Mùa Lũ Khi tôi về thăm mẹ Mùa nước lũ đang lên Mái tranh nghèo nước ngập Cỏ rác trôi bập bềnh. Bao năm trời phố chợ Sống thành kẻ không hồn Thừa bạc tiền, bia bọt Quên mẹ hiền, quê hương. Tôi quên thời cắp sách Mò cua ốc mỗi ngày Quên mẹ mình cơ cực Manh áo còn vá vai... Khi tôi về thăm mẹ Giọt nắng đã không còn Bóng trăng gầy xanh khuyết Đã khuất vào hư không. Tôi gục đầu nức nở Bên quang gánh mẹ già Nhớ lá rau dền tím Mẹ bán chợ đường xa... Khi tôi về thăm mẹ Mộ mẹ biết tìm đâu? Điên điển vàng trôi nổi Mây nước xám một màu... 1996 (Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Mùa nước nổi, còn gọi là mùa lũ sông Cửu Long, là hiện tượng lũ lụt tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam, thường bắt đầu từ tháng 7 âm lịch đến tháng 10 âm lịch hàng năm, cao nhất là vào nửa cuối tháng 8 và đầu tháng 9 dương lịch. Nước lũ ở miền Tây Nam Bộ không dâng đột ngột mà con nước lên chầm chậm, từ từ tràn vào đồng ruộng, vào những dòng sông, kênh rạch, xóm làng... tạo thành một vùng nước bao la theo phù sa và nguồn lợi thuỷ sản dồi dào. Bài thơ viết tặng một người bạn tại tỉnh An Giang.
Đà Lạt Thu Khúc (Tặng Thu Hằng) Đà Lạt em ơi Đà Lạt mây! Áo em mây trắng nắng rơi đầy Mây ở trên cao giờ xuống thấp Mây chợt lên đồi lững thững bay. Đà Lạt em ơi Đà Lạt sương! Sương ướt hoàng hôn, ướt mặt đường Sương lạnh trong tim, buồn trong mắt Sương thoảng vai mềm buôn buốt hương... Đà Lạt em ơi Đà Lạt trăng! Một bóng tung tăng, một bóng Hằng Trăng hiện thành đôi hay vỡ nửa Sao bước ta về mãi giá băng? Đà Lạt em ơi Đà Lạt mưa! Mưa như chiều ấy lạnh phố xưa Ngày xưa anh nói mà không nói Thương tình hai đứa có như chưa... Đà Lạt 1997 (Tuyển tập thơ Khúc xạ mùa thương - NXB Thanh niên 2006) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Mùa thu Đà Lạt là những buổi sớm se lạnh, là khung cảnh phủ đầy sương mù mờ ảo, là những đồi hoa dã quỳ nở vàng rực rỡ hay khung cảnh hoàng hôn đầy bình yên. Đà Lạt từng có được những biệt danh: Thành phố mộng mơ; Thành phố ngàn hoa; Thành phố ngàn thông; Tiểu Paris phương Đông; Xứ Hoa Anh Đào Bài thơ viết tặng cho một cô gái tên Thu Hằng.
Lời Chị Đừng quên chị em nhé Dẫu mai này cách xa Chị - có cha mất mẹ Em - còn mẹ không cha. Gia đình mình ly tán Đem nỗi buồn nhân đôi Đem bát cơm đập nửa Nước mắt mặn mềm môi. Ngày xưa cha thương mẹ Sao giờ mẹ ghét cha Chúng con thương chẳng ghét Sao cha mẹ đành xa? Chú lính chì gãy cổ Chị gắn rồi trao em Nghe lời mẹ em nhé Cố học chăm, ngoan hiền. Em khản hơi gào khóc Dỗ nó cha mẹ ơi!... Cha cúi đầu không nói Mẹ nín lặng ngậm ngùi. Đừng quên chị em nhé Ngày mai buồn chia xa Hai mảnh đời côi cút Trong mắt lệ nhạt nhòa... 1996 (Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Ly hôn luôn là một bi kịch khủng khiếp của những đứa trẻ. Sau khi ly hôn, những đứa trẻ chỉ có thể chọn sống chung với cha hoặc chọn sống chung cùng mẹ, dù chọn lựa nào thế nào thì cũng là một mất mát rất lớn đối với chúng. Bài thơ viết từ ký ức tuổi thơ của một người bạn,
Thiên Sứ (Khóc Thuý Nga) Một chiều qua xóm Đạo Chân nhói kỷ niệm xưa Tượng Chúa trên thánh giá Cô đơn màu nắng mưa Ngọn gió đông gầy guộc Lạnh tim ta cuối mùa. Đâu sân trường Thiên Phước Đâu lầu trường Đức Minh Chuông nhà thờ chầm chậm Vọng tiếng buồn tâm linh? Chuông vang lời sương khói Ta về tìm đức tin. Em về đeo thánh giá Dắt ta kẻ tội đồ Sáng danh là Thiên Chúa Tội danh là... làm thơ! Bờ vai em tròn nhỏ Đưa ta đến dại khờ! Em bông hồng Thiên sứ Xuống từ miền trăng sao Bầu má đỏ hồng đào Tà áo dài hồng phấn Để hồn ta lận đận Để tình ta lao đao. Ta tín đồ ngoại đạo Ngàn năm chỉ biết yêu Theo em Thiên sứ nhỏ Tóc xõa dáng yêu kiều Câu kinh em truyền đọc Ta nghe toàn rong rêu. Em thiên thần hờn dỗi Nụ cười hồng xinh xinh Ta trái tim nông nổi Lệ nửa đời phiêu linh Trước em xin sám hối Ngơ ngẩn một u tình. Tìm trao lời vô tội Nẻo nào nghẹn tương tư? Bàn chân em bối rối Bàn chân ta chần chừ Nỗi đau dài không nói Câu thơ hằn đá sỏi. Em giờ mờ sương khói Cành hồng vội gãy đôi Tình ta màu bão táp Hồn ta màu tuyết rơi Mảnh trăng xưa vỡ khuyết Thổn thức cuối chân trời. Thiên sứ ơi, Thiên sứ Ta còn em nơi đâu? Lang thang chiều xóm Đạo Bước chân buồn bể dâu Chúa trên trời cũng khóc Mưa pha lê xám màu. 2003 (Tuyển tập thơ Mưa pha lê - NXB Văn hoá Dân tộc 2003) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Thúy Nga là hoa khôi của lớp tôi ngày xưa. Là một nữ sinh trường Đạo trước năm 1975, Thúy Nga luôn xinh đẹp và dịu dàng nhất lớp. Không may cô mất rất sớm khi chưa được 30 tuổi trong một tai nạn giao thông để lại niềm thương tiếc khôn nguôi trong lòng của bè bạn.. Trường Thiên Phước (trường Đạo của nữ sinh) sau 1975 đổi tên là trường Hai Bà Trưng. Trường Lasan Đức Minh (trường Đạo của nam sinh) sau 1975 đổi tên là trường Trần Quốc Tuấn và bây giờ có tên là Đại Học Tại Chức Tp. HCM. Cả hai trường đều ở gần nhà thờ Tân Định. Bài thơ viết để tưởng nhớ Thúy Nga.
Đại Đế Và Nhỏ Phù Thủy Ta Đại Đế về thăm vương quốc cũ Thăm cánh đồng xưa mây trắng lưng đồi Thuở chăn trâu chơi lội sông đánh giặc Ta đủ tài thành Đại Đế lên ngôi. Lấy tre lá dựng lâu đài tráng lệ Lấy cờ lau làm hiệu lệnh vương quyền Bao tướng lãnh, bao thần dân thần phục Trâu theo bầy theo Đại Đế uy nghiêm. Nhưng Nhỏ Phù Thủy môi hồng dễ ghét Cùng bọn nữ yêu đỏng đảnh tóc dài Thích chọi phá, thích leo trèo la hét Khiêu khích ta đạp ngã những lầu đài. Ta giận dữ đòi yêu ma quyết chiến Đại Đế ra quân đội ngũ trùng trùng Chỉ một trận giặc thù thua khiếp vía Vứt gậy chạy dài nhốn nháo bến sông. Nhỏ Phù Thủy biết quân mình sức kiệt Đem bọn yêu lẩn trốn tận rừng sâu Ta thừa thắng xua đại quân đuổi đánh Bỗng phục binh, bị đá ném lỗ đầu! Vết sẹo nhỏ hóa đôi bờ ngăn cách Chẳng nhìn ai như hận oán nghìn đời Ta lên tỉnh tháng năm dài biệt xứ Vẫn nhớ thầm một vương quốc xa xôi... Nhỏ Phù Thủy ai ngờ thành cô giáo! Mắt xinh xinh e lệ dưới mây chiều Ta Đại Đế giờ cúi hàng quy phục Khẩn xin nàng ban tặng trái tim yêu!... 1997 (Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Khoảng năm 1994, tôi có hướng dẫn một cô giáo sinh tên là Liên, quê ở Tánh Linh tỉnh Bình Thuận. Cô giáo sinh này tính tình như con trai: biết võ thuật, biết đá banh, biết bơi lội, biết dùng ná bắn chim... Cô kể có lần chơi trò chơi đánh giặc với lũ con trai cô đã vô tình ném đá vỡ đầu một thằng bạn, làm nó phải khóc thét vì máu chảy đầy mặt! Tôi đã viết bài thơ này để tặng cho cô giáo sinh. Bài thơ này bị nhiều tờ báo từ chối đăng vì có chứa ít nhiều nội dung "bạo lực". Bài thơ viết tặng cô giáo sinh thực tập trường Võ Thị Sáu, tên Liên.
Ghen Giận em đập nát câu thề Nắng hồng rơi vỡ dầm dề mưa tuôn Bão dông giăng kín mây buồn Gió tan tác nhớ, sóng cuồn cuộn đau... Bây giờ người ấy trầu cau Dửng dưng qua bến sông sâu, xuống đò Lơ ngơ tôi đứng trên bờ Lời thương hóa đá... Hết chờ, hết mong! Lội đò tiễn sáo sang sông Câu thơ xưa thả bềnh bồng hoàng hôn Vung tay bỏng lửa ghen hờn Dở dang giờ nhặt cô đơn bốn mùa... 1997 (Tuyển tập thơ Thơ Nhà giáo TP. HCM - NXB Trẻ 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ viết lại từ một câu chuyện kể ở Tiền Giang. Ghen thường đề cập đến những suy nghĩ hoặc cảm giác bất an, sợ hãi và lo lắng về sự thiếu thốn tương đối về tình cảm trong một mối quan hệ lãng mạn do đó, trong bối cảnh này được hiểu như là ghen tuông (Jealousy). Trong lịch sử văn học Việt, Hoạn Thư (trong Truyện Kiều) là nhân vật ghen tuông nhất, trở thành biểu tượng của sự ghen tuông tàn nhẫn, độc ác, nham hiểm đậm chất đàn bà.
Người Hóa Đá Chẳng thà như mảnh vỡ Chợt dẫm vào nỗi đau Nỗi đau đau thêm nữa Giọt máu nóng tuôn trào. Chẳng thà như lửa bỏng Cháy rát buồng tim côi Trái tim bùng hoa lửa Sáng hào quang trên đời. Chẳng thà như nước mắt Ướt đẫm hồn em tôi Mà nghe lòng thổn thức Trong buồn vui muôn người. Vẫn hơn giờ hóa đá Bước lạc loài vô tri Nhìn dòng đời xuôi ngược Dửng dưng chẳng biết gì... 1996 (Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ trong chuỗi các bài thơ Hoa Mua - Con đường xưa đi học - Ngày Xưa - Trở Về - Bi Kịch - Ly Dị - Người Hóa Đá. Đá có thể hóa người nhưng đừng để người hóa đá Khi trái tim đã hóa đá thì con người, dù vẫn còn đầy đủ thịt da, nhưng thật ra người đã hóa thành người đá.
Hoa Vông Vang Em sắp xa thành phố Về lại đất hương tràm Hỏi em thích gì nhất? Em cười: Hoa vông vang. Ta qua bao góc phố Ta đến bao tiệm hoa Hỏi mua, mua chẳng có Hỏi tìm, tìm không ra. Tên hoa quen mà lạ Như người lạ giờ quen Hẳn là hoa cũng đẹp Hiền dịu như mắt em? Kẻ nói hoa màu đỏ Kẻ mách hoa màu vàng Người cho hoa là cỏ Người bảo hoa mọc hoang! Ta tìm, đi tìm mãi Mang nỗi buồn lang thang Giữa thị thành hoa lệ Tìm đâu hoa vông vang? Ngày tiễn em mưa trắng Ta lặng nhìn mây trôi Vông vang trong tay với Hay xa tận chân trời? 1995 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Hoa vông vang thường có màu vàng là hoa của một loài cây dại. Cây vông vang thường mọc lẫn với các loại cây cỏ thấp ở nương rẫy, ven đồi, bãi hoang hay ven đường đi. Bài thơ được viết từ một câu chuyện kể của một cô gái xinh đẹp quê ở An Giang, sống ở Cà Mau. Cô cho biết ngày xưa chồng của cô là một anh chàng công tử con nhà giàu, luôn nghĩ trong đầu có tiền thì mua tiên cũng được. Có lần, khi mới quen nhau, chàng công tử hỏi cô thích hoa gì anh sẽ mua tặng. Cô đã trả lời cô thích nhất là hoa vông vang...
Ký Sự Cuối Thu Ai chạm cốc giữa tiệc đó Sao hất vãi bia thịt thừa? Vội sớm quên thời áo rách Còng lưng mót lúa ngày xưa? Gió hú gào trên cao đó Sao gieo rắc mãi kinh hoàng? Hết bão dông rồi sóng lũ Mây chiều nát vữa tan hoang... Mưa dầm dề ngoài sân đó Sao chẳng về ướt cánh đồng? Đất quê nghèo đang nắng hạn Em thơ buồn khô mắt trông. Ai du lãng miền xa đó Sao không thăm lại mái trường? Con đường xưa giờ khói biếc Tóc thầy phủ trắng màu sương. 1996 (Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ viết khi đi du lịch miền Trung bị bão. Đối với tôi mái trường cũ luôn là điểm du lịch hồi ức thân thương nhất. Bài thơ viết khi đang nhìn gió bão chợt nhớ đến mái trường cũ.