

Tên tác phẩm: Bảo bối Thượng Hải
Tác giả: Vệ Tuệ
Người phân tích: Thuỷ Tô
*
Tôi biết đến cái tên Vệ Tuệ khi tìm hiểu về những tác giả có vai trò thổi luồng gió mới vào nền văn học Trung Quốc cuối thế kỉ 19- đầu thế kỉ 20. Nữ nhà văn sinh năm 1973, tốt nghiệp khoa viết văn Đại học Phúc Đán năm 1995 và bắt đầu sự nghiệp viết sau khi trải qua nhiều trắc trở trong tư cách một phóng viên, nhà báo. Những tác phẩm thẳng thắn, táo bạo, "điên cuồng" (như chính cách tác giả nói về mình) đã đưa cái tên Vệ Tuệ nhập dòng trào lưu văn học Linglei ( "lánh loài") ở Trung Quốc- một trào lưu "sử dụng một phương thức sáng tác đặc biệt với thủ pháp khoa trương, biến hình để thể hiện người hoặc vật, lạ hóa sự vật đã quen thuộc, truyền đạt ý tưởng của tác giả về sự khác biệt giữa cái phi thường và cái thường quy" (theo Nguyễn Thị Hiền, Vài nét về trào lưu văn học Linglei trong dòng văn học Trung Quốc). Hiểu một cách đơn giản, "lánh loài" là đi ngược lại trật tự chính thống, cất lên tiếng nói của những cái bên lề, những tồn tại không được thừa nhận trong đời sống xã hội. "Linglei" là cái nổi loạn, là sự phạm huý, là hành động thách thức các khuôn khổ đạo đức và trật tự luân lý.
"Bảo bối Thượng Hải" ( "Shanghai Baby") là tiểu thuyết bán tự truyện đầu tiên của Vệ Tuệ. Nó cho ta thấy bề mặt xã hội Trung Quốc trong thời đại đô thị hóa, toàn cầu hóa- điển hình qua thành phố Thượng Hải, với đầy rẫy những cảnh tượng phồn hoa, thác loạn, cuồng điên, nhảy múa trên sự phù du và vô nghĩa. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực ngổn ngang, rời rạc đó là những khao khát cồn cào, là nỗi cô đơn thăm thẳm, là bóng tối trong vực sâu nhân tính mà chính ta cũng không dám đối mặt. Các nhân vật như khiêu vũ trên phông nền của nỗi buồn. Nhiều người "dị ứng" với cái khác lạ, dung tục bày tỏ cảm giác "buồn nôn" khi đọc "Bảo bối Thượng Hải". Nhưng theo tôi để đánh giá một tác phẩm văn học không thể chỉ dựa vào hiện thực được phản ánh, lấy lý do nó nói đến đề tài thân thể, tình dục, ma tuý.. Để rồi chê trách, mà là phải nhìn nhận, đánh giá qua việc xem xét nghệ thuật kể chuyện, cách xây dựng nhân vật và tư tưởng, tình cảm của nhà văn.
Một Thượng Hải xa hoa và buồn thảm
Câu chuyện là sự tự kể lại hành trình sống và viết đầy mâu thuẫn, dằn vặt của Nghê Khả (hay Coco), một nhà văn nữ hai mươi lăm tuổi có khát vọng sáng tạo nhưng bị tù hãm bởi nỗi chán chường, cô đơn và bởi chính thân xác mình. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết được kể ở ngôi thứ nhất số ít (người kể xưng "tôi") và kể từ điểm nhìn bên trong, tức là nhân vật xưng "tôi" kể về câu chuyện mà chính mình trải qua. Cách lựa chọn ngôi kể và điểm nhìn trần thuật này mang lại sự cụ thể, chi tiết và chiều sâu suy tưởng cho câu chuyện bởi "tôi" vừa là một nhà văn quan sát, suy ngẫm về đời sống, về người khác, vừa là chủ thể chiêm nghiệm, tự chất vấn. Điểm nhìn của người kể chuyện là điểm nhìn hạn tri (không biết hết), nhưng điều thú vị là "tôi" không chỉ không biết hết về thế giới (có rất nhiều từ mang tính phỏng đoán- "hình như", "có lẽ", được sử dụng trong ngôn ngữ trần thuật) mà còn không biết hết về bản thân và ngỡ ngàng trước những lựa chọn của chính mình (tác phẩm đã kết lại bằng câu hỏi "Tôi là ai?"), như thể một cái "tôi" đã phân thân ra thành nhiều cá nhân khác nhau, với những suy nghĩ, nguyện vọng khác nhau.
Giọng điệu kể tương ứng với tâm trạng của nhân vật- lúc chán chường, tuyệt vọng, lúc hằn học mỉa mai, lúc chan chứa cảm xúc, sự ăn năn nhưng nhìn chung vẫn có sự thống nhất ở sự thấu suốt, đồng tình của nhân vật về chính mình. Dù là so sánh khập khiễng nhưng để dễ hiểu, không như cái tôi trong truyện của Edgar Poe- làm ác và khoái trá với sự ác của mình mà không hiểu lý do, cái tôi trong sáng tác của Vệ Tuệ luôn chắc chắn và đồng thuận với quan niệm, cách cắt nghĩa của chính nó về cuộc đời- nó hiểu vì sao nó bị dày vò trong ham muốn và tội lỗi, nó muốn thoát ra nhưng lại không thoát ra vòng lặp ham muốn và tội lỗi đó.
Truyện được kể theo dòng thời gian tuyến tính, từ lúc những mối tình bén nở đến lúc tàn lụi, từ hội ngộ đến giã từ. Các sự kiện liên quan đến phần được nêu lên ở mỗi đề mục làm nên sườn truyện: Tình cờ gặp người yêu, Thủ đô hiện đại, Tôi có một giấc mơ, Kẻ cám dỗ, Người không đáng tin cậy, Đêm hương, Một ngày trong cuộc đời chúng tôi.. Không gian nghệ thuật hiện lên qua điểm nhìn trần thuật của Coco là tiệm cà phê, vũ trường, hộp đêm, quán rượu và căn hộ mà cô sống cùng với Thiên Thiên- một nơi chật hẹp, tù túng và bừa bộn, nhìn ra ngoài: "Đường sá hầu như chỗ nào cũng có ổ gà, hai bên toàn nhà cửa lụp xụp, tranh quảng cáo rách mướp và những đống rác hôi hám.. Không thấy một bóng cây xanh, không thấy người nào ăn mặc tử tế hoặc một khoảng trời trong sáng. Tóm lại tôi chả thấy đâu là tương lai." Hai không gian này có mối liên hệ mật thiết với nhau: Vì sự tù túng, buồn chán, nặng nề của đời sống thực tại mà người ta tìm đến sự hoan lạc tức thời trong không gian đầy tai biến, truỵ lạc của những điệu nhạc điên cuồng, rượu và ma tuý.
Ngoài ra người đọc còn thấy sự chêm xen không thường xuyên của những giấc mơ vào cuộc sống thực. Đó cũng là không gian tâm tưởng chứa đựng những khao khát, nỗi âu lo, sợ hãi của nhân vật nữ nhà văn trong truyện. Ví như, Coco mơ thấy mình không thể đuổi theo một chuyến tàu ác nghiệt sẽ mang người yêu Thiên Thiên đi mãi và đó dường như là dự cảm của cô về cái chết của anh, điều cô luôn lo sợ nhưng không thực sự nghĩ đến. Sự xuất hiện của bác sĩ tâm thần David Vũ, một người đoán mộng, đã cho thấy sự cố ý của nhà văn trong việc lồng ghép những yếu tố giấc mơ theo gợi ý của phân tâm học vào tác phẩm. Không gian văn bản là sự sắp xếp tuần tự của 32 phần được đánh số, mỗi phần bao gồm các "phân khu" văn bản khác nhau: Đề mục, văn bản được trích dẫn của các tác giả khác- phần nào thể hiện quan điểm, tâm tư của nhân vật và phần văn bản trung tâm là nội dung mà "tôi" kể. Cách tổ chức đó làm câu chuyện trở nên khá chặt chẽ. Tuy nhiên, một số chỗ các câu trích dẫn của Thomas Morton, thơ Sylvia Plath và những lời triết lý xen vào câu chuyện chính làm mạch truyện thiếu tự nhiên, tạo cảm giác lạc lõng và phô diễn.
Trong bối cảnh một xã hội đang chuyển mình sang thiên niên kỉ mới và một không gian sống nhiều biến loạn, đổi thay, con người chật vật trong sự sống và tình yêu, trong sự tồn tại của chính mình và sự tồn tại với người khác. Trong cuộc sống riêng, con người tìm cách sống có nghĩa. Trong chuyện tình yêu, con người khao khát hạnh phúc tròn đầy. Nhưng những ước nguyện giản đơn ấy lại trở nên méo mó, đẩy con người vào mất mát, tội lỗi, khổ đau bởi sự hiện diện của sự phản bội, dối lừa, sự đổ vỡ các trật tự luân lý khiến con người trơ trụi lại một mình với sự tự do rợn ngợp. Bi kịch của những cá nhân mang tổn thương và sự giằng xé nội tại thể hiện rõ nhất qua nhân vật Madonna, Coco và Thiên Thiên.
Madonna, bạn của Thiên Thiên, là một "má mì" có tiếng ở Thượng Hải, một người đàn bà mà "cơ thể đã có quá nhiều ký ức đàn ông". Cô lớn lên trong một gia đình có cha và anh là những tên nghiện rượu, mỗi khi say lại mang cô ra trêu chọc bằng những trò gợi dục, trong khi mẹ cô lại quá yếu đuối để có thể bảo vệ con gái. Cuộc đời cứ đưa đẩy cô đi mãi trên con đường quyền lực và danh vọng qua những mối quan hệ mờ ám, những cuộc tình chớp nhoáng, những chuỗi dài đổ vỡ. Cô đau buồn bị người yêu là Ah Dick phản bội nhưng rồi lại tìm cách khỏa lấp khoảng trống trái tim bằng tình dục với những người đàn ông khác. Cuộc sống hiện đại trao cho cô quyền lựa chọn sống ngoài hôn nhân nhưng rồi nó lại biến cô thành một kẻ điên cuồng đi tìm hạnh phúc. Còn lại trong cô không gì hơn là sự trống rỗng và nỗi buồn tái tê. Ước mơ sống một đời êm ấm bên một nghệ sĩ tài hoa chỉ còn là dấu tích của một chiếc lá ép khô trên những trang giấy ký ức thuở thiếu thời. Đoạn Madonna lái xe đến nhà Coco để tâm sự về nỗi đau bị phản bội là đoạn truyện khiến ta đồng cảm với cô nhiều nhất. Trong hành động cô "lặng lẽ nâng niu, xoa nắn ngực và đùi mình, tự hỏi chúng có còn hấp dẫn hay không" hàm chứa một khát khao chưa bao giờ tắt trong một người đàn bà, nhưng cũng nói lên nỗi tiếc nuối khôn nguôi về một thời đã mất.
Coco lại trở nên xa cách với cha mẹ vì họ không muốn cô theo đuổi nghề văn bất định và sống với người yêu thất nghiệp trong một căn hộ tồi tàn. Đối diện với mẹ mình, cô vừa muốn được bà ôm lấy, vỗ về, lại vừa muốn thoát khỏi vòng tay ấy ngay để tự lựa chọn. Trong truyện, cha mẹ Coco vừa là điểm tựa của tình thân, vừa đại diện cho trật tự, cái truyền thống, sự an toàn. Cô muốn thoát khỏi đó, nhưng rồi sau khi "người tình Berlin" và cả "người yêu tuyệt vọng" rời đi, cô lại trở về nhà, tìm kiếm sự an yên giữa một thế giới bốc đồng, ồn ào và phù phiếm. Trong chuyện tình cảm, cô vừa dằn vặt mình vì đã phạm tội phản bội Thiên Thiên nhưng rồi lại tự tha thứ cho mình, chìm đắm trong ham muốn nhục cảm ở vòng tay của kẻ khác. Những cảm xúc đối nghịch giằng xé trong nội tâm biến người ta trở thành con rối bất lực và mặc cảm của chính mình.
Dường như nhân vật bí ẩn và tuyệt vọng nhất trong truyện là Thiên Thiên. Anh coi cuộc đời như chiếc bánh ngọt bị tẩm độc, cắn vào có thể chết. Anh bị ám ảnh về cái chết của cha mình- cái chết đột ngột ập đến chỉ sau một tháng ông sang Tây Ban Nha thăm mẹ anh. Nỗi nghi ngờ về việc cái chết là kết quả của một cuộc hạ sát nhẫn tâm tăng lên khi mẹ anh lấy một người Tây Ban Nha và mở hàng ăn Trung Quốc ở đất nước này, nhiều năm sau đó chỉ gửi tiền về cho anh. Nhưng sự thật về cái chết của người cha vẫn chưa bao giờ được tiết lộ. Biến cố đó đã làm lung lay tận gốc mối quan hệ và niềm tin của Thiên Thiên với gia đình, anh thường xuyên cảm thấy bất an, sợ hãi, trầm uất và anh cũng không thể tách mình ra khỏi chính nỗi tuyệt vọng mà mình cảm thấy. Đánh mất hy vọng ở cuộc đời, anh gửi gắm trọn vẹn niềm tin yêu vào tác phẩm mà Coco đang viết, vào những bức tranh mà anh nhốt mình hàng giờ trong phòng say sưa vẽ. Nhưng rồi nghệ thuật cũng không thể cứu rỗi anh ra khỏi nỗi đau của sự bất lực trong tình yêu và vị trí của một kẻ bị phản bội, dối lừa. Anh bị dằn vặt trong cảm giác vừa phẫn uất, vừa yêu thương dành cho Coco. Những lời yêu anh dành cho cô khi đã biết hết sự thật không phải là lời thứ tha mà là lời trăn trối vọng lên từ vực thẳm: "Dù em đối với anh thế nào.. Anh cũng chẳng bao giờ trách em đâu. Coco, anh yêu em, em nghe anh nói không? Coco, anh yêu em..". Sau thời gian dài sử dụng morphine, sống trong trầm uất, anh đã chết đột ngột vào một buổi sáng đầy hy vọng.
Một khung hình trong phim "Người tình"
Các nhân vật khác trong truyện dù không được khắc họa chi tiết về tính cách, nội tâm nhưng cũng góp phần làm hiện lên bức tranh của một cõi sống "chín người, mười cuộc đời rạn vỡ". Spider, đồng nghiệp của Coco ở quán cà phê quyết tâm làm giàu từ việc sửa chữa máy tính nhưng rồi cửa hàng ế ẩm, ý tưởng làm một tên trộm qua mạng hay sang nước ngoài sinh sống lại nhen nhóm trong anh. Lý Lệ, một người bạn Thiên Thiên tình cờ gặp được, cũng chìm vào những cơn nghiện thuốc phiện bởi khao khát sống một cách lãng mạn và say sưa trong những ảo tưởng triền miên, thoát tục. Chu Sa, chị họ của Coco, dù giỏi giang và quý phái nhưng vẫn phải chịu đựng nỗi buồn của một người đàn bà đã trải qua một cuộc hôn nhân tan vỡ. Mẹ Thiên Thiên, dù là bà chủ của hai nhà hàng lớn, có cơ ngơi đồ sộ và cuộc sống hạnh phúc bên người chồng mới nhưng phải chịu nỗi bất hạnh là luôn mang trên mình sự nghi vấn về tội ác và không bao giờ được con trai mình công nhận, thấu hiểu nữa. Mark, người tình của Coco, những tưởng là một gã Sở Khanh chỉ lợi dụng cô để thỏa mãn bản thân nhưng rồi cũng vò đầu bứt tai, ứa nước mắt ngày phải rời khỏi Thượng Hải.. Có thể những gì họ trải qua chưa phải là một sự "rạn vỡ" đúng nghĩa nhưng nếu đặt tất cả những sự kiện, nỗi buồn khổ, âu lo của những cuộc đời ấy vào sự ồn ã, phồn hoa bất tận của thành phố, của cõi trần, ta chợt thấy kiếp sống con người sao mà buồn thảm, những nỗi lo lớn nhất của mỗi cuộc đời dường như chẳng là gì với những biến đổi thường hằng của thời gian. Nhân vật người kể chuyện cũng nhiều lần than van: "Cái bóng phồn hoa của thành phố mãi mãi chuyển động, mặc kệ cuộc đời riêng của chúng tôi"; "Đời chúng tôi sao mà ngắn ngủi, cay đắng và những giấc mơ lãng mạn của chúng tôi chẳng để lại dấu vết gì..".
Chính vì sự tồn tại của con người nằm ở điểm giao giữa thời gian tuần hoàn- cái miên viễn của vũ trụ và thời gian tuyến tính- cái hữu hạn của đời người, nên một sự mâu thuẫn khác lại nảy sinh: Người ta đối diện với mọi sự bằng tâm thế của một kẻ dạo chơi nhưng rồi nhận ra chính mình mới là nhân vật bất hạnh trong trò chơi trái ngang của cuộc đời. "Chơi trò chơi làm người" không phải là chuyện đơn giản, bởi đây là cuộc chơi duy nhất và dường như ta luôn là kẻ thua trong nghĩa không làm chủ được cuộc chơi ấy. Coco và Mark ban đầu chỉ đến với nhau trong tâm thế của những kẻ chơi. Anh không nói gì với cô về vợ mình và chắc chắn không bao giờ ly hôn vợ. Còn cô, một lần ân ái đã lén lấy đi của anh một xấp tiền bởi cô tin rằng một mối quan hệ gắn với đồng tiền sẽ khiến cô cảm thấy ghê tởm và đó chính là ranh giới để anh không thể bước vào trái tim cô. Nhưng rồi rốt cuộc nữ nhà văn cũng phải tự hỏi mình: Tình cảm của tôi là cái gì? Tôi có đau lòng không? Cuối cùng, những gì là kín đáo và dễ tổn thương nhất trong "tôi" đã bị người mình cho là đối tác tình dục đơn thuần đụng chạm đến. Khi người vợ gọi điện đến cho Mark lần nữa, cô ngỡ mình không ghen tuông nhưng sau đó lại muốn khóc, vừa giận vừa thương thân mình. Chẳng có điều gì trôi qua mà không để lại dấu vết gì trong lòng ta. Giống như câu chuyện "Trò chơi xin quá giang" của Milan Kundera, khi người ta quá nhập tâm vào trò chơi, đồng nhất cuộc sống với trò chơi thì cái họ phải nhận lấy là sự bất hạnh, là sự mâu thuẫn, dày vò với chính mình. Cái tiêu dao của các bậc hiền nhân xưa xuất phát từ cõi lòng không trụ vào hình tướng, hiện tượng hay cái được- mất, có- không thường biến ở đời. Trong khi cái "chơi" của con người hiện đại dường như là lối thoát của một cuộc sống nhàm tẻ, chán chường. Sống không phải là một cuộc chơi đơn thuần. Tình yêu càng không thể. Chính điểm này làm tôi cảm thấy "Bảo bối Thượng Hải" không đến nỗi là cuốn tiểu thuyết tình dục đáng ghê tởm như nhiều người đã nói.
Nghệ thuật miêu tả hiện thực không phải chỉ để miêu tả mà còn là để nói lên một thứ chân lý mang tính hình tượng- cảm tính về con người và cuộc đời, khơi lên trong con người những cảm xúc mãnh liệt trước cái đẹp. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Vệ Tuệ đã nói được những điều từng bị xem là cấm kỵ trong những giai đoạn văn học trước đó như thân thể, kinh nguyệt và những khát khao thầm kín của người phụ nữ. Và nhà văn cũng đã chọn cách miêu tả về quan hệ thể xác một cách trực diện nhưng không thô tục, không phi nhân hóa con người trong những khát vọng bản năng. Một lần làm tình với Mark ở quán rượu, cô khóc vì cảm thấy mình vụng về và rẻ mạt hơn cả những cô gái điếm, cô không dám nhìn vào gương vì sợ đối diện với chính mình- "Có cái gì đó trong tôi mất đi, để lại một lỗ hổng lớn". Trong đoạn kể lại lần quan hệ cuối cùng của Mark và Coco, ta thấy ở hai nhân vật mang tâm thế của những kẻ phản địa đàng: "Chúng tôi thấy trong người như có sức mạnh ma quỷ. Nếu Thượng đế bảo tất cả chỉ là cát bụi thì chúng tôi sẽ trở thành cát bụi. Nếu Thượng đế bảo đã đến ngày phán quyết thì chúng tôi sẽ sống nốt ngày cuối cùng trên trái đất này..". Nhưng dường như người đọc vẫn mong một sự dằn vặt, tự vấn sâu sắc hơn của nhân vật "tôi" về sự phản bội mà cô dành cho Thiên Thiên, về lý do mà cô hết lần này đế lần khác tìm đến với Mark. Tất nhiên trong mọi hành động của con người đều có tư duy và xúc cảm, nếu chỉ mô tả hành động đơn thuần, những cảm xúc thoáng qua, dễ tạo cho người đọc cảm giác con người đã trở thành nô lệ cho ham muốn của chính bản thân mình hơn là vượt lên nó, trăn trở về nó.
Với tôi, những dòng miêu tả đẹp nhất về quan hệ xác thịt giữa người với người nằm trong truyện ngắn Ưu quốc của Yukio Mishima: "Chiếc trán cân đối, mát mẻ, trầm lặng như đỉnh ngọn núi Phú Sĩ, riềm mi dài dưới đôi mày mỏng trên cặp mắt nhắm, sống mũi thanh tú, hàm răng bóng ngời giữa môi mọng đều đặn, hai má mềm mại và chiếc cằm ngoan xinh xinh.. Tất cả những nét ấy gợi lên trong đầu trung uý hình ảnh gương mặt người chết thật rạng rỡ, và không ngừng đặt môi lên chỗ hũng của cổ họng trắng ngần- nơi rồi đây Reiko sẽ đâm lưỡi kiếm vào, yết hầu cô hực đỏ vì những miếng hôn. Rồi anh trở lại miệng, môi anh mơn trớn từ phải sang trái, từ trái qua phải, tròng trành như chiếc thuyền con. Anh nhắm mắt, cả vũ trụ chao theo." Shinji và Reiko đã đến với nhau lần cuối trước khi cả hai cùng tuẫn tiết vì cái nghĩa làm người. Đó là một nghi lễ linh thiêng của sự sống và tình yêu, đối đầu với cái chết và thăng hoa trong cái chết. Từng nét đẹp trên thân thể người yêu được nhân vật nhìn ngắm, nâng niu chậm rãi bằng tình yêu thương, sự trân quý vô bờ. Mỗi cử chỉ đều hàm chứa tình cảm vừa say mê vừa xót xa, bi thảm. Những dòng miêu tả của người kể chuyện mang điểm nhìn của nhân vật trung uý, gắn vẻ đẹp mong manh của con người với núi Phú Sĩ, với vũ trụ, với cái thiêng liêng, bất biến. Nhưng trong "Bảo bối Thượng Hải", con người dường như vụn vỡ, tan ra thành bụi trong những ham muốn cuồng điên. Đối nghịch với sự chậm rãi, nâng niu là sự vội vàng, chóng vánh, dữ dội. Đối nghịch với những cảm xúc trào dâng là sự đổ vỡ của nhân cách, sự trống trải của tâm hồn, sự thẫn thờ, buồn bã trước sự việc không thể đổi thay, trước sự phản bội không thể chối cãi. Đó là một nỗi đau bẽ bàng của tâm hồn trong nhà tù thân xác.
Đối diện với những điều nghiệt ngã của cuộc tồn sinh, nhân vật "tôi" ước muốn được cùng Thiên Thiên trở thành "đôi tình nhân thứ nhất trên trần gian", bỏ cái xã hội này mà vào rừng châu Phi hoặc đến hòn đảo nào đó ở Nam Thái Bình Dương để trồng cần sa, nuôi vài con gà và nhảy những điệu cổ sơ bên đống lửa cho đến hết đời.. Đó là nỗi nhớ về chốn Địa đàng, là khao khát hồi quy, nhưng cũng là một giấc mộng không tưởng, một ước ao không thể trở thành sự thật. Những ước nguyện không thỏa dẫn dắt người ta đến với nghệ thuật. Trong truyện, nhân vật Coco đã thể hiện rất nhiều suy tư về sự viết. Lời nhân vật cũng chính là lời tác giả hiểu theo nghĩa văn bản là một phát ngôn hoàn chỉnh của nhà văn. Đó có lẽ cũng là những suy tư của chính Vệ Tuệ về sự viết. Có lúc nhà văn bị thôi thúc bởi một cảm hứng nào đó nhưng lại bất lực trước ngôn từ: "Tôi cao hứng muốn viết nhưng lại thấy hoảng sợ như một phù thủy đã mất hết phép màu. Tôi không sao đắm mình vào thế giới chữ nghĩa được nữa. Đời sống thực tế với những con sóng của biến cố đã khiến tôi chao đảo..". Nhưng rồi cũng chính những nỗi đau giúp cô tìm lại ngôn ngữ, tìm lại chính mình trong trạng thái hòa đồng với vạn vật: "Có lúc ngẩng mặt nhìn bầu trời sao mà tôi quên cả vũ trụ xung quanh, quên cả bản thân. Có lúc khi đang viết, tôi cũng rơi vào trạng thái quên như thế. Nhưng tôi cúi xuống vì những ngôi sao giữa những dòng chữ xuất hiện, đưa tôi vượt qua mọi đau đớn, khổ nạn, cô đơn, thậm chí là cái chết..". Nhà văn viết để vượt qua địa ngục của nỗi chán chường và sự vô nghĩa: "Nếu không viết, tôi sẽ đánh mất lòng yêu của rất nhiều người, kể cả chính tôi." Viết vừa như là một sự trốn chạy khỏi cuộc sống phiền luỵ, phù du nhưng cũng vừa níu bám vào cuộc sống ấy. Đi qua bề mặt của những lo âu, muộn phiền, tội lỗi, nhà văn đã nhận ra đời sống tinh thần chung của "thế hệ chúng tôi" : "Như một bầy đom đóm nhỏ có tình với nhau và dựa dẫm vào nhau, chúng tôi chỉ mang những cánh bay tưởng tượng và rất ít tiếp xúc với thực tế. Chúng tôi như đám giòi bọ sống trên những mẩu xương của thành phố, tuy đó là những mẩu xương hấp dẫn. Cái chủ nghĩa lãng mạn kỳ quái của thành phố và ý nghĩa đích thực của thơ ca thực tế là do bộ lạc chúng tôi tạo nên..". Trong nỗi buồn và sự cô đơn có sự cảm thông, ràng níu sâu sắc giữa người với người. Mỗi thế hệ người đều trải qua những nỗi đau riêng của cuộc bể dâu không ngừng biến thiên dâu bể: Bệnh dịch, chiến tranh, hận thù, thiên tai.. Và những người thuộc "thế hệ sinh sau" của thế giới cũng phải đối mặt với những nỗi cô đơn, cảm giác về sự vô nghĩa, chán chường, phải trở thành một thứ "nhiên liệu sống" của "tấn trò đời" bất tận, nghiệt ngã. Lịch sử con người dường như được viết bằng nước mắt.
Những nỗi buồn trong cõi nhân gian là câu chuyện muôn thuở của văn học. Với "Bảo bối Thượng Hải", Vệ Tuệ đã khám phá nỗi buồn đó trong nỗi day dứt của con người về tình yêu và sự phản bội, trong những khát khao và nỗi chán chường, trong những say mê cuồng loạn và nỗi tuyệt vọng không gì cứu vãn.. Bằng thứ ngôn ngữ văn chương phồn tạp, thô ráp nhưng cũng chứa đựng những xúc cảm, suy tư chân thành. Cái mới trong tác phẩm không hẳn là cách lựa chọn đề tài (mảng hiện thực được phản ánh) hay chủ đề (cách khai thác hiện thực), không hẳn là ở ngôn ngữ kể chuyện hay những thông điệp nó mang lại mà thứ còn lại sống động, ấn tượng nhất với tôi là hình tượng nhân vật, đặc biệt là Coco và Thiên Thiên. Một người hãnh tiến và say mê bước vào đời, một người xa lánh và bi quan với cuộc đời lại trở thành người yêu của nhau. Họ là nhà văn và thi sĩ sống ở đời bằng tất cả sự hồn nhiên, chân thật của lòng mình. Tâm tư của hai nhân vật này là một miền hoang sâu thẳm, phức tạp, hé lộ nhiều sự thật của con người trong chiều sâu nhân bản của nó: Hy vọng và tuyệt vọng, ham muốn và bất lực, tình yêu và sự bội phản.. Nhưng điều đáng tiếc là nhân vật Thiên Thiên chỉ hiện lên với chúng ta qua khoảng cách xa xăm từ cái nhìn của nhân vật người kể chuyện- Coco. Những đường nét phức tạp trong tâm hồn anh chỉ là những nét mờ nhạt và cuối cùng vẫn không thể hiểu nổi. Trong khi đó, nhân vật Coco đến với người đọc bằng khá nhiều nước mắt nhưng chúng ta khó thấy được chiều sâu tâm trạng và suy tưởng của cô. Và chính vì việc khắc họa nội tâm, tính cách nhân vật một cách khá nhạt nhòa và hời hợt khiến người đọc dễ kết tội rằng họ chỉ đơn thuần là những kẻ chán đời và truỵ lạc.
Tóm lại, không thể đánh giá "Bảo bối Thượng Hải" là "văn chương rác" bởi nó đã khiến ta thực sự ngồi lại suy ngẫm về một số vấn đề quan trọng trong cuộc đời mình, nó để lại trong ta những kí ức dữ dội và buồn thương về những con người sống trong bóng tối của xã hội; nhưng tác phẩm cũng chưa thuộc hạng xuất sắc bởi nó chưa thực sự thể hiện những bước đổi mới mạnh mẽ của Vệ Tuệ trong nghệ thuật kể chuyện hay tư tưởng. Dẫu sao, đây là một tác phẩm đầu tay khá thành công của Vệ Tuệ. Tôi nhấn mạnh là "tác phẩm đầu tay" bởi ở thời điểm này, đa số các nhà văn chưa tạo được phong cách thực sự độc đáo nên vẫn thể hiện màu sắc của những nhà văn đi trước mà họ học hỏi. Có người nhận xét cuốn tiểu thuyết có xuất hiện một số nét tương tự phong cách Murakami, nhưng tôi nghĩ điều đó là không đáng kể, Vệ Tuệ cũng đã thể hiện khá nhiều những trăn trở của mình trong việc sáng tạo. Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn bởi những cuộc tranh cãi bất tận về tính đạo đức và giá trị thẩm mĩ của nó. Một tác phẩm nổi tiếng chưa hẳn đã có giá trị "vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn, trở thành tác phẩm chung của loài người" mà nó chỉ đơn giản lưu dấu bức tranh tinh thần của con người trong một thời đại lịch sử. Và dẫu sao, chính những tranh cãi đó lại làm nên sức sống hiện thời cho tác phẩm.
Tác giả: Vệ Tuệ
Người phân tích: Thuỷ Tô
*
Tôi biết đến cái tên Vệ Tuệ khi tìm hiểu về những tác giả có vai trò thổi luồng gió mới vào nền văn học Trung Quốc cuối thế kỉ 19- đầu thế kỉ 20. Nữ nhà văn sinh năm 1973, tốt nghiệp khoa viết văn Đại học Phúc Đán năm 1995 và bắt đầu sự nghiệp viết sau khi trải qua nhiều trắc trở trong tư cách một phóng viên, nhà báo. Những tác phẩm thẳng thắn, táo bạo, "điên cuồng" (như chính cách tác giả nói về mình) đã đưa cái tên Vệ Tuệ nhập dòng trào lưu văn học Linglei ( "lánh loài") ở Trung Quốc- một trào lưu "sử dụng một phương thức sáng tác đặc biệt với thủ pháp khoa trương, biến hình để thể hiện người hoặc vật, lạ hóa sự vật đã quen thuộc, truyền đạt ý tưởng của tác giả về sự khác biệt giữa cái phi thường và cái thường quy" (theo Nguyễn Thị Hiền, Vài nét về trào lưu văn học Linglei trong dòng văn học Trung Quốc). Hiểu một cách đơn giản, "lánh loài" là đi ngược lại trật tự chính thống, cất lên tiếng nói của những cái bên lề, những tồn tại không được thừa nhận trong đời sống xã hội. "Linglei" là cái nổi loạn, là sự phạm huý, là hành động thách thức các khuôn khổ đạo đức và trật tự luân lý.
"Bảo bối Thượng Hải" ( "Shanghai Baby") là tiểu thuyết bán tự truyện đầu tiên của Vệ Tuệ. Nó cho ta thấy bề mặt xã hội Trung Quốc trong thời đại đô thị hóa, toàn cầu hóa- điển hình qua thành phố Thượng Hải, với đầy rẫy những cảnh tượng phồn hoa, thác loạn, cuồng điên, nhảy múa trên sự phù du và vô nghĩa. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực ngổn ngang, rời rạc đó là những khao khát cồn cào, là nỗi cô đơn thăm thẳm, là bóng tối trong vực sâu nhân tính mà chính ta cũng không dám đối mặt. Các nhân vật như khiêu vũ trên phông nền của nỗi buồn. Nhiều người "dị ứng" với cái khác lạ, dung tục bày tỏ cảm giác "buồn nôn" khi đọc "Bảo bối Thượng Hải". Nhưng theo tôi để đánh giá một tác phẩm văn học không thể chỉ dựa vào hiện thực được phản ánh, lấy lý do nó nói đến đề tài thân thể, tình dục, ma tuý.. Để rồi chê trách, mà là phải nhìn nhận, đánh giá qua việc xem xét nghệ thuật kể chuyện, cách xây dựng nhân vật và tư tưởng, tình cảm của nhà văn.

Một Thượng Hải xa hoa và buồn thảm
Câu chuyện là sự tự kể lại hành trình sống và viết đầy mâu thuẫn, dằn vặt của Nghê Khả (hay Coco), một nhà văn nữ hai mươi lăm tuổi có khát vọng sáng tạo nhưng bị tù hãm bởi nỗi chán chường, cô đơn và bởi chính thân xác mình. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết được kể ở ngôi thứ nhất số ít (người kể xưng "tôi") và kể từ điểm nhìn bên trong, tức là nhân vật xưng "tôi" kể về câu chuyện mà chính mình trải qua. Cách lựa chọn ngôi kể và điểm nhìn trần thuật này mang lại sự cụ thể, chi tiết và chiều sâu suy tưởng cho câu chuyện bởi "tôi" vừa là một nhà văn quan sát, suy ngẫm về đời sống, về người khác, vừa là chủ thể chiêm nghiệm, tự chất vấn. Điểm nhìn của người kể chuyện là điểm nhìn hạn tri (không biết hết), nhưng điều thú vị là "tôi" không chỉ không biết hết về thế giới (có rất nhiều từ mang tính phỏng đoán- "hình như", "có lẽ", được sử dụng trong ngôn ngữ trần thuật) mà còn không biết hết về bản thân và ngỡ ngàng trước những lựa chọn của chính mình (tác phẩm đã kết lại bằng câu hỏi "Tôi là ai?"), như thể một cái "tôi" đã phân thân ra thành nhiều cá nhân khác nhau, với những suy nghĩ, nguyện vọng khác nhau.
Giọng điệu kể tương ứng với tâm trạng của nhân vật- lúc chán chường, tuyệt vọng, lúc hằn học mỉa mai, lúc chan chứa cảm xúc, sự ăn năn nhưng nhìn chung vẫn có sự thống nhất ở sự thấu suốt, đồng tình của nhân vật về chính mình. Dù là so sánh khập khiễng nhưng để dễ hiểu, không như cái tôi trong truyện của Edgar Poe- làm ác và khoái trá với sự ác của mình mà không hiểu lý do, cái tôi trong sáng tác của Vệ Tuệ luôn chắc chắn và đồng thuận với quan niệm, cách cắt nghĩa của chính nó về cuộc đời- nó hiểu vì sao nó bị dày vò trong ham muốn và tội lỗi, nó muốn thoát ra nhưng lại không thoát ra vòng lặp ham muốn và tội lỗi đó.
Truyện được kể theo dòng thời gian tuyến tính, từ lúc những mối tình bén nở đến lúc tàn lụi, từ hội ngộ đến giã từ. Các sự kiện liên quan đến phần được nêu lên ở mỗi đề mục làm nên sườn truyện: Tình cờ gặp người yêu, Thủ đô hiện đại, Tôi có một giấc mơ, Kẻ cám dỗ, Người không đáng tin cậy, Đêm hương, Một ngày trong cuộc đời chúng tôi.. Không gian nghệ thuật hiện lên qua điểm nhìn trần thuật của Coco là tiệm cà phê, vũ trường, hộp đêm, quán rượu và căn hộ mà cô sống cùng với Thiên Thiên- một nơi chật hẹp, tù túng và bừa bộn, nhìn ra ngoài: "Đường sá hầu như chỗ nào cũng có ổ gà, hai bên toàn nhà cửa lụp xụp, tranh quảng cáo rách mướp và những đống rác hôi hám.. Không thấy một bóng cây xanh, không thấy người nào ăn mặc tử tế hoặc một khoảng trời trong sáng. Tóm lại tôi chả thấy đâu là tương lai." Hai không gian này có mối liên hệ mật thiết với nhau: Vì sự tù túng, buồn chán, nặng nề của đời sống thực tại mà người ta tìm đến sự hoan lạc tức thời trong không gian đầy tai biến, truỵ lạc của những điệu nhạc điên cuồng, rượu và ma tuý.
Ngoài ra người đọc còn thấy sự chêm xen không thường xuyên của những giấc mơ vào cuộc sống thực. Đó cũng là không gian tâm tưởng chứa đựng những khao khát, nỗi âu lo, sợ hãi của nhân vật nữ nhà văn trong truyện. Ví như, Coco mơ thấy mình không thể đuổi theo một chuyến tàu ác nghiệt sẽ mang người yêu Thiên Thiên đi mãi và đó dường như là dự cảm của cô về cái chết của anh, điều cô luôn lo sợ nhưng không thực sự nghĩ đến. Sự xuất hiện của bác sĩ tâm thần David Vũ, một người đoán mộng, đã cho thấy sự cố ý của nhà văn trong việc lồng ghép những yếu tố giấc mơ theo gợi ý của phân tâm học vào tác phẩm. Không gian văn bản là sự sắp xếp tuần tự của 32 phần được đánh số, mỗi phần bao gồm các "phân khu" văn bản khác nhau: Đề mục, văn bản được trích dẫn của các tác giả khác- phần nào thể hiện quan điểm, tâm tư của nhân vật và phần văn bản trung tâm là nội dung mà "tôi" kể. Cách tổ chức đó làm câu chuyện trở nên khá chặt chẽ. Tuy nhiên, một số chỗ các câu trích dẫn của Thomas Morton, thơ Sylvia Plath và những lời triết lý xen vào câu chuyện chính làm mạch truyện thiếu tự nhiên, tạo cảm giác lạc lõng và phô diễn.
Trong bối cảnh một xã hội đang chuyển mình sang thiên niên kỉ mới và một không gian sống nhiều biến loạn, đổi thay, con người chật vật trong sự sống và tình yêu, trong sự tồn tại của chính mình và sự tồn tại với người khác. Trong cuộc sống riêng, con người tìm cách sống có nghĩa. Trong chuyện tình yêu, con người khao khát hạnh phúc tròn đầy. Nhưng những ước nguyện giản đơn ấy lại trở nên méo mó, đẩy con người vào mất mát, tội lỗi, khổ đau bởi sự hiện diện của sự phản bội, dối lừa, sự đổ vỡ các trật tự luân lý khiến con người trơ trụi lại một mình với sự tự do rợn ngợp. Bi kịch của những cá nhân mang tổn thương và sự giằng xé nội tại thể hiện rõ nhất qua nhân vật Madonna, Coco và Thiên Thiên.
Madonna, bạn của Thiên Thiên, là một "má mì" có tiếng ở Thượng Hải, một người đàn bà mà "cơ thể đã có quá nhiều ký ức đàn ông". Cô lớn lên trong một gia đình có cha và anh là những tên nghiện rượu, mỗi khi say lại mang cô ra trêu chọc bằng những trò gợi dục, trong khi mẹ cô lại quá yếu đuối để có thể bảo vệ con gái. Cuộc đời cứ đưa đẩy cô đi mãi trên con đường quyền lực và danh vọng qua những mối quan hệ mờ ám, những cuộc tình chớp nhoáng, những chuỗi dài đổ vỡ. Cô đau buồn bị người yêu là Ah Dick phản bội nhưng rồi lại tìm cách khỏa lấp khoảng trống trái tim bằng tình dục với những người đàn ông khác. Cuộc sống hiện đại trao cho cô quyền lựa chọn sống ngoài hôn nhân nhưng rồi nó lại biến cô thành một kẻ điên cuồng đi tìm hạnh phúc. Còn lại trong cô không gì hơn là sự trống rỗng và nỗi buồn tái tê. Ước mơ sống một đời êm ấm bên một nghệ sĩ tài hoa chỉ còn là dấu tích của một chiếc lá ép khô trên những trang giấy ký ức thuở thiếu thời. Đoạn Madonna lái xe đến nhà Coco để tâm sự về nỗi đau bị phản bội là đoạn truyện khiến ta đồng cảm với cô nhiều nhất. Trong hành động cô "lặng lẽ nâng niu, xoa nắn ngực và đùi mình, tự hỏi chúng có còn hấp dẫn hay không" hàm chứa một khát khao chưa bao giờ tắt trong một người đàn bà, nhưng cũng nói lên nỗi tiếc nuối khôn nguôi về một thời đã mất.
Coco lại trở nên xa cách với cha mẹ vì họ không muốn cô theo đuổi nghề văn bất định và sống với người yêu thất nghiệp trong một căn hộ tồi tàn. Đối diện với mẹ mình, cô vừa muốn được bà ôm lấy, vỗ về, lại vừa muốn thoát khỏi vòng tay ấy ngay để tự lựa chọn. Trong truyện, cha mẹ Coco vừa là điểm tựa của tình thân, vừa đại diện cho trật tự, cái truyền thống, sự an toàn. Cô muốn thoát khỏi đó, nhưng rồi sau khi "người tình Berlin" và cả "người yêu tuyệt vọng" rời đi, cô lại trở về nhà, tìm kiếm sự an yên giữa một thế giới bốc đồng, ồn ào và phù phiếm. Trong chuyện tình cảm, cô vừa dằn vặt mình vì đã phạm tội phản bội Thiên Thiên nhưng rồi lại tự tha thứ cho mình, chìm đắm trong ham muốn nhục cảm ở vòng tay của kẻ khác. Những cảm xúc đối nghịch giằng xé trong nội tâm biến người ta trở thành con rối bất lực và mặc cảm của chính mình.
Dường như nhân vật bí ẩn và tuyệt vọng nhất trong truyện là Thiên Thiên. Anh coi cuộc đời như chiếc bánh ngọt bị tẩm độc, cắn vào có thể chết. Anh bị ám ảnh về cái chết của cha mình- cái chết đột ngột ập đến chỉ sau một tháng ông sang Tây Ban Nha thăm mẹ anh. Nỗi nghi ngờ về việc cái chết là kết quả của một cuộc hạ sát nhẫn tâm tăng lên khi mẹ anh lấy một người Tây Ban Nha và mở hàng ăn Trung Quốc ở đất nước này, nhiều năm sau đó chỉ gửi tiền về cho anh. Nhưng sự thật về cái chết của người cha vẫn chưa bao giờ được tiết lộ. Biến cố đó đã làm lung lay tận gốc mối quan hệ và niềm tin của Thiên Thiên với gia đình, anh thường xuyên cảm thấy bất an, sợ hãi, trầm uất và anh cũng không thể tách mình ra khỏi chính nỗi tuyệt vọng mà mình cảm thấy. Đánh mất hy vọng ở cuộc đời, anh gửi gắm trọn vẹn niềm tin yêu vào tác phẩm mà Coco đang viết, vào những bức tranh mà anh nhốt mình hàng giờ trong phòng say sưa vẽ. Nhưng rồi nghệ thuật cũng không thể cứu rỗi anh ra khỏi nỗi đau của sự bất lực trong tình yêu và vị trí của một kẻ bị phản bội, dối lừa. Anh bị dằn vặt trong cảm giác vừa phẫn uất, vừa yêu thương dành cho Coco. Những lời yêu anh dành cho cô khi đã biết hết sự thật không phải là lời thứ tha mà là lời trăn trối vọng lên từ vực thẳm: "Dù em đối với anh thế nào.. Anh cũng chẳng bao giờ trách em đâu. Coco, anh yêu em, em nghe anh nói không? Coco, anh yêu em..". Sau thời gian dài sử dụng morphine, sống trong trầm uất, anh đã chết đột ngột vào một buổi sáng đầy hy vọng.

Một khung hình trong phim "Người tình"
Các nhân vật khác trong truyện dù không được khắc họa chi tiết về tính cách, nội tâm nhưng cũng góp phần làm hiện lên bức tranh của một cõi sống "chín người, mười cuộc đời rạn vỡ". Spider, đồng nghiệp của Coco ở quán cà phê quyết tâm làm giàu từ việc sửa chữa máy tính nhưng rồi cửa hàng ế ẩm, ý tưởng làm một tên trộm qua mạng hay sang nước ngoài sinh sống lại nhen nhóm trong anh. Lý Lệ, một người bạn Thiên Thiên tình cờ gặp được, cũng chìm vào những cơn nghiện thuốc phiện bởi khao khát sống một cách lãng mạn và say sưa trong những ảo tưởng triền miên, thoát tục. Chu Sa, chị họ của Coco, dù giỏi giang và quý phái nhưng vẫn phải chịu đựng nỗi buồn của một người đàn bà đã trải qua một cuộc hôn nhân tan vỡ. Mẹ Thiên Thiên, dù là bà chủ của hai nhà hàng lớn, có cơ ngơi đồ sộ và cuộc sống hạnh phúc bên người chồng mới nhưng phải chịu nỗi bất hạnh là luôn mang trên mình sự nghi vấn về tội ác và không bao giờ được con trai mình công nhận, thấu hiểu nữa. Mark, người tình của Coco, những tưởng là một gã Sở Khanh chỉ lợi dụng cô để thỏa mãn bản thân nhưng rồi cũng vò đầu bứt tai, ứa nước mắt ngày phải rời khỏi Thượng Hải.. Có thể những gì họ trải qua chưa phải là một sự "rạn vỡ" đúng nghĩa nhưng nếu đặt tất cả những sự kiện, nỗi buồn khổ, âu lo của những cuộc đời ấy vào sự ồn ã, phồn hoa bất tận của thành phố, của cõi trần, ta chợt thấy kiếp sống con người sao mà buồn thảm, những nỗi lo lớn nhất của mỗi cuộc đời dường như chẳng là gì với những biến đổi thường hằng của thời gian. Nhân vật người kể chuyện cũng nhiều lần than van: "Cái bóng phồn hoa của thành phố mãi mãi chuyển động, mặc kệ cuộc đời riêng của chúng tôi"; "Đời chúng tôi sao mà ngắn ngủi, cay đắng và những giấc mơ lãng mạn của chúng tôi chẳng để lại dấu vết gì..".
Chính vì sự tồn tại của con người nằm ở điểm giao giữa thời gian tuần hoàn- cái miên viễn của vũ trụ và thời gian tuyến tính- cái hữu hạn của đời người, nên một sự mâu thuẫn khác lại nảy sinh: Người ta đối diện với mọi sự bằng tâm thế của một kẻ dạo chơi nhưng rồi nhận ra chính mình mới là nhân vật bất hạnh trong trò chơi trái ngang của cuộc đời. "Chơi trò chơi làm người" không phải là chuyện đơn giản, bởi đây là cuộc chơi duy nhất và dường như ta luôn là kẻ thua trong nghĩa không làm chủ được cuộc chơi ấy. Coco và Mark ban đầu chỉ đến với nhau trong tâm thế của những kẻ chơi. Anh không nói gì với cô về vợ mình và chắc chắn không bao giờ ly hôn vợ. Còn cô, một lần ân ái đã lén lấy đi của anh một xấp tiền bởi cô tin rằng một mối quan hệ gắn với đồng tiền sẽ khiến cô cảm thấy ghê tởm và đó chính là ranh giới để anh không thể bước vào trái tim cô. Nhưng rồi rốt cuộc nữ nhà văn cũng phải tự hỏi mình: Tình cảm của tôi là cái gì? Tôi có đau lòng không? Cuối cùng, những gì là kín đáo và dễ tổn thương nhất trong "tôi" đã bị người mình cho là đối tác tình dục đơn thuần đụng chạm đến. Khi người vợ gọi điện đến cho Mark lần nữa, cô ngỡ mình không ghen tuông nhưng sau đó lại muốn khóc, vừa giận vừa thương thân mình. Chẳng có điều gì trôi qua mà không để lại dấu vết gì trong lòng ta. Giống như câu chuyện "Trò chơi xin quá giang" của Milan Kundera, khi người ta quá nhập tâm vào trò chơi, đồng nhất cuộc sống với trò chơi thì cái họ phải nhận lấy là sự bất hạnh, là sự mâu thuẫn, dày vò với chính mình. Cái tiêu dao của các bậc hiền nhân xưa xuất phát từ cõi lòng không trụ vào hình tướng, hiện tượng hay cái được- mất, có- không thường biến ở đời. Trong khi cái "chơi" của con người hiện đại dường như là lối thoát của một cuộc sống nhàm tẻ, chán chường. Sống không phải là một cuộc chơi đơn thuần. Tình yêu càng không thể. Chính điểm này làm tôi cảm thấy "Bảo bối Thượng Hải" không đến nỗi là cuốn tiểu thuyết tình dục đáng ghê tởm như nhiều người đã nói.
Nghệ thuật miêu tả hiện thực không phải chỉ để miêu tả mà còn là để nói lên một thứ chân lý mang tính hình tượng- cảm tính về con người và cuộc đời, khơi lên trong con người những cảm xúc mãnh liệt trước cái đẹp. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Vệ Tuệ đã nói được những điều từng bị xem là cấm kỵ trong những giai đoạn văn học trước đó như thân thể, kinh nguyệt và những khát khao thầm kín của người phụ nữ. Và nhà văn cũng đã chọn cách miêu tả về quan hệ thể xác một cách trực diện nhưng không thô tục, không phi nhân hóa con người trong những khát vọng bản năng. Một lần làm tình với Mark ở quán rượu, cô khóc vì cảm thấy mình vụng về và rẻ mạt hơn cả những cô gái điếm, cô không dám nhìn vào gương vì sợ đối diện với chính mình- "Có cái gì đó trong tôi mất đi, để lại một lỗ hổng lớn". Trong đoạn kể lại lần quan hệ cuối cùng của Mark và Coco, ta thấy ở hai nhân vật mang tâm thế của những kẻ phản địa đàng: "Chúng tôi thấy trong người như có sức mạnh ma quỷ. Nếu Thượng đế bảo tất cả chỉ là cát bụi thì chúng tôi sẽ trở thành cát bụi. Nếu Thượng đế bảo đã đến ngày phán quyết thì chúng tôi sẽ sống nốt ngày cuối cùng trên trái đất này..". Nhưng dường như người đọc vẫn mong một sự dằn vặt, tự vấn sâu sắc hơn của nhân vật "tôi" về sự phản bội mà cô dành cho Thiên Thiên, về lý do mà cô hết lần này đế lần khác tìm đến với Mark. Tất nhiên trong mọi hành động của con người đều có tư duy và xúc cảm, nếu chỉ mô tả hành động đơn thuần, những cảm xúc thoáng qua, dễ tạo cho người đọc cảm giác con người đã trở thành nô lệ cho ham muốn của chính bản thân mình hơn là vượt lên nó, trăn trở về nó.
Với tôi, những dòng miêu tả đẹp nhất về quan hệ xác thịt giữa người với người nằm trong truyện ngắn Ưu quốc của Yukio Mishima: "Chiếc trán cân đối, mát mẻ, trầm lặng như đỉnh ngọn núi Phú Sĩ, riềm mi dài dưới đôi mày mỏng trên cặp mắt nhắm, sống mũi thanh tú, hàm răng bóng ngời giữa môi mọng đều đặn, hai má mềm mại và chiếc cằm ngoan xinh xinh.. Tất cả những nét ấy gợi lên trong đầu trung uý hình ảnh gương mặt người chết thật rạng rỡ, và không ngừng đặt môi lên chỗ hũng của cổ họng trắng ngần- nơi rồi đây Reiko sẽ đâm lưỡi kiếm vào, yết hầu cô hực đỏ vì những miếng hôn. Rồi anh trở lại miệng, môi anh mơn trớn từ phải sang trái, từ trái qua phải, tròng trành như chiếc thuyền con. Anh nhắm mắt, cả vũ trụ chao theo." Shinji và Reiko đã đến với nhau lần cuối trước khi cả hai cùng tuẫn tiết vì cái nghĩa làm người. Đó là một nghi lễ linh thiêng của sự sống và tình yêu, đối đầu với cái chết và thăng hoa trong cái chết. Từng nét đẹp trên thân thể người yêu được nhân vật nhìn ngắm, nâng niu chậm rãi bằng tình yêu thương, sự trân quý vô bờ. Mỗi cử chỉ đều hàm chứa tình cảm vừa say mê vừa xót xa, bi thảm. Những dòng miêu tả của người kể chuyện mang điểm nhìn của nhân vật trung uý, gắn vẻ đẹp mong manh của con người với núi Phú Sĩ, với vũ trụ, với cái thiêng liêng, bất biến. Nhưng trong "Bảo bối Thượng Hải", con người dường như vụn vỡ, tan ra thành bụi trong những ham muốn cuồng điên. Đối nghịch với sự chậm rãi, nâng niu là sự vội vàng, chóng vánh, dữ dội. Đối nghịch với những cảm xúc trào dâng là sự đổ vỡ của nhân cách, sự trống trải của tâm hồn, sự thẫn thờ, buồn bã trước sự việc không thể đổi thay, trước sự phản bội không thể chối cãi. Đó là một nỗi đau bẽ bàng của tâm hồn trong nhà tù thân xác.
Đối diện với những điều nghiệt ngã của cuộc tồn sinh, nhân vật "tôi" ước muốn được cùng Thiên Thiên trở thành "đôi tình nhân thứ nhất trên trần gian", bỏ cái xã hội này mà vào rừng châu Phi hoặc đến hòn đảo nào đó ở Nam Thái Bình Dương để trồng cần sa, nuôi vài con gà và nhảy những điệu cổ sơ bên đống lửa cho đến hết đời.. Đó là nỗi nhớ về chốn Địa đàng, là khao khát hồi quy, nhưng cũng là một giấc mộng không tưởng, một ước ao không thể trở thành sự thật. Những ước nguyện không thỏa dẫn dắt người ta đến với nghệ thuật. Trong truyện, nhân vật Coco đã thể hiện rất nhiều suy tư về sự viết. Lời nhân vật cũng chính là lời tác giả hiểu theo nghĩa văn bản là một phát ngôn hoàn chỉnh của nhà văn. Đó có lẽ cũng là những suy tư của chính Vệ Tuệ về sự viết. Có lúc nhà văn bị thôi thúc bởi một cảm hứng nào đó nhưng lại bất lực trước ngôn từ: "Tôi cao hứng muốn viết nhưng lại thấy hoảng sợ như một phù thủy đã mất hết phép màu. Tôi không sao đắm mình vào thế giới chữ nghĩa được nữa. Đời sống thực tế với những con sóng của biến cố đã khiến tôi chao đảo..". Nhưng rồi cũng chính những nỗi đau giúp cô tìm lại ngôn ngữ, tìm lại chính mình trong trạng thái hòa đồng với vạn vật: "Có lúc ngẩng mặt nhìn bầu trời sao mà tôi quên cả vũ trụ xung quanh, quên cả bản thân. Có lúc khi đang viết, tôi cũng rơi vào trạng thái quên như thế. Nhưng tôi cúi xuống vì những ngôi sao giữa những dòng chữ xuất hiện, đưa tôi vượt qua mọi đau đớn, khổ nạn, cô đơn, thậm chí là cái chết..". Nhà văn viết để vượt qua địa ngục của nỗi chán chường và sự vô nghĩa: "Nếu không viết, tôi sẽ đánh mất lòng yêu của rất nhiều người, kể cả chính tôi." Viết vừa như là một sự trốn chạy khỏi cuộc sống phiền luỵ, phù du nhưng cũng vừa níu bám vào cuộc sống ấy. Đi qua bề mặt của những lo âu, muộn phiền, tội lỗi, nhà văn đã nhận ra đời sống tinh thần chung của "thế hệ chúng tôi" : "Như một bầy đom đóm nhỏ có tình với nhau và dựa dẫm vào nhau, chúng tôi chỉ mang những cánh bay tưởng tượng và rất ít tiếp xúc với thực tế. Chúng tôi như đám giòi bọ sống trên những mẩu xương của thành phố, tuy đó là những mẩu xương hấp dẫn. Cái chủ nghĩa lãng mạn kỳ quái của thành phố và ý nghĩa đích thực của thơ ca thực tế là do bộ lạc chúng tôi tạo nên..". Trong nỗi buồn và sự cô đơn có sự cảm thông, ràng níu sâu sắc giữa người với người. Mỗi thế hệ người đều trải qua những nỗi đau riêng của cuộc bể dâu không ngừng biến thiên dâu bể: Bệnh dịch, chiến tranh, hận thù, thiên tai.. Và những người thuộc "thế hệ sinh sau" của thế giới cũng phải đối mặt với những nỗi cô đơn, cảm giác về sự vô nghĩa, chán chường, phải trở thành một thứ "nhiên liệu sống" của "tấn trò đời" bất tận, nghiệt ngã. Lịch sử con người dường như được viết bằng nước mắt.
Những nỗi buồn trong cõi nhân gian là câu chuyện muôn thuở của văn học. Với "Bảo bối Thượng Hải", Vệ Tuệ đã khám phá nỗi buồn đó trong nỗi day dứt của con người về tình yêu và sự phản bội, trong những khát khao và nỗi chán chường, trong những say mê cuồng loạn và nỗi tuyệt vọng không gì cứu vãn.. Bằng thứ ngôn ngữ văn chương phồn tạp, thô ráp nhưng cũng chứa đựng những xúc cảm, suy tư chân thành. Cái mới trong tác phẩm không hẳn là cách lựa chọn đề tài (mảng hiện thực được phản ánh) hay chủ đề (cách khai thác hiện thực), không hẳn là ở ngôn ngữ kể chuyện hay những thông điệp nó mang lại mà thứ còn lại sống động, ấn tượng nhất với tôi là hình tượng nhân vật, đặc biệt là Coco và Thiên Thiên. Một người hãnh tiến và say mê bước vào đời, một người xa lánh và bi quan với cuộc đời lại trở thành người yêu của nhau. Họ là nhà văn và thi sĩ sống ở đời bằng tất cả sự hồn nhiên, chân thật của lòng mình. Tâm tư của hai nhân vật này là một miền hoang sâu thẳm, phức tạp, hé lộ nhiều sự thật của con người trong chiều sâu nhân bản của nó: Hy vọng và tuyệt vọng, ham muốn và bất lực, tình yêu và sự bội phản.. Nhưng điều đáng tiếc là nhân vật Thiên Thiên chỉ hiện lên với chúng ta qua khoảng cách xa xăm từ cái nhìn của nhân vật người kể chuyện- Coco. Những đường nét phức tạp trong tâm hồn anh chỉ là những nét mờ nhạt và cuối cùng vẫn không thể hiểu nổi. Trong khi đó, nhân vật Coco đến với người đọc bằng khá nhiều nước mắt nhưng chúng ta khó thấy được chiều sâu tâm trạng và suy tưởng của cô. Và chính vì việc khắc họa nội tâm, tính cách nhân vật một cách khá nhạt nhòa và hời hợt khiến người đọc dễ kết tội rằng họ chỉ đơn thuần là những kẻ chán đời và truỵ lạc.
Tóm lại, không thể đánh giá "Bảo bối Thượng Hải" là "văn chương rác" bởi nó đã khiến ta thực sự ngồi lại suy ngẫm về một số vấn đề quan trọng trong cuộc đời mình, nó để lại trong ta những kí ức dữ dội và buồn thương về những con người sống trong bóng tối của xã hội; nhưng tác phẩm cũng chưa thuộc hạng xuất sắc bởi nó chưa thực sự thể hiện những bước đổi mới mạnh mẽ của Vệ Tuệ trong nghệ thuật kể chuyện hay tư tưởng. Dẫu sao, đây là một tác phẩm đầu tay khá thành công của Vệ Tuệ. Tôi nhấn mạnh là "tác phẩm đầu tay" bởi ở thời điểm này, đa số các nhà văn chưa tạo được phong cách thực sự độc đáo nên vẫn thể hiện màu sắc của những nhà văn đi trước mà họ học hỏi. Có người nhận xét cuốn tiểu thuyết có xuất hiện một số nét tương tự phong cách Murakami, nhưng tôi nghĩ điều đó là không đáng kể, Vệ Tuệ cũng đã thể hiện khá nhiều những trăn trở của mình trong việc sáng tạo. Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn bởi những cuộc tranh cãi bất tận về tính đạo đức và giá trị thẩm mĩ của nó. Một tác phẩm nổi tiếng chưa hẳn đã có giá trị "vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn, trở thành tác phẩm chung của loài người" mà nó chỉ đơn giản lưu dấu bức tranh tinh thần của con người trong một thời đại lịch sử. Và dẫu sao, chính những tranh cãi đó lại làm nên sức sống hiện thời cho tác phẩm.