào bới, xoay chuyển vấn đề đủ mọi mặt. Rõ ràng là Fred, theo những câu hỏi ông ta đặt với tôi, theo lối giải thích ông ta trả lời tôi, ông ta đã tin tưởng – bất chấp con mắt ông, con mắt tôi, con mắt mọi người, rằng tên sát nhân đã biến mất do một lối đi bí mật trong lâu đài mà nó biết.

    - Vì nó biết rõ lâu đài – ông ta quả quyết – nó biết rất rõ..

    - Cái thằng to con đấy chứ, lanh nữa.

    - To con mới là đúng. Fred lẩm bẩm.

    - Tôi hiểu ý ông – tôi nói – nhưng giải thích sao về hàm râu đỏ, mớ tóc đỏ?

    - Râu rậm quá, tóc rậm quá! Đồ giả đó thôi. – Frédéric Larsan đáp không do dự.

    - Ông đi mau quá. Ông bị ý nghĩ về Robert Darzac đè nặng trong đầu. Ông không thể rũ bỏ được thiên kiến ấy ư? Tôi thì tôi chắc chắn ông ta vô tội.

    - Càng tốt! Tôi cũng mong thế. Nhưng thực tế, mọi sự qui lại buộc tội ông ta. Anh đã để ý thấy những dấu chân trên tấm thảm hành lang chưa? Mời anh ra coi.

    - Tôi thấy rồi. Đó là những "bước chân thanh lịch" ở bờ hồ.

    - Đó là dấu chân Robert Darzac, anh phủ nhận được không?

    - Cố nhiên, người ta dễ nhìn lầm.

    - Thế anh có để ý những dấu chân ấy chỉ đến chứ "không trở về" không? Khi nó ở trong phòng chạy ra, bị tất cả chúng ta rượt theo, bước chân nó đâu có để lại dấu vết gì.

    - Có thể nói ở trong phòng "từ nhiều giờ rồi". Bùn đất dính giày nó đã khô, nó lại rón bước trên đầu ngón nên chân chạy rất nhanh.

    Mình trông thấy nó trốn, nhưng mình không nghe tiếng gì. Chợt tôi cắt ngang câu chuyện lòng thòng vô ích, không xứng với chúng tôi và ra hiệu cho Larsan lắng nghe:

    - Ở tầng dưới, có người đóng cửa.

    Tôi đứng lên. Larsan đi theo. Chúng tôi xuống tầng trệt. Chúng tôi ra khỏi lâu đài. Tôi dẫn Larsan đến căn phòng nhỏ đội bao lơn có sân thượng làm mái ở dưới cửa sổ hành lang ngoặc. Tôi trỏ vào khung cửa ra vào lúc nãy mở, nhưng bây giờ đã đóng, dưới đất có khe ánh sáng lọt qua.

    - Gã bảo vệ! Fred nói.

    - Ta vào đi – tôi ghé tai ông.

    Rồi, đã quyết ý, nhưng quyết ý cái gì đây, tôi cũng không biết? Quyết ý tin rằng gã bảo vệ là thủ phạm ư? Tôi dám khẳng định không? Tôi đến sát cánh cửa đập một cái thình. Có người nghĩ rằng trở lại của phòng gã bảo vệ lúc này là quá muộn và bổn phận đầu tiên của tất cả chúng tôi, sau khi tên sát nhân ở trong hành lang tẩu thoát, là đi truy lùng nó ở khắp mọi nơi khác, xung quanh lâu đài, trong khu hoa viên, khắp cả.

    Nếu có ai phản kháng chúng tôi nói vậy, thì chúng tôi chỉ có câu này để trả lời: Tên sát nhân ở trong hành lang đã biến nhanh đến mức chúng tôi thật sự nghĩ rằng nó không còn ở đâu khác nữa. Nó vuột khỏi tay chúng tôi vào đúng lúc tất cả chúng tôi cùng đổ xô lại, lúc chúng tôi hầu như đã đụng tay vào người nó, nên chúng tôi không còn khí lực để tưởng rằng bây giờ lại phát hiện được nó trong màn bí mật của đêm tối và khu hoa viên. Rốt cuộc, tôi đã thưa cùng quí vị cái màn biến hóa này đập vào óc tôi một đòn choáng váng thế nào rồi.

    Tôi vừa đập một cái thình là cánh cửa mở ngay. Gã bảo vệ điềm nhiên hỏi chúng tôi muốn gì. Gã mặc sơ mi trần và "sắp sửa đi ngủ" mặt giường chưa có vết nhăn. Chúng tôi bước vào. Tôi làm bộ kinh ngạc:

    - Ủa! Anh chưa ngủ ư?

    - Chưa! – Gã đáp, giọng bực bội – tôi đi tuần một vòng quanh vườn và trong rừng, vừa về tới, bây giờ tôi buồn ngủ quá. Thôi, chào hai ông!

    - Khoan đã – tôi mở lời – ban nãy, gần cửa sổ phòng anh có cái thang.

    - Thang nào? Tôi chẳng thấy thang thiếc gì cả. Chào các ông!

    Và gã tống chúng tôi ra cửa một cái rụp. Ra đến ngoài, tôi nhìn Larsan. Mặt ông ta tỉnh queo, không hề chuyển động.

    - Thế nào? - tôi hỏi.

    - Thế nào? – Larsan lặp lại.

    - Chuyện này, ông không thấy mở ra những chân trời mới sao?

    Chắc hẳn ông ta đang cáu tiết. Lúc trở về lâu đài, tôi nghe ông ta càu nhàu trong họng:

    - Thế này thì thật quá quắt, quá quắt lạ, chẳng lẽ mình lại lầm đến mức đó sao?

    Câu này tôi thấy ông nói với tôi hơn là hậm hực một mình. Ông ta còn thêm:

    - Gì thì chúng ta sắp hiểu được dứt khoát, sáng mai, lúc bình minh.
     
  8. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 18: Rouletabille đã vẽ một vòng tròn giữa hai vết sưng trên trán của mình

    Bấm để xem
    Đóng lại
    (Trích sổ tay Rouletabille)

    Chúng tôi từ biệt nhau trên ngưỡng cửa, sau một cái bắt tay buồn bã. Tôi sung sướng đã gieo được chút e ngại mình sai lầm vào một cái bộ óc độc đáo kia, cực kỳ thông minh nhưng không phương pháp.

    Tôi không đi ngủ. Tôi đợi trời vừa tảng sáng là đi ngay xuống mặt trước lâu đài. Tôi đảo một vòng xung quanh, xem xét mọi dấu chân đi và đến. Nhưng chúng chi chít lẫn vào nhau lộn xộn khiến tôi chẳng tìm ra được điều gì ích lợi. Vả chăng, tôi xin nêu một điểm, là tôi không quen gán cho những dấu hiệu bề ngoài của tội ác một tầm quan trọng quá đáng. Cái phương pháp ấy, dùng để kết luận hung thủ là ai căn cứ vào những dấu chân, đã hoàn toàn cổ lỗ. Đời bây giờ thiếu gì dấu chân giống nhau như cùng khuôn đúc, không thể lấy đó làm chứng cứ buộc tội khi mới có một chỉ dẫn đầu tiên. Với một tâm trạng rối bời, tôi đi vào sân trước và lom khom cúi nhìn các dấu vết, tất cả các loại dấu vết ở đó, tìm cái chỉ dẫn đầu tiên kia nó là nhu cầu cấp thiết để tôi bám víu lấy một cái gì "hợp lẽ", một cái gì cho phép tôi "lý luận" về những đột biến trong "Cái hành lang không thể hiểu nổi".

    Lý luận thế nào? Lý luận thế nào? A! Lý luận sao cho đúng từ chỗ phải bắt đầu. Tôi bần thần tuyệt vọng, ngồi xuống một phiến đá trên sân lâu đài vắng vẻ. Tôi làm gì từ hơn một giờ qua nếu không phải công việc nhỏ mọn nhất của một thám tử tầm thường nhất. Như viên thanh tra mới nhập cuộc, tôi đi bới tìm cái sai lầm trên dấu vết vài ba bước chân "nó sẽ để mặc tôi muốn nói gì cũng được"!

    Trên bậc thang trí tuệ tôi nhận thấy mình hèn hạ hơn, kém cỏi hơn cả những viên Công An Cảnh Sát do mấy tiểu thuyết gia thời đại tưởng tượng ra những nhân viên ưa học tập phương pháp điều tra trong chuyện trinh thám của Edgar Poe hoặc Conan Doyle. Ôi! Quí vị làm văn nghệ, các ngài xây hăng hái chuyện ngu ngốc với một bước chân trên cát, với hình một bàn tay trên tường! Làm đi Frédéric Larsan, làm đi, hỡi ông văn nghệ sĩ! Bồ ơi! Bồ đọc quá nhiều Conan Doyle! Sherlock Holmes sẽ khiến bồ làm những việc khờ dại, những khờ dại trong lý luận to lớn hơn cả những khờ dại người ta đọc trong tiểu thuyết. Những khờ dại ấy sẽ dẫn bồ đến chỗ bắt giam một người vô tội. Với cái phương pháp kiểu Conan Doyle của bồ, bồ đã thuyết phục được lão Dự Thẩm, lão Giám Đốc Công An, thuyết phục tất cả mọi người. Bồ đang chờ cái chứng cứ cuối cùng, cái cuối cùng! Cứ nói là cái đầu tiên đi, tội quá! "Tất cả những gì do giác quan cống hiến thì không thể được coi là chứng cứ".

    Tôi cũng thế, tôi cắm cúi trên những dấu vết do giác quan thu nhận, nhưng cũng để gom nó vào trong cái vòng tròn mà lý trí tôi đã vẽ ra. A! Đã nhiều lần, cái vòng tròn chật hẹp quá nhưng dù chật hẹp đến đâu, nó vẫn rộng thênh thang, "bởi vì nó chỉ chứa có sự thật"! Đúng, đúng, tôi xin thề, những dấu vết do giác quan nhận được bao giờ cũng chỉ là tôi tớ của tôi, chúng không làm chủ được tôi, chúng không uốn nắn tôi thành cái vật quái đản kinh khủng hơn một con người không có mắt hay một kẻ gà mờ.

    Ấy thế đó, đó là lý do ta sẽ thắng cái sai lầm và lối suy tư cực sốc của nhà ngươi, hỡi Frédéric Larsan! Chứ sao! Chứ sao! Bởi vì lần đầu tiên, đêm ấy, trong cái hành lang không hiểu nổi đã xảy ra một "biến cố" dường như không nhập vào cái vòng tròn do lý trí tôi vẽ ra, thế nên tôi trôi nổi vật vờ, tôi chúi mũi dưới đất, như con heo sục bừa trong đống bùn hôi để tìm mớ rác rưởi nuôi thân xác. Nào! Rouletabille, anh bạn tôi ơi, hãy ngẩng đầu lên, làm gì có chuyện cái biến cố trong hành lang không hiểu nổi ở ngoài được vòng tròn do lý trí bạn đã vẽ.

    Bạn biết đấy! Bạn biết đấy! Thế thì hãy ngẩng đầu lên, hãy dùng hai tay bóp các cục u trên trán bạn đi, và hãy nhớ rằng khi bạn vẽ cái vòng tròn, bạn đã nắm được, để vẽ nó trong đầu như người ta vẽ trên giấy một hình kỷ hà học, bạn đã nắm được lý luận của bạn bằng đúng cái đầu phải nắm! Thế thì bây giờ bạn hãy bước đi và hãy trở lên "Cái hành lang không hiểu nổi", dựa trên cái đầu dây tốt của lý trí bạn, như Frédéric Larsan dựa trên cây can của ông ta, và bạn sẽ mau chóng chứng minh anh cả Fred chỉ là một thằng khờ. Joseph Rouletabille 30 tháng 10, giữa trưa. Nghĩ sao tôi làm vậy. Đầu tôi hừng hực lửa, tôi trở lên hành lang và ô kìa, tuy vẫn chẳng tìm thấy gì hơn những cái tôi đã thấy đêm qua, cái đầu dây đúng của lý trí chỉ cho tôi thấy một điều ghê gớm đến nỗi tôi phải "níu chặt lấy nó" cho khỏi ngã. A! Tôi sắp cần đến nhiều sức mạnh để bây giờ phát hiện những dấu vết do giác quan cảm nhận, chúng sẽ đi vào trong "cái vòng tròn rộng hơn" mà tôi đã vẽ ở chỗ này, giữa hai cục u trên trán. Joseph Rouletabille 30 tháng 10, nửa đêm
     
  9. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 19: Tôi được Rouletabille mời dùng bữa tại quán Vọng Lâu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mãi sau này Rouletabille mới trao cho tôi quyển sổ tay có câu chuyện về hiện tượng "Cái hành lang không hiểu nổi" do anh ghi lại từ đầu chí cuối ngay buổi sáng kế tiếp cái đêm huyền bí ấy. Hôm tôi vào gặp anh trong căn phòng ở Glandier, anh kể tôi nghe đầy đủ chi tiết, tất cả những gì bây giờ quí vị cũng biết, kể cả thời dụng biểu của anh trong mấy giờ anh ở Paris tuần lễ ấy để rồi rốt cuộc chẳng biết được gì hữu ích.

    Biến cố "hành lang không thể hiểu nổi" xảy ra trong đêm 29 rạng 30 tháng mười, tức ba ngày trước khi tôi trở lại lâu đài, vì hôm ấy là mùng hai tháng mười một, tôi trở lại Glandier theo bức điện gọi của bạn tôi, mang theo hai khẩu súng lục. Tôi đang ở trong phòng Rouletabille. Anh vừa kể xong câu chuyện. Trong lúc nói, anh không ngừng ve vuốt cặp mắt lồi của chiếc kính kẹp mà anh, đã lượm trên mặt bàn xoay. Trông anh tay xoa xoa mắt kính viễn thị, mặt mày tươi tỉnh, tôi hiểu ngay đôi mắt kính kia hẳn là một trong "những dấu hiệu do giác quan cảm nhận sẽ đi vào trong cái vòng tròn mà đầu dây tốt của lý trí anh đã vạch ra".

    - Ừ được – tôi nói – hình như khởi điểm cho lý luận của tôi phải thế này: Khỏi có nghi ngờ, tên sát nhân các anh rượt đuổi, trong một lúc nào đó, đã thật có mặt ở hành lang. Bỗng tôi ngừng lại..

    - Nhập đề thế là hay rồi đấy, – anh reo to, – nhưng không nên ngừng quá sớm như vậy. Ơ kìa, cố gắng chút nữa coi.

    - Để tôi thử xem. Nếu nó đã có mặt ở trong hành lang và nó đã biến mất trong hành lang, khi nó không thể vọt qua một cửa ra vào hoặc một cửa sổ nào trong hành lang, thì bắt buộc nó phải tẩu thoát bằng một lỗ hổng khác.

    Joseph Rouletabille nhìn tôi thương hại. Anh mỉm cười bâng quơ rồi không ngần ngại lâu hơn, anh bảo thẳng tôi rằng tôi vẫn cứ lý luận như một kẻ "ngô nghê ngu ngốc"!

    - Đúng! Như một kẻ ngu ngốc! Anh lý luận giống Frédéric Larsan!

    Bởi Rouletabille đến với Frédéric Larsan ba hồi thì phục lăn, ba hồi lại miệt thị. Có lúc anh trầm trồ: "Ông ta giỏi thật", có lúc anh gầm gừ: "Đồ thô bỉ – tùy theo – tôi đã nhận xét nghiêm chỉnh – tùy theo những khám phá mới của Frédéric Larsan nó cũng cố lý luận của anh thêm vững hay nghịch lại. Đây là khía cạnh nhỏ trong phong cách thanh cao của cậu bé dị thường này. Chúng tôi đứng dậy và anh kéo tôi ra hoa viên. Đang đi qua sân trước để tiến ra cổng ngoài thì một tiếng rầm do cánh cửa sổ mở mạnh đập vào tường làm chúng tôi quay đầu lại và trông thấy, nơi lầu nhất bên cánh trái lâu đài, ở một cửa sổ, có một khuôn mặt đỏ au và cạo nhẵn nhụi mà tôi không quen.

    - Ô kìa, – Rouletabille lẩm bẩm – Arthur Rance! Anh cúi đầu, bước chân nhanh hơn. Tôi nghe anh nói nhỏ qua kẽ răng:

    - Thế ra hôm qua lão đã ở lâu đài? Lão đến làm chi đây? Khi chúng tôi đã rời khỏi lâu đài khá xa, tôi hỏi anh Arthur Rance là ai mà sao anh biết lão. Anh liền nhắc lại câu chuyện anh kể ban sáng, để tôi nhớ ra Arthur Rance là người Mỹ ở Philadelphie đã cùng anh cụng ly lu bù trong buổi chiêu đãi ở Elysée. Nhưng hình như lão phải rời nước Pháp hầu như ngay tức thì sau đó cơ mà? Tôi hỏi.

    - Đúng vậy. Cho nên, như anh thấy, tôi rất ngạc nhiên khi gặp lại lão, không những vẫn ở Pháp mà vẫn còn ở Glandier. Lão không đến sáng nay, cũng không đến đêm qua, vậy lão đã đến trước bữa ăn tối, thế mà tôi không thấy lão. Không hiểu sao vợ chồng anh gác cổng không báo tôi hay.

    Tôi lưu ý bạn tôi, nhân nói đến vợ chồng anh gác cổng, rằng anh chưa cho tôi biết anh đã làm thế nào để họ được trả tự do. Vừa vặn chúng tôi đến chòi gác. Vợ chồng Bornier nhìn chúng tôi đi tới. Một nụ cười hiền lành làm gương mặt họ sáng hẳn lên. Dường như họ không còn giữ một kỷ niệm đau đớn nào về vụ bị giam cứu vừa qua.

    Bạn tôi hỏi họ Arthur Rance đến lúc mấy giờ. Họ trả lời chẳng hay biết gì về việc ông Arthur Rance có mặt ở lâu đài. Có lẽ lão đến từ tối hôm trước nhưng họ không phải mở cổng cho lão, vì ông Arthur Rance là nhà cuốc bộ trứ danh, không muốn phiền ai đem xe đi đón. Lão vẫn có thói quen xuống ga lẻ ở ngôi làng nhỏ Saint-Michel. Từ đó lão cuốc bộ qua rừng, về tận lâu đài. Lão đến lâu đài ngã hang mộ nữ thánh Geneviève, đi xuống hang, trèo qua một hàng rào sắt nhỏ và vào hoa viên.

    Vợ chồng anh gác cổng nói đến đâu tôi thấy mặt Rouletabille sa sầm đến đó, biểu lộ một nỗi bực đọc rõ ràng, và chắc chắn là bực với chính mình. Dĩ nhiên, anh hơi thẹn vì lẽ đã làm việc tại chỗ, đã nghiên cứu mọi người mọi việc ở Glandier thật cẩn thận, thật tỉ mỉ, vậy mà còn chưa biết rằng" Arthur Rance đã quen đến lâu đài ". Anh buồn bực hỏi thêm:

    - Anh chỉ nói ông Athur Rance đã quen đến lâu đài, nhưng lần chót là bao giờ?

    - Chúng tôi không nói được chuẩn xác – anh Bernier trả lời – bởi lẽ chúng tôi bị nhốt có biết gì đâu. Hai nữa, mỗi khi đến lâu đài, ông ta không qua cổng chúng tôi gác, khi đi cũng vậy.

    - Thôi được, anh biết ông ta đến đây lần thứ nhất là bao giờ không?

    - Dạ có, thưa ông, cách đây chín năm.

    - Thế ra ông ta đã tới Pháp cách đây chín năm – Rouletabille hỏi tiếp – và chuyến này, theo anh biết, ông ta đến Glandier mấy lần rồi?

    - Ba lần cả thảy.

    - Lần chót ông ta đến Glandier trước hôm nay, theo" anh biết "là bao giờ?

    - Khoảng tám ngày trước vụ mưu sát trong" Căn Phòng Vàng ".

    Rouletabilie đặt tiếp câu hỏi nữa, lần này cho riêng người vợ:" Trong khe ván sàn nhà ư? "

    - Trong khe ván sàn nhà, chị vợ trả lời.

    - Cảm ơn – Rouletabille kết thúc câu chuyện – thôi nhé, chuẩn bị tối nay đi?

    Câu sau cùng, anh nói với một ngón tay trên miệng, để dặn chị im lặng và kín đáo. Chúng tôi ra khỏi hoa viên và đi về quán" Vọng Lâu "

    - Thỉnh thoảng anh đến ăn ở quán này à?

    - Đôi khi.

    - Nhưng anh vẫn dùng bữa ở lâu đài chứ?

    - Vâng, Larsan và tôi yêu cầu họ dọn hai người ăn chung, khi ở buồng tôi, khi ở buồng ông.

    - Ông Stangerson không mời anh ăn cùng bàn bao giờ?

    - Không bao giờ.

    - Anh ở đây lâu, ổng có chán anh không?

    - Không biết, nhưng ông làm như mình chẳng làm phiến gì ông.

    - Không hỏi han gì anh bao giờ?

    - Không. Ông vẫn giữ nguyên tâm trạng một ông cụ đã đứng sau cánh cửa" Căn Phòng Vàng "đang khi nó giết con gái mình bên trong, đã phá cửa vào và đã không thấy kẻ sát nhân đâu. Ông tin rằng một khi ông không phát giác được gì" ngay tại trận "thì chúng ta càng không thể tìm ra cái chi sau đó. Nhưng ông đã buộc mình có bổn phận tuyệt đối không làm gì nghịch lại ảo tưởng của chúng ta?

    Rouletabille lại chìm vào cõi mộng. Sau cùng, rồi anh cũng bừng tỉnh và kể tôi nghe anh đã làm thế nào để vợ chồng người gác được thả ra.

    " Tôi đến gặp ông Stangerson với một mảnh giấy. Tôi đề nghị ông viết một câu thế này: "Tôi xin cam đoan, dù họ khai sao, tôi cũng giữ lại hai người giúp việc trung thành của tôi, anh Bernier và vợ", rồi yêu cầu ông ký tên. Tôi giải thích để ông hiểu, với giấy cam đoan này, tôi sẽ khiến vợ chồng người gác khai ra sự thật, và tôi cũng quả quyết với ông, tôi tin tưởng họ không liên can trong tội ác ở đây. Vả chăng, từ hồi nào ý kiến của tôi là vậy.

    Ông Dự thẩm đưa mảnh giấy đã ký tên cho vợ chồng Bernier, họ chịu khai liền. Họ khai những gì tôi vốn biết chắc họ sẽ khai, sau khi cất được nỗi lo sợ mất chỗ làm. Họ khai vẫn đi săn vụng trộm trong vùng lãnh địa của ông Stangerson và chính vào một đêm săn thú ấy họ đã bị kẹt ở một chỗ không xa biệt thất đúng lúc xảy ra vụ mưu sát. Vài con thỏ hạ được gây tổn hại cho ông Stangerson như vậy, họ đem bán cho chủ quán "Vọng Lâu". Chủ quán làm món ăn dọn cho khách hoặc gởi đi tiêu thụ ở Paris tùy ý. Đúng là sự thật rồi, tôi đoán ra ngay từ hôm đầu.

    Anh nhớ không, cái câu tôi đã nói khi bước vào quán "Vọng Lâu" : "Bây giờ sắp phải ăn thịt còn đỏ nguyên". Câu này, tôi mới nghe lúc sáng khi chúng ta vừa tới cổng sắt hoa viên, cả anh cũng nghe nhưng anh không cho là quan trọng. Anh biết, khi sắp tới cổng sắt, chúng ta có dừng lại chốc lát để xem một người đang đi đi lại lại trước tường hoa viên chốc chốc lại coi đồng hồ.

    Đó là Frédéric Larsan đã khởi sự làm việc. Đằng sau chúng ta, lão chủ quán đứng trên bực cửa nói với người ở trong quán:

    "Bây giờ sắp phải ăn thịt còn tươi máu!"

    Tại sao lại "bây giờ"? Khi người ta cũng như tôi, tôi đang đi tìm sự thật bí hiểm nhất, thì người ta không để lọt khỏi tai mắt một tý gì. Phải tìm cho ra ý nghĩa của mọi sự đã thấy, đã nghe. Chúng ta tới một xứ nhỏ bị đảo lộn vì một tội ác. Óc lý luận thúc đẩy tôi nghi ngờ mọi câu nói có thể liên quan đến biến cố trong ngày.

    "Bây giờ", đối với tôi có nghĩa là "sau vụ mưu sát".

    Từ buổi đầu cuộc điều tra, tôi đã cố tìm một tương quan giữa câu nói ấy với tấn thảm kịch. Chúng ta đã đến ăn ở quán "Vọng Lâu". Tôi đã nói đại câu ấy thử xem, thì quả nhiên qua vẻ kinh ngạc và bực tức của lão Mathieu, tôi thấy mình đã không nhận xét quá đáng về tầm quan trọng của câu nói ấy. Khi đó, tôi đã hay tin vợ chồng anh gác cổng bị bắt giam. Lão Mathieu nói chuyện với chúng ta về người bạn rất thân, mà người ta mến tiếc, đó là liên hệ tai hại của các ý tưởng.

    Tôi tự nhủ: "Bây giờ" vợ chồng anh gác đã bị bắt, "sắp phải ăn thịt còn tươi máu", không còn người gác cổng, không còn con mồi làm sao tôi đã đi tới cái ý nghĩ chính xác "con mồi". Lòng thù ghét của lão Mathieu đối với gã bảo vệ của ông Stangerson, lòng thù ghét mà lão cho là được vợ chồng anh gác cổng chia sẻ, đã từ từ dẫn tôi đến ý nghĩ đi săn trái phép.

    Sự việc đã hiển nhiên; vợ chồng anh gác cổng không thể ở trong giường lúc xảy ra thảm kịch, vậy đêm ấy họ ở ngoài nhà làm gì? Họ đi gây tội ác ư? Tôi không sẵn sàng tin như thế, bởi tôi đã nghĩ, vì những lý do tôi sẽ cho anh biết sau, tôi đã nghĩ tên sát nhân không có tòng phạm, và toàn bộ tấn thảm kịch này che giấu một bí ẩn giữa cô Stangerson và hung thủ mà vợ chồng anh gác cổng không dự vào. Câu chuyện đi săn lén giải thích tất cả riêng về phần liên can đến vợ chồng người gác cổng. Tôi chấp nhận như vậy trên nguyên tắc và tôi đi tìm bằng chứng trong nhà họ ở, trong chòi của họ. Tôi đã chui vào căn nhà con, như anh biết, và tìm thấy dưới gầm giường của họ những chiếc bẫy chim và những sợi dây đồng.

    Đúng rồi! – Tôi nghĩ – Đúng rồi! Thảo nào đêm ấy họ ở ngoài vườn. Tôi chẳng chút ngạc nhiên khi thấy họ im lặng trước Dự thẩm; và trước nguy cơ bị buộc vào một tội quá nặng là đồng lõa với kẻ giết người, họ vẫn không chịu trả lời ngay bằng cách thú tội đi săn trái phép. Cái tội đi săn trái phép cứu họ thoát khỏi tòa án đại hình, nhưng lại tống họ ra cửa lâu đài, thất nghiệp. Và bởi họ tin mình hoàn toàn vô tội trong vụ này nên hy vọng sớm được minh oan, vụ đi săn trái phép sẽ không bị phanh phui, vả chăng, họ vẫn có thì giờ để khai sau, tùy tiện! Tôi đã thúc đẩy họ đến chỗ thú tội sớm bằng cách lấy lời cam kết ký tên nghiêm chỉnh của ông Stangerson và mang đến cho họ. Thế là họ khai ra đủ chứng cớ cần thiết, được trả tự do và biết ơn tôi vô hạn. Tại sao tôi không gỡ tội cho họ sớm hơn? Tại vì ban đầu tôi không chắc lắm về phần họ có phải chỉ có vụ đi săn trái phép mà thôi không.

    Thâm tâm của tôi mỗi ngày một vững thêm, sau hôm xảy ra vụ "Hành Lang Không Hiểu Nổi", vì cần có người giúp đã tận tâm ở đây, tôi quyết định chiêu mộ họ tức thì bằng việc chấm dứt những ngày họ bị tù hãm. Thế là xong! Rouletabille diễn tả câu chuyện như thế đấy, và tôi càng ngạc nhiên hơn về tính cách đơn giản trong cái lý luận nó đã dẫn anh đến sự thực về việc vợ chồng người gác cổng bị ngờ là đồng lõa với kẻ sát nhân.

    Đã đành, vụ này nhỏ thôi, nhưng tôi thầm nghĩ bạn tôi một ngày kia, thế nào cũng thuyết minh cho chúng tôi hiểu, với cùng một cách lý luận đơn giản ấy, cái đêm ghê gớm ở "Căn Phòng Vàng" và cái đêm "Hành Lang Không Hiểu Nổi" Chúng tôi đã tới quán "Vọng Lâu" và bước vào quán. Lần này, chẳng thấy lão chủ đâu, chỉ có bà vợ nghinh đón chúng tôi với một nụ cười sáng ngời hạnh phúc. Tôi đã có dịp miêu tả gian phòng ăn của quán, đã đưa ra một cái nhìn khái quát về người thiếu phụ tóc vàng duyên dáng, có cặp mắt dịu hiền, vừa thấy chúng tôi là dọn bàn sắp thức ăn nhanh nhẩu.

    - Sao, già Mathieu mạnh không? – Rouletabille hỏi thăm.

    - Chẳng mạnh tí nào, thưa ông, chẳng mạnh tí nào, vẫn còn liệt giường.

    - Chứng phong thấp không dứt ư?

    - Dạ không! Đêm qua tôi còn phải chích cho ổng một mũi moóc-phin. Chỉ có chất ma túy đó làm dịu được cơn đau của ông.

    Tiếng bà vợ ngọt ngào, tất cả ở bà ta toát ra vẻ nhu hòa thuần phục. Một người đàn bà xinh đẹp, dáng dấp hơi uể oải, đôi mắt to thâm quầng, mắt một kẻ đang yêu. Lão Mathieu, những lúc không bị bệnh phong thấp hành hạ, ắt phải là chàng trai sung sướng. Nhưng bà vợ, bà có sung sướng với anh chàng phong thấp gắt gỏng kia không?

    Qua màn kịch chúng tôi đã dự khán trước đây, chúng tôi không tin bà được sung sướng. Thế nhưng, ở toàn bộ cử chỉ người đàn bà này không hề thổ lộ một cái gì biểu tượng cho tuyệt vọng. Bà ta biến vào trong bếp lo dọn bữa cho chúng tôi, sau khi đặt trên bàn một chai rượu táo thượng hạng. Rouletabille rót rượu ra chén, nhồi tẩu, đốt thuốc, rồi chậm rãi cho tôi hiểu lý do khiến anh quyết định triệu tôi mang súng đến Glandier:

    - Đúng – anh nói, ánh mắt mơ màng nhìn theo những bụm khói anh rít từ ống vố phà ra – đúng vậy, anh bạn thân mến của tôi ơi, tối nay tôi đợi kẻ sát nhân. Tôi trân trọng để một phút im lặng trôi qua.

    Anh tiếp: - Tối qua, lúc sắp đi ngủ, ông Robert Darzac đến gõ cửa phòng tôi. Tôi ra mở và ông cho biết có việc gấp phải lên Paris sáng mai, tức sáng nay đây. Cái lý do nó buộc ông phải làm chuyến đi này vừa bức thiết vừa bí mật. Bức thiết vì ông không thể cưỡng lại không đi, và bí mật vì ông cũng không thể tiết lộ mục đích với tôi.

    Ông nói thêm: "Tôi đi nhưng tôi dám từ bỏ một nửa đời tôi để khỏi rời xa cô Stangerson lúc này". Ông ta không giấu tôi là ông ta tin cô đang lâm nguy một lần nữa.

    Ông thú thực: "Nếu có gì xảy ra đêm mai, tôi sẽ không ngạc nhiên, vậy mà tôi vẫn phải đi. Tôi vẫn phải đi. Tôi chỉ trở về được Glandier sáng ngày mốt". Tôi đề nghị ông giải thích, và đây là lời ông ta giải thích với tôi: "Cái ý nghĩ một nguy cơ cấp thiết sắp đến chỉ hiện ra trong đầu ông do việc trùng hợp giữa những lần ông vắng mặt và những vụ cô Stangerson bị mưu hại. Cái đêm" Hành Lang Không Hiểu Nổi ", ông ta đã đi khỏi Glandier, cái đêm" Căn Phòng Vàng ", ông ta có lẽ không có mặt ở Glandier, mà cụ thể thì chúng ta đã biết, ông ta không có mặt đêm ấy thật – ít nhất chúng ta cũng được biết chính thức như vậy, theo lời ông ta khai. Nếu trong đầu đã nặng một ý nghĩ gớm ghê dường ấy mà ông ta vẫn vắng mặt nữa thì chắc hẳn ông ta phải vâng theo một ý chí mạnh hơn ý chí của mình. Tôi nghĩ thế và đã nói với ông ta như thế.

    Ông ta trả lời tôi:" Có thể ". Tôi hỏi cái ý chí mạnh hơn ý chí của ông phải chăng là ý chí của cô Stangerson, thì ông thề không phải và nói việc đi là do chính ông ta quyết định ngoài mọi điều căn dặn của cô Stangerson.

    Vắn tắt, ông ta nhắc lại, rằng ông ta tin có thể xảy ra một vụ mưu sát mới, chỉ bởi vì có sự trùng hợp lạ lùng ông ta đã nhận thấy trước và cả ông Dự thẩm cũng đã nêu ra với ông ta?

    Ông ta đau đớn nói tiếp:" Nếu có chuyện chẳng lành xảy đến cho cô Stangerson lần nữa thì thật khổ cho cô, khổ cả cho tôi khổ cho cô vì một lần nữa, cô lại chơi vơi giữa sống và chết. Khổ cho tôi vì đã không bảo vệ được cô chống kẻ sát nhân mà còn bị rơi vào thế kẹt không sao nói được đêm ấy mình ở đâu. Tất nhiên, tôi hoàn toàn biết rõ những nghi ngờ đè nặng trên tôi. Ông Dự thẩm và ông Frédéric Larsan – ông Larsan đã đeo dính tôi lần lên Paris vừa rồi và tôi phải vô cùng vất vả mới cho rơi được ông ta – hai ông này chẳng còn mấy lúc mà không tin tôi là thủ phạm.

    Đến đây, tôi la lớn: "Thì sao ông không cho tôi cái tên đó đi, bởi ông biết nó là ai mà?"

    Ông Darzac tỏ vẻ cực kỳ lúng túng. Giọng ông ngập ngừng: "Tôi! Tôi mà biết tên sát nhân ư? Ai cho tôi biết mới được chớ?".

    Tôi đáp ngay không nghĩ ngợi: "Cô Stangerson". Thế là ông ta tái xanh mày mặt cơ hồ muốn xỉu, và tôi thấy ngay đòn mình đánh trúng rồi: "Cô Stangerson và ông ta biết tên kẻ sát nhân!". Khi đã trấn tĩnh lại phần nào, ông ta nói: "Tôi xin cáo biệt ông. Từ ngày ông đến đây, tôi đã có dịp cảm phục óc thông minh phi thường và mưu trí có một không hai của ông. Có việc này tôi xin ông giúp đỡ: Có thể tôi lầm mà sợ có vụ mưu sát xảy ra đêm mai, nhưng vì phải để phòng mọi sự; tôi tin ông sẽ ngăn cản vụ này không để nó xảy ra. Xin ông sắp đặt mọi cách để cách biệt cô Stangerson, trông giữ cô thật kỹ. Làm sao không ai vào được phòng cô. Xin ông canh chừng quanh phòng cô hết sức cẩn mật. Ông đừng ngủ, đừng nghỉ ngơi một giây nào. Con người mà chúng ta sợ hãi là kẻ tinh ranh ma quái, có lẽ trên đời không có hai. Chính cái tinh ranh ấy sẽ cứu cô nếu ông canh chừng, vì nhờ cái tinh ranh ấy, nó không thể không biết là có ông đang canh chừng, nó sẽ không dám ra tay.

    - Chuyện này, ông nói với giáo sư Stangerson chưa?

    - Chưa!

    - Tại sao chưa?

    - Tại vì, thưa ông Rouletabille, tại vì tôi không muốn nghe ông Stangerson nói với tôi câu ông nói ban nãy:" Anh biết tên kẻ sát nhân kia mà! ".

    Nếu ông, ông đã kinh ngạc về điều tôi vừa nói:" Tên sát nhân có lẽ mai đến! "Thì ông Stangerson còn kinh ngạc đến đâu nếu tôi nhắc lại với ông cụ câu ấy. Có thể ông cụ không chấp nhận vì thấy điều dự đoán gớm ghê của tôi chỉ dựa trên những trùng hợp mà rồi ông cụ cũng cho là quái lạ. Tôi nói với ông tất cả chuyện này, thưa ông Rouletabille, vì tôi đặt một niềm tin mãnh liệt vào ông. Tôi biết rằng ông không nghi tôi!

    " Người đàn ông khốn khổ cố gắng trả lời tôi, trả lời lung tung, lộn xộn. Ông ta đang đau đớn. Tôi thương hại ông. Càng thương hại ông vì biết chắc trăm phần trăm ông thà chịu chết hơn là cho tôi biết tên sát nhân là ai, cũng như cô Stangerson thà chịu để cho kẻ kia giết chứ không tố cáo thủ phạm vụ "Căn Phòng Vàng" và vụ "Hành Lang Không Hiểu Nổi". Kẻ kia chắc phải nắm được cô hoặc nắm được cả hai người, nắm một cách tàn bạo đáng sợ. Chắc chắn hai người không khiếp sợ cái gì bằng việc để cho ông Stangerson biết con gái ông đang bị kẻ muốn giết cô "nắm giữ mạng sống trong tay?" Tôi cho ông Darzac hiểu ông đã giải bày khá cặn kẽ câu chuyện và ông có thể ngừng nói vì ông chẳng còn gì cho tôi biết hơn. Tôi hứa với ông ta sẽ trông chừng cẩn thận và sẽ thức suốt đêm.

    Ông ta còn cố nài tôi tổ chức một hàng rào thật sự xung quanh phòng cô Stangerson, xung quanh phòng khách nhỏ, nơi có hai người gác bệnh ngủ, và xung quanh phòng khách lớn, nơi ông Stangerson ngủ từ sau vụ "Hành Lang Không Hiểu Nổi", tóm tắt là kín hết xung quanh tất cả các phòng của cô Stangerson.

    Qua cách nài nỉ của ông ta, không những tôi hiểu ông Darzac nhờ tôi làm sao cho việc đột nhập phòng cô Stangerson không thực hiện nổi, nhưng còn làm sao cho nó "thật rõ ràng" là không thực hiện nổi, đến độ tên sát nhân hết hy vọng ra tay và biến mất không để lại dấu vết. Tôi hiểu ngầm như vậy nhờ câu cuối cùng ông chào từ biệt tôi như sau:

    "Khi tôi đi rồi, ông có thể nêu những nghi ngờ của ông về đêm nay với ông Stangerson, bố Jacques, Frédéric Larsan và tất cả mọi người ở lâu đài, rồi tổ chức màn lưới phòng vệ mà trước mắt thiên hạ, nó được thiếp lập" do ý kiến một mình ông mà thôi ". Nói xong ông ta quay gót, người đàn ông khốn khổ không còn biết mình nói gì trước sự im lặng của tôi, trước cặp mắt tôi nó" thốt lên "rằng tôi đã đoán được đến ba phần tư bí mật của ông rồi. Đúng, đúng lắm, ông ta chắc hẳn hết sức hoang mang phải đến tôi vào một lúc thế này và phải bỏ cô Stangerson ở lại, khi trong đầu ông nặng trĩu cái ý tưởng ghê gớm về sự trùng hợp.

    " Ông đi khỏi, tôi bắt đầu suy nghĩ. Tôi nghĩ đến điều này: Mình phải khôn hơn chính cả cái trí khôn, làm sao cho tên sát nhân nếu nó đã quyết vào phòng cô Stangerson đêm nay, không một giây phút nào nó có thể ngờ rằng người ta đã đề phòng nó đến. Dĩ nhiên, phải ngăn cản nó bằng mọi giá kể cả cái chết, nhưng cần cho nó dấn thân khá sâu để dù chết dù sống, người ta có thể nhìn rõ mặt nó! Vì phải kết thúc gấp phải giải phóng cô Stangerson thoát hẳn vụ mưu sát ngấm ngầm này!

    "Đúng đấy, anh bạn – Rouletabille nói tiếp sau khi đặt tẩu thuốc xuống bàn và cạn ly rượu táo – tôi cần phải thấy bộ mặt nó thật rõ, để chắc chắn cái mặt ấy có đi vào trong vòng tròn tôi đã vạch bằng cái đầu tốt của sợi dây lý luận trong óc tôi".

    Vừa lúc bà chủ quán bưng lên món trứng tráng thịt heo cổ truyền, Rouletabille tinh nghịch thả vài lời châm chọc và bà Mathieu tươi cười tiếp nhận một cách rất ư dễ thương.

    Anh nói: "Lúc lão Mathieu nằm liệt giường, bà vợ cũng vui hơn nhiều so với khi lão khỏe mạnh!"

    Nhưng tôi chẳng buồn để ý đến lời bông đùa của anh cũng như nụ cười của bà chủ quán. Tôi mãi thả hồn theo những câu sau chót của bạn tôi và công việc vận động của ông Robert Darzac. Khi anh đã thanh toán xong đĩa trứng tráng và chúng tôi chỉ còn lại hai đứa với nhau, Rouletabille trở về với dòng tâm sự của anh:

    - Lúc tôi gởi điện tín cho anh sáng nay, tôi còn lẩn quẩn trong đầu câu nói của ông Robert Darzac "tên sát nhân" có lẽ sẽ đến đêm mai. Nhưng bây giờ thì tôi nói quyết với anh "chắc chắn" nó sẽ đến. Phải, tôi chờ nó đây.

    - Cái chắc chắn của anh căn cứ vào đâu? Có phải do ngẫu nhiên.

    - Thôi nín đi ông - Rouletabille mỉm cười ngắt lời tôi – nín đi ông ơi, ông sắp sửa nói ẩu rồi đấy. Tôi tin chắc tên sát nhân sẽ đến, từ sáng nay cơ, lúc mười giờ rưỡi, nghĩa là trước khi ông tới, và do đó trước khi chúng ta trông thấy Arthur Rance ở cửa sổ sân trước lâu đài.

    - A! Thật ư, nhưng tại sao anh tin như vậy từ lúc mười giờ rưỡi?

    - Tại vì, lúc mười giờ rưỡi, tôi đã có bằng chứng cô Stangerson cũng thực hiện nhiều cố gắng để cho tên sát nhân lọt được vào phòng mình đêm nay, những cố gắng không thua kém những cố gắng của ông Robert Darzac khi nhờ tôi bố trí hàng rào cản không cho nó vào.

    - Ồ! Có thể có chuyện đó ư? Tôi kêu lên kinh ngạc. Rồi hạ giọng: - Anh chẳng từng nói cô Stangerson yêu ông Robert Darzac tha thiết đó sao?

    - Tôi nói thế với anh vì đó là sự thực.

    - Vậy anh không thấy là kỳ quặc.

    - Trong vụ này tất cả đều kỳ quặc, anh bạn ơi, nhưng anh bạn cứ tin cái kỳ quặc anh bạn biết chẳng nghĩa lý gì so với cái kỳ quặc đang đợi anh bạn đấy! Tôi cố nói thêm:

    - Vậy phải chấp nhận rằng cô Stangerson và kẻ định giết cô có liên lạc với nhau, ít nhất là bằng thư từ.

    - Cứ chấp nhận đi, bạn! Cứ chấp nhận đi! Bạn chẳng phải e ngại gì! Tôi đã kể bạn nghe chuyện lá thư trên bàn cô Stangerson, thư do tên sát nhân để lại trong đêm "Hành Lang Không Hiếu Nổi". Lá thư đã biến vào túi cô Stangerson. Ai dám nói trong thư ấy, tên sát nhân không ra lệnh cho cô Stangerson phải cho nó một cái hẹn chắc chắn và sau cùng, nó lại không cho cô biết, "ngay khi nó đã yên tâm về chuyến đi của ông Darzac", rằng "cái hẹn ấy phải ấn định vào đêm tới." Rồi anh bạn tôi lặng lẽ cười gằn. Có nhiều lúc tôi tự hỏi không biết anh ta có ý chế nhạo mình không. Cửa quán vụt mở. Rouletabille đứng bật dậy như chiếc ghế anh ngồi bị bắt điện.

    "Ông Arthur Rance!" - Anh nói to.

    Arthur Rance đứng trước chúng tôi, bình tĩnh cúi chào.
     
  10. Huongthu2401

    Bài viết:
    479
    Chương 20: Cử chỉ của cô Stangerson

    Bấm để xem
    Đóng lại
    - Chào ông, ông nhận ra tôi đấy ư? Rouletabille hỏi con người quí phái.

    - Nhận ra liền – Arthur Rance đáp – Tôi đã nhận ra anh, cậu bé con bên tủ rượu ngày nào. (Rouletabille giận đỏ mặt khi nghe mình bị gọi là cậu bé con) và tôi xuống đây để bắt tay anh. Anh là một cậu bé vui tính.

    Người Mỹ giơ tay. Rouletabille chùng gân mặt, bắt tay khách và cười. Anh giới thiệu tôi, giới thiệu ông Arthur William Rance, mời ông ta cùng dùng bữa.

    - Không, cảm ơn. Tôi ăn với ông Stangerson. Arthur Rance nói tiếng chúng tôi rất sõi, hầu như không một chút dị âm.

    - Thưa ông, tôi đã tưởng không còn hân hạnh gặp lại ông. Hình như ông đã sắp đặt để rời xứ chúng tôi hôm sau hoặc hôm sau nữa kể từ buổi chiêu đãi ở Elysée cơ mà?

    Rouletabille và tôi, bề ngoài làm bộ dửng dưng với cuộc gặp gỡ này nhưng thật ra chú ý từng lời của người Mỹ. Da mặt ông ta nhẵn thín, tim tím, mí mắt nặng sụp, vài sợi gân giựt nhè nhẹ, tất cả xác minh, tất cả chứng tỏ một con sâu rượu. Làm sao con người hắc ám thế này là bạn cùng ăn cùng ở với ông Stangerson? Làm sao lão có thể kết thân với vị giáo sư danh tiếng?

    Vài ngày sau tôi mới được biết, do Frédéric Larsan – Larsan cũng như chúng tôi, đã ngạc nhiên và thắc mắc về sự hiện diện của người Mỹ ở lâu đài, rồi tìm hiểu – rằng ông Rance mới nghiện rượu từ mười lăm năm nay, nghĩa là từ ngày ông giáo sư và cô con gái rời Philadelphie. Thời gian cha con ông Stangerson ở Mỹ, họ quen biết và năng lui tới Arthur Rance, một trong những nhà não tướng học nổi tiếng nhất Tân Thế Giới. Nhờ những thực nghiệm mới mẻ và tinh vi, ông ta đã đưa khoa học của Gall và Lavater tiến một bước dài.

    Cuối cùng, cần hiểu thái độ quan tâm nhanh nhảu của Arthur Rance và cách tiếp đãi thân mật ông ta được hưởng ở Glandier có một nguyên nhân. Số là nhà bác học Mỹ trước kia đã có dịp liều mình nhảy tới ghìm cương mấy con ngựa kéo chiếc xe cô Stangerson đang lồng lên hung dữ, nhờ đó cô thoát nguy đến tính mạng. Có thể sau biến cố ấy, một tình bạn thắm thiết đã nảy sinh giữa Arthur Rance và con gái giáo sư, nhưng trong mọi quan hệ chẳng có gì để cho người ta nghĩ giữa hai người có một chuyện tình. Frédéric Larsan lấy những tin này ở đâu? Ông ta không nói cho tôi hay. Nhưng ông ta gần như tin tưởng những gì mình biết được là đúng sự thật.

    Nếu lúc Arthur Rance vào gặp chúng tôi ở quán "Vọng Lâu" mà chúng tôi đã biết những chi tiết nói trên thì có lẽ việc ông ta có mặt ở lâu đài đã ít làm chúng tôi thắc mắc hơn, nhưng dẫu thế nào nó vẫn khiến chúng tôi quan tâm nhiều nữa đến nhân vật mới, người Mỹ, trạc bốn mươi lăm tuổi này. Ông ta trả lời rất tự nhiên câu hỏi của Rouletabille.

    - Khi tôi hay tin về vụ mưu sát, tôi đã hoãn cuộc hành trình trở về Mỹ. Trước khi đi, tôi muốn được an tâm rằng cô Stangerson được cứu sống. Tôi chờ cô hoàn toàn bình phục rồi mới lên đường.

    Từ đây trở đi, Arthur Rance chủ động câu chuyện, tránh né một số câu hỏi của Rouletabille. Chẳng cần chúng tôi gợi ý, ông ta trình bày ý kiến riêng về tấn thảm kịch, những ý kiến theo tôi hiểu, không xa ý kiến của Frédéric Larsan, nghĩa là ông ta cũng nghi Robert Darzac "phải có liên quan trong vụ mưu sát". Ông ta không hề chỉ đích danh Darzac nhưng chẳng cần phải là nhà đại thông thái cũng hiểu được đằng sau những lý lẽ ông ta đưa ra, có cái gì. Ông ta nói đã biết anh chàng Rouletabille cố gắng thế nào để mong gỡ mối bòng bong ở "Căn Phòng Vàng".

    Ông ta cũng kể giáo sư Stangerson đã cho ông ta biết những đột biến diễn ra trong "Hành Lang Không Hiểu Nổi". Cứ nghe ông ta nói, ai cũng đoán ra ông ta giải thích mọi sự qua Robert Darzac. Nhiều lần, ông ta ngỏ ý tiếc cho Robert Darzac đã "vắng mặt ở lâu đài đúng vào lúc" có những thảm kịch như vậy diễn ra và chúng tôi biết lời ông ta nói phải được hiểu thế nào. Cuối cùng, ông ta đưa ý kiến cho rằng ông Darzac rất thông minh, rất khôn khéo nên mới đích thân đưa ông Rouletabille – người thế nào một ngày kia cũng tìm ra thủ phạm mưu sát, đến ở ngay tại chỗ. Ông ta nói câu chót bằng giọng mỉa mai rõ rệt, đứng dậy chào chúng tôi và đi ra.

    Qua khung cửa sổ, Rouletabille nhìn theo rồi nói:

    - Con người kỳ cục!

    Tôi hỏi anh:

    - Liệu ông ta có ngủ đêm ở Glandier không?

    Và tôi ngạc nhiên nghe anh trả lời: "Việc ấy đối với anh hoàn toàn không can hệ".

    Tôi xin bỏ qua thời dụng biểu buổi trưa của chúng tôi. Quý vị chỉ cần biết chúng tôi đã đi dạo trong rừng, rằng Rouletabille dẫn tôi đến hang nữ thánh Geneviève, và rằng trong suốt thời gian ấy bạn tôi cố ý nói toàn chuyện khác không phải chuyện đang làm anh bạn tâm.

    Trời tối. Tôi ngạc nhiên thấy anh không lo sắp xếp những việc tôi chờ đợi. Tôi nói ra nhận xét này khi đêm xuống và tôi đang ở trong buồng với anh. Anh trả lời tôi mọi việc đã bố trí đâu vào đấy cả và lần này tên sát nhân không sao thoát khỏi tay anh. Tôi tỏ ý hoài nghi, nhắc lại vụ nó biến mất trong hành lang lần trước và ám chỉ sự kiện ấy có thể tái diễn thì anh đáp rằng anh hy vọng thế và đó là tất cả điều anh ao ước đêm nay. Tôi không nói thêm vì đã biết do kinh nghiệm, có nói thêm cũng vô ích và không đúng lúc. Anh tiết lộ rằng từ sáng sớm, anh và vợ chồng người gác cổng đã lo sắp xếp đầy đủ, lâu đài hiện được canh phòng chặt chẽ, không ai đến gần mà anh không được báo động ngay, và trường hợp không có ai ở ngoài vào thì anh càng yên tâm về mọi việc liên hệ tới người ở trong.

    Lúc ấy là sáu giờ rưỡi, theo đồng hồ anh rút ở túi áo gi-lê ra. Anh đứng dậy, ra hiệu cho tôi đi theo, rồi chẳng cần ngó trước nhìn sau, chẳng thèm bước nhẹ gót chân, cũng không dặn tôi im lặng, anh dẫn tôi băng qua hành lang. Chúng tôi quẹo ra hành lang thẳng, đi dọc theo nó, qua luôn trước khoảng đầu cầu thang. Chúng tôi tiếp tục đi vào hành lang "cánh trái" qua cửa phòng giáo sư Stangerson. Ở đầu hành lang này, trước khi tới vọng lâu, có một phòng dành cho Arthur Rance. Chúng tôi biết thế vì trưa nay đã trông thấy ông ta ở khung của sổ phòng này mở ra sân trước. Cửa ra vào của nó ở chính giữa đầu hành lang vì căn phòng chặn ngang và ngắt đoạn hành lang phía bên này.

    Tóm lại, cửa ra vào phòng đối lập chính diện với khung cửa sổ "đằng đông" ở đầu hành lang thẳng phía bên kia, cánh phải, chính chỗ trước đó Rouletabille đã cắt đặt bõ Jacques. Khi ta quay lưng lại cửa ra vào phòng này, nghĩa là khi ta ở trong phòng đi ra, "ta trông thấy suốt dọc hành lang" hun hút: Cánh trái, mặt trên đầu cầu thang và cánh phải. Tất nhiên, chỉ có hành lang ngoặt ở cánh phải là không thấy được.

    - "Cái hành lang ngoặt này" – Rouletabille nói – tôi tự dành cho tôi. Còn anh, khi tôi yêu cầu, anh sẽ đến núp ở đây.

    Anh dẫn tôi vào một ngăn nhỏ xíu, đen thui, hình tam giác, xây lồi ra hành lang, ở chếch bên trái cửa phòng Arthur Rance. Từ cái xó này, tôi có thể trông rõ mọi diễn biến ở hành lang, cũng dễ dàng như thể đứng trước cửa phòng Arthur Rance, mà cũng canh chừng được cả cửa phòng ông ta luôn, cửa ra vào căn buồng nhỏ này, nơi sắp làm đài quan sát cho tôi, có gắn những ô kính chưa bị mờ đục. Tất cả đèn ở hành lang đều thắp nên hành lang sáng choang, căn buồng nhỏ thì tối hù. Đúng là một vị trí chọn lọc cho một điệp viên trinh sát. Bởi vì tôi đang làm gì ở đây, nếu không phải nghề gián điệp hoặc nghề cảnh sát hạ đẳng. Chắc chắn là tôi gớm ghét nó đây. Và ngoài tính nết bẩm sinh, còn lòng tự trọng nghề nghiệp của tôi nó phản đối một vụ "xuống chó" kiểu này chứ?

    Chao ôi, nếu vị thủ lãnh luật sư đoàn của tôi mà trông thấy tôi lúc này! Nếu ở Pháp đình mà người ta biết việc tôi làm ở đây thì Hội Đồng Luật Sư tính sao? Còn Rouletabille, hắn đâu có ngờ rằng tôi có thể nghĩ đến từ chối công việc hắn giao, và thực tế là tôi đã không từ chối.

    Tại vì, trước hết tôi sợ bị hắn coi là hèn nhát, sau tôi nghĩ mình vẫn có quyền tự do đi tìm sự thật ở khắp nơi tùy thích cơ mà. Sau rốt là muộn quá rồi, không rút lui được nữa. Tại sao tôi không cảm thấy lương tâm cắn rứt sớm hơn? Tại sao tôi không có những thắc mắc ấy từ trước? Tại vì óc tò mò trong tôi mạnh hơn tất cả. Chưa hết. Tôi còn nói được rằng tôi sắp góp phần vào việc cứu mạng một người đàn bà, và không hề có quy luật nghề nghiệp nào cấm đoán một mục tiêu cao đẹp như vậy. Chúng tôi sang bên kia hành lang, đi ngược lại.

    Vừa tới khu phòng cô Stangerson thì cửa phòng khách vụt mở, anh quản rượu đang lo hầu bàn bên trong bước ra. (Ông Stangerson và con gái ăn bữa tối trong phòng khách lầu nhất từ ba ngày nay) và vì cánh cửa để mở hé, chúng tôi thấy rõ cô Stangerson, lợi dụng một lúc vắng người đầy tớ và cha cô cúi xuống lượm vật gì cô đánh rơi, đang đổ chất gì đựng trong một ve nhỏ vào ly của ông Stangerson.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...