Tên tác phẩm: Khu vườn bí mật Tác giả: Frances Hodgson Burnett Thể loại: Văn học kinh điển Số chương: 27 Tình trạng: Hoàn thành Tất cả những ai đã đọc Khu Vườn Bí Mật đều sẽ công nhận đây không hẳn là một tác phẩm văn học thiếu nhi. Ngược lại, cuốn sách được viết ra dường như để dành cho người lớn, những người đã trải nghiệm và có thể đã quên một thời ấu thơ trong trẻo, thánh thiện và nhiệt thành với những niềm vui nho nhỏ. Khu Vườn Bí Mật kể một câu chuyện về khu vườn bị khóa kín suốt 10 năm trời, cho đến khi được Mary, Colin, Dickon đánh thức và hồi sinh với tình yêu và sự chăm sóc thân thiện. Khu vườn sống lại cùng với những thay đổi của những người xung quanh. Mary không còn là một tiểu thư ngang ngược. Colin rũ bỏ những tuyệt vọng về sức khỏe để tự hào tuyên bố "sẽ sống mãi". Và như thế, trang viên sáng bừng sức sống con trẻ bởi tình yêu cuộc sống. Nhân vật của Khu Vườn Bí Mật sống động trong từng trang giấy với những nét đẹp của thời đại, với tính cách và con người lãng mạn nhưng cũng đầy phóng khoáng của phương Tây. Khu Vườn Bí Mật tựa như một chuyện kể giản dị về cuộc sống, hé mở những cánh cửa đã đóng chặt của một đời người bằng phép màu đến từ cuộc sống mang tên Tình yêu.
Chương 1: Không còn ai trên đời Bấm để xem Khi Mary Lennox được gửi tới Trang viên Misselthwaite để sống với bác của nó, mọi người đều bảo rằng nó là một đứa trẻ khó coi nhất mà họ từng thấy. Quả cũng không ngoa. Con bé có khuôn mặt mỏng dính, thân hình gầy gò, mái tóc sáng màu lơ thơ, lại còn hay gắt gỏng. Tóc nó vàng hoe, mặt cũng vàng bệch bởi nó sinh ra ở Ấn Độ và thường xuyên đốm đau, không bệnh này thì tật nọ. Cha nó từng có một chân trong chính phủ Anh, ông lúc nào cũng bận rộn lại thường đau yếu. Còn mẹ nó đẹp mê hồn, bà chỉ quan tâm đến các buổi tiệc tùng, thích tiêu khiển với những con người vui tươi, hạnh phúc. Bà chẳng hề muốn có một đứa con gái nhỏ, cho nên khi Mary vừa ra đời bà bèn giao nó ngay cho một Ayah chăm sóc, và cô này được nhắc nhở rằng nếu muốn làm vui lòng Memsahib thì cô phải lo sao cho đứa bé càng khuất mắt bà càng tốt. Chính vì thế, từ khi còn là đứa bé sơ sinh ốm nhóc, quấy quả và xấu xí, nó đã bị xa lánh; và rồi đến khi trở thành một sinh vật luôn ốm yếu, quấy quả và xấu xí, nó cũng bị xa lánh nốt. Nó không sao nhớ nổi một cái gì thân thiết ngoài những khuôn mặt đen nhẻm của các Ayah cùng dăm ba người đầy tớ bản địa khác; và vì họ luôn luôn vâng lời nó, và để cho nó làm mọi thứ theo cách của nó, bởi vì Memsahib sẽ nổi giận nếu bà bị tiếng khóc của nó làm phiền. Nên mới 6 tuổi thôi mà nó đã ngạo ngược, ích kỷ. Cô gia sư người Anh đến dạy nó đọc và viết ghét nó đến nỗi được ba tháng là cô ta đã bỏ việc, rồi khi các gia sư khác đến thế chỗ thì họ còn bỏ đi nhanh hơn cả cô giáo đầu. Thế nên, nếu Mary không thực sự muốn đọc sách thì nó cũng chẳng thèm học chữ làm gì. Khi con bé lên 9 tuổi, vào một buổi sáng nóng như thiêu đốt, nó thức dậy với cảm giác vô cùng bực bội, rồi lại càng bực bội hơn nữa khi thấy người đầy tớ đứng ngay cạnh giường mà không phải là Ayah của nó. - Cô đến đây làm gì? – Nó hỏi người phụ nữ lạ mặt. – Tôi không khiến cô ở đây. Trả Ayah cho tôi. Cô gái nọ tỏ ra hốt hoảng, nhưng cô ta chỉ lắp bắp rằng Ayah không thể tới được. Con bé liền đùng đùng nổi giận, nó đấm đá cô hầu túi bụi. Cô ta chỉ càng thêm kinh hoàng hơn nữa, miệng vẫn lặp đi lặp lại rằng Ayah không thể tới hầu hạ Misse Sahib được nữa. Buổi sáng hôm đó có một vẻ gì thật bí ẩn. Chẳng ai động chân động tay theo cái trật tự vốn đã đều đặn hàng ngày, dường như cả những người đầy tớ địa phương cũng lặn mất tăm. Nhưng còn những người mà Mary nhìn thấy thì hoặc lẩn đi hoặc chạy vội vàng với những khuôn mặt tái nhợt và đầy sợ hãi. Không ai nói gì với nó, cả Ayah của nó cũng không tới. Nó đã bị bỏ rơi suốt buổi sáng và cuối cùng đành phải thơ thẩn bước ra vườn, lủi thủi chơi một mình dưới tán cây gần hàng hiên. Nó giả bộ như đang trồng một luống hoa bằng cách cắm mấy bông dâm bụt đỏ to tướng vào các đống đất nhỏ, và mỗi lúc một thêm tức tối, miệng lẩm bẩm những gì nó sẽ nói với Saidie khi cô quay về. "Đồ con lợn! Con lợn!" Nó văng tục, bởi vì gọi một người bản xứ là con lợn là một sự lăng mạ kinh khủng nhất trong mọi sự lăng mạ. Nó đang nghiến răng đay đi đay lại từ đó thì chợt nghe thấy tiếng chân mẹ nó bước ra hành lang với ai đó. Bà đi cùng một thanh niên có khuôn mặt khả ái, họ đang hạ thấp giọng trò chuyện. Mary biết người thanh niên đẹp trai có dáng vẻ thiếu niên kia. Nghe nói anh ta là một sĩ quan trẻ vừa từ nước Anh sang. Con bé nhìn anh ta chằm chằm, nhưng rồi nó nhìn vào mẹ nó còn chăm chú hơn. Nó luôn làm vậy mỗi khi có dịp thấy bà, bởi vì Memsahib – Mary thường gọi bà như vậy thay cho bất kỳ cách xưng hô nào khác – quả là một phụ nữ xinh đẹp, dáng người mảnh dẻ, dong dỏng và ăn vận hết sức dễ thương. Mái tóc bà mềm mại như tơ với những lọn quăn quăn. Bà có cái mũi nhỏ thanh tú vẻ kiêu kỳ cùng đôi mắt to như đang cười. Tất cả y phục của bà đều mỏng tang, tha thướt mà con bé Mary bảo rằng chúng được làm "toàn bằng ren". Sáng nay, váy áo của bà còn đính nhiều đăng ten hơn thế, thế nhưng đôi mắt bà lại chẳng cười chút nào. Chúng mở rộng, hốt hoảng và ngước lên đầy vẻ van nài trước khuôn mặt viên sĩ quan điển trai. - Lẽ nào lại tồi tệ đến vậy? Ôi, lẽ nào? Mary nghe thấy mẹ nó rên rỉ. - Khủng khiếp! – Chàng trai trả lời bằng giọng run run. – Khủng khiếp quá, bà Lennox ạ. Lẽ ra bà nên về vùng đồi từ hai tuần trước mới phải. Memsahib vặn hai bàn tay vào nhau. - Ôi, tôi hiểu lẽ ra tôi phải làm thế! – Bà kêu lên. – Trong khi tôi ở lại đây vì những buổi tiệc tùng ngớ ngẩn kia. Thực ngu xuẩn làm sao! Đúng lúc đó, có tiếng kêu gào than khóc vang lên từ khu nhà bọn gia nhân khiến bà vịn chặt vào cánh tay chàng trai, còn Mary thì run lập cập từ đầu tới chân. Tiếng kêu gào mỗi lúc một trở nên man dại. - Cái gì thế? Cái gì thế? – Bà Lennox hổn hển thốt lên. - Chắc có ai chết – Viên sĩ quan trẻ đáp. – Bà chẳng bảo vừa có chuyện xảy ra trong đám gia nhân của bà đó sao. - Tôi không biết! – Memsahib kêu to. – Đi với tôi! Đi với tôi nào! – Đoạn bà quay lưng chạy vào nhà. Ngay sau đó, những điều kinh hoàng xảy đến với Mary, và bí ẩn của buổi sáng đã được làm rõ. Bệnh tả đang bùng phát dữ dội, người chết đông như ruồi. Ayah đã bị căn bệnh tấn công trong đêm, và bởi vì cô vừa mới chết mà đám gia nhân gào lên trong lều. Cho tới ngày hôm sau, 3 gia nhân nữa cũng lăn quay ra chết, số còn lại bỏ chạy tán loạn trong nỗi kinh hoàng. Sự hoảng loạn bao trùm khắp nơi, thi hài nằm ngổn ngang trong tất cả các ngôi nhà một tầng. Trong cơn bối rối hoang mang của ngày hôm sau, Mary trốn vào căn phòng dành riêng cho trẻ nhỏ, mọi người cũng quên khuấy mất nó. Không một ai nhớ đến nó, cũng chẳng ai màng tới nó, và những điều kinh sợ nhất vừa xảy ra xung quanh mà nó thì chẳng hiểu gì. Mary hết k​êu khóc rồi lại ngủ thiếp đi từ giườ này sang giờ khác. Nó cứ tưởng mọi người bị ốm, nó còn nghe thấy những âm thanh huyền bí, ghê rợn. Có lần nó bò vào phòng ăn thì thấy căn phòng trống trơn, mặc dầu thức ăn vẫn con dang dở trên bàn, ghế và đĩa ăn ngổn ngang khắp phòng như thể những người đang ngồi ăn đột ngột đứng phắt dậy bởi một lý do nào đó. Con bé ăn mấy trái cây và bánh bích quy, nó thấy khát nên uống cốc rượu vang vẫn còn khá đầy. Có vị ngọt, và nó không thể lường được rượu mạnh như thế nào. Chẳng mấy chốc, rượu khiến nó buồn ngủ rũ, nó bèn lê về phòng riêng, chốt cửa phòng lại. Lúc này, nó vẫn còn thấy sợ những tiếng kêu khóc từ dãy lều vẳng lại cùng tiếng chân người vội vã. Rượu khiến nó buồn ngủ đến nỗi không thể mở nổi mắt ra, cứ thế nằm vật xuống giường, không còn biết trời đất gì nữa trong một khoảng thời gian dài. Bao nhiêu chuyện đã xảy ra giữa lúc nó ngủ mê mệt như thế. Những tiếng than khóc và âm thanh của mọi thứ diễn ra bên trong và bên ngoài tòa nhà một tầng không lay động nổi nó. Tỉnh giấc, nó nằm dài và nhìn chòng chọc vào bức tường. Ngôi nhà hoàn toàn yên tĩnh. Nó chưa bao giờ thấy ngôi nhà vắng lặng đến thế. Nó nghe rõ tiếng nói lẫn tiếng bước chân và tự nhủ không biết mọi người đã khỏi bệnh và những rắc rối đã qua đi chưa. Nó cũng tự hỏi bây giờ ai sẽ là người chăm sóc nó vì Ayah của nó đã chết rồi. Chắc hẳn sẽ là một Ayah mới, và có lẽ cô ấy cũng có biết một vài câu chuyện mới để kể nó nghe. Mary đã phát chán với các Ayah cũ. Nó không khóc khi nghe tin người vú em của nó chết. Nó không phải là một đứa trẻ quá quyến luyến hay thực sự quan tâm tới ai. Tiếng náo loạn và than khóc bởi dịch tả khiến nó thấy kinh sợ, và nó tức giận vì dường như không một ai biết rằng nó còn sống. Mọi người đều đang kinh hoàng đến nỗi chẳng còn nhớ tới một con bé không ai ưa. Khi tất cả đều nhiễm bệnh thì họ chẳng nhớ tới gì khác ngoài bản thân họ. Khi họ khỏi bệnh rồi, chắc sẽ có ai đó nhớ ra nó và đi tìm. Nhưng chẳng một ai tới, trong khi nó nằm chờ đợi thì ngôi nhà dường như mỗi lúc một vắng lặng hơn. Nó nghe có tiếng sột soạt trên tấm thảm cói, nhìn xuống thì thấy một con rắn nhỏ vừa trườn đi vừa nhìn nó với đôi mắt tựa hai viên ngọc. Con bé không hề sợ vì nó biết con rắn chỉ là một sinh vật nhỏ bé vô hại. Con rắn kia có vẻ vội vàng muốn rút khỏi phòng. Nó lủi mất dưới khe cửa ra vào trong khi Mary cứ mãi nhìn theo. - Thật kỳ cục, sao lại yên lặng thế nhỉ? – Nó lẩm bẩm. – Hình như chẳng còn ai trong nhà ngoài mình và con rắn. Gần như ngay tức thì, nó nghe thấy tiếng bước chân ở ngoài khoảng đất rào kín, rồi ngoài hiên. Đúng là tiếng chân đàn ông, họ đang tiến vào ngôi nhà và thì thầm với nhau. Không có ai ra gặp hoặc nói gì với họ, và dường như họ đang mở cửa rồi nhìn vào từng phòng. - Hoang tàn! – Nó nghe ai đó nói. – Một phụ nữ thật xinh đẹp. Và một đứa trẻ thì phải, tôi nghe nói có một đứa trẻ ở đây, mặc dầu chưa ai trông thấy nó. Mary đứng sững giữa phòng trẻ khi họ mở cửa phòng chỉ ít phút sau đó. Trông nó thực xấu xí, đáng sợ, mặt rầu rĩ cau có bởi vì nó bắt đầu cảm thấy đói, và có cảm giác là mình bị bỏ mặc một cách thật khốn khổ. Người đàn ông đầu tiên bước vào phòng là viên sĩ quan có thân hình vạm vỡ mà nó đã có lần thấy khi ông đang nói chuyện với cha nó. Nom ông có vẻ mệt mỏi và buồn rầu, nhưng vừa thấy con bé ông giật mình sửng sốt đến nỗi nhảy lùi lại. - Barney! – Ông kêu lên. – Có một đứa trẻ ở đây! Còn mỗi mình nó thôi! Giữa một nơi như thế này! Thật may cho chúng ta. Con cái nhà ai thế nhỉ? - Cháu là Mary Lennox. – Con bé đáp và ngước lên một cách khó nhọc. Nó cho rằng người đàn ông này thật vô lễ vì dám gọi ngôi nhà một tầng của cha nó là "một nơi như thế này!" – Lúc mọi người bị mắc dịch tả thì cháu ngủ thiếp đi. Cháu cũng vừa mới dậy thôi. Tại sao không thấy ai tới? - Chưa bao giờ gặp đứa trẻ nào như vậy! – Người đàn ông nọ thốt lên, quay sang mấy người đi cùng. – Con bé thật sự bị bỏ quên! - Tại sao cháu lại bị bỏ quên? – Mary hỏi, giậm mạnh hai chân. – Sao không thấy ai đến? Chàng trai có tên là Barney nhìn nó với vẻ mặt vô cùng rầu rĩ. Mary thấy anh ta chớp mắt liên tục tưởng như muốn ứa nước mắt. - Em bé đáng thương! – Anh thốt lên – Làm gì còn ai mà đến. Một cách kỳ lạ và bất ngờ, Mary nhận ra nó không còn cả cha lẫn mẹ: Rằng họ đã chết và được chở đi trong đêm, chỉ còn mấy tên đầy tớ người địa phương là sống sót và cũng nhanh chân chuồn khỏi nhà rồi; không một ai còn nhớ tới Cô chủ nhỏ. Đó là nguyên do tại sao khắp nơi lại vắng tanh vắng ngắt đến thế. Thực sự là chẳng còn ai trong ngôi nhà này ngoài con bé và con rắn nhỏ đang bò sột soạt.
Chương 2: Cô chủ Mary quá ư ngang ngược Bấm để xem Mary thích ngắm mẹ từ xa và thầm nhủ mẹ rất đẹp. Nhưng nó chẳng biết về bà được bao nhiêu, vậy nên khi bà qua đời, cũng khó lòng mà mong nó sẽ thương yêu hay thấy nhớ bà nhiều lắm. Trên thực tế, nó hoàn toàn không nhớ bà, nó là đứa trẻ chỉ quan tâm đến bản thân và chỉ biết có mình, như nó vẫn thường vậy. Gái như lớn hơn chút nữa thì ắt hẳn nó sẽ vô cùng lo sợ khi chỉ còn lại một mình trên đời; nhưng nó còn ít tuổi, hơn nữa lại luôn được hầu hạ chăm sóc nên nó cho rằng mình vẫn sẽ được như vậy. Điều nó quan tâm lúc này là liệu mọi người có đối xử tử tế và hầu hạ nó như Ayah và các đầy tớ người địa phương vẫn làm. Con bé biết nó sẽ không ở lại nhà ông mục sư người Anh là nơi nó được gửi đến trước tiên. Nó không thích ở đấy. Ông mục sư người Anh nọ vốn nghèo túng; ông có 5 đứa con sàn sàn tuổi nhau, đứa nào cũng ăn mặc lôi thôi xoàng xĩnh, suốt ngày chí choé vì tranh giành đồ chơi của nhau. Mary thấy căm ghét ngôi nhà một tầng lộn xộn bừa bãi của họ và tỏ ra khó chịu với bọn trẻ đến nỗi, chỉ sau một hai ngày, không đứa nào chịu chơi với nó. Sang ngày thứ 2, bọn trẻ đã tặng cho nó một biệt danh khiến nó vô củng tức tối. Thằng Basil là đứa nghĩ ra cái tên ấy trước tiên. Basil là một thằng nhóc có đôi mắt xanh hỗn xược và cái mũi hếch. Mary rất ghét thằng này. Con bé đang chơi một mình dưới tán cây, như nó từng chơi vào hôm bệnh tả bùng phát. Nó đang vun mấy đống đất và vài lối đi cho một khu vườn thì thằng Basil tới đứng ngay cạnh nhìn nó. Chẳng mấy chốc thằng bé tỏ ra quan tâm và đột nhiên gợi ý: - Sao mày không vun một đống đá ở đây giả vờ làm một ngọn núi, hả? Ở chỗ giữa này này. – Có cúi xuống phía con bé mà chỉ. - Cút đi! – Mary kêu lên. – Tao không thích bọn con trai. Cút ngay! Thế là thằng Basil cáu tiết, rồi nó bắt đầu chòng ghẹo. Nó là chúa hay trêu chọc các chị em nó. Thằng nhóc nhảy vòng quanh con bé, phồng mồm trợn mắt, vừa nhảy vừa cười. Cô chủ Mary này, thật quá ư ngang ngược. Làm sao vườn cô mọc nổi đây? Khi chuông bạc rồi vỏ sò tạp nhạp. Cùng cúc vạn thọ lẫn lộn cả một nơi. Thằng nhóc hát ông ổng cho đến khi bọn trẻ nghe thấy và bật cười. Con Mary càng bỏ xa thì chúng càng hát oang oang câu "Cô chủ Mary quá ư ngang ngược." Sau đó, những lúc con bé ở với chúng thì chúng chuyển sang gọi nó là "Cô chủ Mary Ngang ngược", lúc thì nói với nhau, lúc thì nói với nó. - Mày sắp được gửi về nhà rồi đấy, - Basil bảo nó, - vào cuối tuần này. Chúng tao mừng cho mày. - Tao cũng mừng. – Mary đáp. – Nhưng nhà ở đâu? - Nó không biết nhà ở đâu kìa! – Thằng Basil kêu lên với vẻ khinh thường ra mặt. – Dĩ nhiên là ở bên Anh. Bà nội của bọn tao sống ở đó, con em gái bọn tao là Mabel cũng được gửi sang cho bà vào năm ngoái. Nhưng mày thì không được gửi sang cho bà nội đâu. Vì mày làm gì có bà. Mày sẽ được gửi cho bác mày. Tên ông ấy là Archibald Craven. - Tao không biết gì về ông ấy cả. – Mary gắt gỏng. - Tao cũng rõ là mày không biết. – Thằng Basil đáp. – Mày chẳng biết gì hết. Bọn con gái đứa nào cũng vậy. Tao có nghe cha mẹ tao nói về ông ta. Ông ta hiện đang sống trong một ngôi nhà cổ to tướng tiêu điều rộng lớn ở vùng quê, không một ai muốn tới gần ông ta. Ông ta hay cáu và không cho ai đến gần, mà mọi người cũng không ai đến nếu ông ta cho phép. Ông ta là một người lưng gù và rất đáng sợ. - Tao không tin mày! – Mary đáp rồi quay phắt đi, lấy ngón tay bịt chặt hai tai lại bởi vì nó không muốn nghe thêm gì nữa. Nhưng sau đó, điều ấy khiến nó suy nghĩ rất nhiều. Rồi đến đêm, lúc bà Crawford bảo với nó rằng trong vài ngày tới bà sẽ xuống tàu sang Anh để đến chỗ bác nó, ông Archibald Craven, hiện đang sống ở trang viên Misselthwaite, thì con bé trở nên lạnh lùng và thờ ơ bướng bỉnh đến nỗi mọi người không biết nghĩ sao về nó nữa. Họ cố đối xử tốt với nó, nhưng nó vẫn ngoảnh mặt đi khi bà Crawford muốn hôn nó, và cũng kiên quyết không nhân nhượng khi ông Crawford vỗ vỗ lên vai nó. - Nó chỉ là đứa trẻ hết sức bình thường. – Bà Crawford nói với vẻ mủi lòng. Còn mẹ nó, một phụ nữ mới xinh đẹp làm sao. Bà ấy có phong thái vô cùng trang nhã. Còn Mary lại có cái lối kém dễ thương nhất tôi từng thấy ở một đứa trẻ. Thảo nào bọn trẻ vẫn gọi nó là "Cô chủ Mary quá ư ngang ngược". Và mặc dù chúng nói vậy thật hư nhưng người ta có thể hiểu được lý do tại sao. - Có lẽ nếu mẹ nó thường xuyên vào phòng trẻ với gương mặt dễ thương và kiểu cách thanh lịch của bà ấy thì hẳn là Mary cũng học được cách cư xử tử tế. Thực đáng buồn, con người xinh đẹp tội nghiệp ấy giờ đây đã khuất rồi, đâu có ngờ nhiều người chưa bao giờ biết rằng bà ấy có một đứa con. Bà Crawford thở dài: - Tôi cho rằng bà ta hiếm khi ngó ngàng đến nó. Từ khi Ayah của nó chết thì chẳng một ai để ý đến đứa trẻ bé bỏng ấy nữa. Cứ thử hình dung cảnh bọn đày tớ tháo chạy, bỏ mặc con bé trơ trọi trong ngôi nhà hoang ấy thì rõ. Đại tá MacGrew bảo ông ấy đã giật bắn mình khi vừa mở cửa thì thấy nó đứng sừng sững ngay giữa phòng. Mary đã trải qua một chuyến hành trình dài sang Anh, nhờ vào sự chăm sóc của vợ một viên sĩ quan, bà này đang mang các con sang để gửi vào trường nội trú. Cậu con trai và cô con gái bé bỏng đã choán hết tâm trí bà, và bà lấy làm vui mừng khi gửi được Mary cho người phụ nữ mà ông Archibald Craven đã cử tới gặp bà ở Luân Đôn. Người này là quản gia của ông tại Misselthwaite, tên là Medlock. Bà là một phụ nữ đẫy đà, hai má đỏ hây hây, đôi mắt đen láy sắc sảo. Bà vận y phục màu tía, bên ngoài khoác chiếc áo choàng rông không tay bằng lụa đen có đính diềm hạt huyền, chiếc mũ đen có dây buộc dưới cằm đính mấy bông hoa bằng nhung tía cứ rung tinh suốt mỗi khi bà quay đầu. Mary không ưa bà chút nào, cũng như nó hiếm khi ưa thích một ai, điều này chẳng có gì đáng lạ, hơn nữa rõ ràng bà Madlock không mấy để ý đến nó. - Nói thực tình, con bé trông chẳng có gì đặc biệt. Chúng tôi nghe đồn mẹ nó là một người nhan sắc. Con bé chẳng thừa hưởng ở mẹ được bao nhiêu, phải không bà? - Biết đâu khi lớn lên chút nữa nó sẽ khác. – Bà vợ viên sĩ quan đáp với vẻ hiền hậu. – Nếu con bé không vàng bủng vàng beo, lại biết biểu lộ tình cảm một cách dễ thương thì nó cũng có những nét khá đấy chứ. Trẻ con chóng thay đổi lắm. Bà Madlock đáp: - Vâng, con bé còn thay đổi nhiều. Và không nơi đâu cải thiện lũ trẻ tốt bằng ở Misselthwaite, nếu như bà muốn biết ý kiến của tôi! Họ cứ tưởng Mary không nghe thấy bởi vì nó đứng bên cửa sổ cái khách sạn họ vừa mới tới, cách hai người khá xa. Con bé dù đang ngắm xe cộ và dòng người qua lại nhưng vẫn nghe rõ mồn một, nó hết sức tò mò về ông bác của mình và nơi ông đang sống. Chẳng hiểu chỗ ấy ra sao và ông ta là người như thế nào? Người lưng gù là người thế nào nhỉ? Nó chưa bao giờ nhìn thấy một người gù. Có lẽ ở Ấn Độ không có người gù. Kể từ ngày ăn nhờ ở đậu nhà người và không có Ayah bên cạnh, nó bắt đầu cảm thấy cô đơn và nảy ra trong đầu những ý nghĩ kỳ quặc chưa từng có. Nó cứ tự hỏi tại sao nó chẳng phải là con của ai cả, thậm chí ngay cả lúc cha mẹ nó còn sống. Dường như đứa trẻ nào cũng thuộc về cha mẹ chúng, chỉ có mình nó chưa bao giờ thực sự là đứa con gái bé bỏng của ai đó. Nó đã từng có người hầu kẻ hạ, có cơm ăn áo mặc nhưng mấy ai để tâm tới nó. Nó không biết rằng đó là do nó là một đứa trẻ khó chịu; nhưng dĩ nhiên rồi, nó thì làm sao biết được nó lại là đứa trẻ khó chịu và đáng ghét kia chứ. Nó vẫn tưởng người khác mới như thế, chứ bản thân mình thì không. Con bé cho rằng bà Madlock là người đáng ghét nhất mà nó từng gặp, với khuôn mặt hồng hào nhưng tầm thường, cùng chiếc mũ xinh xinh tầm thường của bà ta. Hôm sau, họ lên đường khởi hành tới Yorkshire, con bé rảo bước qua nhà ga để tới chỗ đoàn tàu hỏa, nó ngẩn cao đầu và cố tránh càng xa bà ta càng tốt, bởi vì nó không muốn thiên hạ tưởng lầm rằng nó liên quan tới bà. Trong lòng vô cùng tức tối khi nghĩ tới việc mọi người cứ tưởng nó là đứa con gái nhỏ của bà ta. Nhưng bà Medlock không hề bị làm phiền bởi sự có mặt và những duy nghĩ nung nấu cùa con bé. Bà thuộc tuýp phụ nữ luôn "tỉnh bơ trước sự nhố nhăng của bọn nhóc". Chí ít thì đó là điều bà sẽ đáp lại nếu như có ai hỏi bà. Quả tình bà không muốn tới Luân Đôn vào lúc cô con gái bà chị Maria của ba sắp cưới, nhưng vì bà đã kiếm được chân quản gia lương cao bổng hậu, công việc lại nhẹ nhàng tại trang viên Misselthwaite, âu cũng chỉ còn mỗi cách để bà có thể giữ được chỗ làm đó là phải răm rắp nghe theo những gì ông Archibald Craven bảo. Bà chưa bao giờ dám hỏi dù chỉ một câu. Ông Craven nói với một vẻ lạnh lùng cụt lủn: - Đại tá Lennox và vợ ông đã qua đời vì bệnh tả. Đại tá là em vợ tôi và tôi là người giám hộ cho con gái của họ. Đứa trẻ đã được gửi đến đây. Bà phải đích thân đi Luân Đôn và mang nó về cho tôi. Bà chỉ kịp sắp hành lý vào một cái rương nhỏ rồi đi ngay. Mary ngồi nép vào một góc trong toa xe hỏa, nom nó có vẻ buồn rầu và khổ sở. Chẳng có gì để đọc hoặc để ngắm, nó chỉ còn biết đặt hai bàn tay mang găng màu đen mỏng dính trên vạt váy. Bộ váy màu đen khiến trông nó còn vàng vọt hơn trước đây, mấy lọn tóc mỏng tang ẻo lả lòa xòa dưới chiếc mũ làm bằng loại vải mỏng nhẹ màu đen. "Một con nhóc hư nhất mình từng gặp trong đời." - Bà Medlock nghĩ bụng. Quả thực bà chưa bao giờ thấy đứa trẻ nào cứ ngồi lì một chỗ chẳng động tay động chân; cuối cùng, đâm ra chán ngấy với việc phải nhìn nó, bà bèn cất giọng uy quyền với vẻ thản nhiên. - Tôi cho rằng tôi có thể nói cho cô hay vài điều về nơi cô sắp đến. Cô có biết gì về người bác của cô không? - Không. – Mary đáp. - Cô chưa nghe cha mẹ cô nói gì về ông ta sao? - Chưa. – Mary nhíu mày trả lời. Nó nhíu mày vì nó còn nhớ cha mẹ nó chẳng bao giờ nói với nó điều gì đặc biệt. Chắc chắn họ chưa bao giờ nói với nó điều gì như vậy cả. - Hừm.. - Bà Medlock lầu bầu và nhìn chòng chọc vào khuôn mặt lạnh nhạt khó chịu của nó. Bà không nói gì trong giây lát, rồi lại lên tiếng. - Thiết nghĩ cô cũng phải được nghe đôi điều để còn chuẩn bị trước. Cô sắp sửa tới một nơi hết sức kỳ cục đấy. Mary chẳng nói chẳng rằng càng làm bà Medlock chưng hửng trước vẻ thờ ơ lộ liễu của con bé. Sau khi hít một hơi, bà lại tiếp tục: - Đó không chỉ là một tòa nhà đồ sộ, u ám, ảm đạm mà ông Craven vẫn tự hào theo cái cách riêng của ông ấy – dù kể ra thì nó cũng u ám thực. Tòa nhà ấy những 600 tuổi rồi, nằm bên rìa một cánh đồng hoang và dễ có tới gần một trăm phòng trong đó, mặc dù hầu hết đều đóng kín và khóa chặt. Có cơ man nào là tranh, đồ nội thất cổ tinh xảo và những thứ đã nằm ở đó tự thưở nào. Cả một công viên lớn bao quanh nó, rồi các khu vườn, cây cối với tán lá lòa xòa rủ cả xuống mặt đất – Bà ngừng lại một lát lấy hơi. – Ngoài ra chẳng còn gì. – Rồi đột nhiên, bà kết thúc. Mary bắt đầu chú ý lắng nghe, mặc dù nó vẫn giả bộ thờ ơ. Tất cả những điều đó nghe có vẻ không giống Ấn Độ chút nào, và mọi thứ mới mẻ đều đang cuốn hút nó. Nhưng nó làm bộ không thèm quan tâm. Đó là một trong những cách nó gây khó chịu cho người khác. Và nó vẫn ngồi im. - Vậy thì, - bà Medlock lên tiếng. – Cô nghĩ thế nào về chuyện đó? - Chẳng nghĩ gì hết, - con bé đáp. – Tôi chẳng hiểu gì về những nơi như thế. Câu trả lời khiến bà Medlock đột nhiên cười phá lên. - Này, thế thì cô đúng là một bà già mất rồi. Cô không quan tâm gì sao? - Tôi có quan tâm hay không thì chẳng có gì quan trọng. – Con bé đáp. - Đến đây thì cô đúng, - bà Medlock đáp, - không có gì quan trọng. Cô được lưu lại trang viên Misselthwaite vì lý do gì thì tôi chịu, trừ phi bởi đó là cách dễ dàng nhất. Ông ấy chẳng bận tâm đến cô đâu, đó là điều chắc chắn. Ông ấy chưa bao giờ bận tâm đến ai cả. Bà ta dừng lại như thể lúc ấy vừa chợt nhớ ra điều gì. - Ông ấy gù lưng. Có lẽ điều đó khiến ông luôn trong tâm trạng bất ổn. Ông còn trẻ mà đã hay cáu kỉnh, và cho tới khi lấy được vợ thì ông ấy chẳng biết dùng tiền bạc và cơ ngơi to lớn của mình vào việc gì. Mary ngước mắt nhìn bà, mặc dù nó định tỏ vẻ là không thèm nghe. Nó quả chưa bao giờ tưởng tượng một người lưng gù lại có thể cưới được vợ nên thấy ngạc nhiên kinh khủng. Bà Medlock nhận ra điều này và vốn dĩ là một người đàn bà lắm mồm, bà ta lại tiếp tục, mỗi lúc một say sưa. Đó là một cách giết thời gian trong mọi hoàn cảnh. - Bà ấy thật xinh xắn, đáng yêu, và ông ấy có thể đi khắp thế giới chỉ để kiếm cho bà một nhánh cỏ mà bà muốn. Không môt ai nghĩ bà ấy lại lấy ông, vậy mà bà ấy đã làm thế, thiên hạ họ đồn bà ấy lấy ông chỉ vì tiền. Nhưng bà ấy không phải vậy – bà ấy không phải là người như vậy, tuyệt đối không. Khi bà ấy chết.. Mary bỗng giật nảy người. - Ôi, bà ấy chết rồi à? – Con bé kêu lên, hoàn toàn vô thức. Nó chợt nhớ tới một câu chuyện thần tiên của Pháp mà có lần nó đã đọc tên là "Riquet à la Houppe". Câu chuyện kể về một người lưng gù nghèo khó và một cô công chúa xinh đẹp, khiến con bé chợt thấy thương cảm cho ông Archibald Craven. - Phải. – Bà Medlock đáp. – Chính chuyện này khiến ông ấy càng trở nên kỳ cục hơn bao giờ hết. Ông không còn quan tâm tới bất kỳ ai. Mà cũng chẳng muốn gặp gỡ người nào hết. Hầu hết thời gian ông đi đây đó và hễ cứ về tới Misselthwaite là ông lại giam mình trong chái nhà phía Tây, không cho ai ngoài Pitcher được phép gặp mặt. Pitcher là một lão già đã trông nom ông từ khi ông còn bé và chỉ có lão mới biết đường mà chăm sóc ông. Câu chuyện đó tựa hồ như chỉ có trong sách, và nó không làm Mary thấy vui. Một ngôi nhà có đến ngót trăm căn phòng mà hầu như đều đóng kín mít, cửa khóa then cài – một ngôi nhà nằm bên rìa cánh đồng hoang, cho dù cánh đồng hoang có là cái gì đi nữa, thì cũng quả là thê lương. Một người đàn ông với cái lưng gù luôn tự giam mình thì cũng như thế. Nó đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Nếu bà vợ xinh đẹp của ông ấy còn sống, hẳn bà ấy sẽ làm một cái gì đó đầy hào hứng, tựa như người mẹ của nó, chạy ra chạy vào hoặc mặc những tà áo dài "đầy đăng ten" đi dự tiệc. Nhưng bà ấy làm gì còn trên đời. - Cô đừng mong đợi gặp ông ấy làm gì, tôi dám cược 10 ăn 1 là cô không muốn đâu. – Bà Medlock bảo. – Cô cũng đừng mong có ai chuyện trò hỏi han. Cô sẽ phải tự chơi lấy và tự chăm sóc bản thân. Rồi cô sẽ được người ta bảo cho căn phòng nào thì được phép vào và căn phòng nào cô phải tránh xa. Ngần ấy vườn tược là đủ rồi. Nhưng khi đã đặt chân vào nhà thì đừng có lang thang đây đó hay tò mò lục lọi. Ông Craven không cho phép đâu. - Tôi không thèm tò mò lục lọi gì hết. – Con bé Mary chanh chua đáp lại. Và cũng đột ngột như khi nó bắt đầu thấy xót xa cho ông Archibald Craven, lúc này nó đâm bớt thương cảm và nghĩ bụng ông ta khó chịu như thế, có gặp chuyện như vậy cũng đáng thôi. Đoạn nó ngoảnh sang cánh cửa chớp của toa xe, nhìn chằm chằm vào cơ mưa dông xám xịt tưởng chừng như đang xối xả bất tận ngoài kia. Cho tới khi bầu trời mỗi lúc một xám xịt hơn. Mưa mỗi lúc một nặng hạt hơn trước mắt nó và nó ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Chương 3: Bên kia cánh đồng hoang Bấm để xem Bên kia cánh đồng hoang. Mary ngủ được một lúc khá lâu, khi nó tỉnh dậy thì bà Medlock đã mua sẵn một giỏ đồ ăn trưa tại một ga nào đó, và cả hai đánh chén thịt gà, thị bò nguội, bánh mì với bơ và cả trà nóng nữa, một cách ngon lành. Cơn mưa dường như mỗi lúc một mạnh hơn, mọi người trên sân ga ai nấy đều khoác trên mình những chiếc áo mưa ước sũng và bóng loáng. Người phụ trách đoàn tàu đi thắp các ngọn đèn dầu trong toa, và bà Medlock tỏ ra vui vẻ hơn sau khi chén đẫy các món thịt gà, thịt bò và trà. Sau một bữa no nê, bà ngủ thiếp đi, con bé Mary ngồi nhìn bà chòng chọc, ngắm ngiá chiếc mũ tròn không vành xinh xắn của bà lúc này bị lệch sang một bên, cho tới khi chính nó cũng một lần nữa thiếp đi trong góc toa, được tiếng mưa táo vào cửa sổ vỗ về trong giấc ngủ. Khi nó tỉnh dậy lần nữa thì trời đã tối mịt. Đoàn tàu dừng bánh trước một sân ga, bà Medlock lay con bé. - Cô ngủ được một giấc rồi đấy! Dậy đi nào! Chúng ta đã tới ga Thwaite, còn cả một chặng đường dài trước mắt nữa cơ mà. Mary đứng dậy, cố mở mắt, trong khi bà Madlock thu xếp hành lý. Nó không tỏ ý muốn giúp bà, bởi vì ở Ấn Độ đám tôi tớ người địa phương thường phải khuân vác đồ đạc nên chuyện những người khác phải hầu hạ, phục dịch một người là lẽ đương nhiên. Đây là một ga xép và dường như chẳng có ai xuống tàu trừ hai người. Người trưởng ga nói với bà Medlock bằng một giọng khề khà đôn hậu, với lối phát âm nằng nặng hơi lạ tai của ông ta, và ngay sau đó, Mary biết được rằng đó là giọng Yorkshire. - Tôi mừng bà đã trở về, - ông ta nói. – Lại còn mang theo một đứa trẻ nữa. - Đúng vậy, nó đấy, - bà Medlock đáp lời cũng bằng thứ giọng vùng Yorkshire và hất đầu về phía Mary. – Bà nhà ông thế nào? - Cũng ổn. Xe ngựa đang ở ngoài kia chờ hai người đấy. Cỗ xe độc mã đỗ bên đường trước thềm ga nhỏ. Mary thấy đó là một cỗ xe thanh nhã và một người hầu trông cũng rất lịch lãm, đỡ nó lên xe. Chiếc áo mưa dài cùng chiếc mũ trùm kín đầu của anh ta loang loáng và đang sũng nước mưa như tất cả mọi thứ xung quanh, kể cả ông trưởng ga lực lưỡng. Khi anh ta đóng cửa xe rồi trèo lên chỗ ngồi với người đánh xe ngựa, và họ đánh xe đi, thì con bé nhận thấy mình đang ngồi trong một góc xe trải nêm vô cùng êm ái, nhưng nó cũng không định ngủ lại nữa. Đưa mắt ra ngoài cửa sổ, nó tò mò nhìn cảnh vật đang lướt qua bên đường, con đường rồi sẽ đưa nó đến một nơi kỳ dị mà bà Medlock vừa cho nó hay. Nó hoàn toàn không phải một đứa trẻ rụt rè, nó cũng chẳng sợ hãi gì mà chỉ cảm thấy không rõ điều gì sắp xảy đến trong ngôi nhà có đến 100 phòng lúc nào cũng đóng im ỉm kia – ngôi nhà nằm bên rìa một cánh đồng hoang. - Cánh đồng hoang là gì hả bà? – Nó bỗng cất tiếng hỏi bà Medlock. - Cứ nhìn ra ngoài cửa sổ chừng mươi phút cô sẽ rõ. Chúng ta phải đi những 5 dặm xuyên qua cánh đồng hoang Missel, trước khi tới trang viên. Trời tối mịt nên cô chẳng thấy gì nhiều đâu, nhưng cũng có thể nhận ra một vài thứ. Mary không hỏi thêm câu nào nữa mà ngồi im chờ đợi bóng tối của cổ xe, mắt vẫn hướng về phía cửa sổ. Mấy ngọn đèn trên cỗ xe ngựa chỉ đủ soi sáng một quãng ngắn phía trước họ, thế nhưng con bé vẫn loáng thoáng thấy cảnh vật khi họ lướt xe qua. Sau lúc rời khỏi nhà ga, khi qua một ngôi làng nhỏ, nó đã nhìn thấy mấy túp nhà gianh quét vôi trắng và ánh đèn từ một quán rượu hắt ra. Xe chạy qua nhà thờ và nhà xứ rồi lướt nhanh qua cửa sổ của một cửa hiệu nhỏ hay gì đó đại loại như vậy, cũng là nhà gianh, nơi nó thấy có bày bán đồ chơi, kẹo bánh và những thứ ngồ ngộ. Khi ra đến đường cái, nó lại thấy hàng rào cùng cây cối vườn tược. Sau đó, chẳng có gì khác nữa trong cả thời gian dài, hoặc ít ra là một khoảng thời gian đối với con bé. Cuối cùng, những con ngựa bắt đầu phi chậm dần, như thể chúng đang leo lên đồi vậy, rồi ngay lúc ấy chẳng thấy hàng rào cùng cây cối đâu nữa. Mary không còn thấy gì hết ngoài bóng đêm dày đặc hai bên đường. Nó ngả người dán mặt vào khuôn cửa sổ, đúng lúc đó, cổ xe ngựa xóc nảy lên. - À! Giờ thì chắc hẳn chúng ta đã tới cánh đồng hoang rồi. – Bà Medlock thốt lên. Mấy ngọn đèn của cỗ xe ngựa hắt ra một thứ ánh sáng vàng ệch xuống con đường khấp khệnh có vẻ đang xuyên qua các bụi rậm và những gì đó thấp lè te để rồi kết thúc trong màn đêm tối tăm mịt mìng đang trải rộng trước mặt và xung quanh họ. Một cơn gió đang nổi lên và tạo ra thứ âm thanh rì rào, hoang dại và kỳ quặc. - Đây.. đây không phải là biển, phải không? Mary hỏi và quay sang nhìn người đi cùng. - Không đâu, - bà Medlock đáp. – Đó cũng chẳng phải đồng ruộng, hay núi non mà chỉ là những dặm dài vô tận toàn đất hoang, chẳng có gì mọc nổi ngoài thạch thảo, kim tước và đậu chổi, cũng chẳng con gì sống nổi trừ loài ngựa hoang Pony (6) và cừu. - Tôi cảm thấy như đây là biển, nếu có thêm nước, - Mary bảo. – Âm thanh nghe chẳng khác gì biển. - Chẳng qua là gió đang thởi qua các bụi cây, - bà Medlock bảo nó. – Trong tâm trí tôi thì đây là một nơi thê lương hoang dã nhất, mặc dầu cũng có nhiều nơi như thế, đặc biệt là vào mùa thạch thảo ra hoa. Cứ thế họ cho xe chạy xuyên qua đêm tối, và dù lúc này mưa đã tạnh nhưng gió vẫn hối hả, gào rít, tạo ra những âm thanh kỳ dị. Con đường hết dốc lên lại đổ xuống, thỉnh thoảng cỗ xe lăn bánh qua một chiếc cầu nhỏ, bên dưới nước chảy xiết, ầm ầm. Mary có cảm tưởng chuyến đi này sẽ không bao giờ kết thúc, và cánh đồng hoang trống trải, mênh mông là cả một đại dương đen ngòm trải rộng đến vô cùng mà nó đang phải vượt qua. - Mình không thích nơi này. Mình chẳng thích nó tí nào. – Nó thầm nhủ, và lại bặm môi chặt hơn. Khi cỗ xe leo lên một đoạn đường đồi thì con bé nhận ra có một ánh đèn. Cùng lúc, bà Medlcok cũng nhìn thấy ngọn đèn với nó, bèn thở phào nhẹ nhõm. - Chà, tôi lấy làm mừng được trông thấy ánh đèn nhấp nháy, - bà ta thốt lên. – Kia là ánh đèn từ cửa sổ phòng người gác cổng. Chỉ một lát nữa là chúng ta sẽ được làm một tách trà ngon. Quả là phải "một lát nữa", như bà ta nói, bởi vì khi cỗ xe lăn bánh qua cổng vườn thì vẫn còn hai dặm đường nữa, thế rồi những tán cây (gần như ở ngay trên đầu) khiến họ tưởng như đang chạy dọc theo một mái vòm dằng dặc tối tăm. Họ đánh xe ra khỏi vòm cây tới một chỗ quang đãng và dừng bánh trước ngôi nhà dài hun hút nhưng thấp tè, dường nhu bao quanh một cái sân lát đá. Thoạt đầu Mary cứ tưởng không có ánh đèn sau các cửa sổ, nhưng khi vừa bước ra khỏi cỗ xe ngựa, nó nhận thấy có một căn phòng ở phía góc tầng trên phát ra thứ ánh sáng mờ đục. Cửa vào là một cánh cửa khổng lồ làm từ những tấm gỗ sồi chắc nịch, lạ mắt, được tán bằng những chiếc đi to tướng trên các nẹp sắt to bản. Cánh cửa mở thông vào gian đại sảnh rộng thênh thang, nơi chỉ được chiếu sáng mờ mờ đến nỗi những khuôn mặt trong các bức chân dung treo trên tường và hình dáng nhân vật trong các bộ trang phục áo giáp khiến Mary cảm thấy không còn muốn nhìn họ nữa. Khi nó dừng chân trên sàn lát đá, nom nó mới nhỏ bé làm sao, một hình hài tí hon, đen đủi và kỳ quặc, mà chính nó cũng cảm thấy mình thực nhỏ bé, kỳ quặc và mất hết can đảm. Một người đàn ông đứng tuổi, cao gầy, ăn mặc gọn gàng, đang đứng cạnh người hầu mở cửa cho họ. - Hãy đưa cô đây về phòng, - ông ta nói bằng giọng khàn khàn. - Ông chủ chưa muốn gặp cô ấy. Ông ấy sắp sửa đi Luân Đôn vào sáng sớm ngày mai. - Tốt thôi, ông Pitcher, - bà Medlock bảo. – Miễn là tôi biết người ta muốn gì ở tôi, tôi có thể giải quyết được mà. - Điều người ta muốn ở bà, bà Medlock, - Ông pitcher sẵng giọng – là bà phải đảm bảo là ông ấy không bị quấy rầy và không phải thấy những gì ông ấy không muốn thấy. Rồi Mary được dẫn lên một cầu thang rộng, dẫn tới một hành lang dài, qua mấy bậc tam cấp thì đi xuyên qua một hành lang nữa, rồi một hành lang khác cho tới khi mở ra một cánh cửa, và con bé nhận thấy mình đang ở giữa một căn phòng có lò sưởi cùng với bữa tối đã dọn sẵn trên bàn. Mà Medlock nói một cách thô lỗ: - Được rồi, đến nơi rồi đấy! Phòng này và phòng bên là nơi ở của cô, cô phải ở nguyên đây. Chớ có quên! Mary đã tới trang viên Misselthwaite như thế đấy, và có lẽ trong suốt cuộc đời nó, chưa bao giờ con bé cảm thấy trong lòng lại ngổn ngang đến vậy.
Chương 4 - Martha Bấm để xem Sáng hôm ấy, người hầu gái trẻ vào phòng Mary cời thêm lửa trong lò sưởi và khiến nó thức giấc. Chị ta quỳ trên tấm thảm trước lò sưởi để cào than cháy dở nên gây ra tiếng động. Mary vẫn nằm, ngắm chị ta một lúc rồi đưa mắt khắp phòng. Nó chưa bao giờ thấy một căn phòng nào như thế, và nghĩ rằng căn phòng này thật lạ lùng, ảm đạm. Các bức tường đều được phủ kín bằng những tấm thảm có thêu cảnh rừng cây. Kia là những người ăn mặc phóng túng đứng dưới gốc cây, và xa hơn nữa là bóng dáng mấy tháp canh của một tòa lâu đài. Rồi thì cảnh người đi săn, ngựa nghẽo, bầy chó săn và cả mấy phu nhân nữa. Mary có cảm tưởng như nó đang sống trong khu rừng ấy với họ. Phóng tầm mắt qua cửa sổ, nó nhận ra cả một vùng đất đai trải rộng mênh mông dường như không một bóng cây, nom tựa một đại dương vô tận, màu hung đỏ và chán ngắt. - Gì thế kia? – Nó hỏi, chỉ tay ra ngoài cửa sổ. Martha, người hầu gái trẻ nhỏm người lên nhìn, tay cũng chỉ theo. - Ngoài kia ấy ạ? – Chị hỏi. - Phải. - Đấy là cánh đồng hoang, - chị đáp với nụ cười hiền hậu. – Cô có thích không? - Không, - Mary đáp. – Tôi ghét nó. - Chẳng qua là vì cô chưa quen ở đây đấy thôi. – Martha vừa nói, vừa quay trở lại trước lò sưởi. Chắc cô cho rằng nó quá rộng và trống trải. Nhưng rồi cô sẽ thấy thích nó cho mà xem. - Thế còn chị? – Mary dò hỏi. - Ầy, tôi thích chứ! – Martha vui vẻ đáp, tay vẫn lau chiếc ghi lò. – Tôi yêu nó lắm. Nó chẳng trống trải tẹo nào. Khắp vùng này phủ đầy những cây cỏ mang hương vị ngọt ngào. Vào mùa xuân hay mùa hè thì lại càng đáng yêu hơn khi thạch thảo, kim tước và đậu chổi trổ toàn hoa là hoa. Thơm tựa mật ong. Không gian tràn ngập không khí trong lành – bầu trời cao vời vợi, từng bầy ong vo vo và chim chiền chiện thì cất tiếng hót lảnh lót mới dễ thương làm sao. Chà! Tôi sẽ chẳng bao giờ sống xa cánh đồng hoang dù có cái gì đi nữa. Mary lắng nghe chị ta với vẻ mặt bối rối, nghiêm trang. Đám gia nhân người địa phương mà nó đã quen ở Ấn Độ hoàn toàn không giống thế này. Họ đều có vẻ khúm núm và quỵ luỵ chứ không dám chuyện trò bình đẳng với chủ như thế. Họ thường chào kiều salam (7), và gọi chủ mình là "người bảo hộ cho kẻ nghèo" cùng nhiều cái tên tương tự. Các gia nhân người Ấn được yêu cầu chỉ biết làm chứ không được thắc mắc. Chẳng lấy đâu ra thói quen nói "làm ơn" hoặc "cảm ơn" và Mary vẫn thường lăng mạ Ayah của nó mỗi khi nó tức giận. Nó hơi ngỡ ngàng tự hỏi không biết cô gái này sẽ làm gì nếu có kẻ dám lăng mạ cô. Cô ta mộc mạc ưa nhìn, hồng hào và tròn lẳn, nhưng ở chị ta có một vẻ vững chãi khiến cô chủ Mary thầm nghĩ không biết chị ta có phản ứng lại nếu người sỉ nhục mình chỉ là một đứa bé gái. - Chị là một người ở kỳ lạ, - Mary vẫn vùi mặt trong mấy chiếc gối nói với vẻ khá cao ngạo. Martha ngồi xổm, tay cầm chiếc bàn chải màu đen, chị bật cười không một chút bực tức. - Vâng, tôi cũng biết thế, - chị đáp. – Nếu như có một bà lớn ở Misselthwaite thì tôi thậm chí cũng không bao giờ được làm phụ hầu gái nữa kia. Có lẽ tôi chỉ được một chân ở phòng rửa bát là cùng, mà tôi cũng chẳng khi nào được phép lên gác. Tôi quá tầm thường, thêm cái giọng Yorkshire quá nặng. Nhưng đây là ngôi nhà lạ lùng, mặc dù nó thật tuyệt vời. Có vẻ như ông Pitcher và bà Medlock là Ông chủ và Bà chủ duy nhất ở đây. Ông Craven ư, ông ấy chằng bao giờ bận tâm về điều gì khi sống ở đây, mà ông ấy thì thường xuyên xa nhà. Bà Medlock vì lòng tốt đã cho tôi một chỗ ở. Bà ấy bảo tôi rằng bà ấy sẽ không khi nào cư xử như vậy nếu như Misselthwaite cũng giống các dinh thự khác. - Chị sắp thành người hầu của tôi phải không? – Mary hỏi, nó vẫn giữ cái cung cách ngạo mạn từ hồi nhỏ khi còn ở Ấn Độ. Martha bắt đầu chùi cái ghi lò lần nữa. - Tôi là người hầu của bà Medlock, - chị nói với vẻ cả quyết, còn bà ấy là người hầu của ông Craven. Tôi phải làm phận sự của người hầu gái ở đây và đang đợi cô sai bảo. Nhưng cô cũng chẳng cần gì lắm thì phải. - Ai sẽ mặc quần áo cho tôi? – Mary đòi hỏi. Martha nhỏm dậy lần nữa và nhìn chòng chọc. Chị vẫn nói bằng giọng Yorkshire nằng nặng, vẻ kinh ngạc. - Chẳng nhẽ cô không tự mặc quần áo được hay sao! - Ý chị là gì? Tôi không hiểu ngôn ngữ của chị. - Ồ, tôi quên khuấy đi mất. – Martha bảo. – Bà Medlock có dặn tôi phải nói năng cẩn thận kẻo cô không hiểu những điều tôi nói. Ý tôi là chẳng nhẽ cô không tự mặc quần áo được sao? - Không. – Mary đáp một cách tức giận. –Từ bé tới giờ tôi chưa bao giờ làm việc đó. Người hầu của tôi phải mặc quần áo cho tôi, đó là việc đương nhiên. - Chà, - Martha thót lên, rõ ràng không chút ý thức rằng mình đang hỗn láo, - thế thì đến lúc cô phải học rồi đấy. Cô không thể cứ trẻ con mãi như thế được, vậy thì cứ đợi chút cũng tốt thôi. Mẹ tôi luôn bảo bà không tài nào hiểu nổi tại sao các trẻ con các nhà quyền quý lại không biết bẻ chiếc bánh put-đinh cho đúng cách, cái gì cũng phải bảo mậu, nào giặt giũ, nào mặc quần áo, nào đưa đi dạo, như thể đó là những chú chó con vậy! - Thật khác hẳn ở Ấn Độ, - Cô chủ Mary nói vẻ khinh khỉnh. – Khác hẳn đấy! – Nó thấy khó mà có thể chịu đựng điều này. Martha cũng chẳng vừa. - Ờ, tôi cũng thấy khác hẳn, - chị trả lời với vẻ thông cảm. – Tôi dám nói rằng chẳng qua ở đó có quá nhiều người da đen, lại có ít người da trắng đáng kính. Lúc nghe nói cô sắp từ Ấn Độ trở về, tôi cứ ngỡ cô là người da đen cơ đấy. Từ trên giường, Mary ngồi bật dậy, cáu tiết. - Cái gì! Cái gì! Chị nghĩ tôi là người bản xứ chắc. Chị.. chị là đồ con lợn! Martha nhìn nó chòng chọc, trông vẻ mặt chị thật giận dữ. - Cô vừa nhắc tới ai đấy? Cô không cần phải bực bội đến thế. Đó không phải là cách nói năng của một tiểu thư. Tôi chẳng có vấn đề gì với đám da đen ấy. Khi đọc về họ trong sách cổ ta chỉ nhận thấy họ là những người vô cùng mộ đạo. Ta luôn đọc thấy lời dạy rằng người da đen cũng là con người và là anh em với ta. Tôi chưa bao giờ gặp một người da đen, và tôi rất sung sướng khi nghĩ rằng tối sắp được gặp họ trong một ngày gần đây. Lúc tôi vào nhóm lửa phòng cô sáng nay, tôi đã rón rén tới bên giường cô và nhẹ nhàng kéo tấm chăn để ngắm cô. Thì ra cô là.. tôi thất vọng quá, cũng chẳng đen hơn tôi là mấy. Có thế mà cô cũng hét lên. Mary không thèm kiềm chế cơn thịnh nộ và nỗi bẽ bàng của nó. - Chị nghĩ tôi là bọn dân bản xứ à! Chị dám thế à! Chị không hiểu chút nào về dân bản xứ hết! Chúng không phải là người. Chúng chỉ là bọn tôi tớ, lúc nào cũng cúi đầu chào lạy người ta. Chị không hiểu gì về xứ Ấn Độ hết. Chị chẳng biết cái quái gì cả! Con bé đang bị một cơn giận cuốn đi và giờ nó thấy tuyệt vọng trước cái nhìn chằm chằm bình thản của cô gái, tồi không rõ tại sao nó bỗng cảm thấy cô đơn kinh khủng, thấy mọi thứ đều xa lạ với nó, nó gieo mình xuống, vùi mặt vào mấy chiếc gối rồi bật khóc nức nở. Nó thổn thức không sao nén lại được đến nỗi chị Martha người Yorkshire với bản tính tốt bụng cũng thấy mủi lòng xót thương. Chị tiến đến bên giường, cúi xuống con bé. - Ôi, cô không được khóc như thế đâu! – Chị khẩn khoản van xin. – Cô phải thề là không khóc nữa. Tôi quả không nghĩ cô lại phật lòng. Tôi thật chẳng biết gì sất, đúng như cô nói. Tôi xin cô tha thứ, thưa cô. Đừng khóc nữa. Một cái gì đó thật thân thiết và dễ chịu trong lối nói Yorkshire kỳ quặc của chị, cả cái vẻ vững vàng, cứng cỏi của chị nữa cũng tác động tới Mary. Con bé dần dà nín khóc và im hẳn. Nom Martha cũng đã bớt căng thẳng. - Đến lúc cô phải dậy rồi, - chị nói. – Bà Medlock bảo tôi phải dọn cho cô bữa sáng với trà, và bữa tối ở phòng bên cạnh. Nơi này đã được sửa lại thành phòng trẻ cho cô. Kho cô ra khỏi giường, tôi sẽ giúp cô mặc áo nếu cô không thể cài các khuy sau lưng được. Cuối cùng, Mary quyết định ngồi dậy. Bộ đồ mà Martha lấy từ tủ quần áo không phải bộ mà nó đã mặc khi đến đây vào đêm hôm trước cùng bà Medlock. - Bộ này không phải của tôi. Bộ của tôi màu đen cơ. - Đây chính là bộ mà cô phải mặc - Martha đáp. - Ông Craven đã lệnh cho bà Medlock tìm mua chúng ở tận Luân Đôn kia đấy. Ông ấy bảo: "Tôi không muốn thấy một đứa trẻ mặc đồ đen đi đi lại lại như một hồn ma". Ông ấy còn nói: "Điều đó khiến nơi này càng trở nên buồn bã. Hãy phủ màu sắc rực rỡ lên người con bé." Mẹ tôi bảo bà hiểu ý ông ấy muốn nói gì. Bà luôn hiểu suy nghĩ của người khác. Bà không bao giờ giữ màu đen bên mình. - Tôi căm ghét những thứ màu đen, - Mary bảo. Việc mặc quần áo cũng giúp cả hai hiểu ra môt điều gì đó. Martha đã từng "cài khuy" cho các em gái bé bỏng của chị, và cả mấy đứa em trai nữa, nhưng quả thật chị chưa bao giờ thấy một đứa trẻ nào cứ đứng ngây ra chờ người khác làm mọi việc cho nó như thể nó chẳng có tay chân vậy. - Tại sao cô không tự đi giày vào? – cô bảo nó vì thấy Mary vẫn không hề nhúc nhích hai chân. - Ayah của tôi phải làm việc ấy, - Mary trả lời, vẫn nhìn chằm chằm. – Đó là tục lệ. Nó rất hay nói thế - "Đó là tục lệ". Ngay cả đám gia nhân bản xứ cũng thường nói thế. Giá có ai bảo họ làm một việc gì mà ông bà tổ tiên họ đã không làm từ hàng nghìn năm qua thì hẳn họ sẽ trừng mắt giận dữ với người đó và bảo: "Đấy không phải là tục lệ", và người đó hiểu ngay rằng nên kết thúc chủ đề đó cho xong đi. Làm gì có cái lệ là Cô chủ Mary phải tự làm mọi thứ, ngoài việc đứng để người ta mặc quần áo cho mình như một con búp bê. Nhưng trước khi vào bữa sáng, nó đâm ra hồ nghi không rõ cuộc đời ở Trang viên Misselthwaite này liệu rời có dạy cho nó vô vàn những điều hoàn toàn mới mẻ - như đi giày, đi tất, rồi nhặt những vật đánh rơi. Nếu Martha được dạy dỗ đúng đắn để làm hầu gái cho một tiểu thư trẻ thì chị ta cần khúm núm và kính cẩn hơn mới phải, chị ta cũng nên hiểu bổn phận của mình là chải tóc, đi giày, nhặt đồ vật và để gọn chúng lại. Nhưng dẫu sao thì, chị ta cũng là một con người mộc mạc chất phác vùng Yorkshire, sinh ra trong một túp lều gianh nơi vùng đất hoang vu với một bầy lít nhít em trai em gái, chẳng dám mơ đến gì khác ngoài việc hầu hạ phục dịch hoặc trông nom đám em vẫn đang chập chững đi và ngã nhào. Nếu Mary Lennox là một đứa trẻ biết đùa thì hẳn nó sẽ bật cười trước sự mau mồm mau miệng của Martha, nhưng Mary chỉ nghe chị với vẻ lạnh lùng, và ngạc nhiên trước cử chỉ thoải mái của chị. Thoạt đầu nó chẳng mấy quan tâm, nhưng dần dà, khi chị cứ huyên thuyên trò chuyện với vẻ hồn nhiên than mật, thì Mary bắt đầu chú ý tới những điều chị nói. - Ôi, cô nên gặp tất cả bọn tôi. 12 người chúng tôi. Cha tôi chỉ kiếm được 16 si-ling mỗi tuần. Tôi có thể nói với cô rằng với số tiền đó mẹ tôi chỉ đủ lo cháo đặc cho cả nhà. Bọn trẻ cứ chạy đùa trên cánh đồng hoang vu đó cả ngày, mẹ tôi bảo chính không khí của đồng hoang đã vỗ béo chúng. Bà còn bảo bà tin rằng chúng ăn cỏ như loài ngựa hoang vậy. Thằng Dickon nhà chúng tôi năm nay đã mười hai tuổi, nó cũng có một con ngựa non mà nó luôn bảo là của riêng nó. - Cậu ta kiếm được con ngựa đó ở đâu? – Mary hỏi. - Thằng Dickon tìm thấy con ngựa từ lúc nó còn bé tẹo trên cánh đồng hoang cùng với mẹ của nó, và từ đó Dickon làm bạn với nó, cho nó ăn vụn bánh, lại tìm cỏ tươi cho nó. Con vật tỏ ra mến thằng bé, lẽo đẽo theo Dickon suốt ngày rồi cho nó ngồi trên lưng. Dickon là một đứa tốt bụng nên súc vật đều yêu mến nó. Mary chưa bao giờ có được một con vật cưng của riêng mình, và đã luôn nghĩ rằng nó nên có một con. Bởi vậy, nó bắt đầu cảm thấy hơi thinh thích thằng Dickon. Nếu như trước đây nó chẳng thèm quan tâm đến ai khác ngoài bản thân, thì lúc này trong nó bắt đầu nhen lên một thứ tình cảm lành mạnh tự nhiên. Khi vừa bước chân vào căn phòng đã được sửa lại thành phòng trẻ cho nó, con bé nhận thấy nơi này khá giống với căn phòng nó đã từng ngủ. Đây không phải căn phòng dành cho trẻ con mà cho một người trưởng thành, với dăm ba bức tranh cổ u ám trên tường và đây đó vài chiếc ghế cổ bằng gỗ sồi nặng trịch. Trên cái bàn kê giữa phòng đã thấy dọn sẵn bữa điểm tâm thịnh soạn. Con bé vốn chẳng mấy khi ăn uống ngon miệng nên chỉ thờ ơ liếc qua chiếc đĩa mạ bạc đầu tiên Martha đặt trước mặt nó. - Tôi không thích món này, - nó bảo. - Cô không thích món cháo này ư! – Martha thốt lên vẻ ngờ vực. - Không. - Cô không biết nó ngon lành như thế nào đâu? Cho một chút mật hoặc đường vào thì tuyệt. - Tôi không thích món này, - Mary nhắc lại. - Chao ôi! – Martha kêu lên. – Tôi không sao chịu nổi khi nhìn thấy thức ăn đồ uống ngon lành bị bỏ phí. Giá bọn trẻ nhà chúng tôi được ngồi vào bàn này thì chúng sẽ chén sạch chỗ ấy trong vòng năm phút. - Tại sao? – Mary hỏi vẻ lạnh lùng. - Tại sao à! – Martha đay lại. – Bởi vì hiếm khi chúng được no bụng trong đời. Chúng luôn đói khát như bầy diều bầy cáo vậy. - Tôi quả không hiểu bị đói là gì, - Mary nói với vẻ hững hờ của kẻ không biết tới cái cảm giác này. Martha trông có vẻ phẫn nộ. - Hừ, cứ thử xem, chắc là tốt cho cô đấy, tôi thì thấy quá rõ, - chị nói toạc ra – tôi không đủ kiên nhẫn với những người chỉ ngồi giương mắt nhìn bánh mì với thịt ngon lành. Trời ơi! Tôi chỉ ao ước Dickon, Phil và Jane và những đứa còn lại có được những gì tại đây. - Sao chị không mang về cho họ, - Mary gợi ý. - Những thứ này không phải của tôi, - Martha trả lời thẳng thắn. – Vả lại, hôm nay cũng không phải ngày về nhà của tôi. Tôi được phép về mỗi tháng một lần, coi như ngày nghỉ. Lúc ấy, tôi về ngay nhà và lai dọn nhà giúp mẹ, để bà có được một ngày nghỉ ngơi. Mary nhấp ngụm trà, ăn chút bánh mì nướng và mứt cam. - Cô mặc cho ấm vào, rồi ra ngoài mà chơi. Như thế cô sẽ thấy sảng khoái, có đói bụng thì ăn mới ngon miệng. Mary bước tới bên cửa số. Ngoài kia là vườn tược cùng mấy con đường mòn và dăm cái cây lớn, nhưng cảnh vật trông ảm đạm tựa mùa đông. - Ra ngoài ư? Tại sao tôi phải ra ngoài vào một ngày như thế này? - Nếu cô không muốn ra ngoài thì cô phải ở trong phòng, vậy cô sẽ làm gì? Mary ngước nhìn xung quanh. Chẳng có gì để làm cả. Khi bà Medlock chuẩn bị phòng trẻ thì bà ta không nghĩ tới cái trò giải trí. Có lẽ nên ra ngoài kia xem mấy khu vườn ra sao. - Ai đi cùng tôi? – Nó hỏi. Martha trố mắt. - Cô tự đi chứ, - chị đáp. – cô hãy học sống như bọn trẻ vẫn chơi khi chúng không có anh chị em. Thằng Dickon nhà chúng tôi thường tự ra ngoài đồng hoang mà chơi hàng giờ. Nó cũng kết thân với mấy con ngựa hoang bằng cách ấy đấy. Nó cũng khiến được bầy cừu ngoài cánh đồng hiểu nó, và chim chóc thì sà xuốn ăn ngay trên hai bàn tay nó. Dẫu chẳng có mấy thức ăn, nhưng nó luôn dành dụm chút xíu bánh mì cho các con vật yêu của nó. Quả tình cái lối kể lể này về Dickon đã khiến Mary quyết định ra khỏi nhà, dù nó không nhận ra điều đó. Sẽ có chim chóc ngoài kia, chứ không phải ngựa hoang với cừu. Chúng chắc phải khác chim chóc ở Ấn Độ, và ngắm nhìn chúng sẽ làm nó thấy vui. Martha tìm cho nó áo khoác và mũ, lại thêm đôi giày bốt vừa xinh vừa bền, xong xuôi chị chỉ cho nó lối ra cầu thang. - Nếu cô đi theo đường kia thì cô sẽ ra tới vườn, - chị vừa nói vừa chỉ về phái cái cổng ẩn trong hàng giậu có nhiều cây bụi. - Ở đó có vô vàn hoa nở khi hè về, nhưng bây giờ thì chẳng cây nào nở hoa hết. Chị có vẻ lưỡng lự giây lát rồi nói thêm. - Một trong các khi vườn hiện đang bị khóa kín. Suốt mười năm qua chưa một ai đặt chân vào đó. - Tại sao? – Mary buột miệng hỏi. Lại thêm một cánh cửa nữa bị khóa, thêm vào con số hàng trăm căn phòng bị khóa trong ngôi nhà kỳ lạ này. - Ông Craven đã cho khóa nó khi vợ ông đột ngột qua đời. Ông không cho phép ai bước vào trong. Đó chính là khu vườn riêng của phu nhân. Ông ấy tự tay khóa cánh cửa và đào một cái hố để giấu chìa khóa. Chuông của bà Medlock đang rung đấy, tôi phải chạy đi đây. Sau khi chị đã rời xa, Mary quay xuống lối đi dạo dẫn tới cánh cổng chỗ cây bụi. Nó không thể không nghĩ đến khu vườn không có ai đặt chân vào trong suốt mười năm qua. Nó tò mò muốn biết khu vườn trông thế nào và tự nhủ không rõ có còn cây hoa nào sống sót trong đó không. Vượt qua cánh cổng bằng bụi cây, nó nhận ra mình đang đứng giữa một khu vườn rộng với những bãi cỏ lớn, những lối đi quanh co và những bờ câu được chăm tỉa. Cơ man nào là cây cối, thảm hoa và những cây trường xuân được xén tỉa tạo nên những hình thù kỳ lạ, với cả một hồ nước rộng có đài phun nước màu xám cũ kỹ ngay chính giữa. Nhưng lúc này các thảm hoa đều trơ trụi, tiêu điều, còn đài phun nước thì đã ngừng phun. Đây không phải là khu vườn bị khóa. Vườn tược mà phải khóa lại thì còn ra thể thống gì nhỉ? Người ta ai cũng có thể đi dạo trong vườn kia mà. Đang nghĩ vậy thì nó trông thấy ở cuối con đường mòn mình đang đi, hình như có một bức tường dài dằng dặc phủ kín dây thường xuân. Nó không biết nhiều về nước Anh để mà hiểu rằng nó sắp bước vào khu vườn dành cho nhà bếp, là nơi chỉ trồng toàn rau và quả. Nó tiến về phía bức tường thì phát hiện ra một cánh cửa ra vào sơn xanh thấp thoáng trong đám lá thường xuân, cửa để ngỏ. Rõ ràng khu vườn này không hề đóng, và nó có thể vào trong đó. Nó tiến qua cánh cửa và nhận thấy đó là một khu vườn có tường bao, và chỉ là một trong số mấy khu vườn có tường bao quanh, vườn nọ dường như mở thông sang vườn kia. Con bé thấy một cánh cửa màu xanh khác mở ngỏ, để lộ mấy bụi cây và các đường mòn nhỏ chạy giữa những luống rau mùa đông. Cây ăn quả được trồng thành hàng doc sát chân tường, và một số luống đất có khung kính che bên trên. Nơi này mới trơ trụi và xấu xí làm sao, Mary nghĩ bụng khi nó đứng ngắm nhìn quanh. Có lẽ vào mùa hè thì sẽ đẹp hơn, khi tất cả đều xanh tươi chứ lúc này thì chẳng có gì đẹp hết. Ngay lúc đó, một ông lão vác mai trên vai từ cánh cửa khu vườn thứ hai bước vào. Ông lão giật nảy mình khi nhìn thấy Mary, rồi đưa tay chạm nhẹ trên vành mũ. Ông có vẻ mặt già nua cáu kỉnh và chẳng hề tỏ ra mừng rỡ khi gặp con bé – nhưng lúc đó Mary nào có thích thú gì khu vườn, và cùng với bộ dạng ương bướng, nó cũng không tỏ vẻ gì là mừng khi thấy ông. - Đây là đâu thế? - Một khu vườn dành cho bếp ăn đấy cô ạ, - ông lão đáp. - Thế kia là gì? – Mary vừa hỏi, vừa đưa tay chỉ qua cánh cửa màu xanh kia. - Một vườn nhà bếp khác. Và một vườn nữa ở bên kia bức tường và vườn cây ăn quả ở sau tất cả chúng. - Tôi có thể vào trong các khu vườn ấy không? – Mary hỏi. - Nếu cô muốn. Nhưng cũng chẳng có gì đáng xem. Mary không đáp lại. Nó đi xuôi theo con đường mòn và bước qua cánh cửa màu xanh thứ hai. Ở đây, nó lại thấy mấy bức tường nữa với những luống rau vụ đông và nhà khung kính. Nơi bức tường thứ hai là một cánh cửa sơn xanh khép kín. Có lẽ cánh cửa này dẫn tới khi vườn mà suốt mười năm qua chưa một ai được tới. Vốn dĩ không phải đứa trẻ rụt rè, lại luôn làm những gì nó thích nên Mary bước dấn tới chỗ cánh cửa xanh và xoay tay nắm. Nó hy vọng cánh cửa không mở, bởi vì nó muốn chắc chắn mình đã phát hiện ra khu vườn đầy bí ẩn đó. Thế nhưng cửa hoàn toàn dễ mở. Trước khi bước vào trong, nó nhận ra mình đang ở giữa một vườn cây ăn quả. Vẫn những bức tường bao quanh khu vườn, những cây cối dựa vào bờ tường, và những cây ăn quả trơ trụi mọc giữa vạt cỏ nâu xám mùa đông, nhưng chẳng thấy cánh cửa xanh nào hết. Con bé đưa mắt tìm kiếm cánh cửa đó, và khi tiến về cuối khu vườn, nó để ý thấy bức tường dường như không dừng lại chỗ vườn cây quả ma còn dài ra nữa, như còn chạy quanh thêm một khoảng đất phía bên kia. Từ đây trông thấy rõ mấy ngọn cây trên bờ tường, và khi đứng im, nó trông thấy một con chim có bộ lông ức đỏ rực, đang đậu trên cành cao nhất trong mấy ngọn cây, đột nhiên hót vang bài ca mùa đông của nó, như thể nó đã trông thấy con bé và cất tiếng gọi. Con bé đứng lặng nghe chim hót. Không hiểu sao tiếng hót thân thiện, vui vẻ của nó làm dâng lên trong lòng Mary một cảm giác dễ chịu, dù cho đứa con gái nhỏ khó chịu đó có thể cô độc, và dù ngôi nhà đồ sộ khép kín này, cánh đồng hoang trơ trụi này và cả những khu vườn trống trải rộng mênh mông này nữa cũng chỉ khiến cho sinh linh đó cảm thấy như thể không gì còn tồn tại trên thế giới này ngoài bản thân nó. Nếu là một đứa trẻ được yêu thương thì có lẽ trái tim nó đã rung lên thổn thức, nhưng bởi là "cô chủ Mary ngang ngược" cho nên con chim nhỏ có bộ lông ức đỏ tươi kia cũng chỉ khiến cho khuôn mặt non nớt cáu kỉnh của con bé khẽ nở một nụ cười.. Mary lặng người nghe con chim hót cho tới khi nó vỗ cánh bay đi. Nó chẳng thấy giống một loài chi Ấn Độ nào cả, con bé thấy thích và tự hỏi liệu có còn được gặp lại nó không. Biết đâu con chim ấy lại sống trong khu vườn bí ẩn và biết nhiều chuyện về khu vườn cũng nên. Có lẽ chẳng có việc gì làm nên con bé cứ nghĩ mãi về khu vườn bị bỏ hoang. Nó tò mò về khu vườn và càng muốn xem sự thể ra sao. Vì cớ gì mà ông Archinald Craven phải vùi chìa khóa xuống đất? Nếu ông ấy yêu thương vợ đến vậy thì sao lại ghét khu vườn của bà? Nó tự hỏi không biết mình có bên gặp ông ấy hay không, nhưng nó biết rằng nếu có gặp thì nó sẽ chẳng thích ông, và hẳn ông cũng chẳng mến nó, và nó sẽ chỉ đứng mà nhìn ông chòng chọc, không nói một câu, mặc dầu nó thèm đến chết đi được muốn hỏi tại sao ông lại làm một việc kỳ dị như thế. "Mọi người chẳng bao giờ ưa mình, mà mình cũng chẳng bao giờ ưa họ," nó nghĩ. "Mình cũng chẳng bao giờ biết nói năng như bọn trẻ nhà Crawford. Chúng nó lúc nào cũng nói cười và làm ầm ĩ cả lên." Con bé chợt nhớ tới con chim ức đỏ và cách con chim hát bài ca như để dành cho nó. Nó đứng phắt lại trên đường mòn khi đột nhiên nhớ ra ngọn cây nơi có chim đã đậu. "Mình tin rằng cái cây ấy ở trong khu vườn bí mật. Mình cảm thấy chắc chắn như vậy. Có một bức tường bao quanh nơi đó, nhưng không thấy cửa," nó lẩm bẩm. Nó quay lại khu vườn của nhà bếp lúc ban đầu, vừa tiến vào thì gặp ông lão đang đào xới ở đó. Nó bước tới đứng cạnh ông, ngắm ông với vẻ lạnh lùng trong giây lát. Ông lão không để ý tới nó, cuối cùng nó đành lên tiếng. - Các khu vườn tôi đều vào cả rồi. - Chẳng có gì ngăn cô cả - ông lão đáp lại một cách cộc cằn. - Tôi đã vào cả vườn cây ăn quả. - Không có chó canh cửa cắn cô đâu, - ông lão đáp. - Làm gì có cửa thông sang khu vườn kia, - Mary nói. - Vườn nào? – Ông lão hỏi bằng giọng thô lỗ, ngừng đào đất trong giây lát. - Vườn ở bên kia bức tường, - Mary trả lời, - cả cây cối ở đó nữa. Tôi đã thấy ngọn của chúng. Con chim ức đỏ đậu trên một ngọn cây, nó còn hót nữa. Trước nỗi ngạc nhiên của con bé, khuôn mặt cáu kỉnh già nua dạn dày nắng gió ấy chợt biến đổi. Một nụ cười chậm rãi nở trên khuôn mặt ông già, và người làm vườn lúc này trông khác hẳn. Điều đó khiến con bé nghĩ thật kỳ lạ, một người lại có thể trở nên dễ thương biết bao khi nở một nụ cười. Trước đây nó quả chưa nghĩ tới điều đó. Ông lão quay người về phía khu vườn quả và bắt đầu huýt sáo – tiếng sáo trầm trầm dịu dàng. Nó không thể hiểu nổi vì sao con người cau có ấy có thể tạo nên một âm thanh ngọt ngào đến vậy. Gần như ngay lúc đó, một điều kỳ diệu đã xảy ra. Nó nghe tiếng loạt xoạt êm ái trong không trung, và con chim ức đỏ thắm vụt bay đến chẳng khác nào một đốm lửa, đậu xuống tảng đất lớn ngay sát chân người làm vườn. Nó đây rồi, - ông lão cười một mình, đoạn quay sang nói với con chim như nói với một đứa trẻ. - Mày vừa ở đâu về, đồ nhãi con hư đốn, - lão đùa. – Từ hôm qua tới giờ tao chẳng thấy mày đâu cả. Mới đầu mày mà mày đã bắt đầu ve vãn bạn tình rồi sao? Thế là sớm quá đấy. Con chim nghiêng nghiêng cái đầu xinh xắn sang bên, ngước nhìn ông lão bằng đôi mắt sáng dịu dàng tựa hai giọt sương đen. Hình như nó đã quá quen với lão và không chút sợ hãi. Nó nhảy lên mổ mổ đất để tìm ngũ cốc và côn trùng. Điều đó khiến Mary thấy rung động kỳ lạ, bởi con vật thật xinh xắn, vui vẻ, và trông mới giống con người làm sao. Nó có cái thân tròn như trái mận, cái mỏ thanh tú cùng hai cái cẳng thật mảnh mai. - Hễ ông gọi là nó bay đến liền sao? – Nó hỏi như thể thì thầm. - Phải, hễ gọi là nó đến. Tôi biết nó từ khi nó mới ra ràng. Nó bay khỏi tổ từ khu vườn kia, lần đầu bay qua tường thì nó yếu quá, không đủ sức bay trở về nữa trong mấy ngày liền, và chúng tôi kết bạn với nhau. Đến lúc nó qua nổi bức tường thì những con cùng lứa cũng đã bay xa rồi, còn mỗi một mình nên nó trở lại với tôi. - Nó là loài chim gì thế? – Mary hỏi. - Cô không biết à? Nó là loài ức đỏ, loài chim thân thiện nhất, hiếu kỳ nhất còn sống cho tới ngày nay. Chúng thân thiện gần như bọn chó vậy, nếu cô biết cách làm quen với chúng. Nhìn nó đang mổ đấy, nó đang ngó quanh và đôi lúc liếc nhìn chúng ta nữa. Nó hiểu chúng ta đang nói về nó. Chẳng có gì trên thế gian này kỳ dị bằng ông lão ấy. Lão đang ngắm nghía con chim có bộ ức đỏ tươi, vừa tự hào vừa trìu mến. - Nó là hay tự phụ lắm đấy, - lão cười mủm mỉm. – Nó rất thích nghe người ta bàn tán về nó. Và thóc mách nữa chứ, chao ôi, chẳng có ai lại hay tò mò và can thiệp vào chuyện người khác như nó. Nó thường xà xuống xem tôi đang trồng cây gì. Nó biết tất cả những điều mà bản thân ông Craven không buồn khám phá. Nó mới chính là người làm vườn hàng đầu ở đây. Com chim ức đỏ vẫn nhảy quanh, hối hả mổ xuống đất, thỉnh thoảng dừng lại ngó nghiêng sang hai người. Mary nhận thấy đôi mắt như hai hạt sương đen của nó đang trân trân nhìn mình với vẻ hết sức lạ lẫm. Có vẻ như nó đang tìm hiểu mọi thứ về con bé. Cảm giác kỳ lạ trong lòng Mary mỗi lúc một tăng lên. - Những con chim cùng lứa khác bay đi đâu? - Nó hỏi. - Không biết. Những con chim già đẩy chúng ra khỏi tổ, dạy chúng bay, rồi chúng bay tản mác bốn phương trước khi ta kịp nhận ra. Tôi chỉ còn thấy con này, nó cũng biết mình đơn độc. Cô chủ nhỏ Mary bước một bước lại gần hơn con chim ức đỏ, nhìn nó và bảo: - Tao cũng đơn độc như mày. Trước đây con bé không biết đó là một trong những điều khiến nó khó chịu và khổ sở. Dường như nó nhận ra điều đó khi con chum ức đỏ nhìn nó và nó cũng nhìn lại con chim. Người làm vườn già đẩy cái mũ ra phía sau cái đầu hói, nhìn nó trân trân trong giây lát. - Cô có phải cô tiểu thư từ Ấn Độ về không? Mary gật đầu. - Chả trách cô đơn độc là phải. Còn đơn độc hơn trước kia nữa cơ, - lão bảo. Lão lại xới đất, lưỡi mai xắn sâu vào lớp đấy vườn màu mỡ trong khi con chim ức đỏ nhảy nhót gần đó, ra vẻ bận rộn. - Tên ông là gì? – Mary hỏi. Lão đứng thẳng người, đáp: - Ben Weatherstaff. – Rồi lão nói thêm với nét cười cau có. – bản thân tôi cũng đơn độc, chỉ trừ khi có nó ở bên, - lão trỏ ngón tay cái về phía con chim ức đỏ. – Nó là người bạn duy nhất mà tôi có. - Tôi thì chẳng có bạn bè nào cả, - Mary bảo. – Tôi chẳng bao giờ có bạn. Ngay Ayah của tôi cũng chẳng thích tôi, và tôi chưa bao giờ chơi với ai hết. Người Yorkshire có thói hay nói thẳng tuột những điều họ nghĩ, và lão Ben Weatherstaff chính là một cư dân của vùng đồng hoang Yorshire này. - Cô và tôi hơi giống nhau đó. Chúng ta cùng một giuộc với nhau. Đều không ưa nhìn, và đều gắt gỏng. Chúng ta cũng có cái tính khí khó chịu, cả hai đều vậy, tôi cam đoan đấy. Nói thế thật là thẳng, và Mary Lennox chưa bao giờ nghe sự thật về bản thân nó. Đám gia nhân bản xứ vốn chỉ biết vâng dạ và phục tùng, bất kể chủ nhân mình làm gì. Con bé chẳng mấy khi nghĩ về diện mạo của mình, nhưng nó tự hỏi không biết nó có khó coi như lão Ben Weatherstaff không, và nó cũng băn khoăn không biết trông nó có bẳn tính như lão lúc trước khi con chim ức đỏ bay tới. Nó thật sự bắt đầu phân vân không biết mình có phải là kẻ "khó chịu". Nó cảm thấy không được thoải mái. Bỗng có tiếng rì rầm khẽ vang lên gần đó, nó ngó nhìn quanh. Nó đang đứng cách một cây táo non mấy bước chân, con chim ức đỏ liệng xuống đậu trên một cành táo và hót lên một tràng líu lo. Lão Ben Weatherstaff cười phá lên. - Nó làm gì đấy? – Mary hỏi. - Nó quyết định đánh bạn với cô đấy. Quỷ tha ma bắt tôi đi nếu như nó không thích cô. - Tôi ư? – Mary hỏi, nó rón rén lại gần cái cây nhỏ rồi ngước nhìn lên. - Mày có muốn làm bạn với tao không? – Nó nói với con chim ức đỏ, như thể với một con người. – Muốn không nào? – Nó nói câu ấy không hề gắt gỏng hay với cái giọng Ấn Độ kiêu căng, mà bằng một âm điệu mượt mà, âu yếm và háo hức đến nỗi lão Ben Weatherstaff cũng phải sửng sốt, chẳng khác nào con bé lúc nghe lão huýt sáo. - Sao thế nhỉ, - lão kêu lên, cô nói câu ấy thật hay, như một đứa trẻ thật sự chứ không phải một mụ già cay nghiệt. Cô nói cứ y như thằng Dickon đang trò chuyện với mấy con thú hoang của nó ngoài đồng hoang. - Ông biết Dickon sao? – Mary hỏi, vội quay người lại. - Ai mà chẳng biết nó. Thằng Dickon lang thang khắp nơi. Các loài từ mâm xôi cho tới thạch thảo đều quen với nó. Tôi dám đánh cược rằng ngay đến bọn cáo cũng sẵn lòng chỉ cho thằng bé chỗ nằm của lũ cáo con, và cả bọn chiền chiện cũng chẳng giấu nó tổ của chúng. Mary vẫn muốn hỏi thêm vài câu nữa. Nó tò mò về thằng Dickon không kém gì về khu vườn bỏ hoang. Nhưng đúng lúc ấy, con chim ức đỏ ngừng hót, khẽ vỗ cánh rồi tung mình bay đi. Nó đã xong chuyến viếng thăm của mình, còn nhiều việc khác đang chờ nó. - Nó bay qua bức tường kìa, - Mary kêu to, nhìn theo. – Nó bay vào vườn quả rồi, nó lại bay qua bức tường kia, vào trong khu vườn không có cửa! - Nó sống ở đó, - Lão Ben bảo. – Chính ở nơi ấy nó nở ra từ trứng. Nếu nó đang tìm bạn tình thì hẳn nó phải bám theo nàng chim ức đỏ nào đấy sống trong mấy khóm hồng già ở đó rồi. - Khóm hồng à, - Mary thốt lên. - Ở đó có những khóm hồng sao? Lão Ben Weatherstaff nhấc cái mai và bắt đầu đào. - Mười năm về trước, - lão lẩm bẩm. - Tôi muốn được tận mắt thấy chúng, - Mary nói. – Cánh cửa xanh ở đâu? Chắc hẳn phải có một cánh cửa ở đâu đó. Lão Ben xắn sâu lưỡi mai xuống và lại tỏ ra thiếu thân thiện như lần đầu con bé thấy lão. - Mười năm về trước chứ không phải bây giờ, - lão bảo. - Không thấy cánh cửa nào! – Mary kêu lên. – Phải có chứ. - Chưa một ai có thể tìm thấy, vả lại cũng chẳng phải việc của ai, cô đừng có như mấy cô nàng lắm chuyện cứ hay nhúng mũi vào chỗ không phải của mình. Hừ, tôi phải đi làm việc đây. Cô đi mà chơi đi. Tôi không được rảnh. Lão thôi đào xới, nhấc mai lên vai rồi đi khỏi, cũng không buồn nhìn hay chào con bé.
Chương 5: Tiếng kêu trong hành lang Bấm để xem Thoạt đầu, mỗi ngày trôi qua với Mary Lennox cũng giống như mọi ngày khác. Mỗi sang thức dậy trong căn phòng có tường treo thảm của mình, nó lại thấy Martha đang quỳ trước lò sưởi để nhóm lửa; và sáng nào cũng vậy, nó ngồi ăn bữa sáng trong phòng trẻ chẳng có gì thú vị đó. Sau bữa sáng, nó lại đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn khắp cánh đồng hoang vô tận đang trải rộng tứ bề như dâng tới tận bầu trời. Chỉ sau khi đã nhìn đăm đắm hồi lâu, nó mới nhận ra rằng nếu không ra khỏi nhà thì chỉ còn biết ngồi lì mà chẳng làm gì hết – và thế là nó ra ngoài. Nó không hề biết rằng đó là điều tốt nhất mà nó có thể làm, và rằng mỗi khi nó bước nhanh hay chạy dọc theo những con đường mòn rồi xuôi ra đường cái, thì nó đang làm cho khí huyết lưu thong, cơ thể khỏe mạnh hơn bằng cách chống chọi với ngọn gió đang thổi đến từ cánh đồng hoang. Nó chạy chỉ để cho nóng người lên, nó thấy ghét ngọn gió cứ phả thốc vào mặt, gầm rú và tóm lấy lưng nó tựa hồ một gã khổng lồ vô hình. Nhưng khi hít một hơi thật sâu làn hương tươi mát trong trẻo từ bụi thạch thảo cho đầy hai lá phổi, một điều gì đó thật tốt lành tràn ngập cơ thể gầy gò của nó, khiến hai má nó hồng lên, đôi mắt rầu rĩ của nó trở nên long lanh mà nó không hề hay biết. Sau mấy ngày hầu như toàn ở ngoài trời, một sáng nọ thức dậy nó mới hiểu thế nào là đói, và khi ngồi bên bữa điểm tâm nó không còn liếc nhìn món cháo với vẻ khinh khi rồi đẩy đi, mà cầm lấy thìa xúc ăn ngay, cho đến khi sạch nhẵn. - Sáng nay cô ngon miệng đấy chứ, phải không cô? – Martha hỏi - Hôm nay ăn ngon quá, - Mary đáp, tự nó cũng cảm thấy hơi ngạc nhiên. - Chính khí trời ngoài đồng làm cô thấy đói bụng đấy, - Martha trả lời. – Thực may mắn là cô đã thấy them ăn. Mười hai người trong túp nhà gianh của chúng tôi chẳng lúc nào được đầy bụng. Hằng ngày cứ chơi đùa chạy nhảy ngoài trời thì rồi cô sẽ có da có thịt lên đấy, và cô sẽ không còn cái kiểu la lối như vậy nữa. - Tôi đâu có chơi. Tôi chẳng có gì để chơi cả. - Không có gì để chơi ấy à! – Martha thốt lên. – Bọn trẻ nhà tôi có mỗi gậy gộc và đá để chơi thôi. Chúng chỉ biết chạy nhảy, hò hét và nhìn ngắm mọi thứ nơi đây. Mary không thích hò hét, nhưng nó thích ngăm nhìn cảnh vật. Vả lại cũng chẳng biết làm gì hơn. Nó đi quanh quẩn qua các khu vườn rồi tha thẩn trên những con đường mòn trong vườn. Thảng hoặc có lúc nó đưa mắt tìm lão Ben Weatherstaff, đã mấy lần nó nhìn thấy lão hì hục làm việc đến nỗi không them ngước lên nhìn nó hay lại làm bộ mặt lầm lì. Một lần khi nó đang tiến lại phía lão, lão liền nhặt ngay cái mai lên và quay đi, như thể cố ý làm vậy. Có một nơi mà nó thường hay lui tới hơn những nơi khác. Đó là lối đi dạo dài dằng dặc bên ngoài các khu vườn có tường bao quanh. Hai bên đường là những thảm hoa trơ trụi, dây thường xuân bám dày đặc trên mấy bức tường. Có một mảng tường nơi lá cây xanh thẫm rập rạp hơn chỗ khác và dường như bị bỏ quên lâu lắm. Phần còn lại được xén tỉa gọn ghẽ hơn, nhưng ở phía cuối lối đi thì lại không hề được xén tỉa. Sau hôm nói chuyện với lão Ben độ mấy ngày, Mary cũng chẳng buồn để ý tới điều này và tự hỏi không biết tại sao. Vừa lúc ngừng bước ngước nhìn một nhành thường xuân đang đung đưa trước gió, nó thoáng thấy một ánh đỏ tươi cùng tiếng kêu chiếp chiếp trong trẻo, và kìa, con chim ức đỏ của lão Ben Weatherstaff đang đậu ngay trên bờ tường, nghiêng nghiêng cái đầu bé xíu sang bên nhìn con bé. - Ô kìa, - Mary kêu to, - mày đấy ư, mày đấy ư? – Đối với con bé việc nó nói chuyện với chim ức đỏ, như thể con chim sẽ hiểu và đáp lại lời nó không còn kì lạ nữa. Con chim đáp lại. Nó kêu líu ríu và nhảy dọc bờ tường như đang kể lể cho con bé đủ thứ chuyện trên đời. Dù không thể cất nên lời nhưng dường như Cô chủ Mary hiểu điều nó đang muốn nói: - Chào buổi sáng tốt lành! Gió có mát không? Mặt trời có ấm không? Cảnh vật có đẹp không? Cả hai ta hãy cùng hót cùng nhảy và cùng bay liệng. Nào, nào! Mary bắt đầu cười, khi con chim nhảy nhót và bay chuyền dọc bức tường thì con bé chạy theo nó. Con bé Mary vàng vọt, bé nhỏ và tội nghiệp ấy – hầu như chỉ trong phút chốc đã trở nên xinh xắn lạ thường. - Tao cũng yêu mày! Tao yêu mày! Con bé kêu lên và rảo bước, nó cũng nói líu lo và cố huýt sáo, nhưng cuối cùng nó không biết huýt ra sao nữa. Hình như con chim ức đỏ đã lấy làm toại nguyện nên nó kêu lên lảnh lót để đáp lời con bé. Cuối cùng, nó xòe rộng đôi cánh, bay vút lên ngọn cây cất tiếng hót vang. Cảnh này khiến Mary nhớ lại buổi đầu nó nhìn thấy con chim, khi nó đang nhún nhảy trên một ngọn cây còn con bé đứng trong vường quả. Bây giờ thì con bé đang ở phía bên kia vườn quả và dừng chân trên con đường mòn phía ngoài bức tường thấp – trong vườn cũng có một cái cây giống hệt như vậy. "Nó ở trong khu vườn mà không ai có thể vào." – Nó thầm nhủ. "Đây chính là khu vườn không có cửa. Con chim sống ở trong đó. Ước gì mình có thể vào trong xem sao!" Nó chạy ngược lối đi dạo tới cánh cửa màu xanh mà nó đã vào trong buổi sáng đầu tiên. Đoạn nó chạy tới con đường mòn dẫn thong qua cánh cửa phía bên kia tường, vào vườn quả. Vừa dừng chân và ngước nhìn lên, nó bắt gặp cái cây bên kia tường, nơi con chim ức đỏ vừa ngưng tiếng hót và bắt đầu rỉa lông. - Khu vườn này đây. Mình chắc thế. Nó dạo quanh và quan sát gần hơn phía bên này bức tường khu vườn quả, nhưng chỉ phát hiện ra những điều đã thấy bữa trước: Đó là không có cánh cửa nào đế vào trong đó. Nó lại chạy qua vườn rau nhà bếp lần nữa, rồi đi dạo ra bên ngoài bức tường dài phủ đầy cây thường xuân. Nó đến phía cuối tường để quan sát, vẫn không thấy cánh cửa nào hết, nó lại đi về phía cuối một bức tường khác, nhìn ngó, nhưng cũng chẳng gặp một cánh cửa nào. - Thật hết sức kỳ quặc, - nó thầm nhủ. – Ông Ben Weatherstaff đã nói là không có cửa và đúng là không có cửa thật. Nhưng mười năm về trước thì có, bởi vì ông Craven đã chon giấu chìa khóa kia mà. Điều đó khiến nó suy nghĩ rất lung, đển độ nó bắt đầu thấy hứng thú và thôi không hối tiếc vì đã đến Trang viên Misselthwaite. Hồi ở Ấn Độ, lúc nòa nó cũng thấy nóng nực và uể oải nên chẳng mất quan tâm đến gì khác. Sự thực là làn gió trong lành ngoài đồng hoang đã bắt đầu thổi tung tấm màng bao phủ bộ não non nớt của nó, làm thức tỉnh con bé đôi chút. Con bé ở ngoài trời gần như cả ngày, nên khi ngồi vào bàn dùng bữa tối thì nó cảm thấy đói ngấu, lơ mơ buồn ngủ và vô cùng dễ chịu. Nó không thấy bực khi Martha tán gẫu, nó còn thích nghe chị nói đằng khác, cuối cùng nó nghĩ cần phải hỏi chị một việc cho ra nhẽ. Sau khi đã ăn uống xong xuôi, lại ngồi trên tấm thảm trải trước lò sưởi, nó mới lên tiếng. - Tại sao ông Craven lại ghét khu vườn ấy hả chị? Nó đã bảo Martha ở lại với nó, Martha cũng không phản đối. Chị còn rất trẻ, đã quen với túp lều gianh chật ních em trai em gái của mình, chị cảm thấy buồn tẻ nơi căn phòng lớn dành cho gia nhân ở tầng trệt, nơi có bọn hầu trai và hầu gái thường xuyên giễu cợt lối nói nặng âm giọng Yorshire của chị, coi chị như một thứ vặt vãnh, tầm thường rồi thì tào đàm tiếu với nhau. Martha hay chuyện, và đứa trẻ kỳ cục từng sống ở Ấn Độ và được những người "da đen" phục dịch kia chính là sự mới lạ đầy cuốn hút với chị. Không đợi phải bảo thêm, chị ngồi xuống bên lò sưởi. - Cô đang suy nghĩ về khu vườn chứ gì? – Chị hỏi. – Tôi biết cô đang nghĩ về nó mà. Lần đầu tiên nghe nói về nó, tôi cũng vậy. - Tại sao ông ấy lại ghét khu vườn? – Mary gặng hỏi. Martha thu chân và ngồi lại cho thoải mái. - Hãy lắng nghe tiếng gió hú ào ào quanh nhà, - chị nói. – Liệu cô có thể phơi mình ngoài cánh đồng hoang nếu cô ra ngoài đêm nay? Mary không biết "hú" có nghĩa là gì, cho tới khi nó gỏng tai lên nghe và hiểu ra. Đó nghĩa là một thứ tiếng gầm rú ghê rợn ầm ào cuộn quanh nhà, tưởng như có gã khổng lồ vô hình đang quật mạnh vào ngôi nhà, vào các bức tường và cửa sổ, cố xông vào trong. Nhưng ta thừa biết gã không thể vào được, và điều đó khiến ta cảm thấy an toàn, ấm áp lúc đang ngồi trong phòng bên ngọn lửa hồng. - Nhưng tại sao ông ấy lại ghét nó đến thế? – Con bé hỏi lại sau khi đã lắng nghe. Nó muốn biết nếu Martha chịu nói. Martha thấy vậy bèn phô luôn cả một mớ hiểu biết. - Xin cô nhớ cho kỹ, - chị nói, - bà Medlock đã dặn chuyện này không được kể lung tung. Nhiều chuyện ở đây không được bàn tán xì xào. Đó là lệnh của ông Craven. Ông ấy bảo những vấn đề của ông không phải là việc của gia nhân. Còn đối với khu vườn thì ông cũng không ưa nốt. - Đó là khu vườn của bà Craven mà bà đã gây dựng từ hồi họ mới cưới. Bà yêu nó lắm, và họ thường tự tay chăm sóc hoa trong đó. Vả lại cũng chẳng người làm vườn nào được phép vào đó. Hai ông bà thường đến thăm vườn, họ đóng cửa và ở đó giờ này sang giờ khác, hết đọc sách lại chuyện trò. Bấy giờ bà mới đương tuổi thanh xuân. Sẵn có cái cây già ngả cành nom tựa một chỗ ngồi, bà bèn vắt mấy nhánh hồng cho lo lên cái cành ấy, và thường ngồi ở đấy chơi. Rồi một ngày khi bà đang ngồi thì cành cây gẫy và bà ngã vật xuống đất, bị thương nặng đến nỗi hôm sau thì qua đời. Các bác sĩ dều nghĩ ông sẽ loạn óc và cũng chết theo. Đấy là lý do khiến ông căm ghét khu vườn. Từ bấy đến nay, không một ai bước chân vào đó nữa, và ông cũng không cho phép ai được nói về nó Mary không hỏi gì thêm. Nó nhìn ngọn lửa cháy rừng rực, lắng nghe tiếng gió "hú". Hình như gió đang "hú" to hơn bao giờ hết. Chính lúc đó, một điều tuyệt vời xảy đến với nó. Sự thực, từ ngày nó đặt chân đến Trang viên Misselthwaite, có bốn điều làm nó thấy dễ chịu: Nó cảm thấy nó rất hiểu con chim ức đỏ và con vật cũng hiểu nó; nó được chạy nhảy giữa làn gió lộng, khi huyết lưu thông, thân thể khỏe mạnh; lần đầu tiên trong đời nó biết thế nào là đói; và rồi nó còn khám phá ra cái cảm giác thương cảm cho một người khác là như thế nào. Cứ đà này thì nó sẽ còn khá hơn nữa. Giữa tiếng gió gào rít, con bé chợt nghe thấy một tiếng gì khác lạ. Nó không biết đó là cái gì, bởi lẽ thoạt đầu khó lòng phân biệt được âm thanh đó với chính tiếng gió. Quả là một thứ âm thanh khác thường, nghe như tiếng một đứa trẻ đang khóc đâu đây. Đôi lúc tiếng gió nổi lên tựa như tiếng trẻ khóc, nhưng chính lúc ấy Cô chủ Mary cảm thấy hoàn toàn chắc chắn âm thanh này phát ra từ bên trong chứ không phải bên ngoài ngôi nhà. Lúc xa, lúc gần. Nó nhớn nhác rồi nhìn thẳng vào Martha. - Chị có nghe tiếng ai khóc không? – Nó hỏi. Đột nhiên, Martha bối rối. - Không, - chị đáp. – Chẳng qua là tiếng gió. Thỉnh thoảng nghe như tiếng ai bị lạc trên cánh đồng hoang đang kêu gào, than khóc. Chính gió tạo ra những âm thanh ấy đấy. - Nhưng nghe này, - Mary bảo, - âm thanh phát ra từ trong nhà kia, chỉ một trong các hành lang này thôi. Và ngay lúc đó, có tiếng cánh cửa bật tung đâu đó nơi tầng dưới, một luồng gió lùa ào vào thốc dọc lối đi. Cánh cửa căn phòng họ đang ngồi bật mở phát ra một tiếng khô khốc, cả hai đều bật dậy. Đèn vụ tắt, tiếng than khóc vang lên từ cuối hành lang nghe còn rõ hơn cả ban đầu. - Đấy! – Mary thốt lên. – Tôi đã bảo chị mà! Rõ rang có ai đang khóc, và đó không phải tiếng của người lớn. Martha chạy ù ra đóng cửa rồi xoay chìa khóa, nhưng trước lúc chị kịp làm việc đó thì cả hai lại nghe thấy tiếng cánh cửa ở một lối đi đầu đằng kia sập lại đánh rầm, rồi tất cả trở nên yên ắng, thậm chí tiếng gió cũng ngừng "hú" trong giây lát. - Tiếng gió đấy mà, - Martha vẫn nói vẻ ương ngạnh. – Và nếu không phải thế thì hẳn là con bé Betty Butterworth hầu gái ở phòng rửa bát thôi. Con bé kêu đau răng cả ngày hôm nay. Nhưng vẻ mặt lo lắng và bộ dạng lung túng của chị khiến Cô chủ Mary nhìn chị chằm chằm. Nó không tin chị nói thật.
Chương 6: "Ai đó đang than khóc, ai đó.." Bấm để xem Ngày hôm sau, mưa lại tuôn như thác đổ. Lúc Mary nhìn qua cửa sổ buồng nó, cả cánh đồng hoang hầu như chìm trong màn sương và bầu trời đầy mây xám xịt. Vậy là không thể ra ngoài hôm nay. - Chị làm gì trong túp nhà gianh của chị vào những ngày mưa như thế này? – Nó hỏi Martha. - Hầu như phải giữ chân hết đứa nọ đến đứa kia, cô ạ. – Martha đáp. - Ầy, bọn nhóc đông thế cơ mà. Mẹ tôi là người đôn hậu, và cũng rất công bằng. Những đứa lớn sẽ ra bãi chăn và chơi ngoài đó. Thằng Dickon thì chẳng bao giờ sợ mưa ướt. Nó vẫn chạy nhởn nhơ như thể trời đang nắng. Nó bảo nó thích ngắm nhìn cảnh vật vào những ngày mưa, nhìn những gì không thể thấy được khi thời tiết tốt. - Có hôm, nó phát hiện ra một con cáo non sắp chết đuối trong hang, nó bèn ủ con vật trong ngực áo sơ mi cho ấm rồi mang về nhà. Mẹ của nó bị chết ngay gần đấy, cái hố thì ngập nước, mấy con sinh cùng lứa thì chết sạch. Nó đã mang con cáo ấy về nhà nuôi. Vào dịp khác, nó còn tìm được một chú quạ non ướt sũng nước mưa và cũng rước về nhà, dạy dỗ nó. Tên nó là Bồ hóng. Con vật đen như than cứ nhảy nhót, bay liệng theo thằng bé khắp nơi. Thời gian trôi đi, Mary cũng quên cả bực mình trước lối ăn nói quê mùa của Martha. Thậm chí nó bắt đầu nhận thấy lối nói đó thú vị, lại còn lấy làm tiếc khi chị ngưng kể hoặc ra ngoài. Mấy chuyện ngắn ngủi nó được nghe từ Ayah hồi ở Ấn Độ hoàn toàn không giống những gì Martha đã kể về nếp nhà gianh trên cánh đồng hoang, với mười bốn con người chen chúc trong bốn gian phòng bé xíu và chẳng bao giờ đủ ăn. Bọn trẻ dường như chỉ biết có chạy nhảy và tự nô đùa, như một bầy chó con vừa thân thiện, vừa hoang dã. Mary hầu như bị cuốn hút bởi câu chuyện về người mẹ và Dickon. Chuyện Martha kể về những gì mẹ chị nói hoặc làm luôn mang lại cảm giác dễ chịu. - Nếu tôi có một con quạ, hoặc một con cáo non, tôi cũng chơi với nó, - Mary bảo. – Nhưng tôi chẳng có gì hết. Martha tỏ ra bối rối. - Cô có biết đan lát không? - Không. – Mary đáp. - Cô biết khâu vá chứ? - Không. - Cô biết đọc. - Có. - Vậy tại sao cô không đọc một cái gì đó, hoặc học viết chính tả? Cô cũng đến tuổi có thể đọc sách trôi chảy rồi còn gì. - Tôi chẳng có cuốn sách nào cả, - Mary đáp. – Sách vở tôi để lại Ấn Độ cả rồi. - Tiếc quá, - Martha bảo. – Nếu bà Medlock chịu để cô vào thư viện, thì trong ấy cơ man là sách. Mary không hỏi thư viện ở đâu, nó chợt thấy hứng thú bởi một ý nghĩ mới lạ. Nó quyết định tự đi tìm. Nó không mảy may bận tâm về bà Medlock. Hình như bà ta luôn yên vị trong căn phòng dành cho quản gia đầy tiện nghi của mình ở tầng dưới. Trong cái nơi kỳ dị này, người này khó lòng nhìn thấy người khác. Thực tế, cũng chẳng có ai để gặp ngoài đám gia nhân mà cứ hễ chủ đi vắng lại thoải mái tung tẩy ở tầng dưới, nơi có cả một nhà bếp khổng lồ treo đầy những đồ đồng và hợp kim thiếc bóng, cùng một gian sảnh dành cho gia nhân rộng thênh thang, và hàng ngày dễ có đến bốn năm bữa ăn với các món ngon ê hề được dọn cho bọn họ, với vô vàn trận đùa náo nhiệt diễn ra mỗi khi bà Medlock đi vắng. Các bữa ăn của Mary vẫn được phục vụ đều đặn, Martha vẫn hầu hạ nó, nhưng không ai mảy may bận tâm tới nó. Cứ một hoặc hai ngày, bà Medlock lại ghé thăm nó, nhưng chẳng ai buồn hỏi xem nó đã làm được những gì hay bảo nó cần làm việc gì. Con bé cho rằng có lẽ đây là cung cách người Anh dạy con trẻ. Ở Ấn Độ, nó luôn được Ahay của nó để mắt tới, họ thường bám theo từng bước chân để phục dịch nó. Nó từng chán ngấy những kẻ bám gót ấy. Giờ đây, nó chẳng bị ai lẵng nhẵng theo sau, được tự mình mặc lấy quần áo, bởi vì chỉ nhìn Martha là đủ biết chị sẽ cho rằng nó lười biếng và ngốc nghếch nếu nó cứ muốn mọi thứ phải được đưa tận tay hoặc đặt ngay trước mặt. - Cô cảm thấy thế nào? – Có lần chị lên tiếng lúc Mary đang đứng đợi chị xỏ găng cho nó. – Con bé Sunsan Ann nhà chúng tôi còn lanh lẹ gấp đôi cô mặc dù nó mới lên bốn. Trông cô nhiều khi ẻo lả quá đấy. Mary lại xị mặt cau có hàng giờ đồng hồ, nhưng chính chuyện đó khiến con bé nghĩ đến một vài điều hoàn toàn mới mẻ. Sáng hôm đó, Mary đứng lì bên cửa sổ chừng mươi phút, sau khi Martha quét dọn chỗ lò sưởi lần cuối cùng và đi xuống dưới gác. Nó đang nhớ lại cảm giác mới lạ mà nó từng có khi ở trong thư viện. Nó không quan tâm nhiều đến thư viện bởi nó vốn đọc rất ít sách, nhưng hễ nhắc tới thư viện thì hàng trăm căn phòng với những cánh cửa khép chặt lại lởn vởn trong không khí. Nó tự hỏi nếu tất cả đều khóa chặt thì nó sẽ tìm thấy gì bên trong khi bước vào căn phòng bất kỳ trong số đó. Có tới cả trăm phòng thật không? Tại sao nó không được phép đi lại để đếm xem có bao nhiêu cửa ra vào? Và thế là có việc để làm sáng nay, khi nó không thể ra khỏi nhà. Nó chưa bao giờ được dạy là phải xin phép trước khi làm việc gì, mà nó cũng chẳng biết gì về mọi thứ phép tắc, bởi thế nó không nghĩ nhất thiết phải hỏi bà Medlock nếu muốn lai vãng chỗ này chỗ nọ trong nhà, kể cả nếu bà ta có bắt gặp nó đi chăng nữa. Nó bèn mở cửa phòng, đi ra hành lang, tha thẩn. Đó là một hành lang dài dằng dặc, từ đây có các nhánh rẽ sang các hành lang khác, đưa con bé lên mấy đoạn cầu thang ngắn và những cầu thang này lại đưa tới các cầu thang khác. Hết cánh cửa này đến cánh cửa khác, và cơ man là tranh trên các bức tường. Đôi khi là những bức phong cảnh u ám, nhưng phần lớn là chân dung các quý ông, quý bà trong những bộ y phục trang trọng, lạ lẫm bằng sa tanh hay nhung. Nó chợt nhận ra mình đang đứng trong một phòng tranh sâu hun hút, trên tường đều phủ kín những bức chân dung kiểu đó. Nó quả không thể tưởng tượng nổi sao lại có nhiều tranh đến thế, dù ở bất cứ ngôi nhà nào. Đến đây nó chầm chậm bước, đăm đắm nhìn các khuôn mặt, và họ dường như cũng đăm đắm nhìn lại nó. Nó cảm thấy như thể họ vô cùng ngạc nhiên trước những gì một đứa bé gái từ Ấn Độ trở về đang làm trong nhà họ. Một số là tranh trẻ con, chỗ này túm tụm mấy đứa bé gái mặc những chiếc áo sa tanh dày dài chấm gót, chỗ kia là dăm ba cậu bé tóc dài, tay áo phồng lên, cổ cồn thêu đăng ten, có đứa còn đeo những chiếc cổ áo xếp nếp. Con bé luôn dừng chân ngắm bọn trẻ con trong tranh, thầm hỏi không rõ tên chúng là gì, chúng đã đi đâu và tại sao chúng lại ăn vận thứ quần áo cổ lỗ như thế. Có chân dung một con bé trông không được ưa nhìn cho lắm, cứng nhắc, nom khá giống nó. Con bé mặc cái áo gấm thêu kim tuyến xanh, đang nâng một con vẹt màu xanh trên ngón tay của nó. Đôi mắt nó ánh lên cái nhìn tò mò, sắc sảo. - Giờ này cậu sống nơi đâu? – Mary nói khá to với con bé nọ. – Tớ ước gì có cậu ở đây. Từ trước tới giờ, chắc hẳn chưa đứa bé gái nào trải qua một buổi sáng lạ lùng đến vậy. Tưởng chừng chẳng một bóng người nào trong ngôi nhà khổng lồ ngoài hình hài bé nhỏ của nó, lang thang hết lên gác lại xuống nhà, qua các hành lang rộng rồi hẹp, những chỗ xưa nay có lẽ chưa hề có ai lui tới, ngoài nó. Kể từ ngày dựng lên từng ấy căn phòng, hẳn đã có nhiều người sống nơi đây, nhưng tất cả trống trải đến nỗi con bé không thể nào tin đó là sự thực. Chỉ tới khi leo lên tầng hai, nó mới nghĩ tới việc mở một cánh cửa nào đó. Tất cả các cánh cửa đều khóa chặt, đúng như lời bà Medlock nói. Nhưng cuối cùng, nó đặt tay lên tay nắm một trong các cánh cửa ấy và xoay. Nó chợt thoáng cảm giác kinh sợ trong giây lát khi thấy tay nắm cửa xoay thật trơn tru, và cánh cửa nặng từ từ mở ra. Đó là một cánh cửa đồ sộ, mở thông vào một phòng ngủ lớn. Mầy bức rèm thêu trên tường, đồ nội thất chạm khảm như nó đã thấy ở Ấn Độ bày la liệt trong phòng. Một cửa sổ rộng với những ô kính trong khung chỉ trông ra cánh đồng hoang; và trên mặt lò sưởi lại là bức chân dung khác của con bé khó ưa và cứng nhắc nọ đang đăm đắm nhìn nó với vẻ tò mò hết sức. "Có một dạo cô ấy đã sống ở đây – Mary thầm thì, - Cô ấy cứ nhìn mình chòng chọc đến nỗi chính mình cũng cảm thấy kỳ quặc." Từ lúc đó nó mở thêm được nhiều cánh cửa nữa. Nó nhìn thấy nhiều phòng đến nỗi mệt lử và bắt đầu tin rằng đúng là phải có tới cả trăm căn phòng, dù nó không hề đếm. Hầu như căn phòng nào cũng treo tranh cổ, thảm cổ với những cảnh trí lạ lẫm. Và hầu như tất cả các phòng đều bày biện những món đồ tranh trí và nội thất đáng ngạc nhiên. Có một căn phòng nom tựa phòng khách của một quý bà nào đó; tất cả rèm cửa đều bằng nhung thêu; trong một chiếc tủ kính bày la liệt hàng trăm con voi nhỏ xinh được làm bằng ngà voi, một số con còn có quản tượng cưỡi hay đỡ kiệu trên lưng. Con to, con nhỏ, có con bé tí hin như vừa lọt lòng. Mary đã được xem nhiều đồ chạm ngà voi ở Ấn Độ và nó biết khá nhiều về voi. Nó mở cửa tủ và đứng trên một chiếc ghế đẩu chơi đùa với đàn voi hồi lâu. Đến lúc cảm thấy mệt, nó bèn sắp xếp lũ voi theo thứ tự rồi đóng cửa tủ lại. Trong lúc lang thang dọc các hành lang dài dằng dặc hoặc giữa các căn phòng trống trải, nó không gặp một sinh vật nào, nhưng nó nhận thấy có cái gì đó ở chính giữa phòng này. Ngay khi đóng cửa tủ lại nó nghe tiếng sột soạt khe khẽ. Âm thanh ấy khiến nó giật nảy mình và ngó quanh bộ sofa bên lò sưởi: Dường như tiếng động phát ra từ đó. Ở góc bộ sofa có một tấm đệm, và trên tấm nhung phủ ngoài mặt đệm thấy có một lỗ nhỏ, từ bên trong ló ra một cái đầu bé xíu với cặp mắt hoảng hốt. Mary rón rén đi ngang qua căn phòng để nhìn cho rõ, thì ra đôi mắt sợ sệt kia là của một chú chuột xám be bé, và chuột mẹ đã cắn thành cái hốc trên tấm đệm để tạo nên một cái tổ êm ái. Sáu con chuột con đang cuộn tròn ngủ bên nó. Nếu không còn ai trong hàng trăm căn phòng này thì bảy con chuột trông cũng chẳng cô đơn. "Nếu tụi mày không sợ, tao sẽ đem tụi mày về ở với tao," – Mary thì thào bảo. Con bé còn lang thang thêm một lúc nữa cho tới khi mệt rã rời và không muốn đi xa hơn, nó liền quay về. Nó lạc lối vài lần bởi nhầm hành lang, và bắt buộc leo lên leo xuống cho tới khi tìm ra lối cũ; nhưng cuối cùng khi về đến chính tầng cũ của mình, dù chỉ còn cách phòng riêng có một quãng, nó lại không biết chính xác chỗ mình đang đứng. "Chắc mình lại nhầm lối rồi" – nó nói và đứng sững tại một điểm dường như là cuối một hành lang ngắn, nơi cũng có những tấm thảm thêu trên tường. – "Mình không hiểu lối này dẫn đi đâu. Sao tất cả im lìm thế!" Giữa lúc nó đang đứng đó, và ngay khi nói thế xong, một âm thanh bỗng vang lên phá tan cảnh tĩnh lặng. Một tiếng khóc nào đó, không hẳn đã giống tiếng khóc nó nghe thấy đêm qua, một âm thanh ngắn ngủi, cáu kỉnh, tiếng rên rỉ của một đứa trẻ con, nghèn nghẹt xuyên qua mấy bức tường. "Nghe còn gần hơn trước," – Mary bảo, tim con bé mỗi lúc một dập dồn. "Nó đang khóc kìa." Con bé vô tình đặt tay lên một tấm thảm thêu gần đó, bỗng nó nhảy lùi ngay lại, cảm thấy vô cùng hoảng hốt. Tấm thảm thêu vừa rớt xuống lại chính là vật che chắn như một cánh cửa ra vào để ngỏ và cho thấy một phần của hành lang khác đằng sau nó. Vừa lúc đó bà Medlock bước vào, tay cầm chùm chìa khóa to tướng với vẻ mặt vô cùng giận dữ. - Cô làm gì ở đây? – Bà vừa nói vừa tóm lấy Mary, lôi nó đi xềnh xệch. – Tôi đã bảo cô những gì? - Tôi đã nhầm lối rẽ, - Mary giải thích. – Tôi không biết đường, đang lúc đó thì nghe thấy tiếng ai khóc. Nó vốn đã ghét bà Medlock lắm rồi, nhưng sau đấy nó còn thấy căm ghét bà ta. - Cô chẳng nghe thấy gì như thế sất, - bà quản gia nói. – Hãy đi theo dọc lối này mà về phòng trẻ của cô đi, hoặc là tôi sẽ cho cô một bạt tai. Nói đoạn, bà lại đưa tay tóm lấy con bé, nửa kéo nửa đẩy hết lên lối này lại xuống lối khác cho tới khi tống được nó vào phòng trẻ. - Bây giờ, cô phải ở đúng nơi cô được phép ở hoặc cô sẽ bị khóa trái ở trong phòng. Ông chủ nên kiếm cho cô một nữ gia sư, đúng như ông đã định. Cô là cái thứ cần phải có ai đó để mắt sát sao. Tôi đã có đủ chuyện phải lo rồi. Dứt lời bà bước ra khỏi phòng, đóng sầm cánh cửa lại sau lưng lại, còn Mary bước lại ngồi bên thềm lò sưởi, tái mặt vì giận dữ. Nó không khóc mà chỉ nghiến răng. "Có ai đó đang kêu khóc.. có ai đang kêu khóc.. có ai đang!" Mary thì thầm với chính nó. Nó đã nghe thấy âm thanh đó hai lần, rồi có lúc nó sẽ khám phá ra. Riêng sáng nay nó biết được nhiều chuyện nhất. Nó có cảm giác như vừa trải qua một cuộc hành trình dài, và dù gì đi chăng nữa thì có một điều làm nó thấy vô cùng dễ chịu, đó là được chơi với bọn voi bằng ngà, được thấy chuột xám cùng bầy con của nó trong cái tổ giữa tấm đệm nhung.
Chương 7: Chìa khóa của khu vườn Bấm để xem Hai ngày sau đó, Mary vừa tỉnh giấc đã ngồi bật dậy trên giường và gọi Martha. - Nhìn trên cánh đồng hoang kia! Nhìn mà xem! Mưa giông đã tạnh, những đám mây cùng sương mù xám xịt đã bị gió cuốn băng đi từ hồi đêm. Ngay cả gió cũng ngưng thổi và chỉ còn thấy vòm trời xanh thẫm, rực rỡ, cao vời vợi trên khắp miền đồng hoang. Chưa bao giờ, chưa bao giờ Mary mơ đến một bầu trời xanh ngăn ngắt đến vậy. Ở Ấn Độ, không gian nóng hầm hập và chói chang; còn ngự trị nơi đây là một màu xanh mát mẻ, sâu thẳm, lấp lánh tựa làn nước của một cái hồ không đáy đáng yêu, và đây đó, cao tít trên vòm trời xanh là mấy đám mây trắng mịn như lông cừu đang lững lờ trôi. Cái thế giới vươn dài tít tắp của đồng hoang chỉ còn một màu xanh dìu dịu, thay cho màu đen pha tía ảm đạm hay màu xánh khủng khiếp. - Ái chà! – Martha nói với nụ cười hớn hở. – Cơn bão tan hẳn rồi. Dịp này năm ngoái cũng có bão như thế. Nó tràn qua mỗi một đêm thôi, như thể nó chưa từng đến và không còn trở lại. Bởi vì mùa xuân đã về. Mùa xuân xa vắng quá lâu, nhưng rồi đã trở lại. - Tôi cứ ngỡ ở nước Anh, trời lúc nào cũng mưa mù và tối tăm kia đấy, - Mary bảo. - Ồ, không. – Martha vừa nói, vừa ngồi xổm giữa đống bàn chải đen sì. – Hoan toan không phai vây! - Câu ấy có nghĩa là gì thế? – Mary hỏi một cách nghiêm trang. Ở Ấn Độ, đám gia nhân cũng hay nói nhiều thứ tiếng địa phương khác nhau mà chỉ ít người hiểu nổi, bởi thế con bé không khỏi ngạc nhiên khi Martha dùng những từ mà nó không biết. Martha bật cười như lần trong buổi sáng đầu tiên đó. Chị bảo: - Vậy đấy, tôi lại dùng cái giọng Yorkshire nặng nề rồi, bà Medlock đã được tôi không được nói thế. "Hoan toan không phai vay" có nghĩa là "Hoàn toàn không phải vậy" cô ạ. Chị nói một cách chậm rãi, cẩn thận, - Nhưng nói kiểu ấy mất thì giờ quá. Cứ hễ khi nào nắng thì Yorkshire là một nơi nhiều nắng nhất trên trái đất. Tôi chẳng bảo rằng cô sẽ thấy thích cánh đồng hoang sau khi ở đây ít lâu đó thôi. Cứ chờ cho tới khi cô tận mắt được thấy kim tước đơm hoa vàng rực, thấy mùa hoa đậu chổi, cùng với thạch thảo trổ ra toàn bông chuông tím, rồi thì hàng trăm con bướm rập rờn bay lượn, và ong vo vo khắp nơi, còn đàn chiền chiện thì bay vút lên ca hót. Rồi cô sẽ chỉ muốn ra khỏi nhà ngay lúc mặt trời mọc, sống ngoài trời cả ngày như thằng Dickon cho mà xem. - Bao giờ tôi có thể ra đó? – Mary hỏi với vẻ bâng khuâng và đưa mắt qua cửa sổ nhìn về phía màu xanh tít tắp. Đó quả là một màu sắc mới mẻ, rộng lớn, kỳ diệu như thể trên thiên đường. - Tôi không rõ, - Martha đáp, - Có lẽ từ khi sinh ra trên đời, cô chẳng bao giờ dùng đến đôi chân của cô. Cô không đủ sức cuốc bộ trong vòng năm dặm. Từ đây đến túp nhà gianh của chúng tôi cũng phải đến năm dặm. - Tôi thích được đến túp nhà gianh của chị. Trong giây lát, Martha đăm đăm nhìn con bé với vẻ ngờ vực, trước khi cầm chiếc bàn chải cọ đi cọ lại cái ghì một lần nữa. Chị đang nghĩ về khuôn mặt nhỏ nhắn kém xinh của Mary, lúc này nom không còn cau có như chị thấy vào buổi sáng đầu tiên. Nó hơi giống khuôn mặt của bé Susan Ann khi đang thèm khát một cái gì đó. - Tôi sẽ hỏi mẹ tôi về chuyện này, - chị nói. – Bà là người gần như lúc nào cũng nghĩ ra cách gì đó cho mọi chuyện. Hôm nay là ngày tôi được nghỉ và tôi sắp về đây. Ôi, tôi mừng lắm. Bà Medlock cũng là người quan tâm đến mẹ tôi. Có thể mẹ tôi sẽ nói với bà ấy. - Tôi thích mẹ chị. – Mary bảo. - Tôi có thể hiểu điều đó, - Martha đồng ý, tiếp tục đánh bóng ghì lò. - Tôi chưa bao giờ được gặp bà. – Mary bảo. - Chưa, cô chưa gặp. – Mary đáp. Chị lại ngồi xổm, khẽ giụi giụi mũi bằng mu bàn tay, chị có vẻ bối rồi một chút rồi nhận định cả quyết. - Vậy đấy, bà là người biết điều, chăm chỉ, tốt bụng và sạch sẽ, khiến cho không ai là không quý mến, dù họ đã gặp bà hay chưa. Mỗi dịp sắp về nhà thăm mẹ và ngày nghỉ, tôi thật chỉ muốn nhảy lên vì sung sướng vào cái lúc băng qua cánh đồng hoang. - Tôi thích cả Dickon nữa, - Mary nói thêm, - và cũng chưa gặp cậu ấy lần nào. - Chà, - Mary đáp lại một cách chắc nịch. – Tôi đã bảo cô rằng các loài chim chóc đều quý nó, cả thỏ, cừu hoang, ngựa hoang, và bọn cáo nữa chứ. Tôi đang tự hỏi, - Martha chằm chằm nhìn con bé với vẻ suy nghĩ, - không hiểu thằng Dickon sẽ nghĩ gì về cô nhỉ? - Cậu ấy không thích tôi đâu, - Mary trả lời chị theo cái lối lạnh lùng và không được thân mật của nó. – Chẳng ai thích tôi hết. Martha lại nhìn sang, vẻ suy nghĩ. - Cô có thích bản thân mình không? – Martha hỏi với vẻ hoàn toàn thành thực, như thể chị tò mò muốn biết. Mary lưỡng lự giây lát rồi nghĩ ra. - Không hề, thực đấy. – Nó đáp. – Nhưng trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều đó cả. Martha toét miệng ra cười như thể nhớ lại vài kỷ niệm chất phác về mẹ của chị. - Có lần mẹ tôi bảo với tôi thế này. Bà ngồi bên chậu giặt, còn tôi thì đang cáu kỉnh và chỉ trích người khác. Bà quay sang tôi và bảo: "Này, con là đứa xấu nết, lại còn hay gây gổ! Con chỉ biết đứng đấy mà kêu không thích người này người kia. Vậy con có thích chính bản thân con không?" Câu nói ấy khiến tôi bật cười và tỉnh ngộ ra trong giây lát. Ngay sau khi mang cho Mary bữa điểm tâm, chị ra về với tâm trạng vô cùng phấn chấn. Chị sắp phải cuốc bộ năm dặm đường qua cánh đồng hoang để về ngôi nhà gianh, giúp mẹ giặt giũ, làm món bánh nướng cuối tuần, và hưởng một niềm vui trọn vẹn. Mary cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết khi biết chị sẽ không còn ở trong nhà một thời gian. Nó rảo bước ra ngoài vườn, và việc đầu tiên là nó chạy vòng quanh đài phun nước trong vườn hoa mười vòng liền. Nó cẩn thận đếm số vòng chạy, lúc dừng chân nó thấy tâm trạng phấn khích hơn. Ánh mặt trời khiến quang cảnh trở nên khác hẳn. Vòm trời xanh thẳm cao vời vợi bao trùm lên Miselthwaite và cả cánh đồng hoang mênh mông. Con bé ngẩng mặt ngước nhìn trời, nó cố tưởng tượng xem nếu được nằm trên một trong những đám mây trắng xốp như tuyết kia thì sẽ như thế nào và chúng đang trôi về đâu. Nó vừa tiến vào mảnh vườn đầu tiên dành cho nhà bếp thì gặp lão Ben Weatherstaff đang làm việc với hai người làm vườn khác. Dường như thời tiết đổi thay làm lão thấy dễ chịu hơn. Lão vồn vã nói với con bé. - Tiết xuân đã về. Cô cảm thấy nó chứ? Mary hít hà và nghĩ rằng nó cũng cảm nhận được hương vị đó. - Tôi ngửi thấy một mùi gì đó rất tuyệt, vừa mát vừa ẩm. - Đó chính là hương của đất màu, - lão vừa đáp vừa xới đất. – Nhờ chất bổ phì nhiêu trong đó mà cây cối đâm chồi nảy lộc. Thật mừng vì mùa trồng trọt đã tới. Mùa đông thì buồn tẻ quá chẳng có gì để làm. Trong những vườn hoa ngoài kia, mọi thứ đang cựa mình dưới đất đen. Mặt trời sưởi ấm cho chúng. Chỉ ít ngày nữa thôi, cô sẽ thấy những mầm xanh dần nảy nở bên trên mặt đất đen sẫm. - Chúng là những loại nào? – Mary hỏi. - Nghệ tây và hoa giọt tuyết và hoa thủy tiên vàng. Chẳng lẽ cô chưa bao giờ thấy chúng sao? - Chưa. Ở Ấn Độ sau cơn mưa, mọi thứ đều nóng, ẩm và xanh tốt. – Mary đáp. – Tôi nghĩ cây cối chỉ mọc trong một đêm thì phải. - Ở đây chúng không thể mọc trong một đêm được, - lão Weatherstaff đáp. – Cô sẽ phải chờ chúng. Chúng sẽ nhú ra một chút ở đây và nảy ra một chút ở kia, rồi ngày một ngày hai chiếc lá mới dần mở ra. Cô quan sát chúng mà xem. - Tôi cũng định thế, - Mary trả lời lão. Vừa dứt lời, nó nghe thấy tiếng vỗ cánh nhè nhẹ, và ngay tức khắc nó hiểu rằng con chim ức đỏ đã quay lại. Con chim thật ngộ nghĩnh và nhanh nhẹn, nó nhảy nhót ngay sát chân Mary, đầu nghiêng nghiêng ngước nhìn con bé với vẻ ranh mãnh đến mức Mary phải cất tiếng hỏi lão Ben Weatherstaff. - Ông có cho rằng nó còn nhớ tôi không? - Nhớ cô ư! – Lão Weatherstaff nói với vẻ cáu kỉnh. – Nó biết rõ từng gốc cải bắp trong các khu vườn, huống hồ là con người. Trước kia nó chưa từng thấy một cô nàng trẻ tuổi nào ở đây, nên nó mới có ý tìm hiểu mọi sự về cô. Cô không cần phải giấu diếm nó điều gì cả. - Có phải mọi thứ đang cựa mình dưới đất đen trong khu vườn nó sống không? – Mary căn vặn. - Khu vườn nào? Lão Weatherstaff nhăn mặt, thái độ lại trở nên gắt gỏng. - Khu vườn có mấy khóm hồng già ấy, - Nó không thể không hỏi, bởi vì nó đang muốn biết thật nhiều, - tại sao tất cả các cây hoa đều héo khô, hay là một số sẽ mọc lại vào mùa hè? Ở đó còn có bông hồng nào không? - Cô hỏi nó mà xem, - lão Ben Weatherstaff nhìn về phía con chim ức đỏ rồi nhún vai, - nó là kẻ duy nhất biết rõ. Suốt mười năm qua không một ai ngó ngàng bên trong khu vườn đó. Mười năm quả là một thời gian dài, Mary nghĩ. Nó cũng đã sinh ra mười năm về trước. Nó bước đi, chậm rãi suy nghĩ. Nó bắt đầu thấy yêu mến khu vườn, con chim ức đỏ, thằng Dickon và bà mẹ của Martha. Nó thấy quý mến cả Martha nữa. Dường như có rất nhiều người tốt để yêu quý – ngay cả khi ta không có thói quen yêu quý kẻ khác. Nó coi con chim ức đỏ là một trong số ấy. Mary bước theo lối đi dạo bên ngoài bức tường dài phủ đầy dây thường xuân, thấy rõ mấy ngọn cây lấp ló trên bờ tường: Đây là lần thứ hai nó bước tới bước lui bên cái nơi thú vị hồi hộp này và tất cả đều từ con chim ức đỏ của lão Ben Weatherstaff mà ra. Nó nghe thấy một hồi líu ríu. Đưa mắt nhìn luống hoa trơ trụi bên trái, nó nhận ra con chim đang nhảy nhót, làm bộ đang mổ vật gì trên mặt đất như bảo rằng nó không có ý bám theo con bé. Nhưng thừa biết con chim nhỏ vẫn theo sát mình, con bé vừa sửng sốt vừa sung sướng đến nỗi gần như run lên. - Mày vẫn còn nhớ tao? – Nó gào to lên. – Mày còn nhớ tao. Mày xinh đẹp hơn bất kể thứ gì trên thế gian này. Con bé cũng kêu lên ríu rít, chuyện trò, dỗ dành con chim, còn con chim ức đỏ thì nhảy nhót lia lịa, ngoáy ngoáy mất cái lông đuôi và kêu lên rầm rĩ. Như thể nó cũng đang đáp lại lời Mary. Đám lông đỏ rực của nó mịn màng như sa tanh. Rồi nó phồng cái ức tí hon đó lên, thật đường bệ và xinh xắn, như thể muốn phô bày cho con bé thấy một con chim ức đỏ có thể trông giống con người và quan trọng đến độ nào. Cô chủ Mary quên khuấy rằng nó từng là một đứa ngang ngược biết bao. Lúc này, nó khẽ nhích lại gần con chim hơn nữa, rồi quỳ xuống mà thì thầm, cố gắng bắt chước bằng được tiếng kêu của chim. Ôi! Khó mà tin được nó lại để Mary tới gần đến thế. Nó biết không đời nào con bé giơ tay chộp nó hay làm nó mảy may hoảng sợ. Nó hiểu điều đó vì nó cứ như một con người thực sự - thậm chí còn tuyệt hơn bất kỳ con người nào khác trên thế gian này. Con bé hạnh phúc tới độ không dám thở. Luống hoa thực ra không hoàn toàn trơ trụi. Nó không ra hoa bởi các cây lâu năm đã bị đốn bớt cành để nghỉ đông, nhưng vẫn còn nhiều cây bụi cao thấp mọc san sát phía sau luống. Khi con chim ức đỏ nhảy nhót dưới các lùm cây ấy, con bé trông thấy nó nhảy qua một đống đất mới đào mùi ngai ngái và dừng lại đó để tìm côn trùng. Đống đất ấy bị đào lên bởi có con chó đang muốn đào một cái hố sâu để tìm chuột chũi. Mary nhìn cái hố. Nó thật sự không hiểu tại sao lại có cái hố ở đấy. Đúng lúc mải nhìn nó chợt nhận thấy có một cái gì được vùi giấu trong nền đất mới lật, trông tựa như một cái vòng bằng sắt hoặc đồng thau đã hoen gỉ. Khi con chim bay vút lên cái cây gần đó, con bé thò tay nhặt cái vòng lên. Còn hơn cả một cái vòng, đó là một chiếc chìa khóa cũ kỹ trông như đã được chôn từ lâu lắm. Cô chủ Mary đứng dậy, và với vẻ gần như hoảng sợ, nó nhìn chiếc chìa khóa đang lủng lẳng nơi ngón tay mình. "Có lẽ nó đã bị chôn vùi gần mười năm nay". Nó thì thầm. "Có lẽ đó là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa khu vườn!"
Chương 8: Chim ức đỏ, kẻ dẫn đường Bấm để xem Con bé ngắm nghía chiếc chìa khóa hồi lâu. Nó lật đi lật lại và suy nghĩ. Như đã nói ở trên, nó không phải một đứa trẻ được dạy bảo rằng phải xin phép hay hỏi ý kiến người lớn về mọi chuyện. Tất cả những gì nó đang nghĩ lúc này là nếu đó đúng là chiếc chìa khóa của khu vườn đóng kín và nếu nó có thể khám phá ra cánh cửa ở đâu, nó sẽ mở cửa để xem có gì đằng sau mấy bức tường, và điều gì đã xảy ra với những cây hồng già. Khu vườn bị khóa chặt quá lâu nên con bé càng thèm muốn nhìn thấy nó. Đó dường như là một nơi khác hẳn những nơi khác, và trong suốt mười năm qua ắt phải có điều gì đó kỳ lạ xảy ra ở đó. Ngoài ra, nếu con bé thích thì hàng ngày nó có thể vào trong, khép cửa lại, tự bày trò mà chơi một mình, bởi vì sẽ không ai hay nó ở trong vườn, họ sẽ tưởng cánh cửa vẫn khóa còn chiếc chìa khóa thì bị vùi đâu đó. Ý nghĩ này khiến Mary vô cùng thích thú. Cuộc sống thui thủi trong ngôi nhà có hàng trăm căn phòng bí ẩn khép kín, cùng với việc bản thân chẳng có gì để làm cho khuây khỏa đã khiến bộ óc biếng nhác của nó phải làm việc, và trí tưởng tượng của nó được đánh thức. Không nghi ngờ gì nữa, làn không khí mạnh mẽ, tinh khiết và tươi mát nơi cánh đồng hoang cũng góp phần lớn làm nên điều đó. Cũng giống như làn không khí đã khiến nó ăn ngon miệng và sự chống chọi với những cơn gió lớn khiến cho khí huyết nó được lưu thông, những thứ như vậy đã kích thích trí não của nó hoạt động. Ở Ấn Độ, nó quá nóng bức, uể oải, yếu ớt, và chẳng mấy quan tâm đến gì khác. Nhưng ở nơi đây, nó bắt đầu để ý tới mọi việc và muốn làm điều gì mới mẻ. Nó còn nhận thấy mình bớt "ngang ngược" hơn trước mà chính nó cũng chẳng hiểu tại sao. Nó đút chiếc chìa khóa vào túi áo rồi bước tới bước lui trên đường. Hình như chưa một ai ngoài nó đặt chân tới chốn này, bởi vậy con bé có thể thong thả bước đi và ngước lên nhìn bức tường, đúng hơn là nhìn đám thường xuân đang leo lên đó. Dám thường xuân này quả là thứ cản trở tầm nhìn. Dù Mary xem xét kỹ lưỡng đến mức nào, nó vẫn chẳng thấy gì ngoài lớp cành cây lan dày đặc cùng những chiếc là xanh bóng. Nó vô cùng thất vọng. Nhưng cái tính bướng bỉnh ngang ngạnh của nó lại thôi thúc, khi con bé đi tới đi lui dọc chân tường và ngước nhìn qua bờ tường lên mấy ngọn cây bên trong. "Thật ngớ ngẩn" – Mary thầm nhủ - nó ở ngay bên mình mà không sao vào nổi. Nó siết chặt chiếc chìa khóa trong túi áo; trên đường trở về nhà nó quyết định từ nay sẽ luôn mang chiếc chìa khóa bên mình mỗi khi ra ngoài, hễ tìm ra cánh cửa giấu kín đó thì nó sẽ mở ngay. Bà Medlock đã cho phép Martha ngủ lại qua đêm tại túp lều gianh, nhưng chị vẫn đã trở về làm việc ngay từ sáng sớm, hai má hồng hào như thường lệ cùng với một tâm trạng vô cùng sảng khoái. - Tôi dậy từ lúc bốn giờ sáng - chị kể - Ầy, đồng hoang mới đẹp làm sao, chim chóc líu lo, lũ thỏ thì nhởn nhơ đây đó, và cảnh mặt trời mọc nữa. Tôi không phải đi bộ cả quáng đường. Một ông đã cho tôi đi nhờ xe ngựa của ông ấy. Tôi muốn nói với cô rằng tôi vô cùng mãn nguyện. Rồi chị kể hàng lô chuyện vui trong ngày về nhà. Mẹ đã tỏ ra vo cùng mừng rỡ khi thấy chị trở về, rồi hai mẹ con cùng giặt giũ nấu nướng. Chị còn làm cho bọn nhóc mỗi đứa một chiếc bánh bột nhào trộn với chút đường đỏ. - Tôi đã dọn cho chúng những món nóng sốt sau khi chúng chơi đùa từ ngoài đồng trở về. Và khắp gian nhà gianh chỗ nào cũng sực nức mùi thơm tho, sạch sẽ và mùi của những món ăn nóng hổi trên bếp lửa hồng, còn bọn trẻ thì hò reo vui sướng. Thằng Dickon nhà tôi ấy, nó bảo rằng cái nhà gianh của chúng tôi để cho một ông vua ở cũng còn tốt chán. Buổi tối cả nhà quây quần quanh bếp lửa, Martha cùng bà mẹ vá quần áo rách và mạng bít tất. Tiện thể Martha kể cho họ nghe về cô bé gái vừa từ Ấn Độ trở về, chuyện cô ta cả đời được hầu hạ bởi những người mà Martha gọi là dân "da đen", rồi đến chuyện cô ta thậm chí không biết tự mình đi tất. - Ầy, mọi người đều thích nghe kể về cô, - Martha bảo. - Họ muốn biết mọi thứ về những người da đen và về con tàu chở cô. Tôi không thể kể cho họ nghe đủ hết mọi chuyện được. Mary ngẫm nghĩ giây lát. - Trước hôm về nhà sắp tới của chị, tôi sẽ kể thêm cho chị kỹ hơn nữa. Rồi chị tha hồ mà thuật lại. Tôi dám cược rằng họ sẽ thích nghe chuyện cưỡi voi và lạc đà cho mà xem. Vả chuyện các sĩ quan đi săn hổ nữa. - Đấy, tôi bảo mà, - Martha kêu lên vui sướng. - Chắc chắn có chuyện đó sẽ mở mang trí óc cho mọi người. Có thật là cô sẽ kể chứ, thưa cô. Có lẽ cũng giống chuyện một con thú hoang mà chúng tôi nghe rằng đã từng có ở York. - Ấn Độ hoàn toàn khác với Yorkshire, - Mary chậm rãi nói, như thể đã suy nghĩ kỹ về vấn đề này. – Tôi chưa vào giờ nghĩ về chuyện đó. Có đúng là Dickon và mẹ chị thích nghe chị kể chuyện về tôi chứ? - Sao kia? Thằng Dickon nhà tôi thì ruột để ngoài da, nó chỉ thích chạy nhởn thôi, - Martha trả lời. – Nhưng mẹ tôi, bà cứ lo lắng vì việc cô chỉ có một mình. Bà bảo "Ông Craven không tìm một nữ gia sư hay một bảo mẫu cho cô ấy à?", tôi bèn đáp: "Không ạ, ông ấy chẳng tìm gì cả, mặc dầu bà Medlock có nói rằng ông ấy sẽ làm vậy khi nào ông nghĩ đến điều đó, nhưng bà cũng bảo ông ấy vẫn chưa nghĩ đến đâu trong vài ba năm tới." - Tôi không muốn có một cô gia sư nào hết, - Mary nói một cách gay gắt. - Mẹ tôi khuyên cô lúc này nên học hành sách vở đi là vừa, và cô cũng nên có một phụ nữ để chăm sóc cho cô, bà còn bảo: "Nào, Martha, con cứ thử hình dung con sẽ cảm thấy như thế nào khi phải sống trong một tòa nhà đồ sộ như thế, một thân một mình lang thang đó đây, lại không còn mẹ. Con phải gắng sức để cô ấy được vui vẻ." Bà dặn dò như thế và tôi đáp rằng tôi sẽ cố gắng. Mary đưa mắt nhìn chị hồi lâu, vẻ điềm tĩnh. - Chị đã làm cho tôi vui rồi đấy thôi. Tôi thích nghe chị nói. Ngay lập tức, Martha chạy ra khỏi phòng rồi trở lại với vật gì giấu trong hai bàn tay dưới cái tạp dề của chị. - Đố cô biết cái gì đây? - Chị nói với nụ cười vui vẻ. – Tôi mang đến cho cô một món quà. - Một món quà! – Cô chủ Mary thốt lên. Một mái nhà gianh với mười bốn con người đói kém, làm sao có thể tặng nổi ai một món quà. - Có ông bán hàng rong đánh xe qua đồng cỏ. Ông ta dừng xe trước cửa nhà chúng tôi. Ông ta có nào là nồi, ấm làm bằng đất nung, nào là xoong, chảo cùng các thứ hàng linh tinh lặt vặt khác, nhưng mẹ tôi không có tiền để mua bất cứ thứ gì hết. Đúng lúc ông ta định đi thì con Lizbeth Ellen nhà tôi gọi to: "Mẹ ơi, ông ấy có sợi dây nhảy với hai tay cầm màu xanh đỏ kìa." Thấy vậy mẹ tôi đột nhiên gọi: "Này ông, gượm đã! Ông định bán thứ này bao nhiêu?" Ông ấy đáp: "Chỉ đáng một xu." Mẹ tôi vội lục lọi túi áo bà, rồi quay sang bảo tôi: "Martha, con đã mang về cho mẹ tiền công của con như một cô gái ngoan, còn mẹ có tới bốn chỗ để giấu từng đồng tiền xu, và mẹ định lấy một xu trong số tiền ấy để mua sợi dây nhảy này." Thế là bà đã mua nó, đây này. Chị lấy nó ra từ dưới chiếc tạp dề rồi giơ cho Mary thấy với vẻ vô cùng hãnh diện. Đó là một sợi dây mảnh nhưng chắc chắn, ở đầu dây là một tay cầm có sọc đỏ và xanh. Mary Lennox chưa từng thấy một cuộn dây nhảy nào trước đó. Con bé ngó trân trân cuộn dây với vẻ lúng túng. - Cái đó để làm gì? – Nó tò mò hỏi. - Để làm gì ư? – Martha kêu lên. – Có phải ý cô là ở Ấn Độ mọi người chẳng hề chơi nhảy dây mà chỉ thích săn hổ, cưỡi voi và lạc đà đấy chứ? Thảo nào ai ai cũng đen nhẻm. Cái này để làm gì ư, nhìn tôi đây. Nói đoạn chị chạy ra giữa phòng, mỗi tay cầm một đầu dây rồi bắt đầu nhảy, nhảy, nhảy, trong khi Mary xoay người lại trên ghế đôi theo chị. Những khuôn mặt kỳ dị trên các bức chân dung cổ dường như cũng chằm chằm nhìn Martha, có lẽ các vị ấy đang tự hỏi không biết cái kẻ sống trong túp nhà gianh tầm thường kia đang làm già ngay dưới mũi mình. Nhưng Martha chẳng nhìn họ. Vẻ quan tâm và tò mò hiển hiện trên khuôn mặt Cô chủ Mary khiến chị càng thấy thích. Chị tiếp tục nhảy và đếm theo bước nhảy cho tới khi được một trăm. - Tôi còn có thể nhảy lâu hơn thế, - chị nói lúc dừng chân. – Tôi từng nhảy được năm trăm cái hồi tôi mười hai tuổi, hồi đó tôi không béo như bây giờ và luyện tập chăm chỉ lắm. Mary nhổm dậy khỏi ghế, trong người bắt đầu thấy phấn chấn. - Sợi dây đẹp quá. Mẹ chị thật tốt bụng. Chị có nghĩ tôi có thể nhảy được như thế không? - Cô hãy thử xem – Martha thuyết phục và đưa cuộn dây cho nó. - Thoạt đầu cô chưa thể nhảy một trăm vòng ngay đâu, nhưng nếu chịu khó tập thì cô sẽ nâng dần số vòng lên. Mẹ tôi nói vậy đấy. Bà bảo:"Không có gì làm cô ấy khoẻ hơn nhảy dây. Đây là thứ đồ chơi thích hợp nhất mà trẻ con nên có. Cứ để cô ấy nhảy dây thỏa thích ngoài không khí trong lành, có thể chân tay mới dài ra và cứng cáp thêm lên. Một điều đáng buồn là hai cánh tay và hai cẳng chân của Mary chẳng có bao sức lực vào lần đầu tiên nó tập nhảy. Nó cũng chẳng phải đứa nhanh nhẹn trong trò này, nhưng tỏ ra thích thú đến nỗi không muốn dừng chân. - Cô hãy mặc quần áo rồi mang dây ra ngoài mà nhảy, - Martha nói, - Mẹ dặn tôi phải nhắc cô rằng nên chơi bên ngoài càng nhiều càng tốt, ngay cả khi trời mưa lất phất, cô sẽ thấy ấm người lên cho mà xem. Mary mặc áo choàng, đội mũ rồi mang theo sợi dây nhảy trên tay. Nó mở cửa bước ra ngoài, bỗng nghĩ ra điều gì nó chậm rãi quay lại. - Chị Martha, - nó nói, - cuộn dây được mua từ tiền công của chị. Cũng phải mất tới hai xu của chị ấy chứ. Cảm ơn chị. Con bé nói câu ấy một cách khó nhọc, bởi vì chị không quen cảm ơn mọi người hoặc để ý tới những việc họ làm cho nó. - Cảm ơn, - nó nói và chìa tay ra, bởi vì không biết làm gì hơn. Martha nắm lấy tay con bé và khẽ lắc một cách vụng về, có vẻ chị không quen với những việc như thế này lắm. Chợt chị phá lên cười. - Eo ôi, cô kì quá, thế này chỉ hợp với bà già thôi. Nếu cô là con bé Lizabeth Ellen nhà chúng tôi thì cô đã tặng tôi một cái hôn rồi. Nom Mary càng gượng gạo hơn bao giờ hết. - Chị muốn tôi hôn chị ư? Martha lại bật cười. - Ôi, không, không phải đâu. Nếu cô là người khác, có lẽ chính cô cũng muốn. Đằng này lại không phải vậy. Thôi chạy ra ngoài kia mà chơi với sợi dây của cô đi. Marry cảm thấy hơi lúng túng lúc nó rời khỏi phòng. Người xứ Yorkshire thật kì lạ, còn Martha thì luôn là một bí ẩn đối với nó. Thoạt đầu nó rất ghét chị, nhưng bây giờ thì không. Sợi dây nhảy quả là một điều kỳ diệu. Nó vừa nhảy vừa đếm, cho tới khi hai má nó ửng hồng, từ thủa sinh ra đến giờ chưa khi nào nó thích thú đến thế. Mặt trời đang tỏa sáng, một cơn gió thoảng qua, không phải cơn gió mạnh mà là làn gió thoang thoảng ngắn ngủi mang theo niềm vui và mùi hương tươi mát của đất vừa lật xới. Nó nhảy vòng quanh khu vườn có đài phun nước, hết vòng lên rồi lại vòng xuốn. Cuối cùng, khi nhảy lùi dần vào khu vườn dành cho nhà bếp, nó nhìn thấy lão Ben Wêathrstaff đang xới đất, vừa trò chuyện với con chim ức đỏ đang nhảy nhót quanh lão. Con bé nhảy dây trên lối đi dạo dẫn đến chỗ lão. Lão ngẩng đầu nhìn nó, vẻ tò mò. Con bé tự nhủ không biết lão có để ý tới nó không. Nó thực sự muốn lão nhìn thấy nó nhảy dây. - Chà! – Lão thốt lên. - Lạ chưa kìa! Có vẻ như cô đang trở thành một thiếu nữ, đang dồi dào sinh lực mà chẳng cần bơ sữa gì sất. Cô nhảy dây khiến hai má đỏ ửng, trông rõ ràng rành rành như tên tôi là Ben Weatherstaff vậy. Tôi thật khó tin cô cũng có thể làm được điều đó. - Trước đây tôi chưa từng bao giờ nhảy dây, - Marry đáp. – Tôi mới chỉ bắt đầu, chỉ đủ sức nhảy hai mươi vòng thôi. - Cô cứ tiếp tục đi, - Lão Ben bảo. - Nếu tập đều cô sẽ có thân hình cân đối khoẻ mạnh của một thiếu nữ, không như hồi còn ở với bọn mông muội. Cứ nhìn nó ngắm cô thì rõ, - vừa nói, lão vừa hất đầu về phía con chim ức đỏ. – Nó theo cô suốt từ hôm qua đến giờ. Nó sẽ ở lì đây cả ngày hôm nay cho mà xem. Chắc chắn nó sẽ khám phá xem nhảy dây là gì, nó chưa bao giờ thấy ai làm thế. – Ê! - lão lắc đầu với con chim. – Mày tò mò thế thì sẽ có bữa chết, nếu mày không nhìn cho kỹ. Mary nhảy dây vòng qua tất cả các vườn hoa rồi lại vườn quả, cứ vài phút lại nghỉ một chút. Cuối cùng nó đi xuống lối dạo chơi quen thuộc và quyết định xem mình có đủ sức nhảy suốt dọc lối đó không. Đó là một đường nhảy dây khá dài. Nó bắt đầu một cách chậm rãi, nhưng trước khi nhảy được nửa đoạn đường, nó cảm thấy nóng bừng cả người và hụt hơi đến nỗi phải dừng lại. Nó cũng không phiền lòng lắm bởi nó đã đếm được tới ba mươi vòng. Nó ngừng lại, và đang mỉm cười vì sung sướng thì kìa, thật lạ lùng, vẫn là con chim ức đỏ đang đu đưa trên một nhành thường xuân dài. Thì ra nãy giờ nó vẫn theo con bé, và còn cất cao giọng chào mừng Mary bằng tiếng hót líu lo. Nhảy về phía con chim, Marry cảm thấy một vật gì nằng nặng trong túi áo cứ thúc vào sườn theo mỗi bước chân, nó nhìn con chim ức đỏ bật cười: - Hôm qua mày đã chỉ tao chỗ giấu chiếc chìa khóa rồi thì hôm nay mày hãy chỉ cho tao cánh cửa ấy đi; nhưng tao không tin mày biết nó ở đâu. Con chim ức đỏ đang nhún nhảy trên nhành thường xuân liền bay vút lên bờ tường, nó há mỏ và cất tiếng hót lanh lảnh hết sức đáng yêu – đơn giản là nó đang muốn trình diễn. Trên đời này chẳng có gì thú vị và đáng yêu bằng con chim ức đỏ khi nó phô trương giọng hót của nó, và loài chim này hầu như lúc nào cũng thích làm thế. Marry Lenox từng được nghe vô khối chuyện về Phép thuật theo lời kể của các Ayah. Nó tự nhủ hầu hết những gì vừa xảy ra cũng đều là Phép thuật. Một cơn gió nhẹ và dễ chịu ào qua lối đi dạo, nhưng nó mạnh hơn những cơn gió khác. Gió đủ mạnh để lay động mấy cành cây, làm lung lay những nhành thường xuân nhỏ đang bò ngổn ngang trên bờ tường. Marry rón rén tới gần bên com chim. Bỗng đâu một cơn gió thổi bạt đám thường xuân dạt sang một phía, và con bé đột ngột nhảy tới nắm chặt đám cành lá đó trong tay. Nó làm vậy nó vừa thấy một cái gì đó ở phía dưới - một nắm tay tròn trịa bị che phủ dưới lớp lá rủ xuống từ trên tường. Chính là tay nắm của một cánh cửa. Con bé quơ cả hai bàn tay vào lớp lá dày và bắt đầu gạt chúng sang bên. Dây thường xuân bám dày, như một tấm màn buông rủ đung đưa, và đôi chỗ cành lá còn len lỏi qua lớp gỗ và sắt. Trống ngực Marry đập thình thịch, còn hai bàn tay khẽ run lên vì sung sướng và phấn khích. Con chim ức đỏ vẫn vừa hót vừa ríu rít liên hồi. Nó nghiêng cái đầu sang một bên, có vẻ cũng háo hức chẳng kém gì con bé. Cái vật vuông vuông bằng sắt nằm dưới tay Marry mà con bé còn đang dò dẫm tìm một cái lỗ trên nó làm cái gì vậy? Đó chính là cái ổ khóa của cái cánh cửa đã đóng chặt suốt mười năm qua. Con bé thọc tay vào túi rút chiếc chìa khóa ra, nó nhận thấy chìa khóa vừa khít vào ổ. Nó ấn sâu chiếc chìa vào ổ rồi vặn chìa. Nó phải dùng cả hai tay để vặn, nhưng ổ khóa đã xoay. Đoạn con bé hít một hơi dài, ngoái lại phía con đường dài hút tầm mắt xem có ai đang tiến lại gần không. Không thấy một ai, và dường như chưa từng có ai thì phải. Nó không nén được, hít thêm một hơi thật sâu, rồi vén tấm mành thường xuân đang đung đưa, tay đẩy cánh cửa đang mở ra từ từ, chậm rãi. Nó lách mình vào bên trong, khép cánh cửa lại sau lưng, và đứng đó sững sờ tựa lưng vào cửa. Nó lướt nhìn khắp xung quanh, hơi thở dồn dập vì phấn khích, vì sửng sốt và vì sung sướng nữa. Nó đang đứng bên trong một khu vườn bí mật.
Chương 9: Ngôi nhà kỳ lạ nhất chưa ai từng thấy Bấm để xem Đó quả là nơi ngọt ngào, huyền bí nhất chưa ai có thể tưởng tượng nên. Mấy bức tường cao ngăn cánh với bên ngoài phủ đầy những cánh hồng leo trụi lá đang mọc dày đến mức quyện chặt cào nhau. Marry Lennox biết chúng là hoa hồng bởi nó đã từng thấy rất nhiều loại hoa hồng hồi ở Ấn Độ. Khắp mặt đất mọc đầy thứ cỏ mang màu nâu úa của mùa đông, phía bên ngoài nó mọc lên những búi cành hẳn sẽ là những khóm hồng nếu chúng còn sống. Có một vài loài hoa hồng thông thường đàng tỏa ra như những cái cây nhỏ. Trong vườn còn nhiều loại cây khác, thế nhưng một trong nhưnngx điều khiến nơi đây trở nên khác lạ và đáng yêu chính là đám hồng leo đang vươn cành tỏa nhánh khắp nơi, để rồi rủ xuống những tua dài kết thành những bức mành nhẹ đung đưa trước gió; đây đó chúng gặp nhau, khóm này đan cành vào khóm kia cho tới lúc tự chúng kết thành những chiếc cầu vòng vô cùng duyên dáng. Giờ này trên thân chúng không có cả lá lẫn hoa, Marry cũng không rõ liệu chúng còn sống hay đã chết, chỉ thấy những cành và nhánh mảnh dẻ màu nâu xám tựa một chiếc khăn choàng đang mơ hồ trải rộng bao trùm mọi vật, từ các bức tường, cây cối và ngay cả mặt cỏ úa vàng, nơi chúng quyện chặt lấy nhau và bò lan trên khắp mặt đất. Cái mớ dây mơ hồ này giăng mắc từ cây nọ sang cây kia càng khiến cho cảnh vật trở nên bí ẩn. Marry nghĩ thầm, nơi này không giống với những khu vườn bỏ quên đã lâu, và quả thực, đó là nơi khác hẳn với bất kì nơi nào mà nó từng thấy trong đời. - Yên tĩnh quá! – Nó thì thào. – Yên tĩnh quá! Con bé chờ đợi giây lát và yên lặng lắng nghe. Con chim ức đỏ nãy giờ đậu trên ngọn cây, cũng lặng thinh như cảnh vật bao quanh nó. Nó thậm chí còn không dám vỗ cánh, cứ đậu ở đó mà nhìn Marry. - "Yên tĩnh là phải, - nó lại thì thầm. – Mình là người đầu tiên lên tiếng ở đây trong suốt mười năm qua". Nó bước khỏi cánh cổng, rón rén thật khẽ như sợ làm ai thức giấc. Nó mừng vì dưới chân mình là cỏ, vì như vậy bước chân của nó sẽ không phát ra tiếng động. Nó đi dưới một trong những vòm cây như trong truyện cổ tích, mắt ngước nhìn lên các nhánh cây và dây leo đã kết nên chúng. - Mình băn khoăn liệu chúng đã chết cả chưa. Chẳng lẽ đây là khu vườn đã hoàn toàn chết ư? Ước gì không phải vậy. Nếu là lão Ben Weatherstaff thì nhìn qua là có thể nói được một cái cây còn sống hay không, nhưng Marry chỉ có thể thấy đó là những nhánh có màu nâu hay xám, và chẳng hề có dấu hiệu nào của những chồi lá tí hon ở bất kì đâu. Nhưng dù sao nó cũng đang ở trong khu vườn kỳ diệu, và có thể bước qua cánh cửa dưới giàn thường xuân bất cứ lúc nào – con bé tự mình vừa khám phá ra cả một thế giới. Mặt trời tỏa sáng bên trong bốn bức tường, vòm trời cao xanh phía trên mảnh đất đặc biệt này của Misselthwaite thậm chí còn rực rỡ và dịu dàng hơn khi bao trùm trên cánh đồng hoan. Từ ngọn cây nơi nó đang đậu, con chim ức đỏ sà xuống đất nhảy nhót và bay theo con bé từ bụi cây này sang bụi cây khác. Nó líu lo một tràng dài và có vẻ hêt sức bận rộn, như thể đang chỉ cho con bé những thứ xung quanh. Mọi thứ thật kỳ lạ và yên tĩnh, và con bé có cảm tưởng mình đang cách biệt với mọi người dễ tới hàng trăm dặm nhưng nó chẳng hề thấy cô đơn chút nào. Điều nó bận tâm lúc này là mong ước được biết các khóm hồng đã chết chưa, và những cây nào còn sống thì có thể đâm chồi nảy nộc khi thời tiết trở nên ấm áp không? Nó không muốn nơi này là một khu vườn chết. Nếu còn sống thì nơi này sẽ là một chốn tuyệt vời biết bao, với hàng ngàn, hàng ngàn cây hồng đua nhau trỗi dậy ở khắp mọi nơi! Sợi dây nhảy vẫn ở trên cánh tay Marry khi nó bước vào, và sau khi lang thang một hồi, nó nảy ra ý nghĩ thử nhảy vòng dây quanh khắp vườn xem sao, mỗi khi muốn quan sát điều gì thì mới dừng chân. Đây đó có vẻ đã từng có vài con đường mòn cỏ mọc. Ở đôi chỗ trong góc vườn, có mấy vòm cây thường xuân cùng vài chiếc ghế đá hay chậu hoa rêu phong phủ kín. Nó thôi nhảy khi tới gần vòm cây kế tiếp. Trước kia, chỗ này từng có một luống hoa, nó nghĩ vậy khi vừa nhìn thấy những gì đang nhú lên khỏi lớp đất đen - mấy cái chấm xanh nhạt nhọn nhọn và nhỏ xíu. Nhớ lại những gì lão Ben Weatherstaff đã nói, nó bèn quỳ xuống nhìn chúng. - Phải, chúng đang nhú lên từng tí một, có lẽ là nghệ tây, hoa giột tuyết hay thuỷ tiên hoa vàng đây, - con bé thì thào. Con bé cúi gần hơn nữa, hít sâu vào ngực làn hưng thơm mát của đất ẩm. Nó thấy thích thú cái mùi đó vô cùng. - Có lẽ còn nhiều loài khác đang nảy mầm quanh đây. Mình phải đi khắp vườn này xem sao. Nó không nhảy dây nữa mà đi bộ, chân bước chậm rãi, mắt dán xuống mặt đất. Nó nhìn xuống những luống hoa cũ, vào giữa những vạt cỏ, và sau khi đã bước vòng vèo, cố không để sót một cái gì, con bé phát hiện ra rất nhiều những mầm xanh lá xanh nhạt, nhọn sắc. Một lần nữa, nó cảm thấy vô cùng phấn khích. - Đây hoàn toàn không phải là khu vườn chết, - nó kêu khẽ. – Dù những đám hồng kia đã chết thì những cây khác vẫn còn sống. Con bé chẳng biết gì về việc làm vườn, nhưng cỏ mọc dày ở nơi những chiếc mầm xanh đag nhú lên, đến nỗi nó thấy lo lắng về việc rồi sẽ không đủ chỗ cho chúng phát triển. Nó tìm kiếm khắp nơi cho tới khi nhặt được một mảnh gỗ có đầu khá nhọn, nó liền quỳ xuống hì hục xới đất, rãy cỏ dại cho tới khi đám đất chỗ đó đã gọn gàng đâu vào đấy. - Bây giờ có vẻ như chúng đã dễ thở hơn, - con bé nói sau khi đã làm xong những việc đầu tiên. – Mình còn tiếp tục làm nữa. Mình sẽ làm tất cả những chỗ mình thấy. Nếu hôm hay không đủ thời gian thì ngày mai mình lại tới. Nó đi hết chỗ này tới chỗ khác, xới đất và rãy cỏ, trong lòng vui sướng tràn trề đến nỗi nó cứ làm hết luống nọ tới luống kia, tới cả đám cỏ dưới các hàng cây. Hoạt động làm nó nóng người lên đến độ phải quẳng cả áo khoác, rồi mũ xuống đất, và không hiểu sao miệng cứ mỉm cười cúi nhìn những vạt cỏ cùng những nụ mầm xanh nhạt mãi không thôi. Con chim ức đỏ cũng bận rộn không kém. Nó hài lòng lắm khi thấy việc làm vườn được bắt đầu ngay từ lãnh địa của nó. Nó thường sửng sốt về công việc của lão Ben Waetherstaff. Hễ nơi nào đất được lật xới lên là có đủ các thức ăn ngon lành đi kèm. Giờ đây lại có một sinh vật to không bằng phân nửa lão mà đã biết cách vào được khu vườn. Cô chủ Marry làm việc trong khu vườn của cô cho tới giờ phải về nhà ăn trưa. Thực ra, lúc con bé nhớ ra giờ giấc thì đã khá muộn. Mặc xong áo khoác, đội mũ và vơ lấy cuộn dây nhảy, nó không ngờ rằng mình đã làm việc liền tù tì hai ba tiếng đồng hồ. Tất nhiên rồi, đó là quãng thời gian hạnh phúc của nó; và giờ đây, có thể nhìn thấy hàng tá, hàng tá những chấm nhỏ xanh nhạt đang nhoi lên từ những khoảnh đất thoáng đãng, trông hào hứng bội phần so với lúc trước, lúc cỏ dại còn làm chúng ngạt thở. - Buổi chiều mình sẽ quay lại nơi này, - nó vừa nói vừa đưa mắt ngắm nhìn khắp vương quốc mới mẻ của mình, miệng thầm thì với đám cây cối, bụi hồng, như thể chúng hiểu lời nó. Đoạn nó chạy như bay qua bãi cỏ, hé cánh cửa cũ kỹ, rệu rạo ra rồi lách mình qua các nhánh thường xuân. Bữa trưa hôm đó, vó ngồi ăn cơm một cách ngon lành với hai má đỏ hồng cùng với đôi mắt long lanh khiến Martha vui hẳn kên. - Hai miếng thịt và hai chiếc bánh put đing! - Chị kêu lên. – Ôi, mẹ sẽ mừng lắm nếu tôi kể bà hay những gì mà sợi dây nhảy đã mang lại cho cô. Trong lúc đào xới bằng miếng gỗ nhọn, Marry tìm được một nhánh rễ trắng trông khá giống củ hành. Nó đã đặt trả vật ấy vào chỗ cũ và cẩn thận vùi đất lên. Lúc này, nó tự nhủ không biết Martha có biết đó là cái gì không vườn của nó và bắt tay ngay vào việc. - Chị Martha này, các đoạn rẽ trăng trắng trông khá giống củ hành là gì thế? - Chúng là các loại củ, - Martha đáp. - Rất nhiều hoa xuân từ chúng mà ra. Số rất ít là hoa giọt tuyết và nghệ tây, còn phần nhiều hơn là thuỷ tiên, trường thọ và thuỷ tiên hoa vàng. Nhiều nhất là hoa ly ly và cờ tía. Chà! Chúng mới đẹp làm sao. Thằng Dickon đã sưu tầm đủ các loài rồi đem trồng trong mảnh vườn nhà chúng tôi. - Dickon biết tất cả về chúng chứ? – Marry hỏi, một ý tưởng mới mẻ choán lấy toàn bộ suy nghĩ của nó. - Dickon nhà chúng tôi có thể khiến một bông hoa mọc ngay cả trên tường gạch. Mẹ bảo nó chỉ cần cầu nguyện là mọi thứ liền nhú khỏi mặt đất. - Các loại củ sống lâu lắm phải không? Liệu chúng có sống năm này qua năm khác mà không cần ai chăm sóc không? – Marry căn vặn với vẻ sốt ruột. - Chúng đều là những loại tự lo cho mình được, cô ạ, - Martha đáp. – Đó là lý do tại sao mà những người nghèo đều có thể có chúng. Nếu cô không làm phiền chúng, thì hầu hết bọn chúng vẫn nảy nở dưới mặt đất trong vòng sinh trưởng để rồi vươn lên, sống đời vui vẻ. Có một chỗ trong khu rừng công viên, khi vào mùa chỉ tính riêng hoa giọt tuyết cũng phải tới hàng ngàn bông. Chúng là cảnh tượng đẹp mắt nhất ở Yorkshire lúc xuân về. Chẳng ai rõ người ta trồng chúng từ khi nào. - Tôi ước sao màu xuân về đây ngay bây giờ, - Marry nói. – Tôi muốn được nhìn thấy mọi thứ mọc lên ở nước Anh. Con bé đã dùng xong bữa ăn trưa và tới ngồi chỗ ưa thích của nó trên tấm thảm trước lò sưởi. - Tôi ước.. tôi ước mình có được một cái mai nhỏ, - nó bảo. - Cô cần tới mai để làm gì? – Martha bật cười hỏi, - cô đang muốn đào xới gì đó phải không? Tôi phải nói với mẹ việc này. Marry nhìn ngọn lửa hồng và cân nhắc một chút. Nó phải thận trọng nếu muốn giấu kĩ lưỡng vương quốc bí mật của mình. Nó không định làm bất kì điều gì có hại, nhưng nếu ông Craven phát hiện ra cánh cửa đã bị mở, chắc ông ấy giận giữ ghê gớm và kiếm ngay ra một chiếc chìa mới và khóa chặt khu vườn mãi mãi. Nó thực sự không chịu nổi ý nghĩ đó. - Đây quả là một tòa nhà to lớn đơn độc, - nó chậm rãi nói, có vẻ như muốn trở lại những vấn đề vẫn còn lởn vởn trong tâm trí, - tòa nhà đơn độc, khu vườn lớn đơn độc, các khu vườn nhỏ cũng đơn độc nốt. Chỗ nào cũng đều khóa chặt. Hồi ở Ấn Độ tôi không phải làm gì nhiều, vì có khối người lo cho tôi, người hầu rồi lính tráng, rồi thỉnh thoảng còn có các ban nhạc dân gian biểu diễn nữa, Aya của tôi cũng kể cho tôi vô khối chuyện. Còn ở đây, tôi chẳng có ai để chuyện trò, ngoài chị và ông Ben Weathrestaff. Chị phải làm việc của chị, còn ông Ben chẳng mấy khi nói chuyện với tôi. Tôi nghĩ nếu mình có một cái mai thì tôi sẽ tìm chỗ nào để đào xới giống như ông ấy vẫn làm, biết đâu tôi chẳng gây được một cái vườn nho nhỏ, nếu như ông ấy chịu cho tôi hạt giống. Cả khuôn mặt Martha bừng sáng. - Đó, - Chị thốt lên – Đó chẳng phải là một trong những điều mẹ đã sai bảo sao. Bà nói: "Còn bao nhiêu đất còn thừa trong cái tòa nhà khổng lồ ấy, tai sao họ không cho cô ấy riêng một khoảnh, ngay cả khi cô ấy không trồng gì khác ngoài mùi tây và củ cải. Cứ để cho cô ấy đào đất, san luống, có thế cô ấy mới thấy hạnh phúc vì được làm việc". Đấy, bà đã nói vậy đấy. - Bà biết bao nhiêu là chuyện, chị nhỉ. - Ầy! Như bà vẫn nói: Người đàn bà một nách nuôi đủ mười hai đứa con, ngoài việc học mấy chữ cái ra thì cũng phải học lấy một cái gì chứ. Trẻ con cũng tựa như môn số học, giúp chúng ta giải đáp được rất nhiều điều ". - Một cái mai nhỏ giá bao nhiêu, một cái nhỏ thôi? - Mary hỏi. - Ừ thì, - Martha đáp, - bên làng Thwaite có một cửa hàng, đại khái cứ tạm gọi thế, tôi thấy ở đó có một bộ làm vườn cỡ nhỏ gồm có mai, cào và xiên - cả bộ hết có hai siling. Và chúng cũng khá chắc chắn để ta có thể sử dụng. - Trong túi đựng tiền của tôi còn nhiều hơn thế, - Mary bảo. – Bà Morrison tặng tôi năm đồng siling, và bà Medlock cũng chuyển cho tôi một ít tiền từ chỗ ông Craven. - Ông ấy nghĩ tới cô nhiều đến vậy sao? – Martha thốt lên. - Bà Medlock bảo cứ mỗi tuần tôi sẽ được một siling để tiêu vặt. Bà ấy đưa tôi một đồng vào thứ Bảy hàng tuần. Quả thực tôi không biết tiêu nó vào việc gì. - Đã bảo mà, cô giàu đến thế là cùng, - Martha bảo. Cô có thể mua bất cứ thứ gì trên đời mà cô muốn. Tiền thuê túp lều tranh của chúng tôi cũng chỉ đáng một siling và ba penny, vậy mà để kiếm được chỗ đó cũng phải vặn răng ra ấy chứ. Nào, tôi vừa mới nghĩ đến một thứ, - chị chống hai tay vào hai bên hông. - Cái gì cơ? – Mary hỏi chị đầy vẻ háo hức. - Trong cửa hàng bên Thwaite, họ bán những gói hạt giống hoa, mỗi gói một penny. Thằng Dickon nhà chúng tôi biết rõ đâu là những giống hoa đẹp nhất và biết cách chăm cho chúng mọc lên. Nó thường cuốc bộ sang Thwaite ngày mấy lần chỉ bởi chuyện đó. Cô có biết cách in chữ không? Martha đột ngột hỏi. - Tôi chỉ biết viết, - Mary đáp. Martha lắc đầu. - Thằng Dickon chỉ có thể đọc được chữ in. Nếu cô viết chữ in thì ta sẽ viết một bức thư cho nó, bảo nó đi mua giúp dụng cụ làm vườn và cả hạt giống luôn một thể. - Ôi! Chị là một cô gái tử tế! – Mary kêu lên. - Chị đúng là như vậy. Tôi không ngờ chị lại tốt đến thế. Tôi biết nếu cố gắng thì tôi có thể viết được chữ in. Chị đi hỏi bà Medlock cho tôi một cây bút, lọ mực và ít giấy. - Tôi cũng có riêng mấy thứ đó. Tôi mang vào phòng khi muốn viết một bức thư gửi cho mẹ vào Chủ nhật. Để tôi đi lấy cho. Chị chạy ra khỏi phòng. Mary đứng bên lò sưởi, hai bàn tay nhỏ gầy guộc của nó đan siết vào nhau với niềm vui sướng vô bờ. -" Nếu mình có một cái mai, - nó thì thầm, - mình sẽ làm cho đất tơi xốp rồi nhổ hết cỏ dại. Khi có hạt giống mình sẽ chăm cho nó đơm hoa kết nụ, khu vườn không còn là vườn chết nữa, nó sẽ sống mãi mãi". Con bé không ra ngoài vườn chiều hôm đó, bởi khi Martha quay lại với đám bút, mực và giấy thì chị còn phải dọn bàn và bưng mấy cái đĩa xuống nhà. Vừa vào đến nhà bếp thì bà Medlock đã có mặt ở đó, bà lại sai chị mấy việc vặt, bởi vậy nên Mary phải đợi mãi. Nó có cảm tưởng thời gian cứ dài đằng đẵng trước khi chị quay lại. Rồi còn chuyện viết thư cho Dickon cũng là một việc hệ trọng. Mary được dạy dỗ rất ít bởi vì các cô gia sư đều không ưa nó nên không ở lại với nó được lâu. Nhất là nó đánh vần không chuẩn, nhưng nó nhận thấy có thể viết được chữ in khi cố gắng. Đây là bức thư mà Martha đọc cho con bé viết. Dickon thân mến! Bức thư này gửi đến với hy vọng em cũng được khoẻ như chị lúc này. Cô Mary có rất nhiều tiền, vậy liệu em có thể sang bên Thwaite mua giúp cô ấy một số hạt giống hoa và một bộ dụng cụ làm vườn để trồng một luống hoa được không. Hãy chọn những hạt giống hoa của những loài đẹp nhất và dễ nảy mầm, bởi vì cô ấy chưa làm việc đó bao giờ, vả lại trước đó sống ở Ấn Độ là nơi khác hẳn đây. Cho chị gửi tình thương yêu tới mẹ và từng đứa trong các em. Cô chủ Mary đang kể cho chị nghe vô khối chuyện lạ, bởi thế vào ngày nghỉ ngơi của chị, các em sẽ được nghe về các chú voi, lạc đà và chuyện các quý ông đi săn hổ và sư tử. Chị yêu quý các em. Martha Phoebe Sowerby. - Chúng ta cho tiền vào phong bì rồi tôi đi tìm con trai người bán thịt nhờ cậu ta chuyển nó bằng xe ngựa. Cậu ta là bạn thân của thằng Dickon đấy, - Martha bảo. - Làm cách nào tôi được đồ sau khi Dickon mua chúng? - Mary hỏi. - Nó sẽ tự tay mang đến cho cô. Nó thích đi bộ như thế mà. - Ôi, - Mary thốt lên, - rồi tôi sẽ được gặp cậu ấy! Tôi không thể ngờ lại gặp được Dickon. - Thế ra cô muốn gặp nó? – Martha đột nhiên hỏi, nom chị hể hả ra mặt. - Vâng. Tôi chưa bao giờ gặp một cậu bé nào mà đến cả lũ cáo, lũ quạ cũng quý mến. Tôi muốn trông thấy cậu ấy lắm lắm. Martha hơi giật mình, như thể vừa chợt nhớ ra điều gì. - Bây giờ mới sực nhớ, - chị buột miệng, - rằng tôi đã quên khuấy việc ấy; tôi định bụng sẽ kể cho cô điều đó trước tiên vào sáng nay. Tôi đã hỏi mẹ, bà bảo sẽ đích thân đến xin phép bà Medlock. - Ý chị là.. - Mary bắt đầu. - Là việc tôi đã nói hôm thứ Ba vừa rồi. Tôi muốn hỏi bà xem liệu một hôm nào đó cô có thể thăm gian nhà gianh của chúng tôi và dùng thử một chút bánh yến mạch nóng hổi mẹ tôi làm, ăn cùng với bơ và sữa không. Dường như tất cả những điều thú vị đều đến trong cùng một ngày. Thử tưởng tượng xem ta sắp được đến thăm túp lều gianh có mười hai đứa trẻ sống trong đó! - Bà cho rằng bà Medlock bằng lòng để tôi đi à? – nó hỏi vẻ đầy lo lắng. - Chà, mẹ tôi nghĩ bà ấy sẽ bằng lòng. Bà ấy biết mẹ tôi là một người phụ nữ ngăn nắp và luôn giữ cho nhà cửa được tinh tươm biết chừng nào. - Nếu tôi được đi, tôi nên đến thăm mẹ chị cũng như Dickon, - Mary nói sau một hồi suy nghĩ và cảm thấy thích ý tưởng đó vô cùng. – Bà dường như chẳng giống bà mẹ nào ở Ấn Độ. Việc làm lụng ngoài vườn và nỗi phấn chấn buổi chiều rốt cuộc khiến nó đâm ra lặng lẽ trầm ngâm. Martha còn nán lại với nó cho tới bữa dùng trà, nhưng họ chỉ ngồi trong yên lặng với tâm trạng dễ chịu và nói chuyện rất ít. Nhưng ngay trước khi Martha xuống tầng dưới để lấy khay trà, Mary hỏi chị một câu. - Chị Martha, cô giúp việc ở phòng rửa bát hôm nay lại bị đau răng sao? Martha khẽ giật mình. - Điều gì khiến cô hỏi thế? - Bởi vì lúc đợi chị quay trở lại lâu quá, tôi bèn mở cửa bước ra hành lang để xem chị có quay lại không. Tôi lại nghe thấy tiếng than khóc vẳng đến, hệt như đêm nọ. Mà hôm nay thì làm gì có gió, chị thấy đấy, vậy nên đêm hôm nọ chẳng phải gió hú gì đâu. - Ôi! – Martha nói với vẻ bồn chồn. – Cô tuyệt nhiên không được đi lang thang ngoài hành lang và nghe ngóng gì hết. Ông Craven chắc chắn sẽ nổi giận dùng đùng, chẳng ai biết rồi ông ấy sẽ làm gì. - Nào tôi có nghe ngóng gì đâu, - Mary đáp. - Đang chờ chị thì tôi bỗng nghe thấy. Ba lần cả thẩy. - Tôi nói rồi đấy! Có tiếng chuông của bà Medlock kìa, - Martha nói và gần như chạy ra khỏi phòng. Đúng là ngôi nhà kỳ dị nhất mà người ta đã từng sống, - Mary nói với vẻ uể oải khi nó ngả đầu xuống chiếc ghế bọc đệm gần đó. Bầu không khí trong lành, việc rãy cỏ xới đất rồi cả nhảy dây khiến nó cảm thấy mệt mọi một cách dễ chịu và chìm vào giấc ngủ.