Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Góc bình yên, 24 Tháng bảy 2022.

  1. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    1.2. 5. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt của Đảng là sản phẩm văn hóa cao đẹp của Đảng


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng. Người đặc biệt coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập thể phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội.

    Thứ nhất; tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản thể hiện Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động

    Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Tư tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng đều thống nhất" [1] để khi hành động thì toàn Đảng thống nhất như một người. Người khẳng định, thực hiện nghiêm chế độ tập trung dân chủ "là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng" [2], "là then chốt của thành công" [3] . Người cho rằng, Đảng ta là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động nếu thiếu điều đó "Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ" [4] .

    Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong tổ chức và hoạt động của Đảng, Người cho rằng: "Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do trình bày ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục vụ chân lý" [5] .

    Theo Hồ Chí Minh, "dân chủ" là tất cả đảng viên đều được tự do bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề trong sinh hoạt đảng để góp phần thống nhất về quan điểm, chủ trương trong lãnh đạo, chỉ đạo; để xây dựng nghị quyết, đưa được nghị quyết vào cuộc sống.

    Về tập trung, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong Đảng phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Biểu hiện của tập trung là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên.. Tập trung trên cơ sở phát huy dân chủ chứ không phải tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền.

    Hiểu và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất trong tư tưởng và hành động. Mở rộng dân chủ trong Đảng là vũ khí quan trọng nhất để "lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác" [6] . Do đó, tập trung dân chủ phải được quán triệt và thực hiện trong từng đảng viên, trong các tổ chức đảng để Đảng ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội


    Thứ hai; tập trung dân chủ là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

    Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng, cùng với nguyên tắc tập trung dân chủ, Người còn đề cập tới nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trên phương diện lãnh đạo, quản lý.

    Hồ Chí Minh khẳng định: "Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung" [7] . Theo Hồ Chí Minh thì một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể nào thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì vậy, để lãnh đạo được sát, đúng cần phải có sự tham gia ý kiến của nhiều người. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiểu được toàn diện, mọi vấn đề. Người khẳng định cũng như dân chủ tập trung, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách có mối liên hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau: "Lãnh đạo mà không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không có cá nhân thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau" [8] .

    Đi đôi với việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, bàn bạc tập thể phải thực hiện đúng chế độ phân công cá nhân phụ trách, đảm bảo chế độ thủ trưởng trong từng công việc nhằm phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, ý thức trách nhiệm cá nhân. Người chỉ rõ: "Việc gì đã được tập thể bàn kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần giao cho một người khác hoặc một nhóm ít người phụ trách, theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy quyền cho người kia, người kia ủy quyền cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu:" Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa "là như thế" [9] .

    Như vậy, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cũng chính là thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Góp phần làm Đảng ta thống nhất về ý chí và hành động.


    Thứ ba; tập trung dân chủ là phát huy quyền dân chủ của mỗi đảng viên

    Điều đó được thể hiện trong việc đề cao vai trò, trách nhiệm và tính tích cực của mỗi thành viên đối với các công việc của Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng, trong nội bộ Đảng, chủ thể dân chủ là đảng viên.

    Tất cả các đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng. "Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả đảng viên đều phải tuân theo" [10] . Trong thực hiện, để đảm bảo sự hiểu biết, sự tham gia, sự quyết định và quản lý của đảng viên đối với công việc của Đảng, Người chỉ rõ: "Bất cứ vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức thảo luận và phát huy ý kiến" [11] . Quan điểm này là sự vận dụng chỉ giáo của Lênin cho rằng: "Tất cả mọi công việc của Đảng đều được toàn thể các đảng viên, hoàn toàn bình quyền và không ngoại lệ nào, tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn" [12] .

    Điều đó, sẽ ngăn chặn được khuynh hướng tập trung quan liêu rất dễ nảy trong điều kiện Đảng cầm quyền; đồng thời ngăn chặn tình trạng đảng viên "khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xã xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng" [13] .

    Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn hiểu rõ bản chất và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ là góp phần làm cho Đảng ta luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.


    Thứ tư; tập trung dân chủ là đề cao tinh thần phê bình và tự phê bình

    Điều đó sẽ đảm bảo sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: "Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng" [14] . "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tư phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất Đảng" [15] . Các tổ chức đảng, các cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát. Theo Hồ Chí Minh, giám sát dân chủ trong Đảng là "thang thuốc hay nhất, là thiết thực phê bình và tự phê bình" [16] .

    Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trên tinh thần đề cao nguyên tắc phê bình và tự phê bình góp phần làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh, thực hiện công việc của Đảng ngày càng hiệu quả.

    [1] . Sđd: T. 7, tr. 230.

    [2] . Sđd: T. 12, tr. 497 – 498.

    [3] . Sđd: T. 11, tr. 154.

    [4] . Sđd: T. 5, tr. 258.

    [5] . Sđd: T. 8, tr216.

    [6] . Sđd: T. 12, tr. 510.

    [7] . Sđd: T. 5, tr. 505.

    [8] . Sđd: T. 5, tr. 505.

    [9] . Sđd: T. 5, tr. 505.

    [10] . Sđd: T. 7, tr. 230.

    [11] . Sđd: T. 3, tr. 7.

    [12] . V. I Lênin: Toàn tập, Sđd: T. 14, tr. 324.

    [13] . Sđd: T. 6, tr. 494

    [14] . Sđd: T. 5, tr. 261.

    [15] . Sđd; t. 12, tr. 497.

    [16] . Sđd: T. 5, tr. 262.


    - Còn tiếp -
     
  2. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 2: XÂY DỰNG VĂN HÓA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

    2.1. Thực trạng văn hóa Đảng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới

    2.1. 1. Những thành tựu mà Đảng ta đạt được trong tiến trình hình thành các giá trị văn hóa Đảng


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một là; Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minhnền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng

    Thứ nhất; Đảng nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

    Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam" [1] . Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991), Đảng ta đã khẳng định: "Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động" và từ đó đến nay các Đại hội của Đảng đã luôn khẳng định quan điểm đó.

    Để nhận thức được đầy đủ tư tưởng của Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay là cả một quá trình đòi hỏi thời gian và công sức. Bước đầu chúng ta đã làm sáng rõ được một bộ phận trong kho tàng lý luận của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Là những giá trị văn hóa đồng hành cùng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

    Từ sau Đại hội VII của Đảng đến nay, công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng; hoạt động tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều cố gắng, nhờ đó đã góp phần động viên các tầng lớp nhân dân sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.

    Bước sang thế kỷ XXI, đất nước ta có cơ hội lớn, nhưng đang đứng trước những thách thức không nhỏ, tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, khó lường. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, Đảng ta đã thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề thực tiễn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, trong đó việc tổ chức học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của Đảng, cần được toàn Đảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng, hiệu quả.

    Trước yêu cầu mới của tình hình thế giới và việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng. Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Nhằm mục đích:

    - Làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta.

    - Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tự giác của mỗi người, của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo ra phong trào rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống.

    Chỉ thị cũng đã đề ra yêu cầu đối với tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể là:

    - Cần thực hiện lâu dài, thường xuyên và liên tục; bảo đảm tính khoa học, toàn diện, hệ thống; phải sát hợp với đặc điểm từng đối tượng, gắn với thực tiễn, với quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, tổ chức đảng; kết hợp nâng cao nhận thức với rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của mỗi người, mang lại hiệu quả thiết thực, tránh phô trương, hình thức.

    - Đẩy mạnh công tác nghiên cứu toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh gắn chặt với tổng kết thực tiễn góp phần bảo vệ và phát triển học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, bổ sung phát triển đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giải đáp cho được những vấn đề mới nảy sinh, phát triển hệ tư tưởng của Đảng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

    Đối tượng của tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm tất cả cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục đối với cán bộ lãnh đạo các cấp, đội ngũ đảng viên và thanh, thiếu niên. Đẩy mạnh tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh ra nước ngoài để thế giới hiểu đúng, đầy đủ về tư tưởng của Người.

    Nội dung tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh căn cứ theo nguồn gốc và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đại hội IX của Đảng đã xác định. Cần tuyên truyền, giáo dục sâu sắc, chỉ rõ sự vận dụng vào thực tế những nội dung đó.

    Đồng thời, Chỉ thị còn đề ra nhiệm vụ của công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh là:

    - Thực hiện chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.

    - Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển, làm phong phú tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới.

    - Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường. Cần sớm tổ chức biên soạn giáo trình và sách giáo khoa thống nhất về tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với từng cấp học, bậc học, thực hiện chế độ thi cử nghiêm túc.

    - Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động văn hóa, văn nghệ.

    - Đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn, luận điệu của các thế lực thù địch và bọn cơ hội nhằm hạ thấp, bôi nhọ, cắt xén, xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh.

    Thứ hai; đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

    Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa Đảng thông qua công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là phát huy bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là nguyên tắc cơ bản đầu tiên của văn hóa Đảng. Văn hóa Đảng Cộng sản Việt Nam là văn hóa của giai cấp vô sản, của dân tộc và của nhân dân Việt Nam, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhận thức sâu sắc vai trò của hệ tư tưởng đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng, trong thời gian qua Đảng ta đã xác định rõ nền tảng tư tưởng của Đảng, từ đó có những biện pháp nhằm biến hệ tư tưởng đó thành nền tảng tư tưởng của Đảng, nền tảng tinh thần của xã hội. Đồng thời đập tan mọi âm mưu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá chế độ, chống phá chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

    Mấy chục năm qua, các thế lực thù địch và cả tay sai của chúng, những phần tử cơ hội chính trị, không ngừng mọi cách bày đặt mọi cách bôi nhọ truyền thống của Đảng, từ lãnh tụ đến các chiến sỹ, đảng viên, từ mục tiêu, con đường, đến bước đi của đất nước, đều bị chúng xuyên tạc, bóp méo, tập trung đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng, vào truyền thống và hoạt động hiện tại của Đảng.

    Văn hóa Đảng là nền tảng tinh thần của Đảng, của xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều giá trị văn hóa của Đảng cũng bị tiến công từ nhiều phía, hòng làm cho nó bị mai một, xói mòn, thậm chí sụp đổ. Đấu tranh không ngừng để bảo vệ những giá trị truyền thống của văn hóa Đảng là một trong những thành tựu rất quan trọng đáng ghi nhận.


    Hai là; Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, đúng đắn, sáng tạo

    Trước những biến động của tình hình thế giới và trong nước kinh qua thử thách khó khăn, Đảng ta đã đưa ra được một đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo. Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm đổi mới, đất nước và con người Việt Nam đã có nhiều đổi thay theo hướng tích cực. "Qua mỗi thời kỳ Đại hội, đường lối của Đảng ta không ngừng được bổ sung, phát triển" [2] .

    Bước đột phá mở đầu, từ Hội nghị Trung ương VI, khóa IV (1979), đã đánh dấu một chủ trương mới của Đảng "bằng mọi cách làm cho sản xuất bung ra". Từ chủ trương này mà Đảng đề ra nhiều biện pháp: Khuyến khích sản xuất, sản phẩm dư thừa sau khi ổn định nghĩa vụ lương thực được tự do lưu thông hoặc bán cho Nhà nước, sửa lại thuế lương thực và giá lương thực, bãi bỏ phân phối theo định xuất, định lượng trong hợp tác xã nông nghiệp vì nó không khuyến khích người nông dân tích cực lao động. Cũng từ đột phá này, bắt đầu hình thành nhận thức mới, có ý nghĩa tích cực về kinh tế tư nhân, không tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, thấy rõ thước đo hiệu quả của sản xuất và chính sách kinh tế là năng suất và mức độ cải thiện cuộc sống của dân.

    Bước đột phá thứ hai, hình thành tại Hội nghị Trung ương VIII, khóa V (1985), bên thềm của đổi mới, với chủ trương dứt khoắt từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đáng lưu ý là ở bước đột phá này, sản xuất hàng hóa đã được thừa nhận.

    Bước đột phá thứ ba, là Hội nghị Bộ Chính trị (1986) với kết luận đối với một số vấn đề về quan điểm kinh tế. Ở văn bản kết luận rất quan trọng này nổi bật 3 vấn đề lớn: Lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư; xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đó là đặc trưng của thời kỳ quá độ; trong cơ chế quản lý, lấy kế hoạch là trung tâm nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp, phải vận dụng đúng quy luật giá trị trong chính sách giá.

    Đặc biệt Cương lĩnh và chiến lược được thông qua tại Đại hội VII (1991) đánh dấu một bước phát triển quan trọng về nhận thức chủ nghĩa xã hội của Đảng. Những vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa qua các đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà ta xây dựng (6 đặc trưng) cùng với định hình chủ nghĩa xã hội, con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, mô hình chủ nghĩa xã hội – một chế độ xã hội kiểu mới đang sinh thành đã được trình bày khá rõ ràng, hệ thống với những luận điểm lý luận được khái quát từ tổng kết thực tiễn trong những năm đầu đổi mới (7 phương hướng chủ yếu).

    Đại hội VIII của Đảng (1996) đã tổng kết chặng đường 10 năm giải quyết thành công cuôc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta, trong một bối cảnh rất không thuận lợi của cách mạng thế giới. Nhưng vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa và định hình chủ nghĩa xã hội qua thực tiễn đã sáng tỏ hơn, đã được cụ thể hóa và phát triển thêm những nội dung mới, nhất là tư tưởng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về văn hóa, xây dựng Đảng. Cho đến Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI cùng với tổng kết lý luận hơn 20 năm đổi mới, có thể nói, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được khẳng định về cơ bản, dù còn phải tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhiều vấn đề khác trên cơ sở những phát triển mới của thực tiễn đổi mới.

    Trên mặt trận văn hóa đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đã được mở rộng với thông điệp quan trọng của Đảng ta là Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội. Điều đó, thể hiện bước tiến cực kỳ quan trọng tạo nên nhận thức mới về hình ảnh Đảng và Nhà nước Việt Nam. Từ đây, chúng ta tiếp thu được những giá trị văn hóa mới trong quá trình lãnh đạo và quản lý đất nước. Kết quả đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua ngày càng chứng minh tính đúng đắn của văn hóa ngoại giao thời kỳ đổi mới, làm cho văn hóa Đảng phong phú hơn, dễ chấp nhận hơn với cộng đồng quốc tế.

    Đó là trí tuệ và tư tưởng lớn thuộc văn hóa Đảng. Trí tuệ là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quy luật, tính quy luật phát triển của xã hội và thế giới. Tư tưởng lớn là giữ vững mục tiêu kiên định vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của con người. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn, phong phú và thực tế hơn. Đường lối và sự phát triển đường lối đó được đông đảo nhân dân đồng tỉnh ủng hộ, đưa lại những thành tựu đáng ghi nhận. Đó là thắng lợi của văn hóa đổi mới, văn hóa Đảng. Không có văn hóa chính trị sâu sắc, không thể giữ vững vai trò lãnh đạo và đưa ra được đường lối đổi mới, đưa đất nước tiếp tục đi lên.

    Hơn 20 năm đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn hóa lãnh đạo ngày càng được bồi đắp và nâng cao, ngày càng trở thành những giá trị được thực tiễn chấp nhận. Đó là bước trưởng thành đáng ghi nhận từ góc độ văn hóa Đảng.


    Ba là; phẩm chất đạo đức và năng lực của cán bộ, đảng viên từng bước được nâng cao

    Nhận thức đầy đủ ý nghĩa và giá trị của "người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Đảng ta luôn quan tâm chú trọng tới việc giáo dục, tuyên truyền và nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực của cán bộ, đảng viên. Những con người làm nên đạo đức của Đảng, văn hóa của Đảng. Từ đó, Đảng đã xây dựng cho mình đội ngũ cán bộ, đảng viên có đạo đức và ý chí vững vàng, hết lòng hết dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; suốt đời phấn đấu, hy sinh vì Đảng, vì cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lên trên hết.

    Ý thức được vị trí, vai trò và trách nhiệm nặng nề của mình, cán bộ, đảng viên của Đảng luôn luôn cố gắng đi đầu trong mọi việc, là tấm gương đề nhân dân học tập và noi theo. Đáng kể nhất là tinh thần gương mẫu chấp hành Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, muốn làm được điều đó cán bộ, đảng viên đã có tinh thần cầu tiến vượt lên trên tất cả để hoàn thiện mình. Họ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình mà ra sức tu dưỡng, tự mình học tập nâng cao kiến thức, năng lực làm việc, tự mình rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức của người cán bộ, đảng viên.

    Họ là những nhân tố tích cực xây dựng gia đình gương mẫu, đoàn kết tương trợ các thành viên trong xã hội, thực hiện tốt và đầy đủ nghĩa vụ công dân, làm theo pháp luật, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa xã hội theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đã tạo nên những ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân về hình ảnh người cán bộ, đảng viên. Là điều kiện để chúng ta xác lập và tạo dựng các giá trị văn hóa trong Đảng và toàn xã hội. Do đó, ngày 7-11-2007, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" Mục đích của cuộc vận động là làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh.. nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.

    Những thành tựu mà Đảng ta đã đạt được trong tiến trình hình thành các giá trị văn hóa Đảng là do:

    Thứ nhất; chúng ta đã kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng

    Thứ hai; Đảng ta đã kiên định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

    Thứ ba; là Đảng ta đã giữ vững các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng


    [1] . Sđd: T. 2, tr. 267.

    [2] . PGS, TS;. Tô Huy Rứa, GS. TS. Hoàng Chí Bảo, PGS. TS. Trần Khắc Việt, PGS. TS. Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) : Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Tr. 113.


    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 12 Tháng tám 2022
  3. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 2: XÂY DỰNG VĂN HÓA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

    2.2. Những giải pháp xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

    2.2. 1. Tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng và cho toàn xã hội nói chung luôn được Đảng ta chú trọng quan tâm đặt lên hàng đầu. Đó cũng là vấn đề có tính chiến lược đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Đảng, của chế độ. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hạt nhân cốt lõi của văn hóa Đảng. Do đó, muốn xây dựng được văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới trước tiên cần phải làm cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân hiểu và thực hành theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

    Mục đích của việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin là nhằm hình thành cho cán bộ, đảng viên và nhân dân văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa, thấm nhuần thế giới quan khoa học duy vật biện chứng, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, biết thâu thái và làm giàu cho mình bằng những tinh hoa văn hóa nhân loại, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của giai cấp công nhân nhằm hướng con người tới những hành động tích cực vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

    Xuất phát từ mục đích của việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước tiên cần phải giáo dục những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị "làm cho thê giới quan Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội" [1] . Cần làm cho tư tưởng và những quan điểm ấy thâm nhập sâu vào trong đời sống của nhân dân ta, trở thành tiềm lực chính trị, thành bản lĩnh chính trị con người Việt Nam, hình thành hệ thống chuẩn mực giá trị định hướng và điều chỉnh mọi quan hệ chính trị, thái độ và hành vi chính trị của mỗi người, cũng như trên phạm vi toàn xã hội một thể trạng chính trị tinh thần lành mạnh, có sức "đề kháng" cao, có khả năng vô hiệu hóa mọi thủ đoạn công kích, phá hoại của kẻ thù trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng.

    [1] . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiên Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 35, tr. 10.


    - Còn tiếp -
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...