Việt nam huyền sử từng ghi chép về sự tồn tại 6 loài yêu quái đáng sợ, vậy chúng là những loài nào? * * * Việt Nam chúng ta có cuốn kỳ thư tổng hợp lưu truyền các câu truyện truyền thuyết kỳ bí vô cùng liêu trai ma mị chính là "Lĩnh Nam Chích Quái", có niên đại cổ nhất Việt Nam, cho tới nay vẫn còn có thể xác định được. Bên trong đó có ghi chép về các loài yêu quái rất huyền bí trong dòng lịch sử hàng ngàn năm trên đất Việt nước ta. Nhưng không phải một ai cũng có thể biết được những loài yêu quái bản địa ấy là những loài nào đâu nhé. Vậy thì ngay sau đây chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm hiểu về từng loài các bạn nhé. Thứ nhất: Yêu quái "Chuột tinh ngũ sắc" . Chuột tinh ngũ sắc xuất hiện trong thời Lê Sơ, theo ghi chép thì chúng được khoác lên mình một bộ lông ngũ sắc vô cùng sặc sỡ, râu chúng lại trắng như tuyết. Ở bốn chân nó mà mỗi chân đều thừa ra một cái móng, máu huyết chúng đen đặc lại có cân năng khoảng độ vài ba mươi cân. Khi hóa thành tinh chuột thường thì đều là chuột đực sống lâu, do một cơ duyên nào đó mà hấp thu được rất nhiều tinh khí đất trời rồi hóa thành tinh. Một khi đã hóa thành tinh, cộng với bản tính lanh lẹ có sẵn của dòng họ chuột chúng thường có thể biến hóa thay đổi được hình dạng, lại không sợ lửa hay các loại bùa chú khác, lúc này còn sở hữu trí óc cùng tâm tính gian sảo như con người. Chuột tinh ngũ sắc lại càng ham mê sắc dục, nó thường biến hình rồi lẻn vào các nhà thiếu vắng đàn ông hay người chồng đi vắng lâu ngày mà vụng trộm. Thứ hai: Rái cá đất Ninh Bình . Ở vùng cố đô Hoa Lư thuộc đất Ninh bình vẫn còn lưu truyền truyền thuyết về một con rái cá đực thành tinh, loài này thường sống lẩn khuất trong các đầm lầy rồi rình rập phụ nữ đi tắm giặt. Nếu chọn được người đàn bà nào ưng ý, nó sẽ biến hình lên bờ mà hãm hiếp kẻ đó. Con quái này có cơ thể cường tráng lại nhanh nhẹn dị thường, nhưng lại không có nhiều phép thuật. Cho nên chỉ cần có nhiều người hò nhau hợp sức là có thể khống chế mà bắt được. Truyền thuyết xưa kể rằng, tại núi Cổ Ngưa nàng kênh gà tại ngã ba sông Hoàng Long có một ngọn núi gọi là núi Cổ Ngựa. Ngày xưa ở làng Đàm Gia Châu Đại Hoàng có người tên Đinh Công Chứ làm nhà tướng cho vị đầu mục Dương Diên Nghệ, về sau lại trở thành thứ sử đất Hoan Châu. Về già ông Chứ lưu về quê cùng với người vợ trẻ là Đàm Thị nhưng mãi vẫn chưa có con. Một ngày nọ Đàm Thị vào núi tắm một mình, bỗng thấy một con rái cá to lớn hiện lên lừng lững tiến về phía mình. Thấy vậy thì Đàm Thị sợ hãi quá mà ngất đi, lúc tỉnh dậy thì thấy bên mình có con rái cá vẫn đang ấp ủ liếm láp. Bàng hoàng bà vội vàng đứng dậy mặc vội quần áo rồi về nhà, cũng giấu chồng việc lạ thường đã xảy ra. Cách đấy ít lâu thì Đàm Thị cũng đã có mang, lại nghi ngờ con rái cá kia là thần nước hiện lên đi lại với bà. Thế rồi đến ngày đến tháng bà liền sinh được một cậu con trai kháu khỉnh khỏe mạnh khôi ngôi khác thường. Đứa trẻ đó sau này lớn lên tỏ ra có sức khỏe lại thông minh hơn người, giỏi việc bơi lội có khả năng ở lại dưới nước hàng giờ, Đàm Thị đặt tên con là Đinh Bộ Lĩnh. Sau này đứa trẻ đó cũng trở thành một bậc quân chủ nước Nam một thời. Thứ ba: Bạch Kê Tinh . Còn gọi là gà tinh màu trắng, loài yêu quái này xuất hiện trong truyền thuyết dưới thời vua Hùng, tại vùng đất Bắc Ninh ngày nay. Tương truyền là con gà có bộ lông màu trắng còn sở hữu cả phép thuật khá lợi hại, nó có khả năng tách hồn mình ra thành nhiều phần rồi nhập vào các vật sống. Cứ vậy ký sinh mà hấp nạp tinh khí vật chủ theo một phương thức đặc dị nào đó mà bồi bổ tăng tiến tu vi cho bản thể của mình, một khi gặp bất trắc vong mạng thì đều có thể dễ dàng mà hồi sinh sống lại. Nó thường ngậm trong miệng một quyển sách huyễn thuật, nhưng con yêu quái này lại ra đời muộn hơn đám yêu là Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh khi xưa đã bị Lạc Long Quân tiêu diệt. Lại có thuyết kể rằng An Dương Vương thục phán sau khi diệt Văn Lang mà thành lập ra nước Âu Lạc, vua quyết định xây thành ở đất Việt Thương, thế nhưng lạ thay hễ đấp thành tới đâu thì lở tới đó. Vua bèn lập đàn chay giới cầu đảo bách thần. Quả nhiên chỉ ít lâu sau liền có một cụ già ở Phương Đông đi tới trước cửa thành mà than rằng: Xây thành như này thì biết bao giờ mà xong được. Nhà vua nghe vậy liền đón rước cụ vào thành thì được cụ thốt rằng: Sẽ có thứ Thanh Giang đến phò trợ nhà vua thì việc xây thành ắt sẽ thành công. Nói xong cụ liền từ biệt ra đi. Hồm sau từ cửa đông thành liền xuất hiện một con rùa vàng tự xưng mình là xứ Thanh Giang, vua bèn rước vào thành mà hỏi vì sao thành mãi không xây được. Rùa vàng đáp rằng: - Ở núi Thất Dượu chôn cất vua thời trước có những nhạc công có thù oán với nhà vua, lâu năm oan hồn u uẩn mãi không siêu thoát. Lại có con gà trống trắng sống thọ ngàn năm hóa thành bạch kê tinh thường đêm đêm dẫn đám u hồn kia tới rồi dùng phép phá đổ tường thành. Phải tìm cách mà giết được con gà tinh đó rồi giải thoát cho các u hồn kia thì thành ắt sẽ xây xong. Vua nghe lời liền phái binh lính cùng rùa vàng giả bộ làm khách bộ hành đi vào trong núi. Trong mãi khe sâu có một quán trọ cho khách vãng lai ngụ lại. Người chủ quán trọ này lại có một người con gái vô cùng xinh đẹp, còn nuôi được một con gà có bộ lông màu trắng nữa. Vài năm gần đây khách bộ hành qua lại và ngụ trong quán trọ của lão bị chết rất nhiều, lão chủ cũng chả biết tại sao. Mà quan quân cũng chưa hề đả động điều tra gì nữa, vì tận sâu bên trong những vùng sơn lâm hẻo lánh nên cũng không thể nào mà tra soát cho kịp. Nhưng lão không biết rằng, chính con gà trắng lão nuôi đêm ngày yêu quý hóa ra lại là thủ phạm. Đêm đêm quỷ tinh thoát khỏi lốt gà rồi lĩnh hội u hội giết người phá phách khắp nơi, thậm chí còn bí mật kết duyên tơ tóc cùng với con gái của lão nữa. Đêm đó nhà vua cũng xin ngụ lại, bỏ mặc hết thảy ngoài tai những lời khuyên can của chủ quán, vua chỉ đáp rằng: - Sống chết có mệnh, ma quỷ nào đã gia hại được ta. Rồi cứ vậy vua vào phòng đóng cửa, lại đặt rùa vàng canh chừng. Đêm đó quả nhiên bạch kê tinh hiện hình, toan xông qua cửa vào phòng gia hại đức vua, nhưng đã thử qua trăm phương ngàn cách mà không sao vào được. Đến khi trời sáng gà gáy phương đông quỷ tinh không hiện về lốt cũ nữa mà hóa thành làn khói liền chạy về núi, vua sai quân lính đuổi theo bắn nỏ tứ phía mà giết chết được yêu khí. Theo lời rùa vàng, vua lại cho đào lên nào là các nhạc cụ cổ rồi đem đốt hết thành cho mà đổ xuống sông lớn, cuối cùng âm khí theo đó cũng tan đi. Sáng ra chủ quán thấy khách vẫn còn an nhiên thì mừng lắm, vua liền bảo lão mau đi thịt gà trắng mà tại ơn trời đất. Sau khi chủ quán giết gà thì lập tức người con gái cũng lăn ra chết, hồn phách loài bạch kê tinh không còn nơi cư trú liền hóa thân ra thành một con cú sáu chân mong hòng tẩu thoát. Lập tức rùa vàng lền biến ngay ra thành một con chuột leo vội lên cây cắn vào chân cú để tiêu diệt quỷ tinh. Bạch Kê Tinh bị thần rùa tiêu diệt nhờ vậy mà thành chỉ xây trong nửa sáng thì xong, thành rộng hơn ngàn trượng lại xoắn hình trôn ốc nên gọi là loa thành. Trước khi rời đi rùa vàng còn trao lại cho An Dương Vương chiếc móng của mình dặn làm thành nỏ thần trấn quốc, thế nhưng bi kịch về sau thì hẳn ai ai cũng rõ. Thứ tư: Bạch Cốt Tinh . Bạch Cốt Tinh trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt không giống như bạch cốt tinh bên trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Trung Quốc, xuất hiện vào thời Hậu Lê trên đất Phong Châu, ngày nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Chuyện kể rằng Bạch Cốt Tinh khi còn sống chính là một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, lại thích khoác lên mình manh áo lụa đỏ, bản tính lẳng lơ. Thiếu nữ này một lần vụng trộm với người đàn ông đã có gia đình liền bị đánh ghen đến chết. Hồn của cô ta không chịu siêu thoát liền hóa thành yêu tinh. Loài yêu này thường thích nhập hồn vào các cô gái xinh đẹp, một khi nam nhân mà bị nó quấn lấy thì đều trở nên điên đảo mê muội rồi mất hết thần trí, tự tìm vào những chốn rừng sâu núi thẳm lánh xa nhân thế, sau dần không ăn không ngủ rồi gầy yếu mà chết rũ thành các bộ xương khô. Thứ năm: Ngọc Tỳ Bà . Ngọc Tỳ Bà vốn là một oan hồn bị giam cầm lâu năm bên trong lòng đất. Truyền thuyết còn kể lại rằng, vào thời vua Lý Huệ Tông có một cây đàn Tỳ Bà làm từ ngọc. Cho đến cuối đời nhà Lý thì tôn thất nhà Lý có trộm lấy cây đàn này định đem bán nhưng lại bị một nhạc công phát hiện ra. Để lấp liếm xóa đi dấu vết, kẻ trộm đàn đã đem chôn cây đàn bên dưới bờ hồ trúc bạch, phía trền còn trồng thêm một cây hoa anh đào, đàn ngọc lâu ngày lại hấp thụ linh khí đất trời mà đã huyễn hóa thành tinh. Cho đến đời vua Lê Thánh Tông thì yêu nữ này mới dâng thư lên vua xin cho đào cây đàn ấy lên. Truyện xưa kể rằng, do được hấp thụ linh khí thiên đại lâu ngày mà cây đàn Tỳ Bà liền tự mình thức tỉnh tính linh mà hóa tinh quái. Thứ sáu: Yêu nữ Xương Giang . Chuyện kể rằng vòa thời Lê Sơ có một viên quan họ Hoàng, vốn là người ở Xương Giang đi xuống kinh đô lĩnh chức, tối đó liền đỗ thuyền ở bên sông. Lúc ấy trời yên sóng lặng cảnh vật im lìm, chợt nghe thấy tại mỏm bãi cát nơi phía Đông Nam có tiếng phụ nữ khóc lóc vô cùng ai oán. Viên quan thấy lạ bèn sai người chèo thuyền qua xem, liền thấy một người con gái độ chừng mười bảy mười tám mặc một cái lụa đỏ đang ngòi trên đệm. Thấy thế viên quan họ Hoàng mới cất tiếng hỏi: - Đêm hôm khuya khoắt như vậy sao cô còn ngồi đó khóc lóc nỗi gì? Người con gái nghe quan hỏi vậy thì khép nép mà kể rằng: - Nàng vốn là người ở đất Phong Châu, cha mẹ không may bị cướp gia hại giết chết ném xác xuống sông, chỉ có một mình nàng may mắm thoát chết. May mắn được một bá hộ trong vùng cưu mang mà mang về nhận làm người hầu trong phủ, nhân buổi chiều nay ra bãi hái dâu nhìn lại cảnh xưa mà không sao cầm lòng cho được. Viên quan họ Hoàng cảm thương cho phận má hồng, liền hỏi xem người thiếu nữ nọ có muốn lên thuyền theo về quê cha đất tổ thì cho đi nhờ. Người thiếu nữ nghe vậy thì vui mừng mới đáp lại muốn theo về bản xứ, ngặt nỗi xương cốt cha mẹ vẫn còn bên dưới đáy sông chưa mang lên mà mai táng được. Viên quan họ Hoàng nghe vậy liền thốt: - Nếu thực tâm nàng đã muốn thế ta đây cũng chẳng quản gì, nguyện ý bỏ ra một số tiền vì nàng mà thu thập hài cốt hoàn thành tâm nguyện. Trên đường về đất Phong Châu cả hai cảm mếm rồi qua lại đối đáp rất vui vẻ, nhiều lần viên quan họ Hoàng bông đùa cố thử dò xét lòng nàng nhưng tuyệt nhiên người thiếu nữ ấy vẫn giữ lễ. Quan lớn cũng vì thế mà vừa yêu vừa nể, khi thuyền cập bến đất kinh đô rồi mà vị quan vẫn chưa vội đi lĩnh chức ngay mà lại sai người lái thuyền vòng lên ngả Bạch Hạc, cùng đem hài chốt cha mẹ thiếu nữ mà táng lại chỗ ấy. Sau khi lo liệu công việc ổn thỏa tươm tất thì một hôm lại thấy nàng thiếu nữ ngỏ ý trước. Khi xưa vì chưa làm tròn chữ hiếu mà xây cất cho cha mẹ được mồ yên mả đẹp, nay mọi việc đã viên thành thiếp xin được theo chàng nâng khăn sửa túi. Nghe vậy thì viên quan họ Hoàng mừng rõ lắm, thế rồi từ đó hai người kết duyên vợ chồng. Sau khi nhận chức được hơn một tháng, vị quan nọ liền trở nên điên cuồng hoảng loạn, người cứ ngày càng hao mòn khô héo dần đi. Cho dù thuốc thang chạy chữa thế nào cũng không thuyên giảm, mãi sau có một lão ăn mày vào phủ liền nói sẽ chữa dứt căn bệnh lạ này của quan phủ. Sau khi bắt mạch một lúc, lão ăn mày nói bệnh của vị quan lớn này không bị gì, cần tẩm bổ thật nhiều vào, cùng với sắm lễ lạc mà đem cúng thần quỷ thì bệnh ắt tiêu trừ chỉ trong sớm tối. Nói xong lão ăn mày lấy ra một gói thuốc bột màu trắng đem hòa lẫn với nước rồi đổ vào miệng vị quan lớn. Vừa uống xong vị quan lớn liền nôn mửa ra rất nhiều đờm dãi, cũng ngay khi ấy vị phu nhân nọ cả giận vội lấy gậy đập vỡ chai thuốc rồi mắng: - Lão ăn mày khốn kiếp, lão từ đâu tới đây. Lại định sử dụng huyễn thuật mà ly gián chia rẽ vợ chồng ta phải không? Chỉ đợi có thế, lão ăn mày đưa tay vào bọc lấy ra một lá bùa vẽ loằng ngoằng đầy những ký tự như giun dế đã ngả màu đục sỉn, lão nắm ngay lá bùa thẳng vào người vợ quan lớn. Bà vợ trẻ quan lớn vừa trúng phải lá bùa thì ngã vật ngay ra đất, toàn thân lăn lộn co quắp được một lúc thì hóa ra một đống xương trắng hếu. Thực chất lão ăn mày nọ vốn là một vị đạo sĩ cao tay, nhân buổi vân du tứ hải qua ngõ vị quan lớn họ Hoàng. Lại ngước mặt nhìn trời thấy phía Đông Nam trong phủ bốc lên muôn vàn tử khí, còn quện đặc thành hình. Thấy vậy biết sự chẳng lành, lão đạo cũng không nhẫn tâm thấy chết không cứu. Sau khi đã xử trí tru diệt được loài ma nữ kia, được một lúc thì viên quan họ Hoàng cũng liền tỉnh lại. Mọi người vội vàng xúm lại hỏi chuyện thì quan lớn cũng chả nhớ rõ chuyện gì, ai nấy đều thấy thất kinh mới quay qua hỏi chuyện đạo sĩ. Lão đạo lúc này mới khẽ đưa tay vuốt râu mà chậm dãi nói: - Từ đầu lão đã biết vị phu nhân của quan lớn đây không phải là người, mà là một loài yêu quái. Chỉ sợ để lâu hơn nữa thực khó đoán định có chữa nổi nữa không. Sau đấy viên quan họ Hoàng bèn nghe theo lời đạo sĩ, đưa thuyền trở lại Bạch Hạc, khai quật toàn bộ mộ táng lúc trước lên thì chẳng còn thấy xương cốt đâu nữa, mà chỉ còn thấy lưu lại mấy hòn máu đỏ tươi. Vừa toan nhặt lấy mấy cục máu ấy thì thoát cái nó đã biến mất. Lúc này đạo sĩ liền lắc đầu thở dài ngao ngán mà than rằng: - Ôi thôi! Cành hẳn đã trừ mà gốc rễ vẫn còn đó. Nếu sau này không được thiên bình thần tướng phù hộ thì ắt về sau quan lớn chắc mắc nghiệp âm gian. Quả nhiên sau đấy một tuần, viên quan họ Hoàng đang nằm ngủ trưa thì liền bị hai kẻ mặt trâu đầu ngựa bắt giữ giải đi. Đem tới trước một cái điện vô cùng trang nghiêm, duy chỉ có mái hành lang bên tả siêu đổ. Trên điện có một vị đầu đội mũ phiên quát lớn: - Diêm Vương có chỉ sai ta tra án phán xét nhà ngươi, lại sai xuống thị vệ lấy ra giấy bút bắt quan lớn họ Hoàng tự cung khai. Lúc này tuy có sợ nhưng Hoàng vẫn khẳng khái trả lời rằng: Bản thân là bậc nho sĩ, ra làm quan cũng chưa hề bạo ngược, làm người không gian tham quắt quéo, thấy mình chẳng có tội gì bèn không chịu viết. Vị quan họ Hoàng vừa dứt lời thì đã thấy người con gái ở với mình ngày trước từ bên hành la phía tả bước ra. Hoàng lúc này mới ngầm hiểu ra liền cầm bút ghi vào tờ cung, nội dung nhất nhất kẻ ra rành rọt, từng ngày xưa gặp yêu nữ thế nào, giúp yêu nữ chôn cất ra sao. Tờ cung trình lên Diêm Vương đọc qua thấy rất có lý, liền cả giận mắng tội yêu nữ. Lập tức truyền bọn sai nha tống giam vào ngục. Cũng quay qua mà trách cứ họ Hoàng, đã là nho sĩ lại đọc sách thánh hiền mà không biết nghe theo lời răn vì sắc mà mờ mắt, cũng liền bị phạt giảm thọ đến cả 10 năm. Sau đấy liền sai lính đưa quan họ Hoàng trở lại dương gian. Hoàng bừng tỉnh lại thì cũng giật mình kinh hãi, toàn thân túa mồ hôi ướt nhẹp như tắm. Cho đến mấy năm sau, viên quan họ Hoàng lại có việc đi qua Tam Giang, đến giữa trưa liền nghỉ lại ở đền Phong Châu. Lại thấy đền đài tường vách, nhất lại là dãy hành lang đổ nát siêu vẹo giống hệt cơn mộng năm nào thì mới biết mình đã từng bị đưa đến đây. Quan họ Hoàng hoảng hốt vội bật dậy lên ngựa đi ngay không còn dám ngoái đầu nhìn lại lần nữa. ---HẾT--- CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ LUÔN THEO DÕI BÀI VIẾT TỪ THẠCH KIM THỬ