Phần II: Kết nối vào hệ thống. 8. Hệ điều hành DOScapital 6.0. Bấm để xem "Anh mang bao nhiêu tiền trong người?". Một nhân viên hải quan Albania tại sân bay Tirana, quát hỏi tôi bằng giọng của một cảnh sát, khi tôi đang trên đường ra máy bay rời nước này. Vừa nghe thấy như vậy tôi có cảm giác rợn người – nhiều khả năng tôi sẽ bị tịch thu mất hết tiền. "Tôi có 3.500 đô-la", tôi đáp, đập nhẹ tay vào ví đeo trước bụng. "3.500 đô-la?", cô ngày thốt lên, mắt sáng rực. "Anh này có 3.500 đô-la", cô nói với một nam đồng nghiệp đứng bên cạnh đang theo dõi máy X-quang chiếu hành lý. "Anh từ đâu đến?" anh này hỏi, dường như tính toán xem tôi có dễ bị bắt nạt không và xác định rõ tôi không phải là một nhà ngoại giao. Tôi nói với anh ta tôi là một ký giả của báo The New York Times. "New York Times?" nam nhân viên này lặp lại, rồi vẫy tay, "để cho anh ta đi". Ai có thể ngờ rằng tờ The New York Times lại có ảnh hưởng như vậy ở Tirana! Tôi chạy vội tới máy bay. Tôi có lý do để lo lắng. Tôi đã trải qua những chuyện tương tự như thế này ở Iran – ở một quốc gia trong đó pháp quyền không hẳn là kim chỉ nam. Chỉ có điều ở đó mọi việc đã không kết thúc tốt đẹp như ở đây. Vụ đó bắt đầu cũng tương tự, tại sân bay quốc tế Teheran, khi tôi đi qua hàng rào kiểm soát của hải quan lúc bốn giờ sáng. Một nhân viên hải quan ra lệnh cho tôi mở va-li và trình tờ khai hải quan. Trên đó có một dòng hỏi số tiền mang theo người là bao nhiêu và tôi đã khai chính xác là 3.300 đô-la. Do thẻ tín dụng chưa được chấp nhận ở Iran, nên tôi phải mang theo nhiều tiền mặt. Nhân viên hải quan Iran gầy gò có ria mép này kiểm tra tờ khai và nói với tôi với vẻ mặt rất tham lam, "Thưa ông, ông chỉ được phép mang 500 đô-la theo người khi xuất cảnh thôi". "Ôi, làm sao bây giờ", tôi nói. Nhân viên này vươn người tới và nói thầm vào tai tôi, "Trả cho tôi 300 đô-la, tôi sẽ giúp". Có một hàng người xếp hàng sau lưng tôi đang quan sát – chắc chắn là họ biết rõ những gì đang xảy ra. Tôi mở ví, rút ra ba tờ 100 đô-la và vo tròn chúng lại trong tay. "Hãy cẩn thận", nhân viên hải quan này nói thầm – cứ làm như là những người xếp hàng đằng sau tôi sẽ đi trình báo vậy. Rồi hai chúng tôi làm ra vẻ lục lọi trong va-li, và trong chớp mắt, anh này cướp món 300 đô-la khỏi tay tôi. Mọi việc nhanh như chớp – chắc phải tua thật chậm thì mới có thể nhìn thấy được. Rồi nhân viên nọ đưa cho tôi một mẫu khai mới, nói tôi khai lại, viết vào đó là tôi mang có 500 đô-la theo người. Nhưng thế chưa phải đã xong. Khi lên gần tới cửa ra máy bay, lại một cuộc khám người nữa. Bước vào một buồng nhỏ, một nhân viên khác nói tôi mở ví ra để khám. Tôi hoảng quá, "Làm thế nào giải thích khoản 3.000 đô-la bây giờ? Hay là gào Lên," Này, tôi đã đút lót cho đồng nghiệp của anh ở dưới kia rồi, giờ thì biến đi! "May quá, tay này nhìn vào khoản tiền của tôi, nói gì đó bằng tiếng Farsi và cho tôi qua. Du khách dày dạn kinh nghiệm trên thế giới sẽ hiểu những điều tôi trải qua ở Albania và Iran chỉ là chuyện thường ngày. Ai cũng gặp phải những phiên bản của hiện tượng có thể gọi là" Nạn vòi tiền ". Hiện tượng này vượt trên những hình thức đút lót và tham nhũng mà người ta có lẽ thường gặp ở các nước đang phát triển, và ở mức độ thấp hơn, cả các nước phát triển." Nạn vòi tiền "xảy ra khi tất cả những chức năng của nhà nước – từ hệ thống thuế tới hải quan và luật tư hữu hóa – trở nên tham nhũng tràn lan; và những giao dịch hợp pháp không còn là tiêu chuẩn, mà chỉ là ngoại lệ. Một bình thường mà ai cũng phải chịu đựng đó là các viên chức ở mọi cấp dùng quyền lực của họ để vòi tiền của dân chúng, các nhà đầu tư và của bản thân nhà nước. Ngược lại, dân chúng và các nhà đầu tư sẽ tin rằng để đạt được một phê chuẩn hay hưởng một dịch vụ nào đó, họ phải đút lót cho hết thảy các cửa liên quan. Có nước đã phải chịu đựng" nạn vòi tiền "nghiêm trọng – nơi nhà nước được dựng lên từ những vụ trộm cắp, như Nigeria chẳng hạn – cho tới loại có" nạn vòi tiền "mới nảy nở, nơi tham nhũng tràn lan và ai ai cũng phải chịu, mặc dù cũng có những yếu tố về luật pháp và dân chủ tồn tại song song, như Ấn Độ chẳng hạn. Sự khác biệt giữa hai hình thái vòi tiền loại nghiêm trọng và loại chớm nở được minh họa một cách tốt nhất bằng câu chuyện cười được kể ở Ngân hàng Thế giới, về hai ông Bộ trưởng Bộ Xây dựng hạ tầng cơ sở, người Á châu và Phi châu, sang thăm đất nước của nhau. Đầu tiên Bộ trưởng người châu Phi sang thăm đất nước của Bộ trưởng Á châu và được ông này mời về nhà ăn tối. Bộ trưởng Á châu sống ở một biệt thự tuyệt đẹp như một cung điện. Ông Phi châu hỏi ông Á châu," Làm sao ông mua nổi dinh thự này với mức lương của ông? "Ông Á châu mời khách đi đến một khung cửa sổ, chỉ cho khách thấy một chiếc cầu đằng xa và nói:" Ông thấy cây cầu đó không?" "Có, tôi thấy rồi", ông Phi châu đáp lại. Và Bộ trưởng người Á châu chỉ vào ngực mình, nói thầm thì: "10 phần trăm", ý nói 10 phần trăm chi phí cho cây cầu đã vào túi ông ta. Một năm sau đến lượt Bộ trưởng Á châu sang thăm bạn mình ở một nước châu Phi và thấy dinh thự của bạn đẹp hơn của ông nhiều lắm. "Làm sao ông có thể sắm nổi dinh thự như thế này, với mức lương của mình?" Bộ trưởng châu Á hỏi bạn. Người bạn Phi châu đưa ông ta ra một cửa sổ, nhìn về phía chân trời và nói, "Ông có thấy cây cầu đằng kia không?" Bộ trưởng Á châu đáp: "Không thấy cầu nào đâu?" "Chính thế", Bộ trưởng người Phi châu nói, chỉ vào ngực mình, "một trăm phần trăm". Những dấu hiệu cụ thể nào được dùng để phân biệt mức vòi tiền nghiêm trọng, toàn diện với mức chớm nở? Sau đây tôi sẽ giới thiệu chúng dựa trên những dữ liệu tôi đã sưu tầm sau nhiều năm: Nạn vòi tiền xuất hiện ở Moskva trong năm 1995 (và 1996, 1997, 1998, 1999), khi tội phạm lan tràn trên đường phố sau khi Liên Xô sụp đổ. Ngay sau khi nhận phòng Khách sạn Penta ở trung tâm Moskva, tôi mang tiền xuống và hỏi nhân viên tiếp tân cho tôi thuê hộp két an toàn để giữ tiền. Tôi không dại gì mà mang theo nhiều tiền mặt trong người khi đi lại trong thành phố. "Xin lỗi", nhân viên này nói. "Không còn hộp két nào trống cả. Và có một danh sách xếp hàng chờ để thuê két sắt. Ông có muốn thì ghi tên?" Tôi đã phải cười phá lên. Một danh sách xếp hàng, chờ được dùng két sắt giữ tiền? Nó giống như câu chọc cười trong một chuyện hài hước nhạt: "Làm thế nào biết được bạn đang ở một thành phố nguy hiểm? Trả lời: Khi những két sắt giữ tiền của khách sạn không còn chỗ trống". Chính vì thế mà một nhà đầu tư nước ngoài vừa mua trái phiếu của một nhà băng Nga tôi gặp ở Moskva, đã tả cho tôi là trong nhà băng đó số nhân viên an ninh nhiều hơn số nhân viên làm nghiệp vụ ngân hàng. Ông ta kể với tôi rằng một chuỗi nhà hàng phương Tây vừa cử một nhóm kiểm toán viên để xem xét tại sao chi nhánh của họ ở Moskva làm ăn rất vất vả nhưng không thấy lãi là mấy. Nhóm này báo cáo là hầu như bất cứ nhân viên nào trong chi nhánh đó đều dính dáng tới tệ ăn cắp vặt – đầu bếp ăn cắp bánh kẹp thịt còn quản đốc thì đòi tiền hoa hồng. Nạn vòi tiền ở Albania cho thấy vào năm 1997, nạn trốn thuế lan tràn tới mức một chi nhánh bánh pizza, liên doanh giữa Albania và Mỹ đứng thứ 35 trong những công ty đóng thuế cao nhất. Cũng ở Albania, trộm cắp hoành hành tới mức các viên chức Hoa Kỳ đóng ở đó đánh giá là khoảng 80 phần trăm xe hơi đi trên đường là hàng ăn cắp, đâu đó từ châu Âu. Nạn vòi tiền thể hiện ở sự tham nhũng tràn lan ở Nga, thâm nhập vào tận các quan chức cao cấp ở Kremlin đến mức xuất hiện một chuyện vui của người Nga. Chuyện rằng có một người đi một chiếc xe mới coóng, đến đậu ở cổng Spassky, lối vào điện Kremlin, trong Quảng trường Đỏ. Một tay cảnh sát đi đến và nói với người đó: "Này đừng có đậu xe ở đây. Đây là cổng chỉ dành cho các vị lãnh đạo". Người này đáp: "Đừng lo. Tôi khóa xe lại rồi". Nạn vòi tiền cũng thể hiện trong câu chuyện một người bạn ở Indonesia kể cho tôi; anh này sống ở đó trong thời kỳ đầy tham nhũng – đất nước lúc đó do gia đình ông Suharto trị vì. Anh này là một phóng viên dày dạn kinh nghiệm ở Jakarta, làm việc cho một tờ báo có trụ sở ở Singapore, và hàng năm phải gia hạn giấy tờ thường trú của mình. Tham nhũng ở Indonesia thâm nhập sâu đến mức, anh này nói, "Các viên chức khi nhận đút lót đã trao cho anh hóa đơn. Thật vậy. Mỗi năm tôi gia hạn giấy tờ thường trú ở Jakarta, và sau khi đút tiền, tôi nhận được một hóa đơn. Nhân viên kế toán trong văn phòng của tôi bao giờ cũng đòi hóa đơn mà. Và viên chức Indonesia đã cấp luôn". Thành ra ở Indonesia dưới thời Suharto có một câu chuyện ngụ ngôn: Nếu người hàng xóm ăn cắp con dê của bạn thì bạn muốn làm gì thì làm, nhưng đừng có đưa anh ta ra tòa. Vì đến lúc được kiện, trả chi phí thuê cảnh sát và quan tòa, thì bạn đã có thể mất luôn thêm con bò của bạn. Nạn vòi tiền xuất hiện khi các viên chức và nhân viên hành pháp cho rằng luật lệ Không phải dành cho họ. Nayan Chanda, Tổng biên tập tờ Far Eastern Economic Review, một lần kể cho tôi câu chuyện của anh khi sang Trung Quốc: "Ở Bắc Kinh, một lần tôi cùng người phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, một lái xe và một trợ lý của tôi, đi trên đại lộ trung tâm. Khi chúng tôi vào đường cao tốc, thì người lái xe đột ngột quay ngược xe 180 độ, đi thẳng lên phần đường ngược chiều, bóp còi inh ỏi. Chúng tôi đi, cố tránh những xe ngược chiều. Tôi hoảng quá, hỏi người phiên dịch:" Anh ta làm gì vậy! "Phiên dịch giải thích rằng người lái xe phát hiện một đoạn giao thông tắc nghẽn ở phía trước nên đã quay lại để vòng đường khác. Tôi nhắm mắt, nấp dưới ghế và cầu nguyện để được sống. Quả là còn sống. Nhưng đã thoảng qua tôi một suy nghĩ: Vậy thì những doanh nghiệp nước ngoài đang vào làm ăn tại Trung Quốc thì sao nhỉ? Người Trung Hoa ký hợp đồng với họ, nhận công nghệ từ họ rồi nhỡ lại thay đổi luật pháp, đuổi họ ra thì sao? Liệu những đối tác nước ngoài có sống nổi như thế không". Chắc là không, một khi các nhà hành pháp ở Trung Quốc còn tiếp tục nhũng nhiễu. Người đứng đầu chi nhánh của một trong số nhà băng lớn của Canada kể cho tôi vào năm 1997, rằng có một lần nhà băng này chuyển vài ngàn đô-la từ chi nhánh ở Hồng Kông vào lục địa Trung Quốc, phải mất 18 ngày thì tiền mới tới vào tài khoản và được phép sử dụng. "Chúng tôi nghĩ rằng có một nguyên nhân", viên chức này nói, khi ăn trưa với tôi ở Thượng Hải. "Có ai đó ở Ngân hàng Trung ương chiếm giữ số tiền đó, dùng chúng quay vòng ở thị trường chứng khoán Thượng Hải suốt 17 ngày rồi đem trả lại vào ngày thứ 18". Nạn vòi tiền thể hiện ở con số hàng tỷ đô-la thu nhập từ các chương trình tư hữu hóa tham nhũng ở một loạt các nước Đông Âu và Nga, nơi những nhóm nhỏ thượng lưu, quan hệ chặt chẽ với giới mafia và các viên chức chính phủ, đã vào chiếm quyền sở hữu các nhà máy quốc doanh cũ và những nguồn tài nguyên, chi trả cho chúng dưới mức thị trường, và bỗng chốc trở thành những tỉ phú. Giá địa ốc ở Paris, Tel Aviv đến London đều bị kích lên do những nhân vật thượng lưu đó, hay những kẻ lừa đảo cỡ lớn khác, lao vào mua. Họ phân tán tài sản mới chiếm giữ của họ ra khỏi đất nước với tốc độ chóng mặt. Ở Mỹ, khi còn là một thị trường mới nổi, cũng có những vị lãnh chúa kiểu như ở nước Nga ngày nay. Nhưng những lãnh chúa ở Mỹ lúc đó đã chỉ đem tiền đầu tư vào thị trường chứng khoán và địa ốc trong nước. Nhưng giờ đây, nhờ có toàn cầu hóa, và khả năng di chuyển vốn tự do, các tay trộm người Nga cũng có thể đem tiền ra khỏi biên giới và đầu tư vào thị trường chứng khoán và địa ốc của Mỹ, bòn rút, làm đất nước của họ tiếp tục nghèo đi. Thi thoảng, nạn vòi tiền không đơn thuần chỉ diễn ra trong việc giới thượng lưu ăn cắp từ đất nước của họ, nó cũng tiêm nhiễm vào những người dân thường, muốn sống yên thân ở đất nước không có tấm lưới bảo hộ an sinh. Một lần đổi chuyến bay từ nội địa sang quốc tế ở sân bay Jakarta, tôi mang túi ra chờ "xe buýt miễn phí trong sân Bay". Khi chiếc xe này đến, chỉ có mỗi mình tôi trên xe. Khi xuống xe, khi tôi bước qua chỗ tài xế, anh này chặn tôi lại và nói: "Thưa ông", đoạn chỉ vào một tấm biển nhỏ viết nguệch ngoạc rằng giá vé là 4.900 rupia (tương đương hai đôla lúc đó). Tôi nhún vai và đưa tiền cho anh ta. Nạn vòi tiền xảy ra cho John Burns, Trưởng phân xã của tờ The New York Times tại New Delhi, vào mùa hè 1998, khi anh ta đến Quốc hội Ấn Độ, cơ quan lập pháp của nước này. Khi chúng tôi ngồi chờ ở hành lang để kiểm tra an ninh, Burns nhìn thấy một cuốn sách trong hiệu sách của Quốc hội nhan đề: Các nhân vật trong Quốc hội Ấn – có tiểu sử và ảnh của tất cả các nhà lập pháp Ấn Độ. Burns quyết định mua một cuốn. "Tôi muốn mua cuốn sách, vậy phải gặp ai bây giờ?" Burns hỏi một nhân viên đứng cạnh quầy sách. "Vào đây ông", nhân viên này nói, "700 rupee". Người này đi lấy sách.. Burns hỏi xin một hóa đơn thì người này nói: "Chúng tôi đóng cửa buổi trưa và vừa rồi là" giao dịch ngoài giờ "– nghĩa là không có biên lai. Người đó trao sách cho Burns và đút túi số tiền. Tôi thấy điều đó thật nực cười, đút tiền ngay ngoài hành lang của cơ quan lập pháp của Ấn Độ để kiếm một cuốn sách về các nhà lập pháp. Tôi cho rằng điều đó giải thích cho việc tờ báo Times of India số ra ngày 16/12/1998 đăng tải cuộc tìm kiếm ở bang Punjab, nơi tham nhũng chồng chéo, kéo dài 18 tháng, đã bị đình chỉ. Mục tiêu của cuộc tìm kiếm là một điển hình quan chức chính phủ trung thực; giải thưởng là 100.000 rupee [2.380 đô-la] . Họ không tìm ra một người như vậy trong một bang mà tất cả các dịch vụ từ việc mắc điện cho tới đăng ký nhập học ở trường quốc lập đều phải có tiền lót tay. Thay vào đó, tờ báo cho biết rằng sau cuộc tìm kiếm, họ nắm được bằng chứng để đưa 300 công chức ra tòa. Tất cả những hiện tượng kể trên liên quan ra sao tới toàn cầu hóa? Tôi xin dùng một số thuật ngữ đơn giản của vi tính để giải đáp. Tôi thích so sánh một đất nước với ba phần của một máy vi tính. Trước hết là phần cứng – đây là chiếc vỏ bao bọc bên ngoài nền kinh tế của bạn. Vào thời Chiến tranh Lạnh có ba loại vỏ bọc cơ bản – thị trường tự do, cộng sản và một loại lai ghép thị trường tự do lẫn cộng sản. Phần thứ hai là" hệ điều hành ". Tôi so sánh phần này với những chính sách kinh tế vĩ mô của bất cứ nước nào. Trong các nước cộng sản hệ điều hành kinh tế mang tính tập trung, được chỉ đạo từ trung ương – không có thị trường tự do – và chính phủ đứng ra trực tiếp cung ứng vốn. Tôi xin gọi hệ điều hành của kinh tế cộng sản là DOScapital 0.0. Trong những nước có sự lai ghép, hệ điều hành bao gồm các thành phần chủ nghĩa xã hội, thị trường tự do, kinh tế do nhà nước điều tiết và chủ nghĩa tư bản bè phái, trong đó các viên chức chính phủ, các doanh nghiệp và ngân hàng móc ngoặc với nhau. Tôi xin gọi chúng bằng các nhãn hiệu DOScapital 1.0 đến 4.0, tùy vào mức độ can thiệp của chính phủ và mức tinh vi của các nền kinh tế. Chẳng hạn Hungary có Mức DOScapital 1.0, Trung Quốc là 1.0 ở vùng sâu trong nội địa và 4.0 ở Thượng Hải, Thái Lan mức 3.0, Indonesia 3.0 và Hàn Quốc là 4.0. Sau cùng là các hệ thống tư bản công nghiệp lớn. Một số trong đó duy trì hệ điều hành dựa trên thị trường tự do nhưng vẫn duy trì một bộ phận phúc lợi xã hội đáng kể. Nhóm này bao gồm Pháp, Đức và Nhật Bản và tôi gọi họ là DOScapital 5.0. Những nơi khác như Hoa Kỳ, Hồng Kông, Đài Loan và Vương quốc Anh đã giải phóng các nền kinh tế của họ, khoác lên mình tấm áo nịt nạm vàng. Họ ở mức DOScapital 6.0. Trở lại chiếc máy vi tính, ngoài phần cứng và hệ điều hành, nó có các phần mềm. Đối với quốc gia, đây là tổng hợp tất cả các yếu tố mang tính pháp quyền. Phần mềm Ở đây chính là mức đo đếm hiệu lực của các hệ thống luật pháp và quy tắc, về mức độ hiểu biết và thừa hành pháp luật của các viên chức, giới hành chính và các công dân. Một phần mềm tốt thường bao gồm luật ngân hàng, luật thương mại, luật về phá sản, hợp đồng, quy tắc ứng xử trong kinh doanh, một ngân hàng trung ương thực sự độc lập, quyền lợi về sở hữu tài sản, tòa án thương mại, các cơ quan duy trì hành pháp được một hệ thống tư pháp công tâm bảo đảm, các loại luật chống sự xâm phạm vào lợi quyền cá nhân và chống hành vi lạm dụng của các viên chức chính phủ và công dân, giúp họ thừa hành luật một cách nhất quán. Trong thời Chiến tranh Lạnh đã có cuộc tranh đấu lớn lao để xem phần cứng nào sẽ thống trị thế giới. Người Xô Viết và người Mỹ lúc đó không cần đoái hoài xem mô hình phần cứng của họ hoạt động ra sao ở các nước đồng minh của họ. Họ chỉ muốn các nước đó sử dụng mô hình và nhãn hiệu của họ. Quả nhiên có quốc gia tồn tại rất dài lâu mặc dù đã thừa hành một thứ hệ điều hành tồi tệ và những phần mềm trục trặc, chỉ vì người Mỹ và người Liên Xô nóng lòng muốn tuyển dụng. Họ bao cấp và trực tiếp bảo hành cho các hệ thống của quốc gia đó – miễn là quốc gia đó gắn bó với nhãn hiệu của họ. Hai siêu cường đó đã sống trong lo lắng về điều được gọi là" Học thuyết Domino ", cho rằng nếu một nước tiền đồn thay đổi hệ thống thì các quốc gia lân cận sẽ thay đổi theo hàng loạt. Cuộc tranh đấu đó đã kết thúc khi hệ thống Chiến tranh Lạnh đổ vỡ. Bỗng nhiên các mô hình khác, và thậm chí các mô hình ghép trở nên không còn được tin dùng. Bỗng nhiên chúng ta ở vào một khoảnh khắc đầy ý nghĩa của lịch sử: Lần đầu tiên hầu như bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều sở hữu một mô hình chung – tư bản chủ nghĩa trên nền thị trường tự do. Cuộc chơi đã thay đổi. Các quốc gia không còn phải quyết định lựa chọn mô hình nào nữa, họ chỉ còn phải quyết xem làm thế nào sử dụng mô hình chung – tư bản và thị trường – theo cách tốt nhất. Nhưng có một lối nói trong công nghệ vi tính:" Phần cứng bao giờ cũng chạy trước phần mềm và hệ điều hành ". Có nghĩa là các kỹ sư liên tục sáng tạo ra những linh kiện vi mạch mới có tốc độ nhanh hơn, rồi mới đến việc các hệ điều hành mới và Các loại phần mềm được cải tiến. Câu châm ngôn đó cũng được áp dụng trong toàn cầu hóa. Điều mà thế giới chứng kiến từ khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Nga, Đông Âu và Thế giới thứ ba, là có đa số các quốc gia, tuy chấp nhận mô hình cơ bản của chủ nghĩa tư bản, thậm chí kết nối mô hình của họ với Bầy Thú Điện Tử, nhưng lại không có được ngay một hệ điều hành hay những phần mềm thích ứng – những yếu tố cơ bản để họ quản lý và phân bổ mức vốn và tài nguyên ra vào đất nước, một khi họ bắt tay với bầy thú. Đây, như chúng ta đang khám phá, là một trong những vấn đề nổi lên trong giai đoạn quá độ từ hệ thống Chiến tranh Lạnh sang toàn cầu hóa: Những khó khăn trong giai đoạn" sơ sinh toàn cầu hóa ". Tôi xin nhắc lại: Ngày nay, bạn không thể tăng trưởng nếu không kết nối với bầy thú và các siêu thị tài chính, bạn cũng không thể tồn tại nếu không có một hệ điều hành và những phần mềm cho phép bạn tận dụng bầy thú và phòng thân nếu chúng giở quẻ. Điều hiển nhiên là khi mọi người cùng đến với một mô hình có nhãn hiệu chung – thị trường tự do – sẽ xuất hiện những mức cao thấp trong cách thức và mức độ các quốc gia khác nhau phát triển các hệ điều hành và phần mềm khác nhau. Mua một chiếc máy vi tính thì thật là dễ, đặc biệt khi chỉ có một thương hiệu. Bất cứ kẻ khờ khạo nào cũng có thể ra chợ Computer City để kiếm một chiếc. Trong giai đoạn chuyển tiếp từ Chiến tranh Lạnh sang toàn cầu hóa, nhiều quốc gia đã làm đúng như vậy, – họ không nghĩ tới việc liệu họ đã có những hệ điều hành và các phần mềm thích ứng chưa. Những nước này thường đã khoe:" Hãy nhìn đây, rất dễ, tôi sẽ nối phần cứng đời mới này vào với Bầy Thú Điện Tử.. " Nhưng sự đời phức tạp hơn nhiều. Việc tuyên bố" thị trường tự do "trong quốc gia của bạn là điều dễ dàng. Khó khăn hơn chính là việc thiết lập một công cuộc hành pháp đều tay, thực hiện luật pháp và các nguyên tắc ứng xử chung trong thương mại, trong đó tòa án có khả năng bảo vệ dân chúng trước sức tấn công của chủ nghĩa tư bản không bị kiềm chế. Mở một thị trường chứng khoán là điều dễ dàng. Nhưng điều khó hơn là thiết lập được một Ủy ban Giao dịch Chứng khoán (SEC) để kiểm soát hiện tượng giao dịch tay trong. Cởi trói cho báo chí và công khai hóa thông tin kinh tế là điều dễ làm. Nhưng rất khó có thể thiết lập và bảo vệ một nền báo chí thực sự độc lập và tự do, cho phép nó vạch trần tham nhũng trong chính phủ và những công ty làm ăn lừa đảo. Quá trình xây dựng các hệ điều hành và phần mềm đó đang nổi lên như khâu yếu nhất trong chuỗi mắt xích toàn cầu hóa. Nghĩa là, giờ đây chúng ta hiểu toàn cầu hóa sẽ dẫn tới việc phát triển thương mại và kinh tế; phát triển kinh tế dẫn đến thịnh vượng cho mọi người; thịnh vượng cho mọi người sẽ dẫn tới giải phóng về chính trị; rồi sự giải phóng về chính trị thường dẫn tới dân chủ hóa. Nhưng để kích hoạt chuỗi phản ứng trên, đất nước của bạn phải thực hiện những bước cơ bản, cài đặt hệ điều Hành và các phần mềm. Những bước đi như vậy thường sẽ gặp những trở ngại mang tính văn hóa, lịch sử và sự phản ứng của các cơ cấu cũ – hoặc do việc thiếu các cơ cấu đó. Vì thế những bước đi ban đầu cho thấy khó khăn nhiều hơn là người ta những tưởng trong giây phút tưng bừng hoan nghênh bức tường Berlin sụp đổ. Hãy nghĩ tới Ba Lan và Liên Xô. Chúng trỗi dậy sau Chiến tranh Lạnh gần như cùng một thời điểm. Cả hai đều trải qua những khó khăn kinh tế ban đầu. Ba Lan đã nhanh chóng gượng dậy trong khi nước Nga thì không. Lý do một phần là Ba Lan đã có thời thực hành tư bản chủ nghĩa lâu dài, trước khi những người cộng sản lên nắm quyền. Họ đã biết cài đặt nhanh chóng hệ điều hành và các phần mềm cơ bản, thích ứng với toàn cầu hóa. Nhưng nước Nga, trong lịch sử của nó không thấy có chủ nghĩa tư bản cũng như dân chủ, đã trải qua nhiều khó khăn hơn, và trả giá đắt hơn. Tôi vẫn nhớ câu chuyện vui mà Ngoại trưởng James A. Baker III kể cho các phóng viên tháp tùng ông ta, câu chuyện ông ta nghe lại từ Chủ tịch Liên xô, ông Mihail Gorbachev. Gorbachev muốn giải thích cho Baker về những khó khăn tâm lý mà nước Nga gặp phải, trong chặng đường quá độ sang chủ nghĩa tư bản: Một nông dân Nga tìm thấy một cây đèn bên đường. Ông ta xoa lên cây đèn. Một vị thần hiện ra và nói sẽ thực hiện bất cứ điều gì người nông dân ước ao. Người này nói:" Ông biết không, tôi chỉ có ba con bò, trong khi Igor, anh hàng xóm có tới 10 con ". " Vậy có phải nay ông muốn có 20 con bò? ". Vị thần hỏi lại " Không ", người nông dân trả lời," tôi muốn ông giết đi bảy con bò của thằng cha Igor! " Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh có một sự ngăn cách giữa hai nền kinh tế – tư bản và cộng sản chủ nghĩa, với chút ít các mô hình ghép đứng giữa. Giờ đây, khi mọi quốc gia đều dùng chung một mô hình thì sự phân biệt lớn là ở chỗ: Một bên là các nền dân chủ thị trường tự do, và bên kia là nền vòi tiền thị trường tự do. Những quốc gia đã thiết lập những hệ điều hành và phần mềm cơ bản sẽ đi theo hướng dân chủ. Những quốc gia không có khả năng hay không sẵn sàng cài đặt các hệ điều hành và phần mềm thích hợp sẽ trở thành môi trường của nạn tham nhũng và vòi tiền, nơi đó nhà nước bị một lũ thượng lưu cấu kết với giới tội phạm để cướp bóc – chúng không đoái hoài gì tới pháp quyền. Xin đón chào cuộc đấu giữa những người dân chủ chống lại những kẻ vòi tiền cùng trong một thị trường tự do. Vì trong chúng ta ai cũng đã quen thuộc với đặc điểm của những nền dân chủ hoàn hảo nhất, tôi xin minh họa sau đây những đặc tính của thể chế vòi tiền tồi tệ nhất. Rồi bạn có thể lấy đó làm thước đo để đánh giá các quốc gia. Hình mẫu vòi tiền xấu xa nhất trong bối cảnh thị trường tự do mà tôi được thấy đó là Albania trong những năm 90. Suốt 50 năm trong thời Chiến tranh Lạnh, Albania là Một trong những nước cộng sản bị cô lập nhất, họ đã áp dụng mô hình chủ nghĩa Mao và thân Trung Quốc. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, chế độ cộng sản Albania cũng ra đi vào năm 1991. Sau các cuộc bầu cử sơ sài, một chính phủ theo lối dân chủ được thiết lập ở Thủ đô Tirana. Người Albania đã cho rằng: Rồi thì chúng ta cũng có được cái điều như của người khác: Một mô hình thị trường tự do. Khốn thay đó là điều duy nhất họ đạt được: Ở Albania chỉ có mô hình, không có cả hệ điều hành lẫn các phần mềm. Sang Tirana năm 1998, tôi được nghe Fatos Lubonja, 47 tuổi, người Albania, ký giả kiêm biên tập viên của tạp chí Endeavor đã miêu tả cuộc sống trong một xã hội vòi tiền như Albania." Sau chủ nghĩa cộng sản ", anh ta nói," chúng tôi đạt được quyền bình đẳng tuyệt đối. Chúng tôi cùng quay trở lại số không. Chẳng ai có tài sản hay quan hệ gì. Sau đó một hệ thống trật tự mới được hình thành. Về cơ bản, người ta coi chính trị là một thứ thương vụ, vì nếu là một nhà chính trị, người ta có thể mở cửa hay đóng cửa tùy ý (đón hoặc đuổi ai cũng được). Bạn có thể đóng dấu hay không đóng thì tùy bạn. Thị trường tự do khiến ai làm gì cũng được. Vì thế những kẻ liều lĩnh bắt đầu hoành hành, những tên tội phạm cảm thấy cần đến các chính trị gia và ngược lại các chính trị gia cảm thấy cần có tiền để giữ chức. Dân chúng không hiểu gì cả. Dân chúng không được giáo dục về hoạt động của chính phủ. Họ không biết rằng nếu không có các phần mềm [các hệ thống luật pháp và quy tắc], thì Albania sẽ trở thành một khu rừng rậm. Và dân chúng bắt đầu chịu đựng đau khổ, nhiều người bị các băng đảng bắt cóc, nhiều người bỏ trốn qua biên giới. Sau đó dân chúng nhận thấy ngoài một nền kinh tế phi pháp ra, Albania chẳng còn gì để cạnh tranh trên trường quốc tế. Rồi chúng tôi, người Albania đã sinh ra một thứ tư sản tội phạm. Chúng không nộp thuế. Chúng không chịu trách nhiệm về sinh hoạt xã hội của dân chúng hay về hạ tầng cơ sở. Chúng bóc lột và cướp bóc. Nếu bạn không cạnh tranh được về một loại linh kiện máy tính thì bạn sẽ phải cạnh tranh về mức độ băng đảng. Trong sự nghiệp xây dựng một nền dân chủ trên cơ sở thị trường tự do, thì chúng tôi đang đứng ở số 0. Năm năm đầu tiên là năm năm rũ bỏ mô hình kinh tế của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng thay vì xây dựng một thị trường tự do cho phép phát huy sáng kiến và khuyến khích người ta mạo hiểm, chúng tôi đã xây dựng một nền kinh tế tội phạm gắn với các thủ đoạn buôn bán theo hình tháp. Dân chúng đã đổ tiền vào các chi nhánh của những cấu trúc bán hàng hình tháp. Và thay vì chăm lo đầu tư, thì họ chỉ ngồi đó uống cà phê và đợi nhận tiền, điều mà các ông chủ bán hàng hình tháp hứa hẹn. Điều đó gợi lại cho tôi cái cảnh chờ đợi viện trợ từ Trung Quốc, rồi ăn bám vào viện trợ [trong thời Chiến tranh Lạnh] . Đó không phải là kinh tế thực sự, chẳng rõ nó là cái gì cả. " Quả thực, ở Albania, thay vì một hệ thống ngân hàng, chính phủ đã chấp nhận, và Ở một mức độ, đã dung túng các thủ đoạn lấy của người trước trả cho người sau – một trong những hình thức lừa đảo cổ điển nhất. Thủ đoạn này lan tràn ở Albania trầm Trọng đến mức một tổ chức trâng tráo nhất đã tài trợ cho một đội đua xe hơi của nước Ý, cứ như họ là hãng tín dụng MasterCard International vậy. Cách hoạt động điển hình của chúng là như thế này: Một người đến gặp dân chúng và nói với họ hãy nộp tiền vào một thứ" quỹ "thì sẽ được hưởng 20, 30, thậm chí 50 phần trăm lãi trong vòng sáu tháng. Ngoại trừ một số nhỏ, còn phần lớn các quỹ lừa đảo này không đầu tư vào đâu để trả mức lãi cao như vậy, chúng thường dựa vào phương pháp vay của người mới để trả lãi cho người cũ – đồng thời chiết khấu, găm tiền vào túi các vị quản trị của quỹ. Mọi sự tốt đẹp cho tới khi chúng không tìm ra thêm được khách hàng nào mới. " Các vụ lừa đảo này bắt đầu từ những hoạt động hùn vốn để mua các đường tiếp khí đốt, bán lậu với giá cáo vào các nước lân cận như Montenegro và Serbia, lúc đó đang bị trừng phạt quốc tế trong cuộc chiến Balkan ", Carlos Elbirt, đại diện Ngân hàng Thế giới tại Tirana giải thích cho tôi." Nhưng sau khi lệnh trừng phạt được tháo gỡ thì không còn bất cứ thương vụ nào đứng đằng sau các quỹ lừa đảo, nên họ chỉ còn cách vay tiền mới để trả các khoản cũ. Khi những người trong quỹ tuyệt vọng, không còn cách nào để kiếm tiền mới thì họ nâng mức lãi lên tới 50 phần trăm. Tôi khó có thể giải thích thậm chí cho các nhân viên người Albania của tôi rằng chắc chắn các quỹ sẽ đổ bể. Các vị đó gật gù khi tôi giải thích, nhưng sau đó lại đem đổ tiền vào một quỹ nào đó. Họ thấy ngon quá, ai cũng đâm đầu vào. Nó như một cơn sốt vậy. Người ta bán nhà để lấy tiền đóng vào quỹ, sau hai hay ba tháng, họ lấy lại được tiền, chuộc lại nhà cũ và mua thêm một chỗ mới. IMF và Ngân hàng Trung ương đã cảnh báo Chính phủ Albania: "Tiền không phải là thứ mọc trên cây", nhưng Chính phủ đã không vào can thiệp ". Lý do cũng vì trong chính phủ không có mấy ai hiểu biết hơn về điều này, thêm nữa chính nhiều viên chức của chính phủ cũng bị cuốn hút vào cơn sốt quỹ lừa đảo." Nếu tôi đến thăm một đại sứ nhân dịp Quốc khánh của đất nước ông ta, tôi có thể gặp một trong những chủ nhân của các quỹ cũng đến đó ", Elbirt nói." Họ đã được chấp nhận và dung túng hoàn toàn, chính vì thế, dân chúng bị cuốn hút đến với họ ". Rồi thì điều hiển nhiên cũng đã xảy ra, những loại quỹ vay tiền hình tháp ở Albania đã sụp đổ vào năm 1997, dẫn tới sự hỗn loạn toàn cục; dân chúng Albania giận dữ cướp phá tài sản của đất nước để thu lại tiền của họ. Elbirt và các nhà ngoại giao nước ngoài đã di tản vì lý do an ninh. Họ đi trong đoàn xe của người Anh từ Tirana đến cảng Durres. Từ cảng này, đáng lẽ họ được trực thăng đến đón, nhưng thậm chí trực thăng cũng không đỗ xuống được do ở dưới đất súng bắn nhiều quá. Và đoàn xe đi tiếp đến một nơi khác thuộc khu vực cảng, nơi người Ý kiểm soát. Các nhà ngoại giao khi đi đều có lái xe đi theo, những tài xế đậu xe ở cảng, chờ để lái xe về thủ đô. Nhưng trong cơn hỗn loạn, một nhóm trộm cướp say xỉn người Albania đã vào cảng để cướp xe. Elbirt kể rằng nguy hiểm nhất là khi một tên cướp tiến đến, rút ra" một khẩu súng to, to lắm ", và đòi cho được chìa khóa xe của một người di tản rồi lên Xe nổ máy chạy thẳng – tất cả diễn ra trong chưa tới một phút. Mười phút sau, tên cướp quay lại đòi nạn nhân phải đưa toàn bộ giấy tờ xe. Cứ như thể tên cướp đã nghĩ sẽ có lúc trong trường hợp Albania có một hệ thống pháp luật thì hắn sẽ có giấy tờ xe để sử dụng. Elbirt kể lại:" Hắn rất lịch sự, khi cướp xong xe, thì dường như quay ra muốn tiến hành một vụ mua bán chính thức ". Câu chuyện Albania những năm 90 là một ví dụ cực đoan nhằm minh họa một điều giản đơn: Những ai dự đoán hay lo lắng rằng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và biên giới khai thông, nhà nước và pháp luật không còn mấy quan trọng – thì họ nhầm to. Nếu cứ khăng khăng nghĩ như vậy thì thật nhảm nhí. Vì trong thời toàn cầu hóa với biên giới khai thông, vai trò của Nhà nước trở nên quan trọng hơn nhiều, chứ không giảm đi. Tôi xin nhắc lại: TRONG THỜI TOÀN CẦU HÓA, VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC QUAN TRỌNG HƠN NHIỀU, CHỨ KHÔNG GIẢM ĐI. Vì chất lượng của Nhà nước trong thời kỳ này phản ánh chất lượng các loại phần mềm và hệ điều hành ở đất nước của bạn, trong việc ứng xử với Bầy Thú Điện Tử. Khả năng của một nền kinh tế đối phó với những thăng trầm trong hành vi của bầy thú, tùy thuộc phần nhiều vào hệ thống luật pháp, tài chính và quản lý kinh tế – tất cả vẫn nằm trong tay Chính phủ và các nhà quản lý hành chính công. Chi Lê, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore, đều tồn tại sau cuộc khủng hoảng tài chính trong những năm 90 một cách hữu hiệu hơn và toàn vẹn hơn so với các láng giềng của họ, là do ở những nước này, Nhà nước và Chính phủ có những hệ điều hành và phần mềm tốt hơn. Thủ tướng Thái Lan Chuan Leekpai hồi đầu năm 1998, sau khi đất nước của ông bị cuộc khủng hoảng Á châu tàn phá đã nói:" Nếu muốn trở thành một phần của thị trường toàn cầu ngày nay, thì bạn cần phải có khả năng tốt hơn để tự bảo vệ trước những xung động của thị trường toàn cầu.. Một trong những bài học mà cuộc khủng hoảng đã dạy cho chúng tôi là nhiều thể chế và hệ thống quản lý của chúng tôi đã không được chuẩn bị để thích ứng với thời đại mới. Nay chúng tôi phải cố thích nghi với những tiêu chuẩn quốc tế. Cả xã hội Thái Lan mong chờ điều đó. Họ muốn được thấy một Chính phủ có năng lực và mức độ minh bạch cao hơn ". Nhà nước trở nên quan trọng hơn, điều đó đã rõ, nhưng điều khác biệt giờ đây là định nghĩa – thế nào là Nhà nước. Trong Chiến tranh Lạnh, kích thước của Nhà nước là tất cả. Bạn cần có một Nhà nước hùng mạnh để đối trọng lẫn nhau, xây những bức tường bảo vệ ở xung quanh đất nước và duy trì một hệ thống phúc lợi xã hội để mua đứt những người lao động của bạn, tránh khả năng họ đi về phía bên kia. Trong toàn cầu hóa, chất lượng của nhà nước là điều quan trọng nhất. Bạn cần có một bộ máy Nhà nước có kích thước nhỏ hơn, vì bạn cần thị trường, chứ không phải một thứ chính phủ trì trệ và béo múp míp, đứng ra điều tiết và cung ứng vốn. Bạn cần một bộ máy nhà nước năng động, thông minh và chất lượng hơn, trong đó bộ máy hành chính Có khả năng quản lý về luật pháp một thị trường tự do, thay vì thả lỏng cho thị trường hoành hành. Thách thức đối với các chính phủ ngày nay là làm sao tăng chất lượng bộ máy nhà nước, đồng thời giảm biên chế trong bộ máy này, tránh cồng kềnh. Một trong những lợi thế quan trọng mà một đất nước muốn có trong thời buổi ngày nay là xây dừng một nền hành chính công tinh gọn, hiệu quả cao và trung thực. Chính vì thế mà vấn đề lớn của nhiều nước với những nền kinh tế quốc doanh, là, một khi giảm thiểu kích thước của bộ máy chính phủ (bằng cách giải phóng, thả nổi và tư nhân hóa các ngành công nghiệp quốc doanh), họ cần phải tăng chất lượng của bộ máy đó. Bộ máy nhà nước nếu nhỏ mà không hiệu quả thì sẽ rất nguy hiểm. Bạn cần phải duy trì một sự cân bằng. Bạn cần có bộ máy nhà nước mạnh đủ để duy trì một sân chơi công bằng, đảm bảo cho những nhà đầu tư và sản xuất giỏi thắng cuộc trong kinh tế – chứ không phải là thứ nhà nước hùng mạnh nhưng can thiệp sâu vào kinh tế rồi tự quyết kẻ thắng người thua, hoặc bảo hộ cho kẻ thua trước sức cạnh tranh của người này người khác. Nếu thị trường nội địa chỉ gồm toàn những đèn đỏ và lối nhỏ, không có xa lộ, thì trì trệ sẽ xảy ra. Nhưng nếu thị trường đó chỉ toàn đường cao tốc mà không có đèn giao thông, thì hỗn loạn sẽ đến. Trong bối cảnh toàn cầu hóa sơ sinh ở Nga và Albania sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, không thấy có đèn giao thông và con đường nào cũng thành xa lộ, thiếu kiểm soát. Nước Nga kết nối với Bầy Thú Điện Tử mà hầu như không có bất cứ hệ điều hành hoặc phần mềm nào cả. Hậu quả là dân Nga đã tận dụng những lợi thế của thị trường tự do – thu hút đầu tư nước ngoài, bán cổ phần và trái phiếu, mượn tiền từ quốc tế – mà không bị kiểm soát và đánh thuế cho đúng mực, cũng như không tăng cường được thu nhập đủ để thanh toán cho các khoản vay mượn. Và khi bầy thú nhận thấy nước Nga chẳng qua chỉ có cái vỏ phần cứng thị trường tự do mà không có hệ điều hành và các phần mềm thích ứng, chúng đã lồng lên và dẫm nát cái khung ọp ẹp của nền kinh tế nước này. Ba Lan thời hậu Xô Viết cho thấy một nền kinh tế già cỗi, nhưng khi được cải tổ đã hồi sinh, vì các nhà đầu tư tìm thấy ở đó một sân chơi công bằng, nơi mà những công ty làm ăn hiệu quả sẽ thắng cuộc." Tại Nga, bạn kiếm ra tiền không phải vì bạn làm ăn tốt, hay làm ăn đúng luật ", Bill Lewis, người đứng đầu Công ty Tư vấn McKinsey, nghiên cứu về kinh tế Nga cho biết," bạn kiếm ra tiền vì bạn có người bảo vệ, được hưởng ưu đãi về thuế và được bao cấp ". Những gì xảy ra ở Đông Nam Á cũng cho thấy một phiên bản khác của hiện tượng toàn cầu hóa sơ khai. Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Indonesia không giống như nước Nga. Họ vốn dĩ đã có những biến tướng sơ đẳng của phần cứng, của cái vỏ thị trường tự do. Và họ đã có những hệ điều hành đời trước – từ DOScapital 3.0 đến 4.0. Những hệ điều hành cũ – khi kết hợp với tiền đầu tư nội địa, cùng mức tín dụng được chính phủ hỗ trợ, nguồn tài nguyên dồi dào và lực lượng lao động cần mẫn – đã có kết quả tốt và tăng bình quân thu nhập trên đầu người từ 500 đô-la lên tới 5.000 đôla. Ai cũng biết, khi sắm một chiếc máy tính đầu tiên thì hệ điều hành nào cũng được và năng suất bao giờ cũng cao hơn là cái thời đánh máy chữ. Nhưng rồi những hệ điều hành cũ ở các nước kể trên đã chạy chậm dần và nhiễm căn bệnh tư bản bè phái. Tại Indonesia chẳng hạn, Bộ Tài chính đã đứng ra quản lý gần hết các ngân hàng quốc doanh. " Khi các nhà chính trị, người nhà của Tổng thống hay những viên chức Bộ Tài chính đứng ra can thiệp, thì các ngân hàng cảm thấy họ bị buộc phải gia hạn tín dụng cho những dự án họ thấy không có lãi; và chính họ đã dấu nhẹm về những trục trặc trong thanh toán, "Shiraishi Takashi, một chuyên gia tài chính Đông Nam Á, thuộc Đại học Kyoto nhận xét," Các ngân hàng tư nhân cũng phải chịu nợ xấu tồn đọng. Chức năng của họ là phục vụ những nhóm thương nhân đã sáng lập ra họ, và khi một thành viên của những nhóm này gặp khó khăn, thì những ngân hàng tư nhân đã ra tay giúp đỡ bằng những khoản tín dụng nước ngoài, có mức lãi suất cao ". Khi Bầy Thú Điện Tử tăng tốc trong những năm 90, được tiếp sức khi tốc độ máy tính tăng từ 286 lên tới loại Pentium II, chúng đã mang tới Đông Nam Á nhiều tiền hơn. Các ngân hàng địa phương, phần nhiều không chịu sự kiểm soát bắt đầu mua vào quá nhiều tiền đô-la, đổi chúng thành nội tệ với giá cố định, không chịu đầu cơ đô-la, rồi dùng tiền đó cho bè bạn thân hữu vay mượn để đầu tư vào những khu vực thiếu khả năng sinh lời – từ một sân gôn tới hàng loạt sân gôn, đến những cao ốc văn phòng cao nhất thế giới đến việc bành trướng các tổ hợp công nghiệp khổng lồ ở Hàn Quốc. Các quốc gia Đông Nam Á cần phải nâng cấp hệ điều hành của họ lên tới hay gần tới phiên bản 6.0. Họ cần những hệ điều hành được giải phóng để giảm vai trò của chính phủ, cho phép thị trường điều tiết các nguồn tài nguyên vào những nơi có năng suất cao, khuyến khích cạnh tranh nội địa và thông qua luật phá sản, thải đi những kẻ làm ăn tồi. Họ cần những phần mềm hữu hiệu và tinh vi để tăng năng lực quản lý, điều tiết cho nền kinh tế trở nên quay vòng nhanh và cởi mở hơn, đặt giám đốc công ty vào kỷ cương chặt chẽ, để cho họ chịu sự chỉ trích của các cổ đông, giúp họ có khả năng chống chọi trong trường hợp vốn nước ngoài bị rút ra. Chỉ ném tiền và nhân lực vào một ngành công nghiệp không thôi thì không thể đảm bảo duy trì tăng trưởng cao nữa. Tiếc thay dân Đông Á vẫn còn lưu luyến với hệ điều hành 3.0. Sai lầm to lớn. DOScapital 3.0 chỉ thích hợp cho việc tăng thu nhập lên tới mức 5.000 đô-la, khi bầy thú chỉ di chuyển với tốc độ máy tính đời 286. Khi họ muốn tăng thu nhập lên tới 15.000 đô-la, bầy thú tăng tốc lên Pentium II, thì hệ điều hành 3.0 trở nên tắc nghẽn. Có bao giờ bạn thấy một máy Pentium II, nhưng lại khởi động bằng hệ điều hành lỗi thời trên DOS và chạy một phần mềm trong môi trường Windows? Bạn sẽ thấy một dòng thông điệp trên màn hình" Bạn đang thực hiện một hành vi phi pháp "hay" Hết bộ nhớ "hay" Không thể lưu ". Nói nôm na, đó tương tự những gì diễn ra ở Đông Á Trong thời gian 1997-98, mà thông điệp trong trường hợp đó nói:" Bạn đang thực hiện một loạt các hành vi đầu tư sai lầm. Không thể cứu vãn. Hãy xóa bỏ các khu vực làm ăn thiếu hiệu quả. Liên hệ với cơ sở bảo hành. Tiếp nhận và cài đặt các hệ điều hành và phần mềm đời mới ". Đó chính là những điều các nước Á châu kể trên đã và đang thực hiện kể từ ngày đó. Những gì diễn ra ở Đông Nam Á ngày nay tương tự như sự hình thành các cấu hình bên ngoài của các hệ thống tài chính phương Tây, trong nhiều trường hợp đó là sự học vẹt. Họ thiếu một yếu tố nội tại – thành phần chủ chốt của một hệ điều hành. Đó là cảm giác và tri thức cơ bản về cách thức những thị trường tự do và cùng với nó – một xã hội dựa trên thị trường tự do – hoạt động ra sao. Những xã hội và thị trường tự do không hoạt động theo ý muốn của bất cứ cá nhân hay nhóm cá nhân nào – mà theo quy luật giá trị chỉ thuộc về thị trường tự do. Những tập đoàn kinh doanh Hàn Quốc, gọi là chaebol, trước đây đáng lẽ sẽ không tài nào tạo ra các tỷ lệ nợ trên vốn sở hữu khổng lồ, nếu họ không có những quan hệ thân quen với các quan chức chính phủ, những người cũng muốn tham gia chấm mút tí chút. Những khoản tín dụng lớn đã giúp chaebol lớn mạnh nhanh chóng, nhưng rồi sau đó, đã gục ngã. Cựu Thủ tướng Hàn Quốc Lee Hong Koo kể cho tôi rằng phải mất nhiều năm thì chính phủ của ông ta mới hiểu ra điều đó:" Năm 1995, tôi là Thủ tướng khi Hàn Quốc được gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và thu nhập bình quân đầu người là 10.000 đô-la hàng năm, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã đến đích. Chúng tôi cho rằng chúng tôi đã tốt nghiệp phổ thông hạng ưu và trở thành sinh viên đại học. Nhưng những chuẩn mực cần có ở một giai đoạn khi lên giai đoạn tiếp thì phải khác đi. Chúng tôi đã không nhận thức được bộ máy quan liêu cồng kềnh mà chúng tôi đã rất tự hào, thay vì là một động lực tích cực đã trở thành chướng ngại to lớn. Chúng tôi đã sống với một công thức: Sản xuất hàng loạt cộng xuất khẩu bằng tăng trưởng và thành công. Chúng tôi đã học được rằng điều này là sai lầm trong cuộc khủng hoảng những năm 90, nhưng học phí phải trả cao quá. Chúng tôi nhận thấy tư bản nay đang nắm quyền kiểm soát. Trong những năm 90 đã xuất hiện một trào lưu toàn cầu hóa các nguồn vốn, nhưng chúng tôi đã không sửa sang và chuẩn bị cho các thể chế chính phủ và nhà nước để ứng phó kịp thời với thị trường vốn toàn cầu. Chúng tôi không có đủ các cơ chế thích hợp để đối phó. Chúng tôi không có khả năng đề phòng. Chúng tôi đối xử với các ngân hàng như thể chúng là một tổ chức dịch vụ xã hội, một nhánh của chính phủ. Chúng tôi đã cho rằng tiền không phải để làm ra tiền. Chúng tôi chỉ nghĩ tiền sinh ra từ sản xuất và chức năng của ngân hàng là xúc tiến tăng trưởng, vậy ngân hàng chỉ là một phần của bộ máy quan liêu của nhà nước. Chúng tôi đã không hiểu rằng ngân hàng và sự chuyển dịch vốn chính là trái tim của nền kinh tế thời mới, và chúng cần phải được cải tổ. " Kinh tế gia của Đại học Havard Dani Rodrik đã chứng minh trong nghiên cứu của Ông ta rằng" vấn đề quan trọng không phải là toàn cầu hóa hay không mà toàn cầu hóa như thế nào. "Các nước đã xây dựng cho mình các hạ tầng tài chính và luật pháp chi tiết, trung thực và đáng tin cậy đã đạt những vị thế vững vàng để có khả năng phòng thủ trước sức tấn công của nạn đầu cơ tiền tệ, phá hoại đồng nội tệ của họ. Họ có thể đứng vững khi phải đối phó với việc bầy thú gấp gáp rút vốn. Họ có khả năng nhanh chóng hàn gắn các vết thương và chấn động kinh tế do việc rút vốn gây ra. Nhưng cũng có một số ngoại lệ. Một đất nước có hệ điều hành và phần mềm đúng đắn cũng có thể gặp khó khăn – trường hợp Thụy Điển hồi năm 1992 hay Hoa Kỳ khi gặp phải những trục trặc về đầu tư và các khoản vay trong nước chẳng hạn. Nhưng cả Thụy Điển lẫn Hoa Kỳ đều đã phục hồi nhanh chóng nhờ có những hệ điều hành và phần mềm chất lượng cao. Alan Greenspan trong nhiều phát biểu của ông đã nói rằng những quốc gia có hệ điều hành và phần mềm tiên tiến" thường có khả năng chống lại những cuộc tấn công của giới đầu cơ tiền tệ vì những hệ thống tài chính của họ được xây dựng chắc chắn nhưng uyển chuyển để đối phó với những cơn rút vốn nhanh chóng và quy mô lớn, và thông qua các chính sách hữu hiệu, tổ chức được những cuộc phản công. " Với những lý do kể trên hiện đang xuất hiện những nhận thức mới trong hàng ngũ lãnh đạo các nước đang phát triển, cho rằng điều họ cần hiện nay không đơn thuần là những thị trường mới nổi, mà phải thêm" một xã hội mới (nổi) ", theo lối nói của Đại sứ Mỹ tại Hungary Donald Blinken. Không thể tư nhân hóa một nền kinh tế trong một khoảng trống quyền lực chính phủ và xã hội." Nếu đặt thị trường lên trên xã hội ", Blinken nói," thì chắc chắn sẽ dẫn đên sai lầm và thất vọng ". Vì thế điều thiết yếu là cả các nhà đầu tư lẫn các chính trị gia phải mở rộng tầm nhìn trong cách họ định nghĩa thế nào là một thị trường mới nổi, bằng cách xem xét các yếu tố thiết lập nên một xã hội mới. Hồi tưởng lại, sai lầm lớn nhất mà thế giới gây cho nước Nga, khi nó thế chỗ Liên Xô, là đã cho rằng việc Nga quá độ sang hệ thống toàn cầu chỉ mang đặc tính" tài chính ", và đã để cho duy nhất IMF đứng ra giúp đỡ – cải tổ chỉ gói trọn trong việc cho phép thị trường tự do quyết định các mức giá cả của hàng hóa và nhiều lĩnh vực khác. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới James Wolfensohn đã đề nghị phải điều chỉnh các phương pháp đánh giá các quốc gia, từ mức chỉ chú trọng vào các thông số tài chính – GDP, GNP, thu nhập bình quân đầu người – sang việc" thiết lập một công thức kế toán mới "đo đếm tiềm lực của một đất nước thông qua tiềm lực và khả năng của xã hội trong đất nước đó. Các nước cần được xếp hạng thông qua các tiêu chuẩn chất lượng quản lý, hệ thống tư pháp, thủ tục giải quyết khiếu kiện, mạng lưới phúc lợi xã hội, pháp quyền và các hệ thống quản lý kinh tế. Cái gọi là những cuộc cải cách" thế hệ thứ hai "để hình thành một xã hội mới, đòi hỏi mức độ kiên nhẫn và tính cần cù cao." Thời trước ", một viên chức Ngân hàng Thế Giới nói với tôi," bạn đến một đất nước đang phát triển, vào gặp thống đốc ngân hàng trung ương của họ và đưa ra một lời khuyên đơn giản: "Đừng có in nhiều tiền đến thế". Sau đó sang gặp bộ trưởng tài chính và nói, "đừng có gây thâm hụt ngân sách đến thế, để ngân hàng có thể ngưng in ấn tiền mặt". Nói cách khác, bạn chỉ cần đến gặp hai người, đưa ra hai lời khuyên. Ngày nay, chúng tôi hiểu là cần phải làm hơn như vậy. "Để thực hiện những cải tổ thế hệ hai – đưa một đất nước từ chỗ là một thị trường mới sang thành một xã hội mới – bạn cần sự đóng góp của nhiều nhân tố, và cần sự đồng thuận rộng rãi hơn nhiều về mặt chính trị. Nhìn nước Mỹ, người ta đã nhận xét rằng đó là một cỗ máy do các thiên tài thiết kế để thậm chí những kẻ ngu ngốc cũng có thể điều hành. Điều ngày nay các nước đang phát triển cần Mỹ giúp đỡ không phải là viện trợ. Mà là kiến thức, để hiểu về nguồn gốc thực sự của sự thịnh vượng của Mỹ: Sự kết hợp giữa một hệ điều hành đúng đắn – các thị trường tự do – cộng với các loại phần mềm thích hợp, cơ cấu và sự đồng thuận chính trị đặng có thể bảo vệ tài sản và sáng tạo, đảm bảo một sân chơi công bằng trong đó những kẻ làm ăn có lãi thường sẽ thắng cuộc, và thiết lập những hệ thống an sinh xã hội để hứng đỡ và giúp những người phải chịu thua thiệt. Trong khi có nhiều loại kiến trúc sư phương Tây bàn bạc về việc thiết lập một ngân hàng toàn cầu và những định chế quản lý toàn cầu để kiểm soát Bầy Thú Điện Tử, thì lãnh đạo các nước đang phát triển đang dần hiểu ra rằng những thứ đó sẽ không giúp gì cho họ nếu họ không có được các chính quyền địa phương chất lượng cao. Họ sẽ bất lực nếu không có luật ngân hàng và nền lập pháp để xây dựng luật, các nhà hành pháp và cơ cấu pháp chế để thực thi luật và các tòa án để xử án cho đúng luật. Họ cần phải chú trọng để tự mình xây dựng các nền móng đó chứ không chỉ ngồi chờ giải pháp từ một thứ chính quyền toàn cầu. Trong khi các nhà thông thái ở phương Tây chưa kịp nhận ra, thì các quốc gia, vốn trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 90, đã nhận thức sâu sắc về điều này. " Nhiều tiếng nói, nhiều tiếng hô lớn, vang lên, cho rằng hội nhập đã diễn ra quá nhanh và quá mức – đặc biệt trên các thị trường tài chính ", Tổng thống Mexico Ernesto Zedillo nói với tôi hồi mùa đông 1997." Không. Tôi thì tôi tin vào điều ngược lại. Toàn cầu hóa mang đến những thách thức mới nhưng cũng cho chúng ta nhiều cơ hội tốt đẹp. Việc tư bản di chuyển nhanh có thể gây hiểm họa, nhưng bằng vào đó mà nói rằng chúng ta cần kiểm soát chúng, thì thật hoàn toàn sai lầm ". Tất nhiên, ông ta nói, chúng ta cần một IMF mạnh để cứu giúp trong nhưng cơn nguy cấp và báo động về những lệch lạc ở các quốc gia hay ở các công ty. Nhưng rốt cuộc, Tổng thống Zedillo nói," những khoản tài chính lớn sẽ được rót vào một hệ thống tài chính nội địa, hoặc trở thành nguồn hỗ trợ các ngân hàng nội địa ". Vậy điều kiện tiên quyết, ông nói thêm, là bạn có tổ chức được những bộ máy chính trị và tài chính để điều hành toàn bộ các khâu hoạt động đó hay không. Trong Chiến tranh Lạnh các quốc gia không quan tâm nhiều đến đặc tính của các hệ điều hành hay của các phần mềm mà hàng xóm của họ sử dụng, vì giữa họ với nhau đã không thấy nhiều mức độ hội nhập. Ngày nay trong toàn cầu hóa Bầy Thú Điện Tử có thể nhanh chóng hơn nhiều trong việc lan truyền bất ổn và ảnh hưởng xấu từ nước này sang nước khác. Học thuyết Domino ngày nay được ứng dụng trong lĩnh vực tài chính là chủ yếu, thay vì chính trị. Chính vì thế người ta có chút lo lắng khi nghe về" sự phục hồi "của những nền kinh tế Á châu sau giai đoạn 1997-98. Phục hồi không phải do những nước đó đã tiến hành cải cách để nâng cấp hệ điều hành của họ từ DOScapital 1.0 lên 6.0. Trong nhiều trường hợp, do những đồng nội tệ của những nước này đã trở nên có giá trị rẻ mạt khiến họ hưởng lợi khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ, một thị trường có nhu cầu nhập khẩu cao, đặc biệt các mặt hàng điện tử và máy tính, từ Đông Á. Tạp chí phố Wall (số ngày 28/10/1999) đã đăng bài về Rini Soewandi, người Indonesia, được bổ nhiệm đứng đầu hãng lắp ráp xe hơi Astra International – một công ty suýt bị xóa sổ trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế Á châu. Người phụ nữ này đã nêu rõ những nhận thức trong giới kinh doanh Á châu về những cải tổ cần có để phát triển, nhưng cũng nói rõ về những khó khăn khi thực hiện những cải tổ đó. " Tôi là người theo trường phái Hoa Kỳ trong kinh doanh, nhưng trong thâm tâm, tôi là một người Java ", cô Soewandi, 41 tuổi, cho biết. Bài báo của tờ tạp chí nói tiếp:" Cô Soewandi đang thực hiện một bước nhảy vọt, cố gắng cải tổ tận cốt lõi hoạt động kinh doanh của hãng Astra, một trong những công ty lớn nhất và lâu đời nhất ở Đông Nam Á. Cô muốn biến công ty này từ chỗ là một tập đoàn theo lối câu lạc bộ trở thành những tập đoàn kinh doanh theo lối Mỹ có cổ phần phát hành công cộng.. Cuộc cải tổ Astra đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc tranh đấu mới ở Đông Nam Á thời sau khủng hoảng. Sau khủng hoảng, nhiều công ty ở vùng này đã mở mắt và cố gắng giải đáp bài toán: Làm thế nào để tồn tại lâu dài trong một thị trường mới mẻ. Nhiều công ty đã làm ngơ trước bài toán này, họ cho rằng sự phục hồi sau khủng hoảng đối với họ thế là đủ. Nhưng Astra đã đứng ra đương đầu với bài toán đó và tiến hành cải cách tư duy kinh doanh – chuyển từ tình trạng hoang phí sang thực thi nguyên tắc minh bạch, từ cơ cấu tập đoàn khoe mẽ sang thành một thực thể năng động, tận dụng các cơ hội trên thị trường. "Chúng tôi phải chạy đua với thời gian", cô Soewandi nói, "chúng tôi phải làm hai việc lớn trong cùng một lúc – tồn tại sau khủng hoảng và sáng tạo một mô hình kinh doanh hoàn toàn mới để hướng đến tương lai. Đối với một công ty thì làm một việc cũng đã là khó, huống gì cả hai". Trong khi thế giới rõ ràng mong muốn được thấy các đối tác Á châu của họ quản lý môi trường kinh tế nội địa, thì Hoa Kỳ và các nước khác ngày càng có ít đi khả năng đứng ra giúp đỡ họ trong việc xây dựng các phần mềm thích ứng. Á châu phải tự gánh vác công việc của họ. Ngoại trưởng Hoa Kỳ thường qua lại các nước bằng máy Bay như con thoi, nhưng để xây dựng các phần mềm trong đất nước của bạn, thì bạn phải chay đi chạy lại như con thoi, đôn đáo, trên một chiếc xe tắc xi – chạy từ Bộ Tư pháp sang thị trường chứng khoán, sang Bộ Thương mại rồi đến trụ sở của các công ty. Đó là những nhiệm vụ nhỏ, liên quan đến từng chi tiết của nền chính trị hoặc ngoại giao của mỗi đất nước mà có lẽ các nhà ngoại giao ở đó xưa nay chưa từng làm. Cung cách thực hiện cải cách sẽ ra sao? Trong điều kiện hoàn hảo thì mỗi một xã hội cần phải tự xây dựng và vận hàng các cơ chế phần mềm trước đã, trước khi kết nối với Bầy Thú Điện Tử. Nhưng đó chỉ là điều trong mơ. Quá trình kết nối ngày nay mang tính hỗn loạn hơn nhiều –hai bước tiến rồi một bước lùi. Chúng ta đều biết rằng đó là một quá trình trong đó các nước như Nga, Brazil hay Thái Lan, kết nối chút ít với bầy thú, rồi hành hạ chúng một chút, rồi ngược lại, chịu bị chúng cấu xé, cả hai bên học một vài bài học, cùng cải tổ, lại móc nối, lại hành hạ, thiết lập một quá trình mới để tiến lên, với hy vọng cả hai bên ngày một khôn hơn. Đây sẽ là cả một quá trình tiếp thụ kiến thức kéo dài – có thể mất cả thời gian của một thế hệ như ở nước Nga – và quá trình này sẽ bao trùm toàn bộ các diễn biến trong các nền chính trị nội địa và các quan hệ quốc tế trong toàn cầu hóa. Trong quá trình biện chứng đó, các siêu thị tài chính và Bầy Thú Điện Tử có thể nắm vài trò quan trọng hơn so với vai trò siêu cường của nước Mỹ trong việc thúc đẩy các cải cách chính trị. Thật lý tưởng nếu mỗi một phong trào dân chủ đều được một người hùng như Andrei Sakharov chỉ đạo. Cũng thật lý tưởng nếu mỗi một đất nước đều được một người như James Madison dẫn dắt tới một chế độ pháp quyền. Nhưng trong thực tế hiện nay, động cơ dẫn dắt công cuộc cải tổ có thể nằm trong tay các tổ chức tài chính như Merrill Lynch. Chương tiếp theo sẽ giải thích về điều này.
9. Cách mạng toàn cầu. Bấm để xem Câu chuyện thứ nhất: Mùa đông 1998 tôi đến phỏng vấn Thủ tướng Thái Lan, ông Chuan Leekpai. Nửa đùa nửa thật tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách nhìn ông ta ở đầu bàn bên kia và nói: "Thưa ông Thủ tướng, tôi xin thú thực một điều. Tôi là người đã giúp vào việc lật đổ người tiền nhiệm của ông – nhưng thậm chí tôi cũng không biết tên ông ta là gì. Lúc đó tôi ngồi trong tầng hầm nhà tôi, theo dõi trên màn hình thấy giá trị đồng baht Thái Lan đang sụt xuống (và cũng theo dõi người tiền nhiệm của ông mất dần khả năng quản lý kinh tế Thái Lan). Vậy là tôi gọi điện cho hãng môi giới tài chính, nói họ rút tiền đầu tư của tôi ra khỏi các thị trường mới nổi ở Á châu. Giờ đây tôi cũng có thể bán bản thân ông, thông qua Internet, nhưng tôi đã tham vấn công ty môi giới tài chính. Dường như tình thế giờ đây cho thấy một đô-la một lá phiếu, thưa Thủ tướng. Ông nghĩ thế nào về việc bản thân Tom Friedman là một cử tri của mình?" Vị Thủ tướng cười, nhưng ông ấy biết ý tôi muốn nói gì: Tham gia nền kinh tế toàn cầu và kết nối với Bầy Thú Điện Tử tương tự như chuyện niêm yết đất nước bạn lên thị trường chứng khoán. Tương tự như việc chuyển đất nước bạn thành công ty cổ phần chỉ có điều cổ đông bây giờ không chỉ là công dân nước bạn. Họ là thành viên của Bầy Thú Điện Tử, cho dù họ đang sống ở đâu. Và như tôi đã nói trước đây, họ không chỉ bốn năm mới đi bỏ phiếu một lần. Họ bỏ phiếu hàng ngày hàng giờ qua quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí, qua người môi giới và ngày càng trực tiếp hơn, qua mạng Internet. Câu chuyện thứ hai: Mùa thu 1997, tôi sang Moskva cùng một đoàn doanh nhân và học giả người Mỹ. Trong nhóm của chúng tôi có Donald Rice, cựu Giám đốc sản xuất của Teledyne, một tập đoàn kỹ thuật cao của Mỹ, nay đứng đầu một hãng công nghệ sinh học. Trong chuyến đi có lần Rice kể với tôi rằng ông ta đã bàn bạc về các cơ hội làm ăn với một thương nhân người Nga, người có mong muốn tìm một đối tác công ty Mỹ. Rice là một thương gia dày dạn kinh nghiệm, trước khi bàn tiếp, ông ta hỏi vị thương nhân người Nga một câu đơn giản: "Anh đã nộp thuế chưa?" Người Nga này lúng túng, trả lời rằng cũng không hẳn. Xin lỗi, Rice đã nói với anh ta, vì nếu anh ta không nộp thuế thì không có cách nào có thể hợp tác, vì công ty của Rice là công ty hùn vốn từ dân chúng, nếu một trong những đối tác chi nhánh của công ty trốn thuế, thì điều đó sẽ bị ghi lại trong sổ sách của công ty trong mùa kiểm toán hàng năm. Vậy thì thương nhân người Nga giờ đây có duy nhất một lựa chọn. Anh ta có thể là một công dân tồi ở nước Nga, tiếp tục trốn thuế và làm ăn một mình, hoặc anh ta sẽ trở thành một công dân tốt, nộp thuế và trở thành đối tác của một tập đoàn hùng mạnh, Kỹ thuật cao, của Hoa Kỳ. Ngày kết nối với Bầy Thú Điện Tử, thì các quốc gia càng có thêm cơ hội để lựa chọn, như đối với thương nhân người Nga nọ – hợp tác với bầy thú, tuân thủ các điều kiện của chúng, hoặc cứ tự nhiên làm ăn đơn lẻ và chấp nhận tình thế là các nguồn vốn của họ sẽ cạn dần, hết dần khả năng tiếp cận kỹ thuật và khiến mức sống của dân chúng ở đó đi xuống. Hai câu chuyện trên minh họa rõ ràng những ảnh hưởng chồng chéo mà toàn cầu hóa gây ra đối với quá trình dân chủ hóa. Nói chung, Bầy Thú Điện Tử sẽ buộc các nước kết nối phải lắp đặt các phần mềm và hệ điều hành mới, dựng lên nền móng của các chế độ dân chủ. Đồng thời, bầy thú và những siêu thị tài chính nhanh chóng trở thành hai trong số các thế lực lớn nhất trên thế giới có khả năng can thiệp và đe dọa mạnh mẽ các quốc gia. Chúng tạo cho dân chúng một cảm giác rằng bất cứ nền dân chủ nào họ có được trong nước, bất cứ lựa chọn nào họ thực hiện trong các cuộc tuyển cử địa phương hay toàn quốc, bất cứ thế lực nào được cho rằng đang kiểm soát xã hội của họ – tất cả (những yếu tố đó) chỉ là ảo tưởng – lực lượng tối hậu quyết định đời sống chính trị của họ chính là Bầy Thú Điện Tử cùng các siêu thị tài chính rộng lớn, vô hình và được điều khiển từ xa. Nghịch lý của toàn cầu hóa cho thấy viễn cảnh một ngày nào đó bầy thú sẽ tiến vào tỉnh lỵ của bạn, súng trong tay, đòi cho được một nền pháp quyền, rồi đến hôm sau chúng lừng lững ra đi, giống như trong phim King Kong, đè bẹp những ai vướng mắc trên đường di chuyển. Một ngày nào đó chúng cư xử như thời năm 1776, rồi sang hôm sau, chúng thay đổi thái độ như thời 1984. Xin giải thích cho bạn vì sao chúng có thể đồng thời làm được cả hai việc cùng một lúc. Tôi xin gọi quá trình trong đó bầy thú giúp xây dựng những nền móng của dân chủ với cái tên "cuộc cách mạng từ phía trên", hay, "cách mạng toàn cầu". Lần đầu tiên tôi phát hiện ra cách mạng toàn cầu là trong một chuyến sang Indonesia năm 1997 khi thời đại Suharto đang dần lụi tàn. Dùng cơm tối với Wimar Witoelar, người dẫn một chương trình truyền hình Jakarta được đông đảo ưa thích, anh ta kể cho tôi về thế hệ trẻ trong giới trung lưu của Indonesia. Anh nhận xét rằng phần đông những thanh niên từ 20-30 tuổi được giáo dục chu đáo trong giới trung lưu đều chia sẻ ước mơ làm giàu, nhưng tránh không bị tham nhũng; họ muốn có dân chủ, nhưng không muốn xuống đường tranh đấu vì dân chủ. Thế hệ đó hiểu rằng trong thời Suharto sẽ không thể có một cuộc cách mạng dân chủ được trên ban xuống, nhưng họ hoảng sợ trước khả năng một cuộc cách mạng dân chủ từ dưới lên, vì nếu dân nghèo thành thị đứng dậy thì đời sống sẽ bị phá vỡ, trở nên nguy hiểm. Vậy thì chiến lược thời nay là cần có một cuộc cách mạng từ trên cao, một thứ cách mạng toàn cầu. Chiến lược đó cho phép họ làm tất cả những gì cần thiết, vô tình hay hữu ý, để hội nhập Indonesia vào hệ thống toàn cầu. Họ hy vọng nếu trói buộc Indonesia vào những định chế và thị trường toàn cầu – như Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Pizza Hut, APEC, ASEAN, Merrill Lynch, PricewaterhouseCoopers hay những tổ chức phi chính phủ [NGO]– họ có thể nhập khẩu từ những tầm cao đó những tiêu chí và những hệ thống trên nền pháp lý mà cả chính phủ lẫn dân chúng ở Indonesia đều không tài nào sáng lập ra. Chẳng hạn, báo chí Indonesia đã không thể trực tiếp chỉ trích chế độ Suharto về nạn con ông cháu cha, thay vào đó, họ hăm hở đăng tải tin nói rằng Hoa Kỳ và Nhật Bản đã đưa Indonesia ra tòa án WTO để phê phán nhà máy quốc doanh sản xuất xe hơi của nước này – nhà máy lúc đó nằm dưới quyền của ông con trai của Tổng thống và được bảo hộ thuế quan, vi phạm các điều kiện của WTO. Chiến lược của các nhà cách mạng toàn cầu, nói tóm lại, là thu nhỏ chế độ Suharto bằng cách phóng đại, toàn cầu hóa toàn thể xã hội Indonesia. Nhà phân tích quân sự người Indonesia Juwono Sudarsono miêu tả cách mạng toàn cầu trong đó "thị trường toàn cầu sẽ áp đặt lên chúng tôi những tiêu chí và kỷ luật kinh doanh mà không đời nào chúng tôi có thể tự thiết lập". Một nhà cải tổ người Indonesia khác nói điều đó một cách đơn giản hơn. Ông ta nói ông ta cùng con trai ông trả thù Suharto mỗi tuần một lần "bằng cách đến ăn ở tiệm McDonald's". Thông thường thì cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại theo lối truyền thống, thuộc phái cực tả hay cực hữu, thường coi nhẹ sức mạnh của Bầy Thú Điện Tử và của toàn cầu hóa trong việc thúc đẩy dân chủ hóa. Michael Mandelbaum, một chuyên viên về chính sách đối ngoại thuộc Đại học John Hopkins cho biết: "Chúng ta vẫn còn sống với hình ảnh của các cuộc cách mạng năm 1776, 1789, 1917 và 1989, mọi người vẫn cho rằng dân chủ chỉ có thể có được khi dân chúng nổi dậy đạp đổ một chính phủ tham nhũng nào đó. Chẳng hạn những người Minutemen nổi lên ở Lexington, những đám đông Paris đạp cửa ngục Bastille, Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, hay Sức mạnh của dân chúng ở Philippines. Như vậy, khi nói đến dân chủ hóa, chưa ai tưởng tượng ra cái cảnh một thương gia nước ngoài đến và nói với chính phủ của chúng ta rằng ông ta không kiếm ra đủ tiền để tạo công ăn việc làm cho các công dân của đất nước nếu chính phủ không thiết lập các điều khoản bảo hộ cho luật pháp, tuân thủ các tiêu chuẩn kế toán quốc tế và thực hiện minh bạch hóa". Việc Hoa Kỳ không thường xuyên thúc ép Trung Quốc phải dân chủ hóa, hay dân chúng Trung Quốc không nổi dậy hàng ngày để đòi phải được tham gia viết bài cho tạp chí phố Wall châu Á không có nghĩa là mầm mống của một quá trình dân chủ hóa chưa được thai nghén ở Trung Quốc. Chúng ta quen nhìn dân chủ hóa như một sự kiện – giống như hình ảnh bức tường Berlin sụp đổ – nhưng thực ra dân chủ hóa là cả một quá trình. Tất nhiên để quá trình đó thành công với sự ra đời của một nền dân chủ tự do, ngoài sức mạnh từ thị trường, nó cần được nhiều thế lực khác tiếp sức, Larry Diamond, đồng Tổng biên tập của tạp chí Dân chủ, một trong những học giả nghiên cứu sâu các khuynh hướng dân chủ hóa trên thế giới, nói như vậy. Bầy Thú Điện Tử là Một lực lượng cần, nhưng chưa đủ. "Điều quan trọng là Chính phủ Hoa Kỳ phải lên tiếng, thường xuyên và thúc bách, bênh vực dân chủ hóa", ông nói tiếp. "Điều quan trọng là Liên hiệp châu Âu và Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc [UNDP], và những mạng lưới ngày càng rộng mở của các tổ chức phi chính phủ theo dõi và xúc tiến nhân quyền và các sáng kiến dân chủ hóa trong các khu vực kinh tế mới trỗi dậy. Điều quan trọng là quá trình toàn cầu hóa về thông tin sẽ cho người ta hiểu biết nhiều hơn về cảnh sống của đồng loại của họ. Điều quan trọng là phát triển kinh tế ở các nước đang tạo ra những tầng lớp trung lưu, những người tiếp tục đòi hỏi để được đóng góp vào việc hoạch định chính sách và đa nguyên về chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi một quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người trên 15.000 đô-la đều là một nước dân chủ tự do, trừ Singapore, hiện đang là một chế độ hạn hẹp trong một thành phố, nhưng chính nó, hầu như chắc chắn sẽ trở thành dân chủ một khi có sự thay đổi về thế hệ. Điều quan trọng là sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, không còn một mô hình nào khác, ngoài mô hình dân chủ tự do". Bạn cần phải làm cho những yếu tố kể trên cùng kết hợp. Luận điểm đơn giản của tôi là trong số các động lực do Diamond liệt kê ở trên, bầy thú và các siêu thị tài chính có thể là những động lực quan trọng nhất trong thời toàn cầu hóa, để thúc đẩy dân chủ hóa. Lý do là bầy thú có khả năng vượt rào, vào sâu bên trong hệ thống chính phủ và điều hành của đất nước, những nơi mà các chính phủ nước ngoài và các tổ chức nhân quyền không thể tiếp cận. Bầy thú có thể tăng áp lực và khó có chính phủ nào chống lại chúng được. Bầy thú làm như thế cũng vì lợi ích của bản thân chúng và khiến cho các chính phủ và các bên hữu quan nhận rõ rằng làm như vậy cũng là vì lợi ích của chính họ. Bầy thú vượt rào vào các quốc gia không chỉ để tuyên truyền dân chủ. Không phải vậy. Chúng coi trọng tính ổn định, khả năng xét đoán tương lai, sự minh bạch và khả năng di chuyển và bảo vệ tài sản cá nhân khỏi bị tịch biên hay rơi vào tay tội phạm. Và để đảm bảo những điều kiện trên, bầy thú cần các nước đang phát triển cài đặt các phần mềm và hệ điều hành – những thành phần cấu tạo nên dân chủ. Trong thế giới ngày nay bạn không thể đi từ Mao sang Merrill Lynch mà thiếu những con người như Madison. Hãy xem xét một cách chi tiết về cách thức làm thế nào mà bầy thú có thể áp đặt những thành phần của một nền dân chủ. Tính minh bạch Tạp chí phố Wall cho biết khi các quan chức tài chính của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và 11 quốc gia Á châu gặp nhau ở Malaysia hồi tháng 11 năm 1997, họ thấy Ngân hàng Trung ương Malaysia đã cho dựng một tấm bảng thông tin, cái loại mà bạn có thể thấy ở các sân bóng đá giải NBA. Trên tấm bảng đó, người Malaysia cho các vị khách quan sát sự hoạt động của dự trữ tiền tệ của nước này, chứng minh là kinh tế của họ làm ăn không đến nỗi tồi. Không phải nước nào cũng đã làm như vậy – dựng những tấm bảng chỉ số kinh tế Ở cửa khẩu sân bay – hay có lẽ họ sẽ làm được điều đó trong tương lai. Bầy thú trong những năm gần đây, đã biết cách đòi hỏi cho được, thường là theo cách làm dữ, tính minh bạch trong báo cáo tài chính của các nước. Những nước có móc nối với bầy thú dần dần cũng nhận thức, cũng theo cách trả giá đắt rằng nếu họ càng chuẩn bị chu đáo, cung cấp đầu đủ thông tin về giao dịch tài chính, thì sẽ giảm đi khả năng khiến cho bầy thú phật lòng, phản ứng đột ngột và kéo nhau rút ra. Bạn hãy coi Bầy Thú Điện Tử như một đàn linh dương đang tìm ăn ở một đồng cỏ châu Phi vậy. Khi con đầu đàn phát hiện thấy một vật di chuyển trong một bụi cây gần đó thì nó sẽ không thầm thì với con linh dương bên cạnh, "Này, tao thấy hình như có con sư tử đang lẩn quất trong bụi cây." Không có chuyện như vậy. Con linh dương đó sẽ lồng lên chạy, khiến cả đàn lao theo, và nó cũng sẽ không chạy một đoạn ngắn rồi dừng lại. Chúng sẽ chạy thẳng qua biên giới, sang một nước bên cạnh và sẽ đè bẹp tất cả những sinh vật nhỏ nhoi trên đường di chuyển. Vậy thì làm thế nào để bạn có thể đề phòng đất nước của bạn khỏi những tai họa như vậy? Trả lời: Bạn cắt bớt bụi rậm đi, làm cho lối đi quang quẻ, để lần sau, khi bầy linh dương nhìn thấy những vật gì lay động chúng sẽ nghĩ: "Không sao đâu. Ta thấy nó rồi. Chẳng qua là một con thỏ thôi". Hay nếu thực sự có sư tử đến thì bầy thú có thể thấy nó từ xa, và di chuyển sang một nơi khác trong đội ngũ và không giày xéo lung tung cả một vùng rộng lớn. Hoặc, nếu có cơ hội, bầy thú sẽ tự tổ chức thành một đội hình thiện chiến, khiến cho sư tử phải hoảng sợ mà bỏ chạy. Tính minh bạch ở đây cho phép bầy thú có được thông tin sớm hơn, để có làm điều gì tự vệ, chúng sẽ làm một cách có kỷ luật. Trong thế giới tài chính, điều này hàm ý sự khác biệt giữa xuống giá chút ít và bị sụt giá đến mức phải mất hàng tháng hay hàng năm mới hồi phục được. Khi kinh tế của Hàn Quốc gặp khó khăn vào tháng 12 năm 1997, nước này công bố là dự trữ tiền tệ là ở mức 30 tỷ đô-la, nhưng trong thực tế họ chỉ có 10 tỷ đô-la. Và khi bầy thú phát hiện ra điều đó, thì chúng bỏ chạy. Cũng thời gian đó Chính phủ Seoul nói với IMF rằng toàn bộ vốn vay ngắn hạn từ nước ngoài là 50 tỷ đô-la. Nhưng một tuần sau đó họ nói lại, con số thực tế là 100 tỷ đô-la. Ối giời! Sự thiếu minh bạch kiểu đó, như lời Richard Medley, một chuyên viên phân tích mức mạo hiểm chính trị cho các công ty tài chính, đã tạo ra những cơn hỗn loạn tồi tệ nhất. Thiếu minh bạch, ông ta nói, "chính là yếu tố tạo ra nhan nhản những người mang ảo tưởng cũng như đầu óc bi quan". Hãy nhìn Thái Lan, Hàn Quốc hay Nga trong đầu thập niên 90. Khi còn vàng son, sự thiếu minh bạch trong các nền kinh tế đó đã tạo ra một hạng người ảo tưởng, thổi lên những bong bóng, khiến người ta dồn tiền vào những nơi này, tin rằng họ có thể thu lãi năm sau cao như năm trước. Mặc dù những khoản tiền đầu tiên được sử dụng đúng đắn vào các nhà máy có lãi, những khoản tiền sau đó đã được dồn vào những khu du lịch hoang phí và những cơ sở Không thuộc nhu cầu. "Bạn không thể có những phân tích đúng đắn khi phải làm việc trong những hệ thống thiếu minh bạch", Medley nói. "Khi [bầy thú] bị nhiễm những ảo tưởng lạc quan ở đất nước của bạn, chúng sẽ thi nhau đấu giá, kích giá lên cao chót vót. Những người có ảo tưởng lạc quan sẽ khuyên," nhắm mắt vào mà mua, và chắc chắn, nhảy xuống cái bể đó bạn sẽ được an toàn vì trong bể có nước ". Tai họa là ở chỗ đó. Sự thiếu minh bạch khiến cho những người ảo tưởng tiếp tục kích giá, phóng đại tiềm năng. Rồi đến khi chúc đầu nhảy xuống thì tất cả những cơn mộng mơ về dự trữ ngoại tệ và mức lãi dự phóng, hết thảy đều sụp đổ". Bạn đi từ chỗ tin tất cả đến chỗ không còn tin gì. Những kẻ vỡ mộng trở nên hoảng loạn – anh ta ngờ rằng giờ đây khắp mọi nơi, đâu đâu cũng tiềm ẩn những khoản nợ xấu, những khoản nợ không có trên sổ sách. Trong mỗi đàn thú đều có những loại cả tin và loại đa nghi, và nếu tai họa xảy ra thì cơn lồng lộn của bầy thú sẽ bị những con thú đó làm cho tồi tệ hơn. Bầy Thú Điện Tử đã dạy bài học đó cho nhiều quốc gia trong những năm gần đây. Ngày nay, Bộ Tài chính của Hàn Quốc gửi một email mỗi ngày đến cho các nhà đầu tư có hoạt động liên quan tới dự trữ tiền tệ của nước này, trong đó nêu thật rõ mức dao động vốn tư nhân. "Người Hàn Quốc, từ chỗ coi tính minh bạch không là gì cả, quay sang cho rằng tính minh bạch là tất cả," giám đốc quản trị một quỹ đầu tư ở phố Wall nói với tôi, "nếu chúng tôi cần, thì họ cũng có thể chuyển cho cả một dự báo thời tiết." Rich Johnson, người đứng đầu phòng đầu tư của Offitbank, một ngân hàng ở New York nói: "Khi sang Brazil, tôi nói với họ:" Tôi cần phải thấy mọi thứ ". Tôi giải thích thẳng thắn," Không phải cho riêng tôi. Tôi là bạn của quý vị. Tôi tin quý vị. Nhưng làm thế nào để quý vị hãy giúp tôi thuyết phục những kẻ hoài nghi? "Và những kẻ hoài nghi giờ đây đang nói với chúng ta:" Nếu không cởi bỏ hết trang phục cho chúng tôi được xem xét mọi nơi trên thân thể của bạn, thì tôi sẽ không đời nào giao tiền vào tay bạn đâu, vì quá khứ của bạn là cả một lịch sử thiếu minh bạch và gây nhiều thất vọng. Nếu không có tính minh bạch thì sẽ không có tiền. Tôi muốn được xem kỹ sổ sách của bạn. Xem ngược xem xuôi, xem ban ngày rồi đến đêm cũng xem ". Ngày nào tôi cũng tập hợp thông tin của tất cả các lĩnh vực trong kinh tế Brazil. Cuối ngày bao giờ tôi cũng nhận một báo cáo về những khoản lưu động vốn của Brazil trong ngày hôm đó. Tôi biết những gì xảy ra trong tài khoản thương mại của họ, trong tài chính, điều gì đã được chứng minh và ảnh hưởng tới mức lãi suất chính thức của ngân hàng trung ương và những gì xảy ra trong thị trường giao dịch của ngành du lịch Brazil. Báo cáo đó do một công ty tư nhân địa phương gửi đến, bao gồm những thông số chính thức từ ngân hàng nhà nước. Tôi có thể đầu tư thêm nếu hiểu rõ hoạt động trong các nhà băng nước này – mặc dù vẫn có những mức mạo hiểm nhỏ. Vì nếu có đầy đủ thông số tôi sẽ tính được các chi phí để đền bù rủi ro, và tôi có thể đổi ý nếu thấy không thuận lợi; nếu không tính toán có cơ sở thì tôi chỉ có việc đoán mò, như Thế chắc chắn sẽ phá sản". Và một khi cam kết cho phép bầy thú được soi xét bản thân, bạn không còn đường thoát ra nữa, vì nếu làm như vậy, bạn sẽ phải trả giá đắt. Các chuẩn mực "Nếu viết về lịch sử các thị trường vốn của Hoa Kỳ," Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers có lần nhận xét, "tôi xin gợi ý rằng điều giản đơn nhưng quan trọng bậc nhất, khiến hình thành những thị trường vốn, đó là tập hợp các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung. Chúng ta cần thực hiện chúng trên môi trường quốc tế. Một trong những thành công nhỏ nhưng đầy ý nghĩa của IMF thể hiện qua việc một thầy giáo ở Hàn Quốc dạy môn kế toán kể với tôi là trước kia lớp học của ông trong kỳ mùa đông chỉ có 22 học trò, nhưng năm nay [1998] số lượng học trò là 385. Chúng ta cần điều đó ở quy mô doanh nghiệp. Chúng ta cần điều đó ở quy mô quốc gia". Một lý do khiến cho có sự bùng nổ số lượng các khóa kế toán ở Hàn Quốc có lẽ là do Bầy Thú Điện Tử. Sau cơn khủng hoảng 1997-98, chúng đã đòi hỏi phải có sự đào tạo các tiêu chuẩn kế toán đồng bộ ở mọi nơi. Khi nhìn sâu vào các công ty ở Hàn Quốc, Thái Lan hay Indonesia, chúng không thể hiểu được các dữ liệu kế toán, vì không có các bảng cân đối kế toán tổng hợp, tập hợp số liệu phản ánh hoạt động của các đơn vị và chi nhánh, khiến không thể thấy hết được tổng tài sản cũng như tổng số nợ, chưa nói số liệu các tài sản và nợ ngoài sổ sách. Càng di chuyển đầu tư vào nhà máy hoặc các thị trường các nước, càng có thêm các nước muốn móc đầu tư từ bầy thú, càng có thêm các công ty nội địa muốn phát hành cổ phần trên thế giới, thì chúng càng phải chịu áp lực, buộc phải đào tạo để thích nghi với những tiêu chuẩn của thế giới về nghiệp vụ báo cáo tài chính. Hãy tham khảo một ví dụ tôi tìm thấy trong tạp chí Hemispheres của hàng không United Airlines, số tháng 12 năm 1997. Tạp chí đăng tải về một trong những công ty phần mềm máy tính phát triển nhanh nhất thế giới, Infosys, của Ấn Độ. Tạp chí viết: "Chìa khóa dẫn đến thành công của công ty là việc họ xóa bỏ những chính sách và truyền thống hoạt động của Thế giới thứ Ba vốn dĩ đã khiến các công ty khác của Ấn Độ hoạt động khập khiễng và xúc tiến móc nối với Thế giới thứ Nhất, điều đó tạo thuận lợi rất nhiều cho khách hàng." Từ đầu, chúng tôi đã quyết định sẽ không có sự nhập nhằng giữa tài sản công ty và của cá nhân ", Narayana Murthy, người sáng lập và chỉ đạo của công ty cho biết. Có nghĩa là không ai được phép dùng xe công ty vào nhu cầu cá nhân – đây là một bước tách khỏi truyền thống kinh doanh của Ấn Độ. Ở Ấn Độ xưa nay các nhà quản lý công ty thường lạm dụng tài sản của công ty cho nhu cầu cá nhân. Các kỹ sư điện của công ty thường đến làm cho tư gia của các xếp lớn hơn. Nhân viên đi làm về thường kết hợp đón con cái của các xếp lớn và thậm chí trông coi các cháu đó luôn. Các phòng tài chính giúp các nhân viên mua địa ốc cho nhân viên công ty. Nhân viên công ty thường phải chịu làm những chuyện như vậy vì Không có lựa chọn nào khác. Hoàn cảnh đó đã khiến cho môi trường sáng kiến và cải tiến trở nên bị cô lập, xa lánh. Những vụ đó không xảy ra ở Infosys.infosys là công ty Ấn Độ đầu tiên cho công bố kết quả kiểm toán hàng năm chỉ một tuần sau khi kết thúc năm tài chính; là công ty đầu tiên cho công bố các báo cáo tài chính hàng quý sau khi kiểm toán; và là công ty đầu tiên tuân thủ các Nguyên tắc Kế toán được chấp nhận chung của Hoa Kỳ và các đòi hỏi về sổ sách của Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Hoa Kỳ." Những báo cáo về tài chính và kế toán của Infosys đã tạo ra những chuẩn mực để các công ty khác noi gương và tuân thủ, ' một nhà phần tích đã đánh giá như vậy về Infosys ". Khuynh hướng trên đang được giới môi giới Internet thúc đẩy. Buôn bán trên mạng, theo lời John T. Wall, Chủ tịch NASDAQ International," chắc chắn khiến tăng hơn nữa hoạt động soát xét trình độ quản lý của các chính phủ và công ty. Một khi con người ta có thể đầu tư ra nước ngoài và thực hiện giao dịch trên mạng, họ sẽ đòi hỏi nhiều hơn thông tin về các công ty, và sau đó muốn biết liệu họ có tin được những số liệu đó hay không. Liệu những thông số tài chính có được lập nên theo đúng tiêu chuẩn kế toán quốc tế hay không? Chất lượng quản lý công ty đó đến đâu? Những yếu tố đó góp phần cân đối mức thuế vụ và các hệ thống pháp luật hữu quan. " Theo một nghiên cứu của Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc, một phát hiện trong cuộc khủng hoảng 1997-98 ở Á châu cho thấy phần đông trong số năm hãng kế toán lớn nhất của Hoa Kỳ, khi tham gia kiểm toán ở các hãng tài chính làm ăn thua thiệt ở vùng này, đã không công bố những khó khăn, trục trặc mà thân chủ của họ gặp phải. Lý do chính của vụ này, theo bài đăng trên The New York Times ngày 17/11/1998, là các hãng kế toán đó đã không áp dụng vào châu Á những nguyên tắc kế toán chặt chẽ và chi tiết giống như họ thực hiện ở Hoa Kỳ. Và nguyên nhân chính cho thấy các hãng kế toán lớn – như Pricewaterhouse Cooper hay Ernest & Young – đã vào làm ăn ở châu Á bằng cách mua sáp nhập các hãng kế toán vốn có ở vùng này, những cơ sở mà khách hàng của họ chỉ muốn thực hiện những quy tắc tài chính lỏng lẻo. Thực tế giờ đây không còn như vậy. Ngân hàng Thế giới đã đề nghị những hãng kế toán của Mỹ không được phê duyệt các hoạt động kiểm toán mà không tuân thủ những tiêu chuẩn quốc tế hiện hành. Nếu kiểm toán do các chi nhánh và đối tác địa phương của họ thực hiện thì chỉ những đối tác đó được ký vào – và giới đầu tư nước ngoài hãy cảnh giác. Nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc cho biết kiểm toán tồi không phải là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, nhưng kiểm toán đúng đắn sẽ giúp phát hiện các lỗi lầm sớm và có thể giúp giảm hậu quả tai hại mà cuộc khủng hoảng gây ra. Khi chúng ta đi dần vào một thế giới nơi Internet định hình cho thương mại, thì những tiêu chuẩn quốc tế ngày càng trở thành đòi hỏi lớn lao hơn, vì một lý do chủ yếu: Vào lúc bạn quyết định dùng Internet để bán hàng hay cung cấp dịch vụ, từ lúc Mở trang mạng đầu tiên, bạn đã trở thành một công ty toàn cầu – dù bạn có ở Ấn Độ, Ý hay Indianapolis. Làm ăn trên Internet tức là làm ăn trên toàn cầu. Vì thế bạn phải có tầm suy nghĩ toàn cầu và làm sao để có thể thu hút những người mua trên thế giới mua món hàng của bạn. Và bạn phải đảm bảo cho khách hàng tin rằng bạn sẽ giao hàng đúng hạn và an toàn, số tài khoản tín dụng của họ được bạn giữ kỹ lưỡng, tiền được chuyển đúng nguyên tắc quốc tế, luật lệ và quy tắc hành xử được tuân thủ và những thủ tục và vấn đề liên quan tới kế toán và thương mại được thực hiện theo thông lệ quốc tế." Càng có nhiều thương vụ được thực hiện trên Internet từ khắp nơi trên trái đất, thì cung cách làm ăn ở nhiều nơi càng được hòa đồng và tiêu chuẩn hóa ", Bob Hormats, Phó chủ tịch hãng Goldman Sachs International lập luận. Tôi đã nếm trải điều này khi sang Sri Lanka hồi cuối năm 1999. Khi đến nơi vào buổi sáng, tôi đi xe chừng hai tiếng ra ngoài thủ đô Colombo, đến thăm một trong những nhà máy dệt lớn nhất của Sri Lanka. Con đường đến nhà máy không đủ rộng, khiến chúng tôi phải chật vật tránh xe cộ và gia súc. Khung cảnh tiêu biểu của miền nhiệt đới. Rốt cuộc, chúng tôi đến được làng Pannala; nhà máy dệt hiện đại này đóng cạnh làng, với những nhà xưởng khang trang tươi màu sơn, thảm cỏ cắt xén đẹp đẽ và hệ thống ăng ten vệ tinh – khu nhà máy trông giống như vừa rơi từ sao Hỏa. Nhà máy này là của Slimline, một hãng dệt Sri Lanka, chuyên nhận hợp đồng từ các siêu thị Victoria's Secret và của Marks & Spencer. Toàn bộ nhà máy được lắp đặt máy vi tính và được nối mạng Internet với chuỗi siêu thị Victoria's Secret để thực hiện thương mại điện tử. Tổng cộng có 1.400 nhân viên, phần nhiều là nữ, tuổi từ 18, họ ngồi làm việc bên hàng hàng những máy khâu. Ai cũng mặc đồng phục và những phụ nữ mang thai thì đội mũ đỏ – họ được phép làm việc chậm hơn người khác. Nhà máy được gắn điều hòa không khí và rất sạch, đến mức có thể bày đồ ăn ra sàn. Ngày công dài tám tiếng nhưng cường độ lao động khá cao – mỗi công nhân phải hoàn thành định mức tính từng phút. Mỗi dây chuyền sản xuất được một máy tính theo dõi và định mức trung bình phải được thực hiện, nếu công nhân mong có thưởng. Lương công nhân trung bình là 80-100 đô-la một tháng, bao gồm cả ăn sáng. Hiện có một danh sách mọi người xếp hàng vào xin việc. Về điều kiện sản xuất, đây là một nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nếu không nói đến lương bổng thì tôi sẵn sàng cho con gái tôi xin vào làm ở đây. Tôi hỏi Mahesh Amalean, chủ nhà máy, vì sao phải trang bị đẹp đẽ như vậy? Vì sao không phải chỉ là một xưởng đơn sơ? Chẳng phải ông ta sẽ thu lãi cao hơn nếu giảm chi phí trang bị cho xưởng? Không, ông ta trả lời, không được – vì lý do toàn cầu hóa. Biện pháp duy nhất giúp cho Sri Lanka tồn tại trong ngành dệt, đối phó với cạnh tranh từ những nơi rẻ mạt hơn như Trung Quốc và Brazil, là bước lên bậc thang chất lượng, sản xuất hàng chất lượng cao cho các hãng bán lẻ hàng hiệu danh tiếng trên toàn cầu. Ông ta giải thích, chạy đua để làm hàng rẻ với Bangladesh chẳng hạn, Không phải là điều hay. Phương pháp duy nhất để giữ quan hệ với các hãng hàng hiệu lớn trên toàn cầu là phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, cải thiện liên tục điều kiện lao động." Những hãng hàng hiệu ngày nay đòi hỏi không những hàng chất lượng cao, giá rẻ và điều kiện lao động cho công nhân cũng phải tốt hơn ", Amalean giải thích. Điều đó không hẳn vì Victotia's Secret bỗng chốc trở nên quan tâm đến phúc lợi xã hội mà vì giới tiêu dùng và sinh viên Hoa Kỳ ngày càng trở nên quan tâm đến các lợi ích xã hội sau khi họ chứng kiến những chiến dịch lớn phản đối những cơ sở hãng xưởng có điều kiện làm việc tồi, bóc lột công nhân. Những người tiêu dùng đó giờ đây tuyên bố với các siêu thị rằng họ không dùng những mặt hàng sản xuất trong những hãng xưởng bóc lột nhân công. Nói cách khác, một trong những lý do chính dẫn tới việc Sri Lanka cải thiện chất lượng các nhà máy dệt của họ không phải là muốn dựng chướng ngại chống toàn cầu hóa, mà bởi vì trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay, để sống sót, các nhà sản xuất ở Sri Lanka đã phải ràng buộc bản thân họ với các hãng bán lẻ lớn ở phương Tây. Càng làm như vậy, nhà máy của họ càng phải được nâng cấp để khớp với những tiêu chuẩn mà hiện nay giới tiêu dùng phương Tây đòi hỏi." Khi những nhân viên phụ trách mua bán của Victoria's Secret và các hãng khác đến thăm nhà máy, một trong những điều trước tiên họ hỏi chính là điều kiện làm việc của nhà máy ", Amalean nói." Họ phải chất vấn, vì đó là điều khách hàng của họ muốn biết ". Vài ngày sau khi thăm nhà máy dệt, tôi đến ăn sáng với một nhóm các nhà doanh nghiệp Internet trẻ. Nhiều người trong bọn họ phàn nàn là một lý do cho thấy các công ty non trẻ của họ không sáng tạo được các phần mềm mới là vì hiện nay chưa có luật lệ địa phương nào về vấn đề bản quyền để chống việc đánh cắp các sáng tạo. Họ cũng phàn nàn về việc Microsoft chưa muốn vào thị trường Sri Lanka vì hiện nay nước này chưa có luật bảo vệ tác quyền. Về điều này, Lalith B. Gamage, đứng đầu Viện Công nghệ Thông tin của Sri Lanka phát biểu thẳng thắn rằng để thu hút Microsoft và các hãng công nghệ lớn, chính phủ đang gấp rút thông qua một dự luật về bảo vệ tác quyền. Và ông ta hứa với những người ngồi xung quanh là đạo luật đó sẽ được thông qua trong vòng một năm. Khi lắng nghe những bàn cãi như vậy, tôi nghĩ rằng không rõ Bill Gates có biết về ảnh hưởng của công ty của ông ta ở đất này ra sao không. Giải pháp toàn cầu như trên không chỉ xuất hiện ở các nước đang phát triển. Có lẽ ví dụ lớn nhất thế giới về cách mạng toàn cầu, áp đặt các tiêu chuẩn quốc tế ở mọi nơi, thể hiện trong quyết định của Liên hiệp châu Âu ấn định một đồng tiền chung, một ngân hàng chung và một hệ thống tiêu chuẩn tài chính chung – một tấm áo nịt nạm vàng chung – cho toàn bộ thành viên của Liên hiệp. Đối với Ý, một đất nước mang tiếng có một chính phủ tham nhũng và thiếu hiệu lực, thì Liên hiệp Tiền tệ châu Âu, ra đời năm 1999, là một thứ của trời cho. Liên hiệp này buộc nước Ý phải mặc Chiếc áo nịt bằng cách chuyển giao một số chức năng của chính phủ Ý sang cho Ngân hàng châu Âu, đóng tại Frankfurt. Đài phát thanh của nhà nước đã phát một bản tin từ nước Ý năm 1997 về việc người dân Ý – sau một thế hệ chịu đựng việc chính phủ quản lý tiền tệ yếu kém – đã hối thúc để Liên hiệp châu Âu vào quản lý đất nước của họ. Mario Abate, một luật sư thương mại người Ý được trích dẫn," Một trong những hiệu quả trông thấy của việc gia nhập đồng tiền chung châu Âu, đồng euro, là sự xuất hiện của nhiệm vụ tôi gọi là "việc quét dọn nhà cửa" – chính phủ đã bị buộc phải ra tay giải quyết thâm hụt ngân sách, kiểm soát lạm phát và chi tiêu của chính phủ. Họ bị buộc phải làm điều đó. Và hiển nhiên, khi làm điều đó, nền kinh tế sẽ được lợi và đó là điều tôi rất tán thành ". Abate nói thêm rằng đa số dân chúng Ý có lẽ sẽ rất mừng khi các viên chức châu Âu đích thân sang quản lý đất nước của họ. Không thấy có sự phản ứng nào từ nước Ý nhằm vào những trung tâm quyền lực của châu Âu đóng ở Brussels, Frankfurt và Strasbourg." Có nhiều hiềm khích nhằm vào Rome hơn ", Abate kết luận," vì đối với chúng tôi, Rome là tượng trưng của một trung tâm tội phạm. Họ ăn cắp tiền của chúng tôi. Chúng tôi coi đó là hành động ăn cắp, vì họ thu tiền và không thấy trả lại ". Bộ trưởng Tài chính Ý, ông Vincenzo Visco nói với tờ báo La Republica vào đầu năm 1999 khi đồng euro bắt đầu được lưu hành, rằng từ nay" sẽ không còn những trò lố bịch xấu bụng "trong giới chính trị gia và doanh gia người Ý, những người trước đó đã thể hiện" quá thừa những hành vi phi pháp ". Liên hiệp tiền tệ châu Âu, ông ta nói thêm," có nghĩa là chúng tôi sẽ không còn có thể chấp nhận những tiêu chuẩn thấp kém chỉ vì chúng làm chúng tôi dễ sống hơn ". Đó chính là lối nói của một nhà cách mạng toàn cầu. Tham nhũng Nếu muốn tìm hiểu xem hệ thống toàn cầu hóa giúp làm giảm tham nhũng ra sao, thì xin đọc những bản tin nói về cuộc đảo chính quân sự ở Pakistan ngày 12/10/1999. Điều gì đã xảy ra? Cuộc đảo chính là ví dụ điển hình về xung đột mang động cơ chính trị, trong hàng ngũ thượng lưu ở nước này. Tướng Pervez Musharraf đã liều lĩnh điều quân vào vùng Kashmir do Ấn Độ kiểm soát, có lẽ với hy vọng rằng một khi cả Pakistan và Ấn Độ đều có vũ khí hạt nhân thì làm như vậy, thế giới sẽ vào can thiệp và giúp xây dựng một giải pháp cho Kashmir. Ông ta đã tính sai. Thế giới không vào và lực lượng của ông đã bị quân Ấn Độ đẩy lui. Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif đã phủi trách nhiệm trong vụ Kashmir và đổ lỗi cho lực lượng vũ trang, và cách chức Tướng Musharraf. Tranh chấp quyền lực diễn ra, trong đó Musharraf và quân đội đã lật đổ Thủ tướng Sharif. Một câu chuyện rất xưa. Nhưng điều mới mẻ đã xuất hiện khi Musharraf lên cầm quyền. Khi đó ông ta bắt đầu hiểu rằng đối với dân chúng, điều gì là quan trọng – đối với họ Kashmir không quan trọng, chống tham nhũng mới là điều họ đòi hỏi. Tham nhũng tràn lan đã hoành hành dưới thời chính phủ Sharif. Vậy thì Tướng Musharraf, đáng nhẽ đã đăng quang Và trở thành nguyên thủ quốc gia hợp pháp, giương cao ngọn cờ dân tộc chủ nghĩa Hồi giáo, đòi chủ quyền dân tộc.. đã chọn một con đường khác. Ông thanh minh cho việc tiếm quyền bằng cách tự giới thiệu bản thân là một con người trong sạch, hứa đào tận gốc rễ nạn tham nhũng ở Pakistan. Tướng Musharraf thậm chí cho công bố bản khai thuế của ông để chứng minh rằng ông trong sạch! Ông ta biết sẽ có hai loại người sẽ lắng nghe – dân chúng trong nước, những người đã quá chán ngán chính phủ cũ, và thành viên của Bầy Thú Điện Tử, đang kiểm soát những nguồn tài chính mà ông ta cần để giúp tăng trưởng trở lại. Trong lịch sử, có bao giờ một vị tướng đảo chính, tiếm quyền rồi ngay lập tức cho công bố những khoản ông ta nộp thuế? Thay vì thanh trừng các nhân vật cánh tả hay cánh hữu, ông ta đã cam kết rằng chính phủ sẽ truy tìm tất cả những kể thiếu nợ, trốn thuế và lừa đảo tài chính. Tờ báo Washington Post (21/10/1999) đăng tải rằng vài ngày sau đảo chính, ngân hàng tư nhân lớn nhất của Pakistan đã đăng một quảng cáo trên trang nhất của một tờ báo:" NHỮNG KẺ THIẾU NỢ CHÚ Ý! CƠ HỘI CUỐI CÙNG – HÃY TRẢ NỢ! NẾU KHÔNG SẼ PHẢI CHỊU HẬU QUẢ. "Tôi tự nhủ: Không hiểu đây là một cuộc đảo chính của quân nhân Pakistan hay là một cuộc đảo chính của giới quản trị tài chính của nước này? Đó không còn là một điều dị thường. Cách mạng toàn cầu đang tạo ra cái giá rất cao mà những đất nước dung túng cho nạn tham nhũng phải trả. Vì tại sao bạn phải đầu tư vào nước X, nơi bạn phải đút lót tất cả mọi người kể cả bà con của họ, trong khi bạn có thể vào đầu tư ở nước Y, nơi bạn chịu chi phí lao động tương tự, nhưng không bị phải đút lót? Bầy Thú Điện Tử đã nói với mỗi quốc gia:" Nếu bạn không tập hợp được một đám khách hàng ổn định và xây dựng được một tập hợp các cơ hội bền vững để đầu tư, không sao, chúng tôi sẽ đi nơi khác, và trong một thế giới không còn rào cản, chúng tôi đi đâu cũng được ". Đối với bầy thú, tham nhũng cũng là một trạng thái thiếu khả năng tiên liệu, vì bất cứ thương vụ nào cũng có thể đổ bể nếu một ai đó đút lót một ai đó, và đó là điều bầy thú căm ghét hơn hết. Derek Shearer, đại sứ Hoa Kỳ tại Phần Lan trong những năm 90 đã tận mắt chứng kiến việc cách mạng toàn cầu đẩy những người Nga vào hai lựa chọn: Hoặc kiểm soát nạn tham nhũng hoặc chịu nghèo đói và kém phát triển mãi mãi." Trong cương vị đại sứ Mỹ ở Phần Lan, nhiệm vụ của tôi là gặp gỡ các doanh nhân Phần Lan và khuyến khích họ đầu tư vào nước Nga – vì đó là yếu tố quan trọng góp phần ổn định vùng biên giới giữa hai nước ", đại sứ Shearer nói." Nhưng những người Phần Lan đó đáp lại: "Chắc chắn rồi, chúng tôi sẽ vào làm ăn với người Nga. Họ có thể mang xe tải sang đây mua bất cứ thứ gì cũng được, miễn là họ mang theo vài bao tải tiền mặt để thanh toán. Nhưng chúng tôi sẽ không sang làm ăn bên đó. Quá tham nhũng và quá nguy hiểm. Tại sao chúng tôi lại phải sang đó nhỉ? Chúng tôi có thể sang Hungary, Cộng hòa Czech hay Estonia để kiếm tiền và được bảo đảm có thể thu lãi. Vì sao chúng tôi Lại phải bận tâm với người Nga khi hoàn cảnh của họ như vậy?" Tôi lại giải thích, "Rồi, rồi, nhưng quý vị nên đầu tư ở đó để giữ ổn định khu vực". Và họ nhìn tôi bằng con mắt lạnh lẽo. Giờ đây tôi không còn làm cho chính phủ nữa và đang tư vấn cho một số công ty đầu tư ở phố Wall. Hôm trước họ hỏi tôi về chuyện đầu tư ở nước Nga và tôi trả lời, "quên đi". Nếu nhìn bằng con mắt thương gia, không dính dáng gì đến chính sách đối ngoại thì đúng là chẳng tội gì phải vào đầu tư ở nước Nga. Người Phần Lan có cái quyền của họ chứ ". Đôi lúc những tiêu chuẩn cao do bầy thú áp đặt có thể gây sốc thậm chí trong các nền kinh tế tiên tiến. Hãy xem bài báo trên tờ Washington Post (20/1/1998), viết từ Tokyo có tựa đề" Nhà lập pháp Nhật Bản treo cổ tự vẫn trong khách sạn ". Bài báo kể chuyện Shokei Arai thành viên Quốc Hội Nhật Bản, tâm điểm của một vụ bê bối tham nhũng đã treo cổ tự vẫn trong buồng khách sạn ở Tokyo, vài giờ trước khi sắp bị bắt. Chiều sâu trong nội dung câu chuyện là hai điểm chủ yếu:" Có những lo lắng trong giới chính trị gia rằng Arai có thể để lại những bằng chứng tội phạm liên lụy đến những người khác.. Hiện không thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ ông ta để lại những tư liệu như vậy, nhưng tại một cuộc họp báo tối thứ tư vừa qua, ông ta đã phàn nàn rằng những ủy viên công tố chỉ lọc riêng bản thân ông ta ra để truy tố. Arai nói với báo chí rằng hãng môi giới tài chính Nikko Securities bảo đảm với ông rằng họ chi tiền cho ông cũng như cho hàng trăm khách hàng khác. Thương gia Nhật Bản trong chỗ riêng tư đã nói rằng họ bị choáng khi thấy những gì xưa nay là thông lệ trong làm ăn thì nay đã đột ngột thay đổi. Một thời giới quan chức nhà nước thường được chiêu đãi rượu chè thả cửa cùng các công ty. Trong những buổi như vậy người ta giải thích rằng quan chức và thương gia có thể trao đổi, một cách không chính thức, những thông tin cần thiết. "Những tài khoản VIP" và những khoản lại quả là điều bí mật mà ai cũng biết, giới thương gia nói – và viện công tố cho đến nay đã làm ngơ trước những chuyện đó. [Bình luận viên chính trị Minoru] gắn những hành động cương quyết gần đây với một nhóm công tố viên trẻ trung, mới mẻ và hăng hái, những người được du học ở nước ngoài. "Họ bắt đầu có lối nghĩ phương Tây, và coi thông lệ khoản đãi các quan chức chính phủ như hiện tượng không thể chấp nhận được trong thông lệ quốc tế, Morita nói (đoạn in nghiêng là của tác giả)". Robert Shapiro, chủ tịch hãng Monsanto, có lần đã nói với tôi rằng công ty của ông không đi đầu trong cuộc chiến chống hoạt động tham nhũng, nhưng đã thực hiện nguyên tắc không lót tay. Và ông ta cho rằng làm như vậy công ty của ông gieo những hạt giống trên thế giới, chia sẻ cùng những người theo cùng một giá trị. "Chúng tôi tuyển rất nhiều nhân viên ở nhiều nước và trở thành trường đào tạo cho họ," Shapiro nói. "Nhiều nhân viên ở các nước khác làm việc cho chúng tôi thấy khó có thể tin rằng chúng tôi thực sự nghiêm túc trong việc chống tham nhũng, và chắc chắn chúng tôi sẽ không bao giờ tiếp tay cho những kẻ gây chiến trên thế giới." Thực tế đã có và bao giờ cũng có những ngoại lệ, đặc biệt một khi cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Những ước mơ làm giàu bằng những doanh nghiệp khả nghi cũng nhiều hơn. Theo một nghiên cứu của Quốc hội Mỹ, Citibank đã rất hăng hái bắt tay làm ăn với Raul Salinas de Gortari, em trai cựu Tổng thống Mexico, đến mức đã bỏ qua thông lệ kiểm tra, giúp ông ta kín đáo chuyển một ngân khoản 100 triệu đô-la ra khỏi Mexico. Hiện tại thì những hiện tượng như thế mới chỉ ở mức ngoại lệ. Khuynh hướng chủ yếu trên thế giới không đi theo hướng đó. Bộ luật về hành vi tham nhũng ở nước ngoài ra đời năm 1977 coi hành vi của các công ty Mỹ đút lót để làm ăn ở nước ngoài là phi pháp. Ngày 20/11/1997 29 quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong đó có các quốc gia dân chủ và phát triển hàng đầu, đã chấp nhận nhiều phần trong bộ luật chống tham nhũng của Hoa Kỳ. Theo các quy tắc mới của OECD, các hãng của Nhật Bản và châu Âu không được phép lót tay các viên chức nước ngoài để thắng thầu, và họ cũng sẽ thấy khó khăn hơn trong việc cân đối tiền đút lót với các khoản miễn thuế, vốn dĩ được hợp pháp hóa ở Pháp và Đức. Mặc dù vẫn còn những kẽ hở trong những quy tắc mới mẻ đó, nhưng chúng đánh dấu một thắng lợi của những con bò đực của nước Mỹ trong Bầy Thú Điện Tử, những kẻ đã cho rằng họ mất rất nhiều hợp đồng, trị giá hàng tỷ đô-la vào tay các công ty Nhật Bản và châu Âu chỉ vì không đút lót. Tự do báo chí Trung Quốc sẽ có một nền báo chí tự do. Cách mạng toàn cầu là động lực dẫn đến điều đó. Vâng, lãnh đạo Trung Quốc chưa biết được điều này, nhưng họ đang bị xô đẩy theo hướng đó. Hãy nhìn những gì xảy ra trong hai tuần cuối cùng của năm 1996. Trong năm 1996, hai thị trường chứng khoán sôi động nhất của Á châu nằm ở Trung Quốc – Thượng Hải và Thâm Quyến. Từ ngày 1/4 đến ngày 9/12 chỉ số chung của Thượng Hải tăng 120 phần trăm và của Thâm Quyến tăng 315 phần trăm. Một lý do khiến hai thị trường này tăng tốc là vì chúng hầu như được thả nổi, và một lý do khiến chúng được thả nổi là vì Trung Quốc chỉ có một hệ thống kiểm soát giao dịch chứng khoán thô sơ, và họ hầu như không có lấy một tờ báo tài chính độc lập, trong sạch và có trách nhiệm để có thể đánh giá cao những cổ phần lành mạnh và vạch trần những công ty làm ăn bất chính – những công ty không công bố kịp thời, chính xác và công khai những thông số tài chính của họ. Những tờ báo như Barron's, Fortune, Business Week, the Far Eastern Economic Review, The New York times và the Wall Street Journal chính là những tờ báo có trách nhiệm theo dõi chặt chẽ những vụ như vậy. Vào tháng 12 năm 1996 chính phủ Trung Quốc nhận thấy hai thị trường Thượng Hải và Thâm Quyến lung lay – vì hàng loạt các hoạt động đầu cơ và giao dịch khả nghi – nhưng họ chỉ có một thứ công cụ để đối phó: Báo chí nhà nước. Vậy là vào ngày 16/12/ 1996, tờ Nhân dân Nhật báo đăng một xã luận cảnh báo rằng một số cổ phần trên hai thị trường đã bị kích giá tới mức "vô lý" và "bất thường". Hãy đoán xem điều gì đã xảy ra? Ai ai cũng thi nhau bán lập tức, giá trên hai thị trường sụt và rất nhiều người trong giới đầu tư nhỏ chịu mất mát – nhiều đến mức cảnh sát được phái đến để giữ trật tự khi giới đầu tư tập hợp để chống đối trước cửa các hãng môi giới ở nhiều thành phố Trung Quốc. Tạp chí Wall Street Journal của Á châu đăng tin "bên ngoài một hãng môi giới ở Bắc Kinh, một công nhân ca thán rằng anh ta bị mất 20.000 tệ (khoảng 2.400 đô-la) trong tuần đó." Trước ngày Nhân dân Nhật báo đăng bài, thì vẫn có sự cân đối giữa mua và bán ", một người đàn ông mặc áo da tuyên bố trước một đám đông vài chục nhà đầu tư đang tỏ vẻ đồng tình.'Sau đấy không ai còn dám mua nữa. Thị trường đang chìm xuống". Người cảm thấy tức tối nhất trên thế giới không phải là người vừa bị mất việc. Người cảm thấy tức tối và đau đớn nhất thế giới là người có cảm giác họ bị lừa hết toàn bộ số tiền dành dụm mà anh ta đi làm kiếm được. Qua thời gian, lãnh đạo Trung Quốc sẽ không thể kiểm soát và theo dõi những thị trường đang nóng lên trên đất Trung Hoa; họ cũng không thể phòng vệ cho dân chúng khỏi nạn lừa đảo để đến mức phải nổi dậy chống chính phủ, nếu họ không thiết lập những định chế thích hợp với thị trường tự do – chẳng hạn một cơ quan giám sát đầu tư và một nền báo chí tự do và có trách nhiệm do một cơ chế pháp quyền bảo vệ. Tóm lại, họ cần cách mạng toàn cầu. Không phải ngẫu nhiên mà Đài Loan, một nơi có nền báo chí tự do nhất Á châu chính là nơi chịu đựng tốt nhất và phòng đỡ hiệu quả nhất trong cơn khủng hoảng 1997-98. Hiện tại có 30 triệu dân Trung Hoa sở hữu chứng khoán. Nhiều đến vậy nên đã xuất hiện hàng loạt các tờ báo và tạp chí chui, theo dõi thị trường chứng khoán, vì những nhà đầu tư giờ đây đòi hỏi phải có những thông tin kinh tế trung thực. "Chúng bắt đầu như những bản tin mách nước do các phòng nghiên cứu trong các nhà môi giới đầu tư soạn thảo, được chuyển bằng fax đi mọi nơi," Seth Faison, Trưởng phân xã của The New York Times tại Thượng Hải giải thích. "Tin tức kinh tế và thị trường và thông tin của một số công ty và cổ phần, hoặc một vài tin về một kế hoạch mới của một bộ nào đó ở Bắc Kinh. Nhiều phần là đồn đại, nhưng một số lời đồn lại hóa chính xác. Những loại báo này phục vụ đông đảo dân chúng tham gia mua bán chứng khoán nhưng không trông cậy gì vào tin tức trên báo chí nhà nước". Điều sẽ xảy ra nếu Chính phủ Trung Quốc chính thức cho phép báo chí tự do đưa tin kinh doanh thì những tờ báo như tờ Southern Weekend sẽ lợi dụng khe hở đó lồng vào các trang báo tin tức mang tính chính trị, chỉ trích tham nhũng và nạn lộng quyền chính trị. Đó chính là cách một nền báo chí tự do sẽ ra đời ở Trung Quốc. Thị trường trái phiếu và cổ phiếu Về cơ bản có ba phương pháp cho phép các doanh nghiệp có thể huy động vốn: Vay tiền ngân hàng, bán cổ phần và phát hành trái phiếu. Điều quan trọng là một đất nước có đủ ba khả năng này để nếu ngân hàng gặp trục trặc, bạn sẽ tìm đến thị trường Cổ phiếu và trái phiếu. Nếu thị trường trái phiếu ứ đọng thì bạn tìm đến ngân hàng hoặc thị trường chứng khoán. Giải pháp tay ba này giúp phân tán mức rủi ro tài chính và tăng năng lực cho hệ thống tài chính ứng phó với những cơn sốc. Nhưng thường ta chỉ thấy các nước đang phát triển chỉ có một, nhiều lắm là hai trong số ba yếu tố, khiến cho nền tài chính của họ không lấy gì làm ổn định. Hãy nhìn các con hổ Á châu. Có một đặc điểm chung khi một nước lâm vào các cơn khủng hoảng, đó là: Tỷ lệ tiền tiết kiệm nội địa cao và mức chính phủ nợ nước ngoài thấp. Dân chúng không muốn tiêu tiền và chính phủ không muốn vay tiền. Như thế hay quá? Không hẳn. Ở những nước mà dân chúng ham thích tiết kiệm thì tiền của họ chỉ nằm trong các ngân hàng địa phương, vì các dạng quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng và thị trường trái phiếu hầu như không tồn tại hoặc ở dạng thô sơ. Các ngân hàng địa phương chịu tồn đọng những lượng tiền lớn, và điều duy nhất họ có thể làm là đem tiền đó cho các công ty địa phương vay mượn. Dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng, họ ném tiền tới tấp, thậm chí vào những người mượn tiền cho những dự án chưa đạt tiêu chuẩn. Hơn nữa khi ngân hàng gặp khó khăn, thậm chí bị cải tổ như trường hợp ở Thái Lan thì rất khó cho các công ty vay tín dụng mới, vì không có thị trường trái phiếu, trong khi cổ phiếu của họ lại chưa kịp phát hành. Chính vì thế Hồng Kông và Singapore đã quyết định mở thị trường trái phiếu – mặc dù tiền tiết kiệm trong ngân hàng rất nhiều – vì họ muốn thị trường trái phiếu đó cung cấp cái gọi là "vốn kiên nhẫn", – tín dụng dài hạn cho các tổng công ty, tránh những điều kiện ngặt nghèo ngắn hạn do ngân hàng ấn định. Thêm nữa, thị trường trái phiếu cũng giúp cho những người gửi tiết kiệm ở Hồng Kông và Singapore đầu tư vào những quỹ đầu tư và hưu bổng có khả năng trả lợi tức cao hơn lãi suất tiết kiệm trong ngân hàng. Bầy Thú Điện Tử lâu nay đã khuyến khích việc thiết lập thị trường trái phiếu, để chúng kiếm ăn và cũng vì những nguyên tắc tài chính của loại thị trường này cho phép tăng cường mức độ minh bạch và dân chủ hóa trong nền tài chính. Thị trường chứng khoán và trái phiếu giúp cho các công ty tránh được việc phải quỵ lụy trước một nhóm nhỏ các viên chức ngân hàng, để hùn vốn. Một khi các công ty lệ thuộc nặng nề vào việc vay mượn ngân hàng – đặc biệt ở những nơi có những hệ thống tư bản làm ăn lối móc ngoặc, trong đó chủ ngân hàng cấu kết với doanh nhân và quan chức chính phủ – họ có thể tránh những dòm ngó và căn vặn, điều họ thường gặp phải trong thị trường chứng khoán và trái phiếu. Hoạt động của các công ty cho phát hành cổ phiếu và trái phiếu phải chịu sự giám sát và đánh giá hàng ngày: Trái phiếu của họ nằm trong tay một đám đông dân chúng đa dạng, và được các công ty xếp hạng độc lập đánh giá, trong khi cổ phần của họ được các nhà đầu tư nặc danh mua bán trên một thị trường tự do. Khả năng duy nhất để trái phiếu và cổ phiếu của bạn được xếp hạng trong một thị trường được giám sát, đó là bạn phải thực hiện chính sách kê khai hoạt động và tài sản đúng đắn. Và nếu bạn muốn cuốn hút các nhà đầu tư quốc tế lớn Và muốn được các hãng kiểm toán lớn như Moody's, Duff & Phelps Credit Rating Co. Hay Standard & Poor's xếp hạng thì những báo cáo tài chính của bạn phải được xây dựng trên cơ sở các thông lệ quốc tế. Sự trừng phạt sẽ đến rất nhanh nếu vi phạm xảy ra. Hãy xem bài báo sau đây trên tờ Washington Post ngày 15/11/1998, viết từ Paris: Câu chuyện bắt đầu với Serge Tchuruk, một thương gia danh tiếng ở Pháp thông báo trong cuộc họp giữa buổi ăn sáng với các nhà đầu tư quốc tế là mức lợi tức của tập đoàn viễn thông Alcatel của ông thực ra thấp hơn mức dự đoán vài tuần trước đó. Bầy Thú Điện Tử không thích cái sự ngạc nhiên như vậy. Trong khoảng thời gian từ bữa ăn sáng đến khi kết thúc giao dịch chứng khoán ngày hôm đó, cổ phần Alcatel giảm 38 phần trăm giá trị – mức sụt giá cao nhất trong ngày – các quỹ đầu tư và hưu bổng quyết định rút vốn và bỏ rơi Alcatel. Ký giả của bài báo Anne Swardson tiếp theo đã mô tả việc Bầy thú sắp xếp lại những tập tục thương mại ở châu Âu: "Trong vài năm qua, người nước ngoài đã buộc nhiều công ty phải thay đổi cung cách quản lý, cải cách hệ thống kế toán, hòa nhập với quy mô thế giới, sử dụng tiếng Anh – ngôn ngữ thương mại quốc tế – vào các cuộc họp hội đồng quản trị. Nói chung, quản lý ở châu Âu, vốn dĩ thờ ơ với người ngoài, nay trở nên năng động, chú ý và quan tâm đến cổ đông hơn". Điều tôi khoái nhất là sau khi biết Alcatel bị bầy thú trừng phạt, Tchuruk đã lên máy bay, bay sang London rồi từ đó nhảy lên một chuyến máy bay khác bay sang New York để gặp các cổ đông của các quỹ đầu tư, thanh minh với họ để khôi phục lòng tin. "Ông ta rất lấy làm hối lỗi, nhưng điều đó không còn quan trọng", một trong những nhà đầu tư có mặt trong bữa ăn sáng ở Paris nói với tờ báo, "vì vào lúc đó, chúng tôi đã bán hết các cổ phiếu [Alcatel]chúng tôi có". Dân chủ hóa Nhìn chung Bầy Thú Điện Tử sẽ tăng áp lực đòi dân chủ hóa do ba lý do chủ yếu – tính uyển chuyển, tính hợp pháp và khả năng phát triển bền vững. Xin giải thích: Bầy thú càng lớn lên thì nền kinh tế toàn cầu càng hoạt động trơn tru và cởi mở hơn, khiến bạn càng phải trở nên uyển chuyển hơn trong việc tận dụng quan hệ với bầy thú đồng thời bảo toàn bản thân bạn trước những cơn lồng lộn của bầy thú. Mặc dù lúc nào cũng có thể tìm thấy ngoại lệ, nhưng tôi tin một điều rằng quy luật chung cho thấy hệ thống quản lý càng được dân chủ hóa, chịu trách nhiệm và cởi mở, thì hệ thống tài chính của bạn càng ổn định, tránh được những diễn biến đường đột. Khi xuất hiện những cú sốc hay những diễn biến đường đột, hệ thống quản lý và nền tài chính của bạn sẽ uyển chuyển và tự thích nghi với tình hình và đòi hỏi mới nhanh hơn. Xã hội của bạn càng cởi mở và dân chủ thì bạn sẽ tiếp nhận góp ý và ý kiến nhanh hơn, và thêm cơ hội để bạn sửa đổi các hoạt động trong trung hạn, tránh được việc bị dồn vào Chân tường. Mặt khác nếu có trục trặc trong công ty của bạn, thì khả năng uyển chuyển linh động sẽ giúp cho bạn tuyển những giám đốc mới và đuổi thẳng cánh những giám đốc cũ vô tác dụng. Hơn nữa, khi đất nước của bạn phải cải tổ giữa đường thì càng dân chủ sẽ càng tạo khả năng cho chính phủ chia sẻ cùng dân chúng những khó khăn trong cải tổ. "Hãy nghĩ tới những điều các nhà lãnh đạo Đông Nam Á tuyên bố với dân chúng của họ trong thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai", Larry Diamond, một học giả về chủ đề dân chủ cho biết. "Họ nói với dân chúng:" Các người hãy giao quyền tự do của các người cho chúng tôi và câm họng lại, và tôi sẽ cho các người các cơ hội để làm giàu ". Thật dễ dàng khi thấy dân chúng không quan tâm tới chính trị khi con thuyền đang nổi, và dân chúng cảm thấy họ có thể giao phó nhiệm vụ chính trị cho người khác, miễn là không ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của họ. Vâng, điều đó có thực, trong 30 năm, nhưng một khi sự tăng trưởng trở nên lung lay thì khả năng phân phối phúc lợi xã hội và của cải vật chất cũng không còn nguyên vẹn. Và dân chúng nhận thấy rằng họ không thể giao phó việc quản lý chính trị cho ai khác – lúc đó, những dàn xếp như trên sẽ đổ vỡ. Hậu quả là những gì dân chúng đã nói với các chính phủ ở Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, và sắp tới sẽ là Trung Quốc, rằng nếu chính phủ không đảm bảo khả năng tăng trưởng, nếu nhà nước không làm đúng theo thỏa thuận trước kia, thì dân chúng sẽ đòi hỏi phải có một thỏa thuận mới, trong đó, dân chúng sẽ có vai trò quan trọng hơn trong cung cách điều hành đất nước. Nhưng, một khi có vai trò lớn hơn, nên dân chúng sẽ chịu đựng được những hy sinh lớn lao hơn khi hệ thống chính phủ được cải tổ và nâng cấp. Và chính vì thế dân chúng sẵn sàng tỏ ra kiên nhẫn hơn trong việc chịu đựng các khó khăn kinh tế, hơn là người ta dự đoán. Do nền chính trị được cởi mở và dân chủ hóa, ít nhất thì dân chúng có cảm giác rằng họ trực tiếp và được bình đẳng, tham gia khắc phục khó khăn. Họ trở thành người tham gia chính trong cuộc chơi". Trong số những quốc gia Á châu đã chính thức móc nối với Bầy Thú Điện Tử (Trung Quốc, hiện thiếu một đồng tiền có khả năng chuyển đổi và một thị trường vốn cởi mở, là quốc gia chưa thực sự móc nối vào với bầy thú), những nơi có những hệ thống dân chủ và ít tham nhũng nhất – Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Australia – đã thua thiệt ít nhất trong cuộc khủng hoảng 1997-98. Những quốc gia có hệ thống dân chủ nhưng tham nhũng – Thái Lan và Hàn Quốc – chịu thua thiệt ở mức cao hơn, nhưng do có những nền dân chủ, họ có khả năng phản ứng nhanh trong cuộc khủng hoảng mà không phải trải qua những cuộc nổi dậy của dân chúng. Họ đã dùng lá phiếu để bầu một hệ thống quản lý và những phần mềm tốt hơn. Sau khi chịu đựng cơn lồng lộn của bầy thú hồi mùa thu năm 1997, Thái Lan đã bầu cho một chính đảng trong sạch và dân chủ nhất ở đất nước này và đã thông qua một hiến pháp mới, cấp tiến và chống tham nhũng. Hiến pháp mới của Thái Lan lần đầu tiên quy định rằng Các chính trị gia nước này phải công khai hóa tài sản cá nhân của họ trước và sau khi cầm quyền và mỗi người trong số họ sẽ phải chịu luận tội nếu hơn 50.000 cử tri ký vào một yêu sách đòi hỏi điều tra về tham nhũng nhằm vào người đó. Thái Lan cũng đã thông qua đạo luật Tự do Thông tin đầu tiên ở Á châu, cho phép báo chí Thái Lan hăng hái sử dụng luật này để theo dõi các bộ trưởng – một điều trước đó chưa từng có Ở nước này. Một viên chức của Ngân hàng Thế giới ở Bangkok quan sát và nói với tôi: "Hiến pháp mới của Thái Lan sẽ không đời nào được Quốc hội phê chuẩn nếu không có cuộc khủng hoảng ngành ngân hàng ở đây. Không đời nào. Cuộc khủng hoảng ngân hàng đã khiến cả nhà vua lẫn quân đội thúc đẩy để có Hiến pháp mới, điều xưa nay họ vẫn rụt rè". Hàn Quốc đã phản ứng ra sao? Họ bầu lên Kim Dae Jung, một nhân vật dân chủ và tự do nhất, người mà trước cuộc khủng hoảng chưa chắc được chọn để làm nhân viên bắt chó. Quốc gia Đông Nam Á mang tính toàn trị và tham nhũng cao nhất, Indonesia dưới thời Suharto, là một đất nước thiếu uyển chuyển nhất, thiếu khả năng nhất trong việc cài đặt các phần mềm, và là quốc gia rốt cuộc đã rệu rã – chính vì những đám đông dân chúng không muốn chịu đựng những đau đớn trong cải tổ, họ không còn cảm thấy chính phủ là người của họ nữa. Khi đồng nội tệ của Indonesia bị mất giá vào năm 1998, và IMF nói họ chỉ cứu giúp nếu nước này cắt chi tiêu của chính phủ, Tổng thống Suharto đã nói những lời sau đây với dân chúng: "Các bạn ạ, chúng ta phải thắt lưng buộc bụng. Chúng ta cùng hội cùng thuyền". Và dân chúng đã giận dữ đáp lại: "Ông Tổng thống, chúng ta không cùng hội cùng thuyền trong chuyện chia nhau những lệ phí đường bộ, việc xây các khách sạn, dựng hãng hàng không và các công ty taxi mà ông và con cái của ông đang nắm giữ. Ông hãy ráng chịu nhé". Sau cùng, tìm kiếm và hiểu biết các hệ điều hành và phần mềm mới trên giấy tờ thì chưa đủ, điều khiến chúng trở nên bền vững chính là đặt chúng vào một hệ thống dân chủ hay đang được dân chủ hóa. Diamond lập luận: "Các quốc gia đang cố gắng tìm cách móc nối vào Bầy Thú Điện Tử với những phần mềm tốt, hệ thống pháp quyền và tính trách nhiệm – nhưng lại không thực hiện thường xuyên quy chế bầu cử tự do – sẽ không theo kịp bầy thú trong giai đoạn dài hơi. Bởi vì bạn không thể duy trì một phần mềm tốt trong một chế độ toàn trị, một chế độ mà bản thân nó không tự chịu trách nhiệm, không cho phép tự do lưu thông thông tin, không cho phép một nền tư pháp độc lập hoạt động để thanh trừng tham nhũng và không cho phép tổ chức tuyển cử tự do đặng có thể thay đổi bộ máy quản lý về chính trị". Chỉ bầu cử không thôi cũng không đủ để đảm bảo quản lý đúng đắn; Nga và Pakistan là hai minh chứng cho điều đó. Ngược lại nếu chỉ cài đặt các hệ điều hành và phần mềm hiện đại trong một đất nước nhưng không tổ chức bầu cử thường xuyên và tự do để có thể xóa bỏ các vị lãnh đạo tham nhũng, thì cũng hỏng việc. Chính vì thế các vị lãnh đạo thông thái trong các nước đang phát triển sẽ là những người hiểu Nhanh nhất rằng nếu không được bầy thú giúp đỡ thì sẽ không có tăng trưởng, nếu không có các phần mềm và hệ điều hành đúng đắn thì bầy thú sẽ không đến, và nếu không có tuyển cử tự do thì sẽ không xây dựng được các cơ chế quản lý đúng đắn. Trong khi cái lô-gíc về cách mạng toàn cầu khiến tôi lạc quan tin rằng bầy thú ngày càng đóng góp nhiều hơn vào quá trình dân chủ hóa, thì thực tế vẫn khiến người ta phải thận trọng. Không có chuyện cứ trực tiếp móc nối với bầy thú thì các phần mềm sẽ tốt hơn, hệ điều hành và dân chủ sẽ được mặc nhiên chuyển đến cho bạn. Bạn phải tự hành động. Xây dựng phần mềm về cơ bản là một quá trình manh tính chính trị, có con người thực tham gia và phải chịu những kháng cự mang tính chính trị, kinh tế, lịch sử và văn hóa. Không có đường tắt và dân chúng thường phải chật vật mới học được những bài học mới. Hoa Kỳ được như ngày hôm nay là nhờ có 200 năm thăng trầm với những chu kỳ khủng hoảng trong việc đầu tư vào ngành đường sắt, những đổ bể trong hệ thống ngân hàng, những cuộc phá sản lớn, độc quyền sinh ra và độc quyền bị tiêu diệt và vụ vỡ thị trường chứng khoán năm 1929 và vụ khủng hoảng tín dụng và các khoản vay trong những năm 80. Không có chuyện nước Mỹ bẩm sinh đã trở nên giàu có. Một lần tôi hỏi Anatoly Chubais, kiến trúc sư của cuộc cải tổ kinh tế nửa vời ở nước Nga, về những khó khăn nước này gặp phải khi chuyển sang kinh tế thị trường. "Chúng tôi đã không có đủ người có kinh nghiệm quản lý nhà nước kiểu mới, thiếu công nghệ và thiếu thị trường, vì chúng tôi vốn dĩ không có thị trường", ông ta trả lời. "Chính thuật ngữ" thị trường "đã bị cấm sử dụng ở Liên Xô. Tôi không phải là một người già, nhưng tôi vẫn nhớ một người bạn, một kinh tế gia hồi năm 1982 đã mất việc khi viết một bài báo trong một tạp chí khoa học, trong đó ông ta dùng từ" thị trường" ". Điều sau đâu mới thật đáng sợ. Ngay cả khi bạn hiểu thế nào là thị trường, ngay cả khi bạn đã viết được phần mềm mới, bạn phải tiếp tục nâng cấp chúng, không ngừng. Điều gì sẽ xảy ra khi bạn có được hệ điều hành DOScapital 6.0? Bạn sẽ phải bắt tay vào xây dựng DOScapital 7.0. Julia Preston, phóng viên The New York Times tại Mexico một lần đã kể với tôi về một cuộc gặp mặt của các du kích quân Zapatista, nhóm nông dân chống đối những ảnh hưởng của thương mại tự do và toàn cầu hóa ở Mexico. Du kích Zapatistas đã mở một cuộc họp ở vùng rừng miền nam Mexico với chủ đề" Diễn đàn liên lục địa hỗ trợ nhân văn và chống chủ nghĩa tự do kiểu mới. "Phiên họp cuối cùng diễn ra trong một sân vận động lấm bùn đất và do thủ lĩnh Zapatista" Phó tư lệnh Marcos "– một nhân vật kết hợp giữa Robin Hood và Ralph Nader – chủ tọa. Phiên họp kết thúc bằng những hồi trống – và đứng trước đám đông hoan hô, những du kích quân Zapatista tuyên bố kẻ thù lớn nhất của nhân loại là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đóng ở Geneva, kẻ đã xúc tiến tự do thương mại và đòi chấm dứt bảo hộ mậu dịch. Câu chuyện này nhắc nhở tôi rằng trong khi là nhân tố đóng góp cho dân chủ hóa, Bầy Thú Điện Tử và những siêu thị tài chính sẽ đồng thời tạo những ảnh hưởng ngược lại. Chúng gây ra một cảm giác đang lan truyền, đặc biệt trong những môi trường dân chủ, rằng ngay cả khi có dân chủ, thì dân chúng vẫn có khả năng mất quyền kiểm soát vận mệnh của họ, vì thậm chí những chính phủ được bầu cũng phải chịu bó tay trước các thế lực thị trường mang đầy tính áp đặt. Bầy thú càng sinh sôi, trưởng thành, nhanh nhẹn và có nhiều ảnh hưởng hơn, Stephen J. Kobrin, chuyên gia của Viện toàn cầu hóa Wharton lập luận," thì những công dân càng cảm thấy tâm điểm của sự kiểm soát kinh tế và hoạch định chính trị dần dần được chuyển từ mức địa phương, nơi nó được kiểm soát, lên tầm toàn cầu, nơi không một ai đứng ra kiểm soát và không một ai trông coi. Khi chính trị mang tính địa phương, lá phiếu của bạn còn có ý nghĩa. Nhưng khi quyền lực dời sang khu vực đa quốc gia, thì sẽ không còn tuyển cử nữa và không còn ai để cho bạn bầu ". Không còn nghi ngờ gì là trong hệ thống toàn cầu hóa, nơi quyền lực được các nhà nước và siêu thị chia sẻ, một khía cạnh nhất định của việc hoạch định chính trị sẽ được chuyển từ trong nước ra khu vực thị trường toàn cầu, nơi không một ai, không một nước nào hay định chế nào có thể nắm toàn quyền – chí ít thì điều này chưa xảy ra. Hãy nhớ lại bao nhiêu lần bạn được nghe cụm từ" Thị trường nói.. "," Thị trường đang đòi hỏi, Và "Thị trường không cảm thấy yên tâm.." Yaron Ezrahi, một nhà nghiên cứu lý thuyết chính trị người Israel nói: "Những quyền lực mang tính quyết định nhất trong lịch sử thường ẩn giấu trong lô-gíc không mang tính người – chẳng hạn Chúa trời, quy luật tự nhiên, luật của thị trường – và chúng bao giờ cũng phản kháng khi sự bất tương xứng không thể chịu đựng được về tinh thần xuất hiện. Kỷ nguyên Khai Sáng chính là thời toàn cầu hóa khoa học và triết lý và sự phản kháng đã xuất hiện khi những tên trộm, những kẻ tội phạm, những kẻ lừa đảo và những kẻ bóc lột thanh minh rằng tất cả những điều chúng làm là nhân danh khoa học và biện chứng. Toàn cầu hóa ngày nay cũng có thể như vậy. Nhiều người sẽ coi đó không hơn gì một thứ mặt nạ do những kẻ thượng lưu nào đó trong kinh tế sử dụng để tước đi của con người ta quyền được phát ngôn. Chính vì thế mà một số người đã lập luận rằng giới toàn cầu hóa trong mỗi xã hội đều muốn rằng trước tiên họ sẽ mua chuộc giới truyền thông, vì họ muốn quy phục những người dân có khuynh hướng bất phục toàn cầu hóa, biến họ thành những người tiêu dùng. Biến chính trị thành một môn thể thao mang tính thưởng ngoạn chính là một trong những quá trình hỗ trợ cho toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa biến công dân từ chỗ là nhân vật chính trở thành những kẻ đứng ngoài cuộc nhưng lại có ảo tưởng là mình vẫn ở trong cuộc". Càng ngày dân chúng trong một nước có cảm giác rằng hệ thống toàn cầu hóa được chỉ đạo từ xa, thì họ càng có lý do để chống đối những người tuyên truyền cho Toàn cầu hóa. Bộ trưởng Kinh tế Yousef Boustros- Ghali của Ai Cập có lần đã phát biểu: "Toàn bộ quá trình toàn cầu hóa rất dễ mang tính mị dân. Những người chống lại cải cách sẽ chỉ vào những người muốn mở cửa kinh tế để đón đầu tư nước ngoài rằng," thằng cha này là phản lại sự nghiệp của chúng ta, vì hắn muốn mở cửa hệ thống để đón người ngoài ". Và bạn sẽ nói," Vâng, nhưng để cho các thị trường tự điều chỉnh giá cả thì sẽ đạt hiệu quả cao hơn ". Và những người chống đối lại quay ra nói," Đừng có rồ dại? Thị trường là do người nước ngoài kiểm soát. Làm sao chúng ta có thể để cho thị trường nội địa của chúng ta tự định giá khi chúng bị người nước ngoài kiểm soát? " Quả thực một trong những thách thức lớn nhất khi xây dựng lý thuyết chính trị trong kỷ nguyên toàn cầu hóa là làm thế nào để người dân hiểu rằng họ có thể tự quyết, không những về hoạt động của chính phủ của họ mà còn về một số quyền lực toàn cầu hiện đang nhào nặn cuộc sống của họ." Các thế lực thị trường và các định chế nhà nước thường khác nhau về tư cách hành xử, vậy thì cần phải có một nền dân trí mang tính quyết định để có thể phòng ngừa những bất công xảy ra ", Ezrahi nói." Vai trò quyết định đó chính là cốt lõi của xã hội công dân và nền quản lý dân chủ – bảo vệ và xây dựng sinh hoạt công cộng và tập thể. Tai họa sẽ đến nếu bạn để cho cuộc sống cộng đồng và tập thể bị chi phối bởi những thế lực nằm bên ngoài nền chính trị của đất nước của bạn ". Môn học xã hội công dân cho con cháu chúng ta sẽ phải vượt khỏi khuôn khổ các chủ đề về chính phủ địa phương, bang và liên bang, sang những chủ đề liên quan tới mối quan hệ giữa các nhà nước và các siêu thị tài chính, quan hệ giữa nhà nước và các cá nhân được trang bị những công nghệ tiên tiến, và quan hệ giữa những cá nhân đó với các siêu thị tài chính. Làm sao chúng ta có thể đối phó với một thế giới trong đó Bầy Thú Điện Tử có khả năng hàng ngày bầu chọn các chính phủ, trong khi các chính phủ đó không thể bỏ phiếu trực tiếp quyết định hành xử của bầy thú? Ai sẽ là người quản lý quan hệ giữa bản thân tôi và Internet, quan hệ giữa bản thân tôi và những siêu thị tài chính và quan hệ giữa chính phủ của tôi với các siêu thị tài chính? Xin mô phỏng lối nói của Larry Summers, đây là tình thế" bế tắc cả ba mặt mang tính toàn cầu ". Có một lợi thế bạn có thể thấy trong hệ thống toàn cầu hóa đó là nó không phân biệt đối xử – nó có thể khiến cả quốc gia yếu kém cũng như quốc gia hùng mạnh có cảm giác bất lực và chịu chỉ đạo của những thế lực không bị kiểm soát và cũng không được lựa chọn. Tôi đã đến gặp Bộ trưởng Tài chính Mexico, ông Guillermo Ortiz ngay sau khi đồng peso của nước này bị phá giá năm 1995. Ông ta ngồi bên bàn, gắn chặt vào máy vi tính, trên màn hình, ông ta thấy từng giây, từng giây, đồng tiền này mất giá, giống như một bệnh nhân đang suy tim. " Hãy ngưng chiến ", Ortiz nói với thị trường thế giới." Chúng mày đánh tao đến chết rồi. Ngưng lại, đừng có bán rẻ (peso) nữa ". Khi tôi hỏi ông ta có cảm nghĩ như Thế nào khi bị các thị trường toàn cầu hành hạ, đeo đuổi ông ta để khoác lên cho ông chiếc áo nịt nạm vàng, Ortiz khoác tay chỉ vào màn hình của ba chiếc máy vi tính trước mặt, chỉ mức lên xuống từng giây của peso, và nói:" Có những ngày tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Thỉnh thoảng tôi phải chuyển sang làm việc ở một phòng khác, để không bị những màn hình này phân tâm".
10. Tạo lập, thích nghi và những cách tư duy mới khác về quyền lực. Bấm để xem Một ngày mùa thu năm 1995 tôi đọc tờ Finan cial Times và một bức ảnh trên trang nhất lôi cuốn sự chú ý của tôi. Trong ảnh là Bill Gates, Chủ tịch Microsoft trò chuyện với Giang Trạch Dân, Chủ tịch Trung Quốc. Chú thích của bức ảnh gây cảm tưởng rằng đây là một cuộc họp thượng đỉnh của hai nhà lãnh đạo thế giới. Chú thích viết hai vị đã nói chuyện "thân mật", ngược hẳn với cái không khí trong cuộc gặp mặt của họ trước đó 18 tháng. Tôi nghĩ, Bill Gates gặp Giang Trạch Dân tận hai lần trong vòng 18 tháng – trong khi xưa nay Bill Clinton chỉ gặp Giang có một lần. Cũng không phải ngẫu nhiên. Dường như người Trung Quốc tin rằng đã đến lúc họ cần Bill G hơn là Bill C. Và ai có thể trách họ được? Người Trung Quốc lấy làm phật lòng khi thấy bản dịch tiếng Trung của hệ điều hành Window 3.1 lại do các nhà ngôn ngữ máy tính Đài Loan thực hiện – sử dụng kiểu chữ và bộ mã Đài Loan. Không gì có thể khiến Trung Quốc lục địa tức giận hơn là chuyện Đài Loan gọt giũa phần mềm và hệ điều hành cho toàn bộ các máy tính của người Trung Quốc. Hậu quả là nhà chức trách Trung Hoa cho phong tỏa các cửa khẩu không cho hệ điều hành Window 95 vào thị trường của họ cho đến khi Microsoft chấp nhận để cho phiên bản phần mềm tiếng Trung do Microsoft và một công ty máy tính trên lục địa cùng sản xuất. Đọc bài báo và chú thích của nó, tôi có ý nghĩ là liệu đã đến lúc những thuộc tính của công ty và của đất nước nay được hòa lẫn vào nhau. Cũng giống như việc móc nối công ty của bạn vào nền kinh tế toàn cầu, nay bạn đưa đất nước của bạn vào thị trường chứng khoán – như một công ty có cổ đông trên toàn cầu. Điều này làm cho đất nước có cảm giác giống một tập đoàn sản xuất và kinh doanh. Dân chúng cư xử như những cổ đông, lãnh đạo thì như các giám đốc và nhà phân tích chính sách đối ngoại thì hành động như các cơ quan giám sát mức tín dụng khả tín. Trong khi đó, Internet tiếp tục trở thành bộ phận cấu thành trong cuộc sống của công dân, công dân sẽ tiếp tục gây áp lực lên các chính phủ và hệ thống luật pháp, buộc chúng phải hoạt động với tốc độ Internet. Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, khoảng cách giữa công ty và chính phủ là có, nhưng không lớn. IBM và General Motors đã hoạt động giống như cung cách của chính phủ liên bang hay như điện Kremlin vậy. Giờ đây khoảng cách hầu như không còn – chính vì thế nhu cầu cho hình thức chính phủ điện tử đang tăng lên. Tại sao bạn phải chờ suốt sáu tiếng tại một văn phòng của huyện lỵ để được gia hạn bằng lái xe, trong khi bạn có thể mua cả một chiếc xe hơi trên mạng? Ngày lại ngày, dân chúng sẽ đòi hỏi dịch vụ của nhà nước Hoa Kỳ phải nhanh hơn và dễ sử dụng hơn, nhanh như dịch vụ họ có được khi vào mạng Hoa Kỳ (America Online). Khi chúng ta thấy được cách sống của đồng loại thì Các chính phủ sẽ phải hứa hẹn với mỗi chúng ta những điều tương tự, những điều tốt đẹp hơn, mà ta thấy có ở nơi khác. Và để làm việc đó, chính phủ phải ứng xử theo cung cách của công ty. Nói cách khác dân chúng càng đòi hỏi chính phủ hoạt động nhanh và hiệu quả như Amazon.com thì chính phủ càng phải tổ chức hoạt động giống hoạt động của công ty Amazon.com. Mặt khác, các bộ máy nhà nước chịu áp lực phải hoạt động giống như các công ty vì trong thời đại toàn cầu hóa, hơn bao giờ hết, các quốc gia phải lựa chọn giữa sự thịnh vượng – tùy thuộc vào các chính sách mà họ theo đuổi – với khả năng công dân của họ tự động đòi hỏi bằng được sự cải thiện quản lý để được thịnh vượng. Khi dân chúng ngày càng nhận thức thấy chính phủ của họ chỉ sử dụng hệ điều hành DOScapital 1.0 trong khi chính phủ láng giềng đang có phiên bản 6.0, họ sẽ chất vấn: Vì sao? Dân chúng sẽ hiểu là không như trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp, các quốc gia ngày nay không còn bị lệ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vào địa lý hay lịch sử. Ngày nay bất cứ nước nào cũng có thể kết nối vào Internet, tìm kiếm tri thức từ đó và tổ chức tự đào tạo; bất cứ nước nào cũng có thể tìm đến những nhà đầu tư nước ngoài để thu hút tiền vào những dự án hạ tầng của nó; bất cứ nước nào, sau một thời gian, cũng có thể áp dụng hệ điều hành DOScapital 6.0. "Trong năm nay, nền kinh tế nào tăng trưởng nhanh nhất thế giới?" Tổ chức Economist Intelligence Unit đặt câu hỏi hồi năm 2000. "Mozambique. Mozambique có nền kinh tế có tốc độ tăng nhanh nhất trong bốn năm qua. GDP tăng bình quân 10%. Botswana trong cùng thời gian tăng bình quân 7% một năm. Mặc cho những khó khăn ở châu Phi như khí hậu và bệnh dịch, ổn định chính trị và những chính sách tài chính đúng đắn và những cải cách thương mại có thể tạo ra phép mầu, thậm chí ngay tại các quốc gia nghèo nhất". Mozambique và Botswana đã lựa chọn sự thịnh vượng. Giáo sư Michael Porter của Trường Kinh doanh thuộc đại học Havard có lần đã phát biểu: "Sự giàu có của một quốc gia ngày nay là thành quả cơ bản của sự lựa chọn tập thể. Vị trí, tài nguyên thiên nhiên và sức mạnh quân sự không còn là những yếu tố quyết định. Thay vào đó, cung cách mà nhà nước và dân chúng lựa chọn việc tổ chức và điều hành kinh tế, điều hành những bộ máy quản lý và loại hình đầu tư cho mọi người, tất cả sẽ quyết định mức thịnh vượng của quốc gia". Trong toàn cầu hóa nếu các quốc gia lựa chọn sự thịnh vượng giống như cách các công ty lựa chọn, thì họ phải có những chính sách và kỹ năng gì? Trong phần cuối của chương này sang đến chương sau, dựa vào tham khảo những công ty và nhà nước thành công nhất trên thế giới, tôi sẽ liệt kê một danh sách các chính sách và kỹ năng đó. Ngày nay, khi đến một đất nước, để đánh giá sức mạnh kinh tế và tiềm năng của nước đó, trước hết, tôi đặt hai câu hỏi. Tình hình kết nối mạng của đất nước hay của công ty của bạn ra sao? Tháng 10/1995 tôi bay sang Redmond, Washington, để phỏng vấn nhân vật số hai Của Microsoft, Tổng giám đốc Steve Ballmer. Tôi hỏi ông một câu đơn giản: Microsoft là công ty quan trọng nhất Hoa Kỳ ngày nay, vậy Microsoft đo lường như thế nào về quyền lực trong cách nghĩ của mình? Khi nhìn ra thế giới, những nước nào mà Microsoft cho rằng mạnh nhất và vì sao? Ballmer hồi đó đã đưa ra một lời đáp đơn giản: "Chúng tôi đánh giá quyền lực bằng một tỷ lệ - số máy vi tính trên số hộ gia đình". OK, tôi nói vậy hãy cho tôi xem bản đồ của Microsoft phân hạng quyền lực trên thế giới. Ông ta nói khu vực Microsoft tăng trưởng nhanh nhất là Á châu, nơi Hàn Quốc có mức sở hữu máy vi tính cao nhân theo số hộ. Tỷ lệ ở Nhật Bản đang tăng lên, ông ta nói, nhưng Microsoft rất hứng khởi khi nhìn vào Trung Quốc. "Sao ông có thể ưa thích Trung Quốc?" Tôi hỏi, "dân chúng ở đó thu nhập có 50 đô-la mỗi tháng". "Ồ, anh không hiểu", Ballmer trả lời. Ông ta đến bên một tấm bảng đen, gạch hai vạch ngắn vào một bên, hai vạch ngắn ở bên kia, hai vạch ngắn ở chân bốn vạch đó và một vạch cuối cùng ở dưới đáy, rồi nói: "Hai ông bà ngoại, hai ông bà nội, rồi tới hai bố mẹ, tất cả tập trung tiết kiệm để mua hệ điều hành Window 95 cho một cháu bé". Chính thế, chính sách dân số ở Trung Quốc đang hậu thuẫn cho Microsoft. "Ông nói tiếp đi, còn nơi nào khác trên thế giới?" Tôi hỏi. Ballmer nói Brazil và Ấn Độ cũng đang chạy theo, số lượng máy tính trên số gia đình tăng nhanh. Nhưng Trung Đông là vùng không thấy động tĩnh, suốt từ Ma Rốc sang tới Pakistan, ngoại trừ Israel, nơi Microsoft có một trung tâm phát triển máy tính – một mức quyền lực khác hẳn– và Arập Sêút nơi người Ai Cập đang chạy phần mềm Microsoft cho các hãng đa quốc gia. Tây Âu có tiềm lực mạnh được phân bổ ở khắp nơi, Ballmer nói, ngoại trừ một nước – Pháp. "Tôi không muốn nói là (Pháp) bị tụt hậu", Ballmer nói, "đây là nơi vốn dĩ số lượng máy tính so với số dân là cao, nhưng thời đó qua rồi". Tôi gọi tấm bản đồ của Ballmer là "Chính sách đối ngoại 3.1". Ba năm sau đó, năm 1998, tôi quay lại để cập nhật thông tin. Lần này tôi vào Thung lũng Silicon và hỏi chuyện các giám đốc các công ty hàng đầu đóng ở đó – Intel, Sun và Cisco – và các giáo sư khoa cơ khí của đại học Stanford, xem họ đo lường quyền lực như thế nào? Thật thú vị, tôi thấy mọi thứ thay đổi nhanh quá. Họ nói vào năm 1998, Thung lũng Silicon không còn chỉ đo đạc theo tỉ lệ máy tính trên số hộ dân nữa – họ đo bằng "mức kết nối máy tính". Điều quan trọng giờ đây, họ nói, là đất nước của bạn nối máy tính đến được những đâu, vào tận đâu, vào công ty, trường học và các tụ điểm giải trí, và cài mạng nội bộ Intranet và với Internet và World Wide Web. Mức độ kế nối thường được đo kích thước các giải tần ở mỗi nước: Công suất của cáp, đường điện thoại và cáp quang để truyền tải liên lạc bằng kỹ thuật số – những bộ mã hiệu gồm số 1 và 0 – trong các mạng liên lạc. Trong những năm 80, phương châm của máy tính là "bộ nhớ dù lớn bao Nhiêu cũng vẫn chưa đủ", thì phương châm máy tính trong thời đại mạng là "Giải tần dù lớn bao nhiêu cũng không thừa". Càng nhiều giải tần thì mức nối kết càng cao. Nếu bạn muốn biết mức độ kết nối của đất nước của bạn bạn hãy đó chúng bằng thông số "Megabits trên đầu người" – giải tần có tổng số dung lượng cao đến đâu chia cho số lượng người dùng tiềm năng. Megabits/ người giờ đây cùng với số máy tính/hộ dân, trở thành một thước đo chủ yếu đo đạc tiềm lực mà Thung lũng Silicon sử dụng. Chúng sẽ cho bạn biết mức độ thông tin được phân bổ trong dân chúng và trong mối liên lạc giữa dân chúng và bộ máy lãnh đạo. Công ăn việc làm, tri thức và tăng trưởng kinh tế sẽ đến với những xã hội có mức kết nối cao bằng các giải tần – vì trong những đất nước đó người ta có thể dễ dàng quy tụ, chuyển giao và chia sẻ tri thức để thiết kế, sáng tạo, sản xuất, bán, cung cấp dịch vụ, liên lạc, giảng dạy và giải trí. Khả năng kết nối nay trở thành hiệu quả sản xuất. Brian Reid, thành viên quản trị của hãng Digital Equipment Corporation, một trong những người có công đầu trong việc xây dựng Internet đã nói với báo The New York Times (tin ngày 8/12/1997) : "Trong kỷ nguyên thông tin, giải tần là hệ thống chuyển tải mà trên đó các công ty bán sản phẩm của họ. Hồi những năm 90 giải tần có tầm quan trọng đối với doanh nghiệp không kém gì mạng đường xe lửa hồi 1890, hay những cảng biển hồi 1790. Đó là phương thức để cho bạn bán hàng". John Chambers của hãng Cisco thích nhận xét rằng những công ty và những đất nước phát triển nhanh trong nền kinh tế Internet là những nơi người ta nắm bắt được tầm quan trọng của nó và nhanh chóng nối mạng trước khi những nơi khác trở tay. Nếu bạn làm được điều đó nhanh hơn các đối thủ của bạn, Chambers nói, thì bạn có thể nói với họ là "Anh đã chậm chân". Khi chúng ta nhanh chóng tiến vào một thế giới mà Internet định hình thương mại, giáo dục và thông tin, thì chỉ còn hai loại thương vụ tồn tại: Thương vụ Internet và thương vụ phản Internet. Thương vụ Internet là những hoạt động diễn ra trên mạng: Mọi thứ từ bán sách báo đến môi giới và đánh bạc; hay những dịch vụ được Internet hỗ trợ, từ việc tư vấn quản lý đến việc kiểm soát hàng tồn kho. Thương vụ phản Internet là những gì không thể thực hiện trên mạng – như nấu ăn, cắt tóc và luyện thép – và những dịch vụ được thực hiện như thể chống lại Internet: Những siêu thị hàng hóa và những chuỗi quán cà phê Starbucks chẳng hạn. Starbucks và các siêu thị hàng hóa chống lại các thương vụ Internet vì chúng được hưởng lợi từ một thực tế: Ngày càng có nhiều người ở nhà làm ăn trên mạng.. Những người này sau khi nhìn máy tính quá lâu sẽ muốn ra khỏi nhà đến siêu thị, xuống phố lớn và vào hàng cà phê để họ có thể trực tiếp cọ xát với người khác, ngửi mùi vị khác, nếm món gì đó hay cảm nhận điều gì đó. Hàng hóa bao giờ cũng cần được trưng bày cho người ta tự sờ mó được hay cảm nhận; dân chúng bao giờ chẳng muốn thâm nhập cộng đồng, dù đó là ở Trên phố hay trong siêu thị. Khi Internet trở thành xương sống của thương mại, giáo dục và liên lạc toàn cầu, chất lượng và quy mô của hoạt động trên mạng trong các nước sẽ góp phần xác định sức mạnh kinh tế của các nước đó. Vậy theo những tiêu chí mới đó thì ngày nay ai thành công, và ai thất bại? Thung lũng Silicon lo sợ trước Đài Loan, khi hòn đảo này trưng ra khả năng sáng tạo, kết nối và thực trạng kinh doanh năng động, tất cả tập trung tận dụng công nghệ mới. Nếu Đài Loan được bán như một thứ cổ phần, tôi sẽ là người mua. Hoa Kỳ, Anh, Canada, Australia, Bắc Âu, Iceland, Israel, Ý, Singapore, Costa Rica và Ấn Độ cũng nằm trong tiêu chuẩn đó. Costa Rica đang thực hiện một chính sách cung cấp cho mỗi học sinh trung học của họ một địa chỉ email. Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đang phát triển nhanh sau khi họ bị tụt hậu trước đó. Không còn lâu nữa ta sẽ thấy Singapore không còn là nơi duy nhất tổ chức cuộc thi "Hoa hậu Internet". Một chú thích dưới bức ảnh hoa hậu Internet người Singapore đăng trên tờ USA Today (19/1/1999) ghi: "Singapore thực sự nghiêm túc phát triển kỷ nguyên digital nên đã tổ chức thi Hoa hậu Internet. Stella Tan (người ngồi) đã thắng cuộc hồi tháng Tám. Điều kiện dự thi là các thí sinh phải mặc đồng phục doanh nhân và biết thiết kế mạng". Từ Bert Parts đến Bill Gates: Cỡ vòng eo lạc hậu rồi – giờ đây là cỡ giải tần Internet. Câu hỏi lớn tiếp theo: Sau đây là gì? Sau tỷ lệ máy tính trên số hộ gia đình và mạng điện toán trên đầu người, cái gì sẽ được dùng làm chuẩn mực để đo đếm sức mạnh kinh tế? Câu trả lời gồm hai mức: "Evernet", một thế giới trong đó chúng ta có thể vào mạng ở mọi nơi, mọi lúc – thông qua một số thiết bị thông tin như: Máy truyền hình, máy tính, máy nhắn, fax, lò nướng bánh mỳ hay email.. chẳng hạn. Tất cả những đồ dùng chạy bằng điện giờ đây đang được lắp các phần mềm, nối với các hệ thống mạng trong tư gia hay văn phòng của bạn. Evernet sẽ đến khi Internet không còn bị giới hạn ở máy vi tính mà có thể được sử dụng qua nhiều thiết bị thông tin khác. Bạn sẽ tự quyết định truy cập ra sao? Qua đồng hồ đeo tay, máy điện thoại di động hay máy tính, hoàn toàn tùy thuộc ở bạn. Khi Evernet trở thành trào lưu, thì thước đo dùng để đánh giá các quốc gia chính là khả năng kết nối mạng của đất nước. Tiêu chuẩn sẽ là khả năng dân chúng được vào mạng, vào lúc nào, vào ở đâu và những dịch vụ cung cấp qua mạng sẽ phong phú đến đâu. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong hộ của bạn có thể sử dụng thiết bị chuyển hóa âm thanh, tiếng nói thành chữ nghĩa trên màn hình – một dịch vụ trên mạng – để họ có thể giao thiệp bằng âm thanh qua mạng? Evernet có thể cho phép đến đâu việc giao lưu trực tiếp bằng hình ảnh, âm thanh, đối thoại trực tiếp với nhau từ khắp nơi trên quả đất với chi phí tối thiểu? Có bao nhiêu cơ sở giáo dục trên đất Nước của bạn mở những khóa học trên mạng để mọi người từ khắp mọi nơi đều được vào học? Trình độ mã hóa của Evernet giỏi giang đến đâu để những thông số và chi tiết của thẻ tín dụng được giữ bí mật khi giao dịch, tránh những kẻ cắp trên mạng? Những thiết bị truy cập được thiết kế tiện lợi đến đâu để người ta có thể bỏ túi khi đi lại? Công ty hay đất nước của bạn có quyền tạo lập hay chỉ đóng vai trò thích nghi? Mặc dù nối mạng Evernet trở thành đòi hỏi cần thiết để công ty hay đất nước của Bạn khuyếch trương kinh tế, điều đó vẫn chưa đủ. Đó mới chỉ là một nửa của câu chuyện về đánh giá tiềm lực. Nửa kia chính là khả năng công ty hay chính phủ của bạn tận dụng, một cách hoàn hảo và sáng tạo, lợi thế của mạng điện toán Evernet. Sức mạnh không những sẽ đến với những nơi được nối mạng nhiều nhất, mà sẽ đến với những người có khả năng tập hợp các công ty, chính phủ, vốn, thông tin, người tiêu dùng và các tài năng vào một liên minh được nối mạng, tất cả để sản sinh các giá trị mới. Có thể là giá trị về thương mại. Có thể là giá trị (sức mạnh) thể hiện ở địa lý và chính trị, liên minh do chính phủ đứng đầu. Có thể là những giá trị nhân văn – quyền của người lao động, nhân quyền, bảo vệ môi trường – loại liên minh do các nhà hoạt động nhân quyền điều phối. Trong hệ thống đó, các công ty, chính phủ và các nhà hoạt động sẽ trở thành điều mà John Hagel III của công ty McKinsey gọi là những nhân tố "tạo lập" hoặc "thích nghi". Những nhân tố tạo lập là những công ty, chính phủ và các nhà hoạt động có vai trò khởi đầu những luật lệ và hoạt động tương hỗ, quản lý một hoạt động nhất định trong thế giới Evernet – một hoạt động sinh lãi, gây một cuộc chiến, hay gây áp lực để một chính phủ hay một công ty phải tôn trọng nhân quyền hơn nữa. Nhân tố thích nghi là những công ty, chính phủ và các nhà hoạt động đứng ra tuân thủ những luật lệ và hoạt động tương hỗ đã được khởi đầu, họ áp dụng có sửa đổi, dựa trên những đặc điểm riêng của họ. Một khi liên hệ với nhau chặt chẽ và được nối vào Evernet, sức mạnh sẽ được tập trung vào tay các nhân tố tạo lập lớn nhất. Bạn đã thấy trên thế giới các cuộc tranh đấu để lựa chọn các công ty, chính phủ và các nhà hoạt động hay các cá nhân, để trở thành các nhân tố tạo lập, đưa ra các tiêu chuẩn và luật lệ – bởi một khi bạn giới thiệu một tiêu chuẩn mới trong một thế giới có liên hệ chồng chéo và không còn rào cản, thì phạm vi ứng dụng của nó sẽ rất rộng. Nó có thể ảnh hưởng tới phóng cách ứng xử và thói quen mua bán của một lượng khổng lồ người tiêu dùng từng bên này sang bên kia trái đất. Một ví dụ hay về một nhân tố tạo lập trong kinh tế đó là eBay, một trang dịch vụ đấu giá trên Internet. Không rõ từ đâu đến, nhưng trong vòng ba năm, nó đã đưa ra một hệ thống luật lệ và thủ tục giao lưu để điều tiết việc khách hàng vào mua bán trên mạng. EBay đưa người bán và người mua ngồi lại với nhau và tạo một khu chợ để họ giao dịch, nằm ngoài tất cả những quảng cáo và rao vặt hay những trung tâm giao dịch Thông thường. Mỗi người vào bán hàng ở eBay được khách hàng của anh ta / hay chị ta bầu tín nhiệm/ hay bất tín. Bạn không thể lừa đảo vì nếu làm như thế dù chỉ một lần, thì tất cả những khách hàng khác trên khắp nơi sẽ biết ngay, và rất khó cho bạn vào bán hàng lần sau. Một khi xuất hiện những tiêu chuẩn như của eBay, thì sự cạnh tranh sẽ được chuyển sang một lĩnh vực khác hoặc câu hỏi tiếp theo sẽ là: Ai là người có thể áp dụng tiêu chuẩn của eBay một cách hữu hiệu nhất. Và giờ đây bạn không chỉ thấy có những cá nhân vào mua bán ở eBay một cách đơn lẻ, bạn có thể thấy cả những công ty được dựng lên để vào giao dịch trong trang mạng này. Bạn muốn nhiều người khác áp dụng tiêu chuẩn của bạn và hưởng lợi từ đó, vì làm như thế sẽ tạo được sự ổn định và sự cam kết giữa các bạn hàng, đồng thời sẽ xuất hiện những sáng kiến liên quan và không ngừng cải thiện tiêu chuẩn bạn đề ra. Sự xuất hiện của Evernet sẽ cho phép người ta thiết lập ra nhiều dạng eBay khác trong nhiều ngành – xây dựng dân dụng cho tới việc mua bán sắt thép hay đồ nhựa. Những chợ đầu mối như vậy quy tụ kẻ bán người mua trong một ngành nhất định – cho phép mua, bán, trao đổi hiệu quả cao hơn trên quy mô toàn cầu và cho phép chia sẻ kỹ năng buôn bán. Nếu công ty hay đất nước của bạn trở thành nhân tố tạo lập của một hay nhiều chợ đầu mối như vậy – E-Steel (thép), E-rubber (cao su), E-cement (xi măng) – trong thế giới Evernet, thì đó sẽ là một nguồn sức mạnh thực sự. Bởi vì phạm vi hoạt động của các thị trường đó là toàn cầu, và một khi đã hình thành, như eBay chẳng hạn thì khó lòng phá đi được. Trong mỗi ngành chỉ có một hai chợ như vậy mà thôi. Microsoft là một nhân tố tạo lập khác. Nó đã quy tụ người tiêu dùng và các công ty vào một tấm lưới, dùng công nghệ, tiêu chuẩn, phần mềm và các hệ điều hành bao phủ lên họ. Để trở thành một nhân tố tạo lập, bạn phải có tài thu hút thật nhiều các nhân tố thích nghi. Nhưng chìa khóa để thu hút nhiều nhân tố thích nghi đến với tiêu chuẩn của bạn là ở chỗ bạn phải có khả năng sáng tạo ra nhiều giá trị cho những người khác – một sản phẩm mới, một giá trị nhân văn hay một tập hợp các luật lệ mang tính địa –chính trị. Nếu người ta trở nên miễn cưỡng đứng trong mạng lưới của bạn, trước sau họ cũng phản kháng, bước khỏi đó và tìm đến một hệ giá trị khác. Vậy thì một điều mà nhân tố tạo lập cần phải hiểu đó là liệu anh ta có để phần cho những người khác – một chút thức ăn trên bàn – để những người khác cảm thấy có lợi trong việc áp dụng những tiêu chuẩn của anh ta hay không. Hay là, anh ta tham lam, ngấu nghiến ăn hết phần của mọi người, hưởng hết lộc mà tiêu chuẩn của anh ta mang đến. Nếu eBay thiết lập cả một thị trường mới để làm ăn, nhưng lại bao biện hết các thương vụ có lời thì dần dần, người ta sẽ chẳng thấy gì hay ho trong eBay nữa, họ bỏ đi, và eBay sẽ sụp đổ. Lòng tham của Microsoft và tính miễn cưỡng khi để dành cơ hội cho những người khác như hãng Netscape chẳng hạn, trong việc cho hãng này sử dụng hệ điều hành của Microsoft, đã dẫn tới vụ khiếu kiện của Bộ Tư pháp dành cho Microsoft theo luật chống độc quyền – đồng thời khiến cho các hãng khác tạo lập Những tiêu chuẩn Internet mới. Chìa khóa để trở thành một nhà tạo lập là đừng có tham lam như lợn – như Microsoft. Không phải bất cứ nhà tạo lập nào ban đầu đã có ý tưởng tạo lập. Hãng máy tính Dell là một ví dụ. Khởi đầu là một nhân tố thích nghi, Dell đã tận dụng những kỹ thuật sẵn có của IBM, thích nghi chúng bằng một loạt kỹ thuật sản xuất đầy sáng tạo. Dell trở thành một phần của dây chuyền của IBM. Sau đó Dell trở thành một nhân tố tạo lập. Dell đã sáng lập ra những phương thức mới sử dụng Internet để đến với khách hàng và quản lý các nhà phân phối và tài sản của hãng. Làm như thế Dell đã hình hành được một dây chuyền của riêng họ và IBM quay lại trở thành một kẻ tự thích nghi khép mình vào những kỹ thuật sản xuất và quản trị dựa trên Internet do Dell sáng chế. Nguyên tắc như trên cũng được áp dụng trong lĩnh vực địa-chính trị. Hoa Kỳ ngày nay là một nhân tố tạo lập về mặt địa-chính trị. Nói Hoa Kỳ chịu trách nhiệm về toàn cầu hóa thì hơi quá, nhưng đây là một đất nước có khả năng cao nhất hiện nay để có thể nhào nặn các liên minh để quản trị nền toàn cầu hóa theo thể thức địa-chính trị. Chẳng hạn, trong thế giới ràng buộc hơn hiện nay, Hoa Kỳ đã huy động các mặt, tiền, thông tin và sức mạnh quân sự để có thể vào cứu những người dân Albania ở Kosovo, khi họ bị Nam Tư trục xuất, năm 1999. Hoa Kỳ đã sáng lập khá nhiều luật lệ trên đó Tổ chức Thương mại Thế giới hoạt động và theo đó Trung Quốc có thể gia nhập tổ chức này. Hoa Kỳ đã định hình phản ứng của Liên hiệp quốc đối với Tổng thống Saddam Hussein của Iraq. Các nước NATO ngoài Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga thường là những nhân tố thích nghi, mặc dù có lúc họ chỉ thích nghi một cách miễn cưỡng. Hoa Kỳ và Anh là hai nhân tố tạo lập ra chiếc áo nịt nạm vàng cùng những siêu thị tài chính. Trong thế giới đầy ràng buộc hiện nay, những luật lệ liên quan tới chiếc áo nịt nạm vàng đã trở thành khuôn mẫu, tiêu chuẩn được áp dụng rộng rãi nhất cho việc tăng trưởng. Những luật lệ đó cũng đã tạo ra những hệ thống giá trị quy định các hành xử trong thương mại và dịch vụ – từ đó Hoa Kỳ và Anh là hai nước được hưởng lợi rất nhiều. Ngày nay càng có nhiều quốc gia khác nhận thức thấy lợi ích của việc mặc chiếc áo nịt và họ cũng đã đưa ra những sáng kiến mới – làm cho việc mặc chiếc áo đó dễ chịu hơn. Trong thế giới thương mại, chìa khóa để trở thành một nhà tạo lập trên lĩnh vực địa-chính trị là cần phải tỏ ra rộng lượng và hào phóng, để các quốc gia khác có thể thấy được những lợi ích của việc thích nghi với những luật lệ và và tiêu chuẩn do bạn đặt ra, cho bản thân họ cũng như sự ổn định khu vực họ đang sinh sống. Hoa Kỳ có thể trở thành một nhà tạo lập tham lam nếu họ nói với thế giới: "Các vị phải thích nghi với chiếc áo nịt nạm vàng và mở cửa cho phép tự do thương mại. Và khi đó, chúng tôi sẽ xuất khẩu tất cả những gì chúng tôi có thể sang đất nước của các vị và chúng tôi chỉ cho phép các vị xuất một vài thứ sang Hoa Kỳ". Nói như thế thì sẽ không thuyết phục Được các nước mặc lên cho họ chiếc áo nịt, và sẽ khiến họ tự xây dựng lấy một hệ tiêu chuẩn mới. Những nhà tạo lập địa chính trị không tồn tại được lâu chính là những kẻ đã vơ vét quá nhiều cho bản thân họ và không để phần cho nhưng người khác thích nghi và sáng tạo. Điều ít được hiểu mà cũng rất lý thú là cũng những nguyên tắc áp dụng cho các nhân tố tạo lập và thích nghi cũng có thể được áp dụng đối với giá trị nhân quyền, hoạt động xã hội, công tác từ thiện và hoạt động môi trường. Tất cả các hình thái nhóm tư nhân, chính phủ, cá nhân được trao quyền và các công ty ngày nay đều có thể trở thành những nhân tố tạo lập quy tắc và liên minh để có được sự quản trị tốt hơn trong những lĩnh vực kể trên ở mức cao hơn bao giờ hết. Nhưng nhiều nhà hoạt động đã không hiểu ra cơ hội đó. Hãy cân nhắc: Khi nước Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đang chuyển mình từ môt tập hợp các vùng kinh tế bán tự trị hội nhập thành một nền kinh tế quốc gia, nó đã đồng thời cho ra đời thể chế liên bang như ngày nay người ta thấy. Dự trữ Liên bang, Ủy ban Giao dịch Chứng khoán, Ủy ban Thông tin Liên bang và những định chế khác đã ra đời trong thời kỳ đó. Một nền kinh tế quốc gia cần phải có những định chế giám sát nó, theo dõi và quản lý nó về luật pháp. Khuynh hướng tự nhiên cho thấy cần phải có một cơ chế giám sát toàn cầu hóa. Có nghĩa là khi chúng ta chuyển mình từ những nền kinh tế bán tự trị trở thành một nền kinh tế hội nhập toàn cầu thì chúng ta cũng cần phải có một thứ chính phủ theo dõi, giám sát và quản lý toàn cầu về pháp lý. Nhưng đạt một bước nhảy từ mức thể chế địa phương lên mức thể chế toàn quốc trong khuôn khổ một quốc gia vẫn dễ dàng hơn nhiều so với việc hội nhập từ mức quốc gia lên tới những định chế toàn cầu. Hai trở ngại sẽ xuất hiện khi bạn đi lên toàn cầu: Vấn đề chủ quyền – dân chúng một nước sẽ rất miễn cưỡng khi phải chịu sự chỉ đạo từ các chính trị gia và viên chức từ một nước khác, những người mà họ không duy trì được giám sát bằng cách này hay cách khác. Trở ngại thứ hai nằm trong bản thân hệ thống toàn cầu hóa. Trong một thế giới không có rào cản, được dựng lên quanh hệ thống Evernet, khả năng của một chính quyền toàn cầu, vươn tay ôm trọn quyền quản lý, ấn định những loại thuế và quy tắc hành xử cho các quốc gia sẽ bị hạn chế – dù đó là lực lượng cảnh sát quốc tế Interpol truy tìm những giao dịch tài chính phi pháp trên Internet từ quần đảo Cayman đến quần đảo trên biển Manche, hay là Tổ chức Thương mại Thế giới cố gắng đặt quy chế thương mại trên mạng toàn cầu. Ngày mỗi ngày càng nảy sinh ra những khu vực mà bộ máy chính phủ theo lối thông thường không với tay được đến. Do đó khi bàn tới việc tuân thủ những tiêu chuẩn toàn cầu – bảo tồn thiên nhiên, quyền con người, giao dịch tài chính và điều kiện lao động cho công nhân – những nhân tố tạo lập sẽ không nắm vai trò một chính quyền toàn cầu, ít nhất là trong tương lai gần. Vậy chúng ta sẽ phải làm gì? Chúng ta không thể làm ngơ trước những vấn đề Đó và chúng ta cũng không muốn để mặc chúng cho thị trường quyết định. Vậy chúng ta tiến đến một vấn đề then chốt: Làm thế nào để có được một sự quản lý toàn cầu trong những chủ đề lớn như môi sinh, nhân quyền, giao dịch tài chính và điều kiện lao động, mà không phảo lập nên một chính quyền toàn cầu? Làm thế nào để chúng ta điều hành và quản trị pháp lý những lĩnh vực mà nhân loại và cộng đồng thực sự coi trọng nhưng không cần phải dùng tới một thứ cảnh sát toàn cầu? Câu trả lời là một sự hiểu biết, một tri thức rằng trong một thế giới được kết nối, các cá nhân, cộng đồng, giới tiêu dùng, các nhà hoạt động và các chính phủ đều có quyền lực như những nhà tạo lập – để định hướng và hình thành các hệ giá trị cho nhân loại. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy có thể tăng cường được sự quản lý toàn cầu mà không cần phải sinh ra một chính phủ toàn cầu. Tuy nhiên để làm được thế cần phải có một tư duy mới giành cho việc huy động các hệ quyền lực. Cần có một lối nghĩ làm thế nào có thể tận dụng được sức mạnh của Internet, người tiêu dùng, và hoạt động của các công ty đa quốc gia, những tập đoàn muốn bảo vệ thương hiệu của họ trên toàn thế giới. Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Một trong những vấn đề lớn nảy sinh trong thời toàn cầu hóa là việc làm thế nào chúng ta có thể xử lý đúng đắn quyền lợi của người lao động và điều kiện lao động ở những xưởng thợ ở các nước đang phát triển. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, trong khi nhiều nhà hoạt động nhân quyền vẫn tập trung vào vấn đề tự do ngôn luận, bầu cử và việc viết báo chống đối, dân chúng ở các nước đang phát triển tiếp tục chú trọng vào quyền của người lao động, công ăn việc làm, quyền được tự tổ chức đoàn đội và quyền được hưởng những điều kiện làm việc thích đáng. Đơn giản là đối với những người lao động trên thế giới, sự đàn áp từ phía các cai lao động họ phải chịu đựng trước đây giờ được thay thế bởi sự đè nén đến từ những ngài tư bản hoạt động ngoài vòng kiểm soát, những kẻ đang di chuyển thường xuyên các cơ sở sản xuất từ nước này sang nước khác, chuyên tìm tòi những nơi có chi phí rẻ mạt nhất. Những người lao động đó cần được giúp đỡ một cách thực tế. Nhưng hiện nay không có một chính quyền chung nào trên thế giới để họ trông mong vào, chính quyền có thể chỉ đạo và giám sát điều kiện lao động chung cho mọi người. Trong nhiều năm, các chủ xưởng người Mỹ đã thông qua các mối quan hệ của họ ở Quốc hội, ngăn chặn việc đưa tiêu chuẩn lao động của Mỹ sang áp dụng trong những xưởng thợ của họ ở nước ngoài. Đồng thời, những xưởng dệt áo từ miền nam bang Carolina chuyển hoạt động sang Guatemala, một địa phương nơi không có tiêu chuẩn lao động riêng, thêm nữa tại đó, Tổ chức Lao động Quốc tế cũng chẳng có ảnh hưởng gì. Đó là trường hợp người lao động không được hưởng bất cứ tiêu chuẩn nào, cả địa phương lẫn toàn cầu, như đã được đề cập tới vào năm 1996, trong một nhà máy ở Honduras gia công sản phẩm cho thương hiệu Kathie Lee Gifford. Chờ đợi để có một chính Quyền toàn cầu giúp đỡ trong trường hợp đó quả là vô vọng. Đối diện với thử thách như vậy, cộng đồng nhân quyền cần phải được trang bị hiện đại hơn, cũng giống như các tay thợ sản xuất vũ khí trước kia nay phải học cách sản xuất xe hơi hay máy nướng bánh, thay vì xe tăng. "Trong Chiến tranh Lạnh", Michael Posner, đứng đầu Ủy ban Luật gia vì Nhân quyền, lập luận, "vấn đề chính là buộc các chính phủ phải chịu trách nhiệm khi họ vi phạm luật lệ và nguyên tắc. Ngày nay, vấn đề là làm thế nào khiến các công ty tư nhân phải gánh trách nhiệm về việc đối xử với công nhân của họ, khi mà quyền lực chính phủ khắp toàn cầu giảm đi, hoặc bản thân các chính phủ (Trung Quốc chẳng hạn) cũng tham gia các thương vụ và do đó không thể mong đợi họ giữ vai trò giám sát và trọng tài". Trong một thế giới như vậy, các nhà hoạt động cần phải học cách tận dụng toàn cầu hóa. Họ cần học cách bắt buộc các công ty phải ứng xử tử tế hơn bằng cách dùng Internet để vận động giới tiêu dùng trên toàn cầu. Tôi xin gọi đó là "giải pháp mạng dành cho nhân quyền," và đó là tương lai của các nhà hoạt động. Đó là giải pháp từ dưới lên hay ngang hàng chứ không phải được ấn định từ trên xuống. Bạn trao quyền cho bên dưới, thay vì chờ đợi quyền hạn được rót từ trên, bằng cách hình thành một liên minh mà có thể tổ chức một hệ thống quản lý tốt hơn mà không cần một chính quyền toàn cầu. Một thử nghiệm như thế rõ ràng đã xuất hiện vào cuối năm 1999. Từ những tranh cãi xung quanh vụ Kathie Lee Gifford đã nảy sinh một liên minh mới, mang tên Hiệp hội vì sự công bằng cho Người lao động (FLA). Hiệp hội này đã quy tụ các cố gắng của Chính phủ Hoa Kỳ, các nhà hoạt động cho quyền của công nhân như Ủy ban Luật gia, giới lao động ngành quần áo và sinh viên Mỹ. Hiệp hội hoạt động như sau: Phần lớn những công ty và giới hoạt động trong ngành quần áo trên toàn cầu thống nhất với nhau về một hệ tiêu chuẩn lao động tối thiểu trong các nhà máy, bao gồm việc giảm thiểu lao động trẻ em và hạn chế giờ công và ngày công. Họ cũng thỏa thuận về một hệ thống giám sát theo đó những giám sát viên độc lập được phép vào thanh tra đột xuất trong các nhà máy. Các điều tra và giám sát viên được cơ quan FLA cất giấy phép hành nghề, họ là những người đại diện cho các tổ chức khác nhau, từ các nhóm tôn giáo cho đến nhân viên giám sát tín dụng của Pricewaterhouse Cooper. FLA cho phát hành những báo cáo hàng năm về việc các công ty tuân thủ các nguyên tắc lao động ra sao. Báo cáo được lưu hành trên Internet và sẽ được tạp chí Báo cáo của Người tiêu dùng (Consummer Reports) đăng tải. Nếu một công ty chấp hành đúng quy định, họ sẽ được gắn một nhãn FLA lên sản phẩm của họ và người tiêu dùng sẽ phân biệt giữa các thương hiệu – sẽ mua sản phẩm nếu họ muốn ủng hộ điều kiện lao động trong ngành quần áo, và từ chối không mua những sản phẩm không có nhãn hiệu của FLA. Hơn 100 trường đại học đã tham gia vào liên minh và đòi các hiệu sách của họ – bán áo phông, sản phẩm may mặc – chỉ bán sản phẩm mang nhãn FLA. Hy vọng là sẽ có Ngày các tiệm bán lẻ lớn sẽ làm theo. Chương trình như trên sẽ không một sớm một chiều cải cách hết được các điều kiện lao động. Nhưng đó là một sự khởi đầu – đưa ra một hệ thống có quy tắc và thể lệ mới trong toàn bộ ngành dệt trên thế giới. Và nó được hình thành không phải do một chính phủ ấn định, mà bằng cách hình thành được một liên minh mà có tiềm năng khiến mỗi người tiêu dùng trở thành một nhà hoạt động nhân quyền và khiến các tổng công ty toàn cầu không còn chỗ nào để lẩn trốn nữa. "Thật ngạc nhiên khi thấy trong quá khứ cách nhà hoạt động bị mê hoặc ra sao", Paul Gilding, cựu phụ trách tổ chức Hòa bình Xanh, hiện đang tư vấn cho nhiều công ty đa quốc gia về chủ đề phát triển bền vững, "Trước đây, bạn sẽ xuống đường, vận động dân chúng trong cộng đồng, gây áp lực để chính quyền thay đổi luật pháp, rồi thì các công ty sẽ chống đối, sau đó hai bên cùng nhau thỏa hiệp và trong vòng năm năm, mọi sự sẽ thay đổi. Giờ đây chúng tôi không còn thời gian nhiều đến thế". Những nhóm hoạt động tạo được thay đổi lớn ngày nay là những nhóm có khả năng khống chế được các lợi ích kinh tế của các công ty và người tiêu dùng, dùng khả năng đó để bảo tồn môi trường, cải thiện quyền của người lao động để tăng cường nhân quyền – thay vì đứng ra chống đối trực tiếp các công ty. Có nghĩa là hoạt động, hợp tác cùng các công ty và người tiêu dùng, cơ bản là chứng minh cho các công ty thấy rằng họ vừa có thể kiếm lợi vừa bảo tồn được môi sinh. Các nhà hoạt động sẽ cho họ hiểu rằng nếu họ không có những hành động bảo vệ môi sinh và quyền lợi của nhân công, thì các tổ chức hoạt động sẽ tổ chức một chiến dịch vận động, thông qua Internet, liên lạc với giới tiêu dùng ở khắp thế giới để tẩy chay hàng hóa và dịch vụ. Lợi nhuận kinh tế đang là đòn bẩy quyền lực lớn hiện nay. Nhưng đó không phải là đòn bẩy duy nhất. Luật pháp và quy tắc vẫn là yếu tố quan trọng. Chính phủ vẫn là quan trọng. Chính phủ vẫn cần phải thông qua luật lệ theo chiều hướng bảo vệ quyền lợi của toàn thể xã hội, chứ không phải chỉ của riêng một nhóm người tiêu dùng hay các nhà hoạt động. Nhưng thông thường cung cách tốt nhất để mọi người cùng tuân thủ luật lệ chính là sử dụng đòn bẩy, áp lực kinh tế – sự chuyển hóa của chính hệ thống toàn cầu hóa – theo hướng xây dựng hơn là phá hoại. Trong những năm đầu của thập niên 90, WTO đã phản đối việc Hoa Kỳ cấm tiêu thụ loại cá ngừ bị đánh bắt bằng lưới cũng bắt luôn cá heo. Họ nói sự cấm đoán đó là sự bế quan về thương mại. Quyết định của WTO rõ ràng đã khiến các nhà môi trường đau lòng. Một số các nhà hoạt động đã công kích WTO, đặc biệt trong các cuộc họp tại Seattle vào cuối 1999. Tuy nhiên một số khác quyết định liên hiệp lại và trở thành một những nhân tố tạo lập ra một giá trị mới – phương châm là dân đánh cá không nên giết cá heo chỉ vì để bắt cá ngừ với chi phí thấp. Kết quả là trong các tiệm tạp hóa của Hoa Kỳ, người ta chỉ thấy có bán loại cá ngừ hộp được dán nhãn "cá heo (đã) được bảo vệ". Làm thế nào mà họ đạt được kết quả đó, trong khi WTO chỉ trích Hoa Kỳ là bế quan thương mại? Vì những nhà hoạt động thông minh đã lách được sự tài phán của WTO và sáng lập ra một phương thức ứng xử mới. Họ vận động giới tiêu dùng và sử dụng Internet để gây áp lực, buộc các công ty đánh cá phải dùng loại lưới có thể bảo vệ được cá heo nếu không muốn mất khách hàng; nhờ đó, rất nhiều cá heo đã được bảo vệ. Tiêu chuẩn đánh cá bảo vệ cá heo tuy vậy vẫn chưa thật hoàn hảo; Một số ngư dân vẫn lách luật và một số công ty đã không tuân theo tiêu chuẩn đó. Nhưng sự xuất hiện một tiêu chuẩn mới như vậy quả là một cải thiện lớn, từ thời đánh cá vô tội vạ trước đó; đó là kết quả của việc các nhà hoạt động đã sáng lập một hệ tiêu chuẩn mới, sử dụng giải pháp liên kết mà không cần đến sự can thiệp thực sự của chính phủ. "Quyết định đặt tiêu chuẩn an toàn cho cá heo chính bắt nguồn từ công luận trong giới tiêu dùng", Michael Mullen, người phát ngôn thuộc công ty StarKist tuna nói với tôi, "Trong một tuần, chúng tôi đã nhận được khoảng một ngàn cú điện thoại và 300 email của người tiêu dùng về việc này". (Trong chương 13 "Người Tháo dỡ", tôi sẽ nói chi tiết về phương thức vận động trên được những tổ chức lớn như Bảo tồn Quốc tế áp dụng để cứu nhiều khu vực như các cánh rừng nhiệt đới ở Brazil hay các sông hồ lớn nhất thế giới) Hãy xem xét thêm một ví dụ của chiến lược nói trên áp dụng vào một lĩnh vực hoàn toàn khác – xóa đói giảm nghèo. Tôi xin giới thiệu một trang mạng mang địa chỉ www. Planetfinance.org . Đó là đứa con tinh thần của Jacques Attalli, một giám đốc ngân hàng người Pháp, người đã nhận thức rằng toàn cầu hóa đã tiếp sức cho ông trở thành một nhà tạo lập ra những chiến lược mới trong cuộc chiến chống nghèo đói trên toàn cầu. PlaNet Finace hoạt động như sau: Hiện có khoảng 1, 3 tỷ dân sống ở mức 1đô-la/ngày. Một điều mà chúng ta ai cũng biết đó là một trong những phương thức hữu hiệu nhất để xóa nghèo đói cho họ là cho vay những khoản vay nhỏ – từ 100 đến 1.000 đô-la. Khoản tiền đó thường vào tay phụ nữ và hầu như không cần đến tài sản thế chấp. Những người được vay dùng tiền đó để mua máy may, xe đạp để chuyển rau quả của họ ra chợ, trang thiết bị để mở một tiệm cắt tóc ở một vùng quê nghèo ở Bangladesh chẳng hạn. Bản thân những người đó có nghị lực để xóa nghèo, nhưng họ không có nguồn vốn cơ bản, và đó chính là lý do họ cần đến các khoản vay nhỏ. Những người cần vốn thường không được nối mạng và máy vi tính, nhưng các ngân hàng và những tổ chức viện trợ đang giúp đỡ họ thì có điện thoại và khả năng nối mạng. Công ty PlaNet Finance hiện cung cấp dịch vụ nối mạng cho 7.000 các nhóm trợ giúp tài chính nhỏ trên thế giới. "Trước hết", ông Attali giải thích, "PlaNet nối mạng với thật nhiều các tiểu ngân hàng, để họ liên lạc và chia sẻ kinh nghiệm trên mạng. Sau đó, chúng tôi giúp các nhóm chưa lên mạng được cài đặt giống trường hợp ở Benin. Tiếp theo, chúng tôi tổ chức một hệ thống đánh giá mức khả tín, tương tự như Moody's, đánh giá tiềm lực của các tiểu ngân hàng, dựa vào các tiêu chuẩn đạo đức làm việc, hiệu quả giúp đỡ người Nghèo và khả năng tài chính của họ. Tiếp theo chúng tôi thành lập một trường đại học trên mạng để đào tạo kỹ năng cho họ và cũng trên mạng, chúng tôi mở một thị trường để những người khách hàng của các tiểu ngân hàng (người vay để sản xuất) có thể bán các sản phẩm của họ trên mạng. Và sau cùng chúng tôi tổ chức PlaNet Bank để hỗ trợ tín dụng cho các tiểu ngân hàng đó và sẽ thu hút các nhà hảo tâm đến trang mạng của chúng tôi để đóng góp tài chính cho các dự án mà các tiểu ngân hàng đang tài trợ, họ có thể giám sát xem tiền tài trợ được sử dụng ra sao". Một khi PlaNet Bank có thể xếp hạng và kết nối các tiểu ngân hàng qua Internet, nó có thể giúp họ giảm thứ chi phí đáng kể nhất – chi phí theo dõi và xử lý các nguồn vốn cho vay nhỏ nhoi của họ. Hy vọng là một tiểu ngân hàng được trang bị một thiết bị thông tin, giống như của hãng chuyển phát nhanh Fedex sử dụng theo dõi các bưu kiện, có thể cùng một lúc theo dõi được hàng trăm những món cho vay và lãi suất từ chúng. Nếu chi phí hành chính và giao dịch giảm xuống thì những khoản vốn cho vay có thể được quy tụ và bán cho các đại ngân hàng trên thế giới. Các tiểu ngân hàng thường đặt mức lãi suất 4- 5%/tháng với các khoản vay, để thanh toán các chi phí, đòi hỏi người vay hoàn vốn nhanh chóng để họ có thể quay vòng cho người khác. Thị trường như vậy với mức lãi như vậy sẽ hấp dẫn các ngân hàng lớn – một khi chi phí giao dịch được cắt bỏ. Và điều đó sẽ tạo nhiều thay đổi. Hiện nay nhu cầu để có được các khoản vay nhỏ thật là lớn, nhưng tiền vốn lại chỉ tùy thuộc vào các nhà hảo tâm cá nhân và mức đóng góp của chính phủ. Thế nhưng hãy tưởng tượng với mức 20 tỷ đô-la tín dụng từ các ngân hàng lớn cung cấp, bạn có thể chu cấp tín dụng cho 100 triệu dân nghèo đang có mức sống 1 đô-la/ngày. Đó là phương cách để bạn biến đổi thế giới – sử dụng toàn cầu hóa để đối phó với chính nó. Trở thành một nhà tạo lập, người không cần đợi đến khi có một chính phủ toàn cầu để chống nghèo đói, mà thay vào đó, sử dụng một hệ thống mới vận động những đại gia lạnh lẽo và vị kỷ, hoạt động trên thương trường tham gia làm từ thiện nhưng lại kiếm được lợi nhuận. Bằng cách biến các ngân hàng thành những nhân tố thích nghi với khái niệm mới như của PlaNet Finance và tạo cho họ những cơ hội kiếm tiền, bạn đã mở ra một loạt các cơ hội mới để xóa đói giảm nghèo. "Có một câu ngạn ngữ cổ," Nếu bạn tặng một người một con cá, bạn đã giúp họ một bữa ăn. Nhưng nếu bạn dạy cho người đó cách câu cá, bạn sẽ khiến người đó được được no ấm cả đời ". Ông Attali nói." Chúng tôi hiện có hàng triệu dân nghèo đã được dạy cho cách câu cá. Hiện nay họ chưa có cần câu. Nhưng thông qua PlaNet, chúng tôi sẽ trang bị cần câu cho rất nhiều người trong số họ". Trong một thế giới được kết nối mạng và không còn rào cản, tương lai thuộc về những nhân tố tạo lập và thích nghi – họ là những công ty hay người tiêu dùng, cường quốc hay những cá nhân được trao quyền.
11. Mua Đài Loan, giữ lại Ý, bán Pháp. Bấm để xem Trong khi việc nối mạng và học cách trở thành nhân tố tạo lập hay thích nghi là những biện pháp thiết yếu quyết định sức mạnh của đất nước hay của một công ty trong thời đại Internet, một số yếu tố khác cũng sẽ trở nên quan trọng – những yếu tố quyết định tầm ảnh hưởng của những nhà tạo lập hay thích nghi. Chương này được dành cho việc phân tích những yếu tố đó. Chúng là gì? Vì sao những đất nước hay những công ty có những yếu tố đó chính là nơi mà bạn cần đầu tư và lưu vốn, trong khi những công ty hay những đất nước không có những yếu tố đó lại là nơi bạn sẽ rút vốn ra. Tôi xin phân tích chúng trong danh sách tôi gọi Chín thói quen của những quốc gia hiệu quả cao. Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, các nước trong cùng một khu vực địa lý thường đã phát triển theo cùng một nhịp. Các nước Tây Âu phát triển cùng một nhịp, châu Mỹ La tinh theo một nhịp khác, các con Hổ châu Á theo một mức khác, Đông Âu khác và châu Phi có nhịp phát triển riêng. Những khác biệt lớn về phát triển thể hiện khi ta so sánh các khu vực khác nhau. Đông Á đã trưởng thành; Mỹ La tinh đi trước một bước; Trung Đông trì trệ, ngoại trừ những nơi có nguồn dầu lửa trời cho; và châu Phi tiếp tục suy sụp. Trong những năm 50, Ai Cập và Hàn Quốc khởi đầu với mức thu nhập bình quân đầu người ngang nhau, nhưng tới những năm 90 thì có một hố cách biệt khá lớn giữa hai nước này. Điều chúng ta sẽ thấy trong hệ thống toàn cầu hóa chính là sự tiếp tục của những khuynh hướng nói trên, điều khác biệt hiện nay là ở chỗ phân liệt đang ngày càng tăng Ở nhiều vùng và nhiều nước trong ngay cùng một khu vực – vì có những nước đã lựa chọn theo hướng thịnh vượng, kết nối mạng, trở thành nhân tố tạo lập và thích nghi, trong khi có những nước khác lại từ chối, không làm theo. Chẳng hạn bạn sẽ thấy một hố ngăn cách ở Trung Đông giữa Tunisia – trong những năm 90 đã tự mặc chiếc áo nịt nạm vàng, ký một hiệp định tự do mậu dịch với Liên hiệp châu Âu và thích nghi với nhiều thói quen của các nước hiệu quả cao – và một số láng giềng Ả rập của Tunisia, những nước đã không làm như vậy. Và bạn cũng sẽ thấy những "khu vực nóng" trong cùng một nước, như những vùng duyên hải của Trung Quốc xung quanh Thượng Hải, hay vùng Bangalore ở Ấn Độ nơi mà mức thu nhập và lối sống vượt xa những vùng lân cận – đến mức người ta có cảm giác chúng đã trở thành các quốc gia khác biệt. Những khoảng cách giữa các nước phát triển và khoảng cách giữa các vùng trong nội tại các nước đang phát triển có thể trở thành những nơi nhạy cảm về chính trị trong thế giới mới. Lớp người làm ăn thành đạt trong một nước hay một khu vực sẽ có tầm ảnh hưởng cao hơn so với tầm quan trọng về vị trí địa lý hay chính trị của nước đó hay khu vực đó, dẫu cho chúng thuộc thế giới thứ nhất hay thế giới thứ ba. Như đã nói tới trong chương trước, những đất nước và công ty làm ăn giỏi nhất thường bắt chước các thói quen của nhau. Vậy, sau khi đặt hai câu hỏi cơ bản khả năng nối mạng của đất nước hay của công ty của bạn ra sao; và đất nước hay công ty của bạn là nhân tố tạo lập hay thích nghi? – tôi đưa ra sau đâu chín câu hỏi để đo sức mạnh kinh tế và tiềm năng của đất nước hay công ty của bạn. Công ty hay đất nước của bạn phát triển nhanh đến mức nào? Klaus Schwab thuộc Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos có lần nhận xét: "Chúng ta đang di chuyển từ một thế giới cá lớn nuốt cá bé, sang một thế giới những kẻ nhanh chân sẽ diệt những kẻ chậm chân." Ông ta hoàn toàn đúng. Bởi vì ba trào lưu dân chủ hóa, những rào cản đối với hầu hết các thương vụ giờ đâu đang nhanh chóng bị hạ thấp, và kết quả là tốc độ, cho phép những sản phẩm từ khâu sáng chế sang khâu sản xuất hàng loạt, đã được nâng lên trông thấy. Nếu vì những lý do xã hội, văn hóa hay chính trị, mà công ty hay đất nước của bạn không sẵn sàng cho phép những giải tỏa theo công thức của Shumpeter [phá cũ xây mới] để đón đầu các cơ hội trong các thị trường mới đang xuất hiện, thì nó sẽ tụt hậu. Không phải vô ích mà Bill Gates tuyên bố rằng ở hãng Microsoft: Trong bốn năm, tất cả các sản phẩm của Microsoft sẽ trở nên cổ lỗ. Câu hỏi duy nhất là ai sẽ khiến chúng trở thành cổ lỗ – bản thân Microsoft hay những đối thủ của nó. Nếu bản thân Microsoft tự khiến chúng trở thành cổ lỗ thì công ty này sẽ thành đạt. Nếu một trong những đối thủ của Microsoft khiến cho sản phẩm của hãng trở thành cổ lỗ, thì Microsoft sẽ gặp tai họa. Bill Gates suýt nữa đã khiến Microsoft thành quá đát khi đưa ra kết luận rằng Internet sẽ không phải là tương lai của điện toán. May cho anh ta, anh ta đã tỉnh ngộ ra trước thời hạn bốn năm. Không cần ai phải giải thích vấn đề tốc độ cho những quản đốc cao cấp của hãng điện toán Compaq – họ sống chết dựa vào tốc độ.compaq khởi đầu bằng cách đi nhanh hơn IBM trong việc thải bỏ sự cũ kỹ một cách sáng tạo. Nó hầu như đã tiêu diệt IBM một cách sáng tạo. Chuyện rằng: Vào năm 1985, Hãng Intel cho ra đời linh kiện Vi xử lý 386, có tốc độ nhanh gấp đôi so với đời 286 trước đó. Toàn bộ chiến lược kinh doanh của Compaq là nhằm trở thành nhân tố đi đầu về ứng dụng kỹ thuật mới. Có nghĩa là cứ mỗi lần Intel chế tạo được một loại mạch vi xử lý mới nhanh hơn – không chỉ trong mức từ 286 lên 386, thậm chí một kiểu mới trong cùng thế hệ, tăng được 5 MHz – Compaq sẽ phải là hãng đầu tiên lắp ráp những linh kiện đó vào các máy vi tính, để bàn và xách tay, của họ để bán trước tiên trên thế giới. Trong những năm 80, khi một máy tính cá nhân đời mới được tung ra, chúng sẽ được bán trước tiên ở Hoa Kỳ, vài tháng sau là châu Âu, rồi sau đó mới sang đến Ấn Độ rồi Trung Đông. Người ta đã thường giả định là những thị trường ở châu Âu và Á đã bị che chắn khỏi những phát kiến ở Mỹ.compaq là hãng đầu tiên phát hiện rằng điều đó không đúng – rằng một sản phẩm mới cần phải được giới thiệu cùng một lúc ở mọi nơi trên thế giới. Và do đó nếu Intel cho ra đời một chip vi tính mới, dân chúng Biết được khi đọc báo hay qua Internet, thì ngay ngày hôm sau, họ sẽ mong được thấy chúng lắp đặt trong các máy tính xách tay hoặc để bàn, trong các cửa hàng nơi họ đến mua. "Vào ngày hôm đó, bạn phải có máy bày bán ngay trong đại lý của bạn", Enrico Pesatori, Phó chủ tịch Compaq phụ trách tiếp thị cho biết, "và nếu bạn chỉ để chậm mất hai tuần, bạn sẽ bị coi là chậm chạm, bị coi là để lỡ cơ hội thu khoản lợi nhuận từ hàng" độc ", hàng xuất hiện trước tiên trên thị trường". Chính vì thế Compaq đưa ra một hệ thống lắp đặt nhanh chóng các linh kiện vi mạch mới. Hãng này giữ một quan hệ thân mật với Intel chính vì thế các kỹ sư của hãng có thể phỏng theo mẫu kinh kiện mới của Intel để nhanh chóng sớm thiết kế các bộ phận của vỏ máy, khiến cho khi đi vào sản xuất họ tốn rất ít công sửa hay điều chỉnh chi tiết vỏ máy, sau đó chuyển thành phẩm mới đến người tiêu dùng nhanh hơn và sớm hơn các hãng khác.compaq giữ được khả năng đi tiên phong cũng bằng cách duy trì kích cỡ vỏ máy theo một tiêu chuẩn chung, trong khi điều chỉnh liên tục nâng cấp tốc độ vi xử lý và các phần chương trình thích hợp cho chúng. Kết quả là Compaq liên tục giảm được giá thành bằng cách sử dụng thiết kế ít thay đổi (quy luật: Sản phẩm càng tồn tại lâu trên thị trường thì linh kiện của nó càng rẻ đi) và chỉ lắp đặt bộ Vi xử lý liên tục mới, nhanh nhất. Và do tốc độ xử lý là đầu tàu quyết định giá thị trường của máy tính, Compaq đã nhanh chóng tăng mức lợi nhuận – nhờ duy trì vỏ máy cũ và thành phần ngày càng rẻ về giá thành, tốc độ của bộ vi xử lý ngày càng tăng, và giá bán ngày càng tăng. Và hãng này liên tục tăng cường độ sản xuất. Lợi nhuận tăng khiến Compaq có khả năng hạ giá vì thế đã vào chiếm thị phần của IBM. Ngược lại, IBM đã phát triển chậm chạp. Họ bao giờ cũng muốn giới thiệu kỹ thuật mới một cách đồng bộ, vỏ máy mới, linh kiện mới, tốc độ mới. Chính vì thế khi Intel đưa ra chip 386 và mời IBM lắp đặt, IBM đã không muốn lắp con chip đó vào vỏ máy lúc đó họ đang sản xuất – loại IBM AT, [AT viết tắt hai từ công nghệ tiên tiến], đang dựa vào chip cũ 286. IBM muốn chờ cho đến khi bán hết máy 286 rồi mới cài 386 vào vỏ mới – loại PS/2. Vì sao? Vì IBM là công ty lớn nhất, ghê gớm nhất, và vào thời Chiến tranh Lạnh, IBM có thừa thời gian để làm theo những gì họ muốn. Thời đó, IBM, dưới sự lãnh đạo của John Akers, là một công ty kiêu ngạo, có cơ cấu giống cơ cấu của Liên Xô về nhiều mặt. Toàn bộ công ty được tổ chức hoạt động nhằm đạt mục tiêu doanh thu và lời lãi trong kế hoạch của chủ tịch công ty đề ra. Do đó về đối nội, toàn bộ công ty chú trọng không phải vào những đòi hỏi của thị trường – đòi hỏi kỹ thuật mới cần phải được lắp đặt áp dụng ngay – họ chú trọng vào ý muốn của Ban lãnh đạo của IBM: Đảm bảo doanh số và tốc độ tăng trưởng nhất định nào đó. Điều mà IBM không hiểu được lúc đó là những rào cản chống lại những doanh nghiệp mới vào cạnh tranh đang dần được xóa đi và chìa khóa đi đến thành công là khả năng duy trì lâu dài mẫu mã của sản phẩm – duy trì các thiết kế càng lâu dài càng tốt để cắt bớt chi phí thiết kế mới, nhưng chú trọng hơn vào những yếu tố mà dân chúng trông Mong vào, đó là khả năng tăng tốc độ xử lý cho máy. Mặt khác, IBM bị mê hoặc bởi cung cách làm việc của chính họ. Thương vụ của IBM cho mãi tới những năm 70, là cho các công ty thuê các hệ thống máy tính chủ. Và nếu cứ hai năm một lần, hãng cho ra đời một hệ máy tính mới, thì họ có thể cài đặt toàn bộ linh kiện và kỹ thuật mới và bán với giá cao hơn. Nhưng loại máy tính cá nhân dần đã trở thành những sản phẩm khác hẳn. Khách hàng mua máy cá nhân không muốn thích nghi với cả một hệ máy tính mới phải thay đổi hai năm một lần. Họ chỉ mong máy tính của họ chạy nhanh hơn. Nghe lời khách hàng, Compaq hiểu – và nhanh chóng hành động. IBM chỉ nghe theo chính bản thân họ, hành động chậm chạp – trở nên trì trệ. "IBM lúc đó hoạt động trong một hình mẫu thương vụ cũ kỹ. Nó không hiểu là với mặt hàng mới là cả một thể thức mới được áp dụng", Eckhard Pfeiffer, Chủ tịch Compaq từ 1991 đến đầu 1999, cho biết, "khi Intel đưa ra chip 386 và nói với IBM," hãy dùng nó đi "và IBM trả lời" không ". Vậy Intel đến gặp Compaq và chúng tôi đã trả lời," chúng tôi sẽ dùng ". Chính vì thế chúng tôi làm ăn với Intel từ ngày đó". Cuộc cạnh tranh đã kết thúc với việc Compaq đớp một miếng lớn từ thị phần của IBM. "Tôi cho rằng cách đây mươi mười lăm năm thì việc kết hợp chặt chẽ với Intel về vi xử lý không phải là đòi hỏi lớn cho lắm", Pfeiffer nói thêm. "Vì mọi người lúc đó không có cái cảm giác phải tiến cho nhanh. Họ nói," Tốt thôi, tôi sẽ chờ một hay hai tháng. Có thể tôi sẽ kiếm thêm được chút lời lãi từ những sản phẩm cũ tôi đang bán ". Ngày nay nếu có bộ vi xử lý mới nào ra đời thì chúng tôi ngay lập tức phải vắt chân lên cổ để chạy để nâng cấp sản phẩm". Cuối những năm 80 đầu 90, Compaq có thể thiết kế sản phẩm của họ nhanh hơn các đối thủ, vì thế họ giới thiệu sản phẩm với khách hàng nhanh hơn, thu lợi nhuận nhanh hơn. Earl Mason, lúc đó phụ trách tài chính của Compaq, nói với tôi vào cuối năm 1998: "Nếu anh có thể liên tục giảm thời gian tính từ lúc thanh toán một đô la cho một nhà phân phối với thời gian anh thu vào một đô-la từ một khách hàng, thì vòng quay tài sản sẽ tăng tốc đến một độ anh có thể huy động được một lượng lớn tiền mặt.. Từ cuối 1985 cho tới quý một năm 1998, mức tăng tốc đó đã cho phép chúng tôi nâng lượng tiền mặt từ 900 triệu đôla lên tới bẩy tỷ đô-la. Có khái niệm: Nếu hoạt động nhanh thì anh sẽ làm lớn. Và nếu anh là người to xác nhưng làm ăn chậm chạp thì là anh thất bại". Lạy thánh, đó chính là điều xảy ra cho hãng Compaq chưa đầy một năm sau khi tôi phỏng vấn Mason.compaq tăng trưởng đến mức họ không hoạt động nhanh chóng nữa – bởi vì họ đã không bắt kịp với cuộc cách mạng tiếp theo. Do không hiểu được toàn bộ ý nghĩa của Internet, để khiến mô hình tiếp thị và sản xuất của họ thích ứng, Compaq đã đi tụt lại sau đối thủ chính của họ là hãng Dell. Dell đã đi đầu trong việc dùng hình thức bán hàng qua điện thoại để gắn khâu tiếp thị với sản xuất và biến mỗi máy tính cá nhân thành thiết bị đặt riêng theo ý khách hàng để mỗi khách hàng Đều có thể tự điều chỉnh theo ý họ. Bằng cách bán trực tiếp cho khách hàng, tránh được khâu bán buôn trung gian và chi phí trung gian, Dell bao giờ cũng có thể tăng thêm công suất, tốc độ vận hành của máy so với khoản tiền khách hàng bỏ ra. Và khi Internet phát triển, Dell là hãng đầu tiên tiếp thụ và hội nhập Internet vào tất cả các khía cạnh kinh doanh của họ. Internet giúp Dell kiểm kê hàng hóa nhanh hơn và hữu hiệu đến mức họ không cần phải lắp ráp máy mới khi chưa nhận được đơn đặt hàng từ khách. Các nhà cung cấp được liên hệ qua Internet. Khi nhận đơn đặt hàng, Dell sẽ nhanh chóng báo để bên cung ứng thu xếp linh kiện. Dell có thể phối hợp để thu mua nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới vào các cơ sở sản xuất và họ chỉ cần dự trữ mức nguyên liệu đủ cho sáu ngày sản xuất. Làm như vậy Dell tiết kiệm được rất nhiều tiền và thêm khả năng cải tiến ứng dụng của máy cho khách một cách nhanh chóng và bớt chi phí hơn. Dell không chỉ đơn thuần sử dụng Internet, mà họ tận dụng, coi Internet là xương sống của sự liên lạc nội bộ, liên lạc giữa hãng và khách hàng và nhà cung cấp nguyên vật liệu – tốc độ hoạt động nhờ đó tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó Compaq ngược lại đã gắn bó quá lâu với mô hình sản xuất truyền thống với những kho hàng và quan hệ trung gian và bán buôn, làm ngơ trước vai trò của Internet. Thế là Dell đã gây ra cho Compaq điều mà Compaq gây ra cho IBM trước kia. Và mọi sự xảy ra thật là nhanh. Lúc đó tôi đang viết bản thảo đầu tiên của cuốn sách này. Tháng 8/ 1998, tôi đã xuống Houston để phỏng vấn lãnh đạo của Compaq. Trên tường của văn phòng giám đốc có tạp chí Forbe có bài trang bìa ca ngợi Compaq là công ty được quản lý giỏi nhất Hoa Kỳ trong năm 1997. Một tháng sau đó tôi đến một hội nghị ở Stanford và tình cờ gặp John Chambers của Cisco. Ông ta hỏi tôi đang làm gì, tôi trả lời tôi muốn dùng Compaq như điển hình của loại công ty phát triển nhanh trong một chương của cuốn sách tôi đang viết. "Sai lầm lớn", Chambers nói. "Anh nên dùng Dell". Tôi giật mình. Nhưng muộn rồi. Tôi đã trót theo đuổi điển hình Compaq. Lúc đó tôi vừa mới phỏng vấn toàn bộ ban lãnh đạo của Compaq. Nhưng Chambers, công ty của ông là nhà sản xuất chiếc hộp đen gắn máy tính với Internet, là người biết được sự khác biệt giữa Dell và Compaq trước khi thị trường biết điều đó. Ông ta có thể thấy Compaq đang tụt hậu và trong một thế giới phát triển nhanh thì người ta sẽ nhanh chóng nhìn ra khoảng cách của sự tụt hậu như vậy. Ấn bản đầu tiên của cuốn sách này được phát hành vào ngày 21 tháng 4 năm 1999. Một tuần trước khi sách được đem ra bán ở hiệu, thì những người điều hành cao cấp nhất của Compaq bao gồm Pfeiffer và Mason bị hội đồng quản trị của hãng sa thải khi mức lợi nhuận quý một của hãng năm đó được thông báo chỉ bằng phân nửa mức các nhà phân tích dự đoán. Trường hợp hãng Compaq minh họa cho việc Internet đang làm hình thành một mức tốc độ mới, được biết với cái tên "tốc độ của Net". Không ai có thể cho bạn biết Tốc độ đó nhanh ra sao, nhưng ai cũng có thể nói với bạn rằng một khi thâm nhập vào giới kinh doanh, thì Internet khiến cho các công ty phải tăng tốc trong tất cả các mặt – từ thiết kế sang sản xuất tới tiếp thị. "Lời khuyên của Thung lũng Silicon là bạn hãy giã từ cái gọi là kế hoạch năm năm.. ũng như những kế hoạch trong năm", bài trên tờ BusinessWeek (1/11/1999), "và giã từ những dây chuyền sản xuất han rỉ. Một số công ty đã viết đi viết lại chiến lược hoạt động theo từng quý – nếu không thì hỏng to.. tốc độ của Net khiến xuất hiện nhiều thay đổi về văn hóa doanh nghiệp. Những cơ cấu thứ bậc nay bị đập vỡ. Vòng quay ngân sách bị nắn ép cho nhỏ nhẹ bớt. Các quyết định nay thuộc chức năng của các nhân viên ở tuyến đầu. Đòi hỏi của khách hàng, chứ không phải của ban quản trị, đang là kim chỉ nam cho các dự án. Điều gì là động lực của những thay đổi đó? Chắc chắn kinh tế mạng là một trong những yếu tố. Khi chi phí giảm đi cho phép những" lính mới "vào tham gia kinh doanh trong ngành bán lẻ hay tài chính, cạnh tranh sẽ gia tăng khiến mọi người phải liên tục chống đỡ. Nhưng một yếu tố lớn hơn là việc Net đẩy các công ty vào gần khách hàng hơn thông qua việc buôn bán và tiếp nhận góp ý trực tiếp và thường xuyên hơn.'Vạch chiến lược vốn được hiểu là dựa trên mô hình sản xuất rồi bán, ' John M. Jordan, Giám đốc nghiên cứu thương mại điện tử của hãng Ernst & Young cho biết. Giờ đây ông ta nói điều đó vứt đi." Khách hàng ra lệnh, báo cho các công ty biết họ muốn gì, và các công ty phải đáp ứng, nếu không thì cứ việc giải tán. Đó là một lối tư duy mới về chiến lược ". Các quốc gia giờ đây cũng phải chịu những sự bảo ban tương tự. Khi đến một nước, một trong những câu hỏi đầu tiên của tôi sẽ là: Chính phủ và xã hội của bạn đánh giá, cải tiến, quyết định, thả nổi và thích nghi nhanh chóng đến mức nào? Có nghĩa là đất nước của bạn cải tổ cơ cấu kinh tế đến mức nào để khiến cho chính phủ phê duyệt nhanh hơn, giao dịch, sản xuất và đầu tư được nhanh hơn? Một công dân nước bạn mất bao nhiêu lâu để biến ý tưởng của anh ta từ trong nhà ra thành sản phẩm trên thị trường? Việc thu hút vốn để thực hiện một ý tưởng điên rồ được thực hiện nhanh chóng đến đâu? Mất bao lâu để bạn hình thành một sáng kiến? Và bạn giúp cho việc tiêu diệt các công ty làm ăn yếu kém, thông qua luật phá sản, nhanh đến mức nào? Một số quốc gia và khu vực đạt được mức cấp vốn nhanh chóng vì chính phủ ở đó đã học được cách hoạt động nhanh chóng hơn." Trước đây ở Scotland, chẳng thấy ai đứng ra thực sự sản xuất ", Enrico Pesatori, Phó chủ tịch hãng Compaq phụ trách tiếp thị, nói," giờ đây bạn không thể không đến đó. Vì sao? Vì họ đã xây dựng được một cơ sở hạ tầng. Nếu sang Scotland, bạn sẽ thấy mọi thứ đã sẵn sàng – hệ thống luật lệ, môi trường thuế vụ, giao thông, viễn thông – sẵn sàng để bạn có thể xây dựng nhà xưởng sản xuất nhanh chóng theo ý muốn ". Một số quốc gia phát triển nhanh bởi vì dân chúng của họ – vì lý do văn hóa, lịch Sử hay đơn thuần do huyết sắc tố đặc biệt– dân chúng nhanh nhẹn bẩm sinh, chính phủ chu cấp cho họ những nguồn tài lực thiết yếu rồi tránh sang một bên để họ tự phát triển – và họ đã phát triển thật là nhanh. Những vùng như Bắc nước Ý, Tel Aviv, Thượng Hải, Hàn Quốc, Beirut và Bangalore phát triển nhanh chóng và tự tách khỏi những vùng khác trong cùng đất nước và khu vực. Đó là những" vùng nóng "và trở thành đầu tàu phát triển mạnh mẽ của đất nước. Một khi lựa chọn một trong những" vùng nóng "đó, trang bị Internet cho nó và kết nối nó với các cộng đồng cùng chủng tộc rải rác trên thế giới – những nhóm người Hoa, Do Thái, Ý, Li Băng, Ấn Độ hay Hàn Quốc sống ở nước ngoài – bạn sẽ có được điều tôi gọi là" tập hợp các sắc tộc ". Những tập hợp đó kết hợp tốc độ, sáng tạo, tài kinh doanh và mạng lưới quan hệ của họ, tất cả có thể sản sinh những nguồn tài sản cực lớn. Trên thực tế, vùng Bắc nước Ý ngày nay là vùng giàu có nhất châu Âu. Reginald Bartholomew, cựu đại sứ Mỹ ở Ý giải thích:" Giả sử bạn sang thăm Pháp, Đức và Ý và hỏi dân ở đó, "Tôi muốn mua một ít pho mát màu tím". Điều gì sẽ xảy ra? Người Pháp nói với bạn, "Thưa ông, pho mát không bao giờ có màu tím". Người Đức nói, "Pho mát màu tím không nằm trong catalogue năm nay". Nhưng người Ý sẽ trả lời.. Người Ý sẽ hỏi bạn, "Màu tím, OK, tông màu tím chính xác loại gì? Thưa ông?'" Nếu Bắc Ý là một loại cổ phần, thì tôi sẽ mua để đó. Có phải đất nước hay công ty Của bạn đang gặt hái kiến thức? Chúng ta đã rời khỏi một thế giới trong đó chìa khóa đến với thịnh vượng là cung cách bạn chiếm hữu, gìn giữ và bóc lột các vùng đất, sang một thế giới mà chìa khóa đến với kho báu là việc đất nước hay công ty quy tụ, chia sẻ và gặt hái kiến thức. Cựu chủ tịch Ngân hàng Citibank Walter Wriston viết trong một tiểu luận đăng trên tạp chí Foreign Affairs (9/1997) : "Theo đuổi sự thịnh vượng nay đồng nghĩa với sự truy tìm thông tin và ứng dụng thông tin vào các phương tiện sản xuất. Luật lệ, tập quán, kỹ năng và tài năng cần thiết để tìm kiếm, thu thập, sản xuất, bảo tồn và khai thác thông tin hiện đang là những tài sản quan trọng nhất của nhân loại. Cuộc cạnh tranh để tìm cho ra loại thông tin tốt nhất đã thay thế cho cuộc cạnh tranh để chiếm được những cánh đồng hay mỏ than giàu có nhất. Thật ra tham vọng thôn tính lãnh thổ nay đã nguội đi, và các cường quốc đã rút khỏi nhiều lãnh thổ mà trước đây họ chiếm đóng.. Trong quá khứ, khi những phương thức tạo của cải thay đổi, thì những cơ chế cũ bị mất ảnh hưởng, cơ chế mới xuất hiện, và tất cả các phương diện của xã hội phải chịu ảnh hưởng. Trong cuộc cách mạng hiện nay, một quá trình tương tự đang hình thành, và chúng ta có thể mặc nhiên công nhận rằng trong vài thập niên tới sự cuốn hút và quản lý vốn tri thức sẽ quyết định việc những định chế hay quốc gia nào sẽ tồn tại hay diệt vong". "Đất nước của bạn được kết nối đến mức nào?" là một thước đo quy mô và mức độ mạng lưới quan hệ của đất nước. "Có phải đất nước của bạn đang gặt hái kiến Thức?" có mục đích đo xem một đất nước và các công ty ở đó sử dụng những mạng lưới thông tin hữu hiệu như thế nào. Kết nối là cần thiết nhưng chưa đầy đủ. Một đất nước cần phải quy tụ thích đáng và sử dụng kiến thức một cách hữu hiệu. Hơn bao giờ hết, nó cần được kết nối và đào tạo kiến thức. Chính vì thế tôi muốn nhìn cả vào hai thứ biểu đồ mỗi khi đến một quốc gia. Một biểu đồ do hãng máy tính Hewlett-Packard đưa ra cho thấy quốc gia nào trên thế giới được nối mạng nhiều nhất. Biểu đồ thứ hai do OECD hàng năm đưa ra cho thấy nước nào trong số 29 thành viên phát triển cao nhất trên thế giới có số phần trăm học sinh tốt nghiệp trung học cao nhất và sử dụng phần lớn nhất trong thu nhập quốc gia vào việc trả lương cho các thầy cô giáo. Nếu bạn nhìn vào những quốc gia đứng đầu bản – tiêu chuẩn megabit/đầu người và tốt nghiệp phổ thông/theo đầu người – thì có thể kết luận được nước nào phát triển đúng hướng và nước nào không. Chẳng hạn không phải ngẫu nhiên mà Phần Lan, hiện tại hưởng thu nhập theo đầu người cao nhất thế giới đứng đầu trong cả hai danh sách. Tiêu chuẩn trên cũng được áp dụng vào các công ty. Tập đoàn điện tử khổng lồ của Đức là Siemens được kết nối mạng toàn diện và có danh tiếng là hãng sử dụng và khai thác hữu hiệu nguồn tài năng của họ. Có lần tôi nghe thấy một nhà tư vấn cho hãng Siemens nhận xét: "Nếu Siemens hiểu biết được mức độ tri thức của họ đến đâu thì họ sẽ là một công ty giàu có". Tương tự với các quốc gia: "Nếu Pháp hiểu được dân của họ thông minh mức nào.. Nếu Trung Quốc nhận thức được những tri thức họ có.." Các công ty và đất nước học được cách khai thác mạng điện toán cho hữu hiệu thì họ sẽ ăn nên làm ra. Ở hãng General Electric khái niệm chia sẻ sáng kiến đã được khắc sâu vào cung cách làm việc và đó là cơ sở để tăng lương và thưởng – các quản đốc phải có khả năng phát huy sáng kiến, chia sẻ với đồng nghiệp và tạo nên giá trị gia tăng cho sản phẩm của họ. Bạn có thể hiểu tốt hơn được nguyên tắc chia sẻ tri thức nếu đem đặt nó vào hoàn cảnh một công ty mà thông thường không liên quan nhiều đến lĩnh vực thông tin – chẳng hạn hãng dầu mỏ Chevron. Tôi sang Kuwait hồi năm 1997, trò chuyện với H. F. Iskander, Tổng giám đốc chi nhánh Chevron tại nước này, và là một trong những nhà kinh doanh dầu mỏ sắc sảo nhất vùng Vịnh. Câu chuyện của chúng tôi xoay quanh chủ đề làm thế nào để Chevron quay lại Kuwait để khai thác. Khi nói về những điểm mạnh của Chevron để hấp dẫn Kuwait, Iskander tình cờ nhận xét rằng, "Chevron không phải là một hãng dầu khí, mà là một hãng học hỏi." "Ông nói 'học hỏi' là nghĩa làm sao?" Tôi hỏi. Hãng dầu khí thì phải khoan dầu khí. Họ là những người đội mũ bảo hiểm cứng, mặt mũi chân tay lấm dầu bê bết. Duyên cớ gì mà dính đến "học hỏi"? Iskander giải thích: Trong những năm 70 hầu hết các quốc gia dầu mỏ ở Trung Đông đã đuổi các công ty dầu khí đa quốc gia ra khỏi vùng này để họ tự đứng ra sản Xuất. Một phần đó là một quyết định kinh tế, một phần mang tính chính trị phản ánh tinh thần độc lập của các quốc gia thời hậu thuộc địa trong Chiến tranh Lạnh. Nhưng sau 20 năm, các quốc gia xuất khẩu dầu lửa hiện đang xem xét lại những điều họ đã làm và tìm cách mời các công ty đa quốc gia quay trở lại. Một phần vì dự trữ dầu lửa đang giảm, họ phải tìm đến những trữ lượng dầu lửa ở sâu hơn, khó tìm hơn, thăm dò dầu khí trở nên khó khăn và đòi hỏi nhiều vốn liếng hơn và nhiều kiến thức hơn. "Chevron đang khoan thăm dò ở nhiều nơi trên thế giới," Iskander giải thích, "không có khó khăn nào mà chúng tôi chưa gặp phải và chưa giải quyết xong. Không có loại đá nào mà chúng tôi chưa khoan. Chúng tôi tập hợp tri thức tại các đại bản doanh, phân tích, xếp loại và điều đó giúp chúng tôi giải quyết những vấn đề thuộc về công nghệ khoan thăm dò ở bất cứ nơi nào. Trong một nước đang phát triển có thể có một công ty dầu khí của nhà nước đã và đang bơm dầu 20 năm qua. Nhưng chúng tôi nói với họ rằng, quý vị có 20 năm kinh nghiệm nhưng không có sự hiểu biết đa dạng. Kinh nghiệm của quý vị đơn thuần có bề dày một năm, ở một nơi và nhân với 20 lần. Đối với Chevron, một công ty từng đương đầu với nhiều tầng kinh nghiệm và đã tích lũy và phát huy được nhiều tầng sáng kiến và giải pháp. Họ phải tự tìm ra giải pháp nếu không sẽ không tồn tại. Những tri thức đó được tập trung trong kho tàng thông tin của Chevron. Chìa khóa làm ăn của chúng tôi là tận dụng kho tàng đó và đưa ra các giải pháp từng được tìm thấy ở Nigeria chẳng hạn, đem ứng dụng cho Trung Quốc hay Kuwait. Ngày trước nhiều khi phải mất hai năm chúng tôi mới tìm được một chuyên viên trong công ty, người nhận ra là giải pháp ở Nigeria có thể giúp cho Trung Quốc. Giờ đây với email và sự toàn cầu hóa nguồn nhân lực của công ty, nhân viên của chúng tôi có thể di chuyển thường xuyên hơn đến các dự án và việc kiếm các giải pháp từ kho thông tin của hãng nhanh chóng hơn nhiều." Chính vì thế các công ty ngày nay lo bảo vệ kho tàng tri thức của họ cũng giống như các vị lãnh chúa ngày xưa dựng tường và hào cùng hồ nước để phòng vệ thành quách của họ. Tôi đã đến trụ sở của hãng Sun Microsystems ở bên ngoài Palo Alto. Trước khi vào phỏng vấn một lãnh đạo của hãng, nhân viên tiếp tân chìa cho tôi một tờ cam kết pháp lý để tôi ký vào, mang tên "Thỏa thuận không tiết lộ các bí mật." Trên đầu trang có hai mục để tôi khai: "Tham quan bảo mật" hay "Tham quan bình thường." Trong số những điều tôi phải cam kết trong nội dung của bản khai trước khi bước vào văn phòng bên trong của hãng là điều khoản: "Người khai chấp nhận sẽ không tiết lộ những thông tin về thương mại cho bên thứ ba. Người khai chấp nhận sẽ sử dụng những thông tin thương mại vào mục đích được hãng Sun cho phép và thông tin đó chỉ dành riêng cho người khai". Ngày nay bạn có thể bước vào trụ sở của CIA mà không cần nhiều giấy má đến thế. Chính vì thế nhiều công ty lớn nhỏ ngày nay đã bổ nhiệm thêm một chức vụ – CIO – giám đốc phụ trách thông tin. Các công ty ngày nay đã hiểu rằng nếu tận dụng Hữu hiệu tri thức và thông tin ở mỗi khâu sản xuất và hoạt động, thì họ sẽ tăng lợi nhuận và hiệu quả công việc cao hơn. Đến bao giờ thì mỗi đất nước có được một "bộ trưởng thông tin", người có nhiệm vụ không phải là công bố với nước ngoài về những gì xảy ra trong nước như thời Chiến tranh Lạnh, mà để làm cho đất nước biết rõ về nguồn tri thức họ có và đảm bảo gặt hái thành quả của nguồn tri thức đó một cách hữu hiệu nhất. T. J. Rodgers, người sáng lập ra hãng Cypress Semiconductor nói: "Sự phân biệt giữa kẻ thắng và người thua trong thời đại thông tin được quyết định bởi bộ não. Chỉ cần hai phần trăm dân số Hoa Kỳ có thể nuôi sống được toàn bộ đất nước, năm phần trăm để sản xuất những gì dân Hoa Kỳ sử dụng. Tất cả những phần còn lại thuộc lĩnh vực dịch vụ và thông tin, trong đó nhân loại và trí óc là những nhân tố then chốt." Trọng lượng của đất nước hay công ty của bạn là bao nhiêu? Chúng ta đang di chuyển từ một thế giới những kẻ nặng nề ăn thịt những kẻ nhỏ bé, sang một thế giới có khuynh hướng ngược lại – những kẻ nhẹ nhàng lanh lợi bắt nạt những kẻ to xác nặng nề. Khi sang một đất nước, một trong những điều đầu tiên tôi tìm hiểu: Đó là đất nước này nặng bao nhiêu – hay một công ten nơ hàng xuất khẩu trung bình nặng bao nhiêu? Alan Greespan là người dạy tôi về ý nghĩa câu hỏi này. Nó liên quan tới thuật ngữ "hiệu ứng thay thế," trong đó ý tưởng, tri thức và công nghệ thông tin đang dần thay thế những cỗ máy nặng nề, giúp cho việc tạo dựng giá trị kinh tế. Càng có thêm công nghệ thông tin và kiến thức áp dụng vào việc thiết kế sản phẩm, bản vi mạch thu nhỏ chẳng hạn thì sản phẩm càng trở nên nhẹ hơn, năng suất cao hơn, bán chạy hơn và công ty hay đất nước của bạn sẽ kiếm nhiều tiền hơn. Thay thế thiết bị transistor bằng kỹ thuật ống chân không, chúng ta đã giảm kích thước của chiếc radio. Những đường cáp quang bằng nửa sợi tóc đã thay thế loại cáp đồng nặng nề. Máy ghi âm kỹ thuật số hiện cho phép ghi âm chất lượng cao, không cần băng, mà chỉ dùng bộ vi xử lý và kỹ thuật số. Chiếc máy tính tiền cổ lỗ của bố bạn dùng khi xưa nay đã được thay thế bằng máy tính nhỏ bằng bàn tay. Những tiến bộ trong kiến trúc và cơ khí, cùng việc xuất hiện những vật liệu nhẹ hơn và bền hơn trong xây dựng, cho phép chúng ta giữ được không gian làm việc không đổi trong những tòa nhà được xây dựng với ít bê tông, kính và sắt thép hơn. Người thư ký phục phịch ngồi sau chiếc bàn nặng nề cổ kính nay được thay thế bởi một thiết bị trả lời điện thoại tự động nhỏ xíu, gắn vào điện thoại của bạn. Nhẹ tựa lông hồng. Do đó, một thước đo về sức mạnh, độ bền và lực của một đất nước giờ đây thể hiện ở chỗ: Tổng sản phẩm quốc nội GDP của đất nước nhẹ đến mức nào. Tính theo mỗi đô-la Mỹ thì GDP trong một đô-la giờ đây nhẹ hơn trước kia nhiều. Greensapan giải thích rằng hồi giữa thế kỷ 20, "biểu tượng của kinh tế Mỹ" được tính bằng các sản phẩm nặng nề như sắt thép, xe hơi và máy công nghiệp – những mặt hàng đòi hỏi chi Phí sản xuất cao, dồi dào nguyên liệu thô và cần nhiều nhân công để điều khiển và sửa chữa. Khái niệm "trọng lượng tỷ lệ thuận với giá trị" đã ăn sâu bén rễ đến mức: Tương truyền, khi máy vi tính Apple II, loại máy cá nhân đầu tiên, ra đời vào năm 1977, một số nhân viên của hãng Apple Computer đã nghĩ tới việc gắn thêm vài thứ đồ khiến cho nó nặng nề hơn, vì họ e nếu để máy không thì nhẹ quá và người tiêu dùng sẽ nghi ngờ. Từ ngày đó, như Greensapn chỉ ra, khuynh hướng GDP mới xuất hiện, đó là "kích thước nhỏ hơn, ít mang giá trị trọng lượng hay hữu hình hơn." Ngày nay một đất nước xuất khẩu những nguyên liệu thô – hàng hóa, quặng, dầu thô – sẽ có trọng lượng lớn. Trong khi một đất nước chuyên trách về công nghệ thông tin và dịch vụ sẽ có trọng lượng thấp hơn nhiều và nhiều khả năng cung cấp mức sống cao hơn cho dân chúng trong nước. Điều tương tự cũng xảy ra trong các công ty. Hãng Dupont nay đang đòi hỏi mỗi một phòng ban của hãng phải đưa ra một báo cáo hàng năm gọi là "Giá trị của cổ đông tính trên mỗi bảng Anh". Dupont tiếp tục đảm bảo là mỗi năm, mỗi sản phẩm mới của hãng phải được tăng giá trị, tăng lợi nhuận nhưng giảm được lượng nguyên liệu sử dụng. Hồi năm 1983 khi bắt đầu phát hành cổ phiếu, trong hồ sơ cho khách hàng, hãng máy tính Compaq khoe: "Máy tính xách tay Compaq.. là loại máy 16-bit, lắp ráp đồng bộ rộng 20 inch, cao 8, 5 inch và dày 16 inch. Nặng trung bình 28 pound, có thể được chuyên chở từ sở về nhà và mang đi công tác. Loại" máy tính xách tay "28 pound được mọi người trong hãng gọi là" kéo lê được "vì đó là phương cách duy nhất để di chuyển máy. Giá bán lẻ trung bình là 2.995 đô-la. Năm 1999, máy xách tay đời mới Compaq Armada 3500 nặng 4.4 pound với bộ nhớ tăng 500 lần. Giá bán từ 3.299 đến 4.399 đô-la, tùy cấu hình. Vì năm 1983 Compaq có biên lợi nhuận là 27, 6%; mức này hầu như không đổi vào năm 1997 là 27, 5 % nên hãng này hiện có lời nhiều hơn bằng cách học làm thế nào để tăng cường thêm chất xám cho máy tính, trong khi giảm trọng lượng của máy xuống 7 lần.compaq đã giàu lên (ít nhất là trong một thời gian) do làm ăn thông minh hơn để có sản phẩm nhẹ hơn. Liệu đất nước hay công ty của bạn có dám mở cửa ra bên ngoài? Chúng ta đang tiến từ một thế giới mà những kẻ sống kín đáo nghĩ rằng họ có thể tồn tại tốt hơn, sang một thế giới nơi những người cởi mở sẽ thành đạt nhanh hơn nhiều. Hãy lại nhìn vào thế giới của máy tính. Những hãng sản xuất máy tính cố sức cạnh tranh bằng cách giữ rịt lấy những tiêu chuẩn riêng do họ độc quyền đang tồn tại một cách chật vật, trong khi những hãng khác cạnh tranh trên cơ sở sử dụng các hệ tiêu chuẩn chung và cởi mở – đi đầu là IBM với sự giúp đỡ của Intel – đã lên ngôi nhanh chóng. Những cái gọi là" phiên bản IBM PC "– ví dụ Compaq, Dell, Gateway, HP, Micron, Acer – sử dụng tiêu chuẩn của IBM rồi tiến tới tiêu diệt IBM và tiêu diệt Lẫn nhau. Họ lắp ráp các loại máy với tiêu chuẩn chung, cởi mở, rẻ hơn và được trợ giúp bằng các công nghệ thông dụng hơn. Các công ty máy tính như Data General, Commondore, Wang, Prime và Apple, tất cả đều muốn giữ riêng tiêu chuẩn kỹ thuật độc đáo của họ. Như Nicholas Negroponte viết trong cuốn sách Being Digital, họ nghĩ rằng nếu sáng tạo được một hệ thống vừa dễ dùng vừa độc đáo thì họ sẽ giữ được độc quyền để thống trị, tránh được cạnh tranh. Trong số đó chỉ có một hãng, Apple, là còn làm ăn được, chỉ vì hãng này đã tổ chức được một mạng lưới những người sử dụng hết sức trung thành. Họ đã không đứng ra thu hút đại đa số người dùng. " Trong một thị trường mở, chúng ta cạnh tranh với sức tưởng tượng của chính chúng ta, mà không dùng đến ổ khóa và chìa khóa, "Negroponte nhận xét." Kết quả cho thấy không những xuất hiện một loạt các công ty làm ăn thành công, mà cũng xuất hiện một loạt những sự lựa chọn mới giành cho giới tiêu dùng và cả một khu vực thương mại mới có khả năng cải tổ và tăng trưởng nhanh chóng. " Chiến lược đó là chìa khóa để cho Compaq trở thành một hãng thích nghi một cách hiệu quả với kỹ thuật của IBM đồng thời là một hãng sáng tạo riêng. Earl Mason giải thích:" Chiến lược của Compaq muốn đi đầu trên thế giới máy tính, sử dụng các tiêu chuẩn đại chúng, vì càng có thêm các nhà lập trình và sáng tạo phần mềm thích hợp với linh kiện cứng của chúng tôi thì hãng sẽ càng gia tăng được việc bán sản phẩm, bán dịch vụ và cung cấp giải pháp đồng bộ. Luận thuyết cũ cho rằng nếu tôi sở hữu hệ điều hành của riêng tôi, nếu tôi có những người chỉ chuyên bán phần mềm cho hệ điều hành của riêng tôi, có nghĩa là tôi sẽ kiểm soát toàn bộ các công đoạn. Tôi sẽ trở nên độc lập, không bị lệ thuộc tương tác và sở hữu những thứ mà người khác không có. Luận thuyết đó không thành công, vì những nhà viết phần mềm bao giờ cũng muốn cung ứng cho lượng càng đông những người tiêu dùng, vì thế, là một cơ sở sản xuất phần cứng máy tính, nếu thích nghi với những tiêu chuẩn chung, phổ biến, thì bạn sẽ càng bán được cho nhiều thêm trong giới tiêu dùng. Ban đầu, hãng Apple không muốn chia sẻ những tiêu chuẩn riêng của họ. Vậy là những người thiết kế phần mềm nói: "Này, làm thế không hay. Nếu chỉ phục vụ riêng Apple, tôi chỉ viết được từng bấy nhiêu phần mềm và chỉ bán được bấy nhiêu thôi, và tôi sẽ bị lệ thuộc vào Apple về doanh số. Nhưng nếu tôi hợp tác cùng các công ty sử dụng hệ tiêu chuẩn đại chúng thì tôi sẽ thành đối tác của rất nhiều công ty, như Compaq, IBM và Dell và làm như thế doanh số bán của tôi sẽ cao hơn." Nếu bạn quy tụ được các phương tiện sản xuất đúng đắn – học được cách thích nghi nhanh hơn, sáng tạo nhiều hơn, học cách giao thiệp rộng rãi với khách hàng, tận dụng kiến thức, học cách kiểm soát chi phí sản xuất tốt hơn và duy trì sản xuất đều đặn đúng hạn – thì bao giờ bạn cũng có thể cạnh tranh với bất cứ ai và dùng bất cứ tiêu chuẩn nào. Quả thực mảng kiến thức duy nhất mà bạn cần giữ bí mật đó là những mánh khóe bạn có được để trở thành những nhà tạo lập hay thích nghi nhanh hơn Người khác. "Có những điều chúng tôi không chia sẻ với người khác," Mason giải thích, "Lý do mà chúng tôi không muốn anh quan sát một số khía cạnh trong dây chuyền sản xuất là bởi vì những thứ đó cấu thành bí quyết kinh doanh và nếu anh là một đối thủ nhìn thấy và thu thập được những bí quyết đó thì anh sẽ rất dễ dàng bắt chước. " Một lý do khiến cho Internet phát triển quá nhanh là do hệ thống này sử dụng hệ tiêu chuẩn chung. Những giải pháp tốt nhất ra đời và được tiếp thụ rất nhanh, và cuộc chiến cạnh tranh kết thúc cũng rất nhanh. Hiện chưa có kẻ nào thua hẳn. Hiện các công ty có rất ít thời gian dành cho việc bảo vệ bản quyền; họ dùng phần lớn thời gian vào việc tiếp thụ các giải pháp và công nghệ mới. Robert Shapiro, Chủ tịch hãng Monsanto nói thông thường có một số lĩnh vực cần được giữ bí mật. Nhưng cái nền văn hóa xung quanh điều bí mật đó sẽ là nền văn hóa chậm chạp, chỉ thích hợp đối với thời xưa. Là một công ty, rốt cuộc rồi bạn cũng sẽ phải đánh giá cao những điều bạn hiểu biết và hạ thấp những gì quá hiển nhiên. Shapiro nói: "Tôi rất muốn nói: Tôi sẽ nói với bạn tất cả những gì tôi hiểu về kiểu hoạt động của hệ thống này, nhưng bạn vẫn tiếp tục động não để phát triển nó. Bởi vì sự thật là bạn không thể dựa lâu vào sự độc quyền thông tin. Rốt cuộc những gì có ý nghĩa nhất chính là những yếu tố làm cho bạn cạnh tranh hữu hiệu trong cuộc đua mở rộng. Cung cách quản lý và trao đổi thông tin và cung cách thu thập kiến thức – đó là những lợi thế để bạn phát triển bền vững." Đối với các quốc gia cũng vậy. "Tất cả những gì tôi có thể nói," Mason cho biết, "một khi cởi mở thì khả năng bạn trở thành nạn nhân của những điều chính bạn ngộ nhận sẽ ít hơn nếu so sánh với trường hợp khi bạn chỉ khư khư một mình đóng cửa. Hãy xem ngành ngân hàng của Nhật Bản. Vì sao trên lý thuyết nó đã bị phá sản? Bởi vì nó kín như bưng. Nó đã trở thành nạn nhân của những điều nó tưởng chỉ có nó mới biết." Quả thực là có một tương quan trực tiếp giữa sự cởi mở của một nền kinh tế một nước với mức sống của dân chúng ở đó. Một nghiên cứu của Jeffrey Sachs và Viện Phát triển Quốc tế của Đại học Harvard kết luận rằng sự cởi mở quyết định tăng trưởng nhanh chóng. Các nền kinh tế mở, Sachs nhận định, "tăng 1, 2 phần trăm mỗi năm nhanh hơn tốc độ các nền kinh tế đóng cửa, vì càng mở cửa, bạn càng hội nhập được vào mạng lưới các sáng kiến và ý tưởng, thị trường mới, công nghệ và những sáng tạo trong quản lý." Khi tôi đến tỉnh Cát Lâm ở miền bắc Trung Quốc giám sát một cuộc bầu cử cấp địa phương, một trong những bản làng chúng tôi đến là Kai An, nơi chúng tôi gặp nhiều dân làng tại nhà riêng của họ. Hầu hết các ngôi nhà thường có ba phần. Phần đầu là một buồng, tường gạch đóng từ bùn, nơi có ảnh Mao Trạch Đông. Phần hai là một căn nhà gạch đỏ nơi có ảnh Đặng Tiểu Bình, và phần thứ ba của ngôi nhà, bao Giờ cũng mới nhất, gạch trắng trang nhã, đá ốp cổng – đó là căn được xây trong thời Giang Trạch Dân. Bạn có thể chứng kiến Trung Quốc phát triển ra sao theo con đường mở cửa trong cái cách nhà cửa của dân địa phương được nâng cấp như thế đó. Trong tương lai, lợi thế của việc duy trì mở cửa kinh tế sẽ tăng gấp nhiều lần vì trong toàn cầu hóa, kiến thức là chìa khóa dẫn tới tăng trưởng kinh tế và nếu bằng cách nào đó bạn cứ đóng cửa đất nước của bạn, không tiếp xúc với những bộ óc thông minh, những công nghệ mới, thì đất nước của bạn sẽ tụt hậu nhanh hơn nữa. Chính vì thế những xã hội phóng khoáng, bao dung, sáng tạo và đa dạng sẽ thoải mái tồn tại trong toàn cầu hóa trong khi những xã hội hay những công ty đóng kín, cứng nhắc, vị kỷ và níu bám truyền thống rồi sẽ khốn đốn. AnnaLee Saxenian, chuyên gia về đô thị thuộc Đại học Berkeley đã thực hiện một nghiên cứu rất hay, tựa đề "Lợi thế theo vùng," giải thích vì sao Thung lũng Silicon thật đặc biệt khi so với các vùng công nghiệp cao khác. Silicon độc đáo, chị nói, là do những lằn ranh giữa các hãng công nghệ cao, giữa họ với các nguồn vốn, các ngân hàng, các cơ sở nghiên cứu bậc đại học và chính phủ địa phương – đang được xóa nhòa. Saxenian chỉ ra rằng Thung lũng Silicon thuộc East Coast, Xa lộ 128 ở Boston bao giờ cũng đi chậm hơn so với Thung lũng Silicon thực sự, vì ở xa lộ 128, Boston, các công ty, cộng đồng và chính phủ duy trì chính sách đóng cửa, giữ bí mật và tránh mạo hiểm. Một số quốc gia nhỏ đang tiến tới việc tận dụng lợi thế của sự cởi mở. Tờ Washington Post (số ngày 17/10/ 1997) cho biết trong khi di trú trở thành một chủ đề tranh cãi giữa hai phái bảo thủ và cấp tiến trong xã hội Mỹ, "thì một số quốc gia đã áp dụng một vài kiến thức trích dẫn từ kinh nghiệm di cư của chính nước Mỹ." Đại sứ Singapore tại Washington Heng-Chee Chan đã giới thiệu một sáng kiến nhằm thu hút dân di cư vào nước này, thúc giục họ "Tây kinh" – hãy đi về miền Tây, "đi mãi về miền Tây, cho đến khi đến được châu Á." Vị Đại sứ này được trích dẫn: "Chúng tôi nhận thấy cần thêm nhiều tài năng mới để cống hiến cho viễn cảnh xây dựng Singapore thành một thành phố thông thái, một thành phố của tương lai châu Á." Quan niệm tìm kiếm dân di cư, bà Đại sứ cho biết, bắt nguồn từ một khảo sát về những xã hội phát triển nhanh như Hoa Kỳ và Anh, họ phát triển nhanh do duy trì được sự cởi mở và đa dạng. "Chúng tôi khám phá ra rằng những xã hội mở thường đảm bảo được sự sáng tạo và tiến bộ," bà Đại sứ nói. Vì thế Singapore đã tìm tới một "sự trao đổi" trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, cơ khí, dược, nghiên cứu và phát triển, đồng thời khu vực ngân hàng. Bà nói: "Bạn sẽ tiếp tục thấy tiến bộ diễn ra tại những xã hội đa dạng, chính vì thế Singapore hoàn toàn tự tin trong cách tuyển lựa tài năng cho đất nước." Chương trình tuyển dụng lao động của Singapore mang tên "Liên lạc với Singapore," đã thu hút nhiều tài năng từ châu Âu và Australia. Đại sứ Singapore cho biết mức Lương cho họ cao và có thể so sánh với lương trả cho các chuyên viên ở Thung lũng Silicon và "Ở Singapore cũng có món bánh bagel vùng Brooklyn." Nhưng Singapore vẫn chưa xây dựng được một sự cởi mở về tri thức để có thể nướng món bánh Bagel của chính họ – chưa nói đến chuyện xây dựng được một phần mềm độc đáo hoặc những công nghệ dựa trên nền móng Internet. Thủ tướng Goh Chok Tong thậm chí đã nói trong phát biểu nhân ngày quốc khánh Singapore tháng 8/1999 rằng "Chúng ta cần phải xây dựng một tâm lý mang bản chất Thung lũng Silicon tại Singapore – sáng tạo và sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm." Chính phủ của ông ta đã bắt đầu cởi dần những kiểm duyệt đối với các trang Internet, đánh dấu sự thay đổi theo hướng đó. Nhưng đảng cầm quyền ở Singapore vẫn duy trì một sự kiểm soát chặt chẽ đối với nền chính trị và thông tin – khiến cho việc thu hút các nhà sản xuất chip vi tính vẫn còn khó khăn. Nhưng chúng ta vẫn nên quan sát Singapore để xem cung cách họ phối hợp tự do tri thức, cởi mở và khả năng tiến bộ trong thời đại Internet. Đó là dấu hiệu của hy vọng. Lyric Hughes, người sáng lập trang mạng China Online, một lần đã nhận xét, "Nếu có thể thuyết phục được những chính thể đang kiểm soát chặt chẽ, giúp họ nhận thấy rằng thông tin tự do không phải là sự đe dọa nhằm vào quyền lực nhà nước, mà là nhân tố tạo dựng một cơ sở hạ tầng bền vững và một dân số biết tận dụng khai thác nền kinh tế mới, thì đến thế kỷ sau, mọi sự sẽ tốt đẹp hơn." Khi mở cửa, bạn không chỉ thu hút được các bộ óc mới, mà còn cả những công nghệ mới do Bầy Thú Điện Tử mang đến. Nếu một đất nước giảm biểu thuế và tháo gỡ hàng rào thương mại thì đó là dấu hiệu quan trọng thu hút bầy thú, đặc biệt các loại thú sừng dài – các công ty đa quốc gia. Giả sử bạn là công ty Xerox quyết định xây dựng một cơ sở ở Brazil để sản xuất máy in photocopy. Nếu Brazil cởi mở các thị trường tiêu thụ máy in và không cố sức bảo hộ các cơ sở sản xuất máy in của riêng Brazil, thì, vì lợi nhuận, Xerox sẽ rất muốn chuyển giao công nghệ máy in hiện đại nhất vào nhà máy của họ ở Brazil, bởi vì họ có thể tạo sự cạnh tranh ở thị trường Brazil lẫn các thị trường khác trên toàn cầu với các hãng khác như của Nhật Bản hay châu Âu. Nhưng nếu Xerox thấy Brazil muốn duy trì hàng rào thuế quan chặt chẽ để bảo hộ các nhà máy nội địa, thì Xerox vẫn có thể xây dựng cơ sở của họ ở đó để cạnh tranh chỉ trong thị trường nội địa Brazil, nhưng như vậy họ sẽ không cần chuyển giao những công nghệ tiên tiến nhất vào nước này. Không cần thiết, vì họ chỉ phải cạnh tranh với các công ty thiếu kinh nghiệm, cấp thấp được nhà nước bảo hộ – và trong trường hợp đó Brazil sẽ bị lỡ cơ hội: Công nhân, thị trường và người tiêu dùng Brazil không được tiếp cận công nghệ tiên tiến nhất. Sau đây là một chuyện có thật: Đầu những năm 80, Brazil và Đài Loan giống nhau Ở mức thu nhập theo đầu người, có nhiều công ty nội địa lớn, vốn nhiều, công nhân tay nghề cao cùng lực lượng quản trị giỏi. Mỗi nước có cách riêng trong việc tích cực Tiếp cận các thương vụ điện tử tầm quốc tế, đặc biệt trong ngành sản xuất máy fax. Vấn đề là ở chỗ chỉ có một nguồn kỹ thuật để sản xuất máy fax cho cả hai nước – công ty Fujitsu của Nhật Bản. Quốc hội Brazil năm 1988 đã áp đặt một loạt các biểu thuế trên các mặt hàng điện tử, bao gồm cả máy fax để bảo hộ cho ngành máy fax non trẻ của họ. Hậu quả là không ai thấy có lợi lộc gì trong việc chuyển vào Brazil kỹ thuật máy fax mới nhất. Trong khi đó, Đài Loan cho phép mức thuế quan bằng 0 và tạo môi trường cạnh tranh để xem ai là người sản xuất máy fax tốt nhất. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, năm 1994 Đài Loan là nơi sản xuất máy fax đứng đầu thế giới, trong khi máy fax sản xuất tại Brazil có giá thành cao hơn nhiều so với giá trung bình của thế giới và ngành sản xuất máy fax ở nước này đang dần bị tiêu diệt. Năm 1995, Quốc hội Brazil bãi bỏ thuế nhằm vào máy fax và quyết định cho phép cạnh tranh tự do theo tiêu chuẩn chung cởi mở. Năm 1999, khi Trung Quốc bị tố giác đã ăn cắp một số bí mật về đầu đạn hạt nhân của Mỹ, bản thân tôi cũng như những người khác đều cảm thấy bực dọc – nhưng tôi không đến nỗi quá lo lắng. Vì Trung Quốc sẽ không thể đánh cắp được điều bí mật quan trọng nhất của Hoa Kỳ. Đó là lối sống của người Mỹ. Lối sống trong một xã hội mở. Trong một xã hội khóa kín, bao giờ bạn cũng phải chiếm giữ một bí quyết nào đó để tồn tại, vì bao giờ ở ngoài đời cũng có một sáng kiến mới nào đó xuất hiện và bạn phải cố đoạt cho được. Những xã hội đóng kín không phải là không thể sáng tạo, nhưng chúng không có được môi trường và khả năng cho phép luôn đổi mới, luôn sáng tạo nhiều như trong những xã hội mở. Sống trong một xã hội mở cửa, sức mạnh của bạn đến từ chính sự cởi mở và tinh thần sáng tạo và sự hăng say do sự cởi mở mang lại. Khi người Trung Quốc bắt chước được điều đó thì tôi mới lo thực sự vì họ sẽ là những người cạnh tranh. Công ty hay đất nước của bạn có dám tự cởi trói trong nội bộ? Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, điều quan trọng là học cách cạnh tranh đối ngoại trên môi trường không còn rào cản, nhưng cũng quan trọng không kém là việc tự tháo gỡ những rào cản nội tại. Nội bộ của đất nước hay công ty của bạn trở nên minh bạch hơn, thì chính phủ của bạn càng có thêm khả năng duy trì pháp chế, bạn thêm khả năng chia sẻ công tác vạch chính sách, và những kẻ tham nhũng sẽ không còn nhiều chốn để ẩn núp, và người khác sẽ thêm khả năng để gắn bó với bạn hơn. Một hệ thống luật pháp hữu hiệu, minh bạch và trung thực – nơi dân chúng được thấy chính xác quá trình chính phủ vạch chính sách và giới đầu tư được đảm bảo rằng tài sản trên mọi phương diện kể cả tài sản trí tuệ được tôn trọng và môi trường hoạt động tương đối công bằng – đó chính là điều kiện thiết yếu để tăng trưởng bền vững. Chính vì thế mà Lyric Hughes, người sáng lập trang mạng China Online đã lập luận rất đúng là trong thời gian tới chúng ta không còn nói đến thế giới phát triển hay đang phát triển, những thị trường mới nổi hay không. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói đến "những đất Nước minh bạch" và những đất nước "thiếu minh bạch." "Trong thế kỷ 21, mỗi quyết định kinh tế đều mang tính toàn cầu," Hughes lập luận, "trong một thế giới thị trường tư bản toàn cầu, đầu tư sẽ chảy vào những khu vực được xác nhận có độ minh bạch về tài chính quốc tế. Thuật ngữ" các thị trường mới nổi "rồi sẽ bị coi là cũ kỹ, thuộc về thế kỷ 20 và sẽ được thay thế bằng lý thuyết về các nền kinh tế minh bạch hay thiếu minh bạch. Nhìn vào tương lai, những thị trường phát triển như Nhật Bản chẳng hạn, nơi vẫn không tạo được sự trao đổi thông tin thông thoáng, và những cấu trúc kinh tế còn tăm tối khác sẽ thấy: Chính họ sẽ phải cạnh tranh với các quốc gia xưa nay còn rất nghèo nhưng nay đã đạt được sự cởi mở trong hoạch định chính sách." Giới quản lý của công ty hay đất nước của bạn có hiểu biết hay không? Và nếu không, thì liệu bạn có thể thay quản lý mới được không? Cách đây vài năm tôi đã phỏng vấn nguyên thủ của một nước Ả Rập và, trong buổi phỏng vấn, tôi chúc mừng ông ta về việc hãng thẩm định mức khả tín tài chính Moody's đã nâng cấp đất nước của ông ta từ dưới lên thành mức đáng được đầu tư. Vị lãnh đạo này cám ơn tôi và quay sang một cố vấn của ông ta ngồi cạnh và hỏi bằng tiếng Ả Rập: "Moody's là cái gì?" Quản lý luôn đóng vai trò quan trọng, nhưng trong hệ thống mới phức tạp và tiến hóa nhanh ngày nay, quản lý và khả năng hình thành chiến lược đóng vai trò quan trọng gấp bội. Khi nhìn vào một đất nước hay một công ty ngày nay tôi thường hỏi: Liệu người lãnh đạo có phán xét được thông tin hay không? Liệu ông hay bà đó có thường xuyên đánh giá cùng một lúc được năm hay sáu phương hướng khác nhau? Ông hay bà đó có hiểu về ba cuộc cách mạng dân chủ hóa và đưa ra một chiến lược để tận dụng chúng hay không? Vì nếu bạn không thể nhìn thấy thế giới, không nhìn thấy những hoạt động tương hỗ đang định hình thế giới, thì bạn sẽ không vạch được chiến lược để đối phó với thế giới. Và nếu bạn phải đối phó và tạo sự thịnh vượng trong một hệ thống phức tạp và tàn bạo như toàn cầu hóa, thì bạn phải tìm một chiến lược mới. Craig Barrett, Chủ tịch hãng Intel, một lần đã nhận xét với tôi: "Chúng tôi là nhà đầu tư lớn nhất ở Ireland, và theo tôi, cũng là nhà tuyển dụng lớn nhất ở đó. Chúng tôi sang Ireland vì đất này rất trọng thương mại, họ có một cơ sở giáo dục mạnh, di chuyển ra vào đất này rất dễ dàng và công việc làm ăn với chính phủ cũng thật dễ dàng. Tôi muốn đầu tư ở Ireland trước tiên rồi mới sang Đức hoặc Pháp. Pháp là một nước đã thông qua đạo luật không cho phép mã hóa trong các thương vụ Internet. Công nghệ mã hóa mà hiện nay Intel đang áp dụng vào các chip vi tính họ sản xuất, đóng vai trò thiết yếu trong việc ngăn chặn tội phạm vào mạng đánh cắp các thông số thẻ tín dụng và thông tin cá nhân." Pháp là đất nước duy nhất trên thế giới, nơi mà chúng tôi không thể nhận đơn đặt hàng trên mạng từ khách hàng, vì nước này không Cho phép chúng tôi mã hóa ", Barrett nói." Tôi vừa sang Paris trưng bày một số sản phẩm mới của Intel, chúng tôi đã phải xin phép nhà nước Pháp miễn trừ luật pháp trong vòng 24 tiếng đồng hồ để minh họa kỹ thuật mã hóa. " Phần lớn các quốc gia trên thế giới sẽ rất lo sợ nếu họ bị người đứng đầu Intel coi là đi chệch hướng. Nhưng người Pháp lại cho rằng Intel đi chệch hướng." Bạn đưa ra một đạo luật dở hơi, đặt mã hóa ra ngoài vòng pháp luật – Mã hóa là kỹ thuật có thể lấy thẳng từ Internet xuống – và làm như vậy chính bạn đã cản trở tăng trưởng thương mại và kinh tế của bạn, "Barrett nói," vậy thì hoặc hãy để cho tôi ứng dụng công nghệ mã hóa, nếu không thì tôi xin đi chỗ khác. " Cuối những năm 80, Intel tổ chức một cuộc họp tiếp thị thị trường châu Âu và đã quyết định đầu tư vào đâu, thị trường nào làm ăn được và thị trường nào không. Người phụ trách tiếp thị châu Âu của Intel mang đến hội nghị một tấm bản đồ châu Âu – trong đó ông ta đã dùng dao cạo cắt bớt nước Pháp đi. Một cách cư xử trì độn như vậy đã khiến tôi đi đến ý tưởng rằng nếu nước Pháp là một cổ phiếu, thì tôi sẽ bán ngay đi. Nói vậy, nhưng thực ra Pháp cũng đang thay đổi và một ngày nào đó tôi dự kiến rằng Pháp sẽ quay lại danh sách các món hàng nên mua. Trong khi một số quan chức chính phủ và trí thức Pháp tuyên bố nhiều điều vớ vẩn chống lại hệ thống toàn cầu hóa, thì giới công nghiệp và thương gia đang mặc lên cho họ chiếc áo nịt mạ vàng để đối lại. (Pháp thậm chí đã giải tỏa bớt sự kiểm soát công nghệ mã hóa kể từ ngày Barrett sang Paris vào năm 1998) Liên quan tới toàn cầu hóa, thì nước Pháp giống như một tài xế, bật xi nhan bên trái để rồi rẽ sang phải. Nếu chỉ đọc những gì các bình luận viên của tờ Le Monde viết, thì bạn sẽ nghĩ rằng nước Pháp sẽ không bao giờ trở thành thông thái; nhưng nếu đọc phần tin thương mại ở Pháp trên tờ Tạp chí phố Wall của châu Âu, thì bạn nhận thấy rằng giới thượng lưu trong khu vực tư nhân thật thấu hiểu và đang thúc đẩy nước Pháp bước vào toàn cầu hóa. " Các thế lực đáng kể đang nhanh chóng bào mòn những ảnh hưởng truyền thống của chính phủ Pháp đối với nền kinh tế, "tờ Tạp chí phố Wall của châu Âu (19/11/99) viết," Các công ty được tư nhân hóa không còn tồn tại để phục vụ chính phủ và tạo công ăn việc làm; họ đang nghe lời một lứa các nhà đầu tư quốc tế có sự quan tâm chính là lợi nhuận. Đồng thời ảnh hưởng đang gia tăng của Liên hiệp Âu châu đang gây khó dễ cho việc các nhà lập chính sách của Pháp.. Không giống trong quá khứ, khi mà các quan viên trong chính phủ giật dây kinh tế, giám đốc các tập đoàn lớn, độc lập của người Pháp ngày nay đang trực tiếp sáp nhập công cuộc làm ăn của họ trên cơ sở được các nhà đầu tư toàn cầu xếp hạng. " Sẽ có những chống đối tại nước Pháp chống lại khuynh hướng các tổng công ty nâng hoạt động lên mức toàn cầu, nhưng trước sau thì những kẻ chống đối sẽ thua. Nhưng sẽ không thua ngay đâu. Một người bạn tôi sang Paris và mùa hè năm 1999; Chị đã phải dùng dịch vụ Internet tại bưu điện trung tâm Paris để gửi email. Chị đến đó vào giờ ăn trưa và thấy phòng Internet đóng cửa. Phòng này do một viên chức hành chính phụ trách, khi mỗi khi đi ăn trưa, người này khóa cửa phòng lại, ghi ngoài cửa là ông ta đi ăn trưa. Vậy ta có tin mừng là bưu điện Paris đã tổ chức dịch vụ Internet cho công chúng. Nhưng tin buồn cho ta là căn phòng Internet vẫn hoạt động theo truyền thống làm ăn 200 năm của người Pháp – mở cửa theo giờ hành chính và đóng cửa hai tiếng giờ ăn trưa mỗi ngày, như cái lối hoạt động của một tiệm bán thịt vậy. Một đất nước khác đang tạm thời nằm trong danh sách cần bán của tôi là nước Nga – họ vẫn chưa cài đặt hệ điều hành và những phần mềm nhằm tiến tới thịnh vượng. Một minh chứng rõ ràng nhất xuất hiện tháng 10 năm 1999 khi viên chức giám sát chứng khoán cao cấp nhất của Nga đã từ chức sau khi công bố rằng chính phủ của ông Boris Yeltsin đơn giản đã không quan tâm gì đến những luật lệ nhằm bảo vệ các cổ đông tại Nga. Hãy tưởng tượng nếu bạn nhặt một tờ báo của Mỹ và đọc được tin Arthur Levitt, đứng đầu Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Hoa Kỳ, từ chức, sau khi công bố rằng Thị trường Chứng khoán New York và các tòa án kinh tế Mỹ tham nhũng tới mức thà đem tiền đến đặt lỗ ở những sòng bạc Las Vegas còn hơn là đầu tư. " Bạn cần phải đặt một nhóm người mới lên hàng ngũ lãnh đạo nước Nga, "theo lời Bill Lewis, người đứng đầu Viện Toàn cầu của hãng tư vấn McKinsey, đã tiến hành một nghiên cứu lớn về kinh tế Nga trong thời kỳ 1999." Nhiều người đã chỉ ra thực tế là do tổ chức liên tục các cuộc tuyển cử tự do, nước Nga đã đi đúng hướng. Nhưng câu hỏi thực sự là: Liệu nước Nga đã có những ứng cử viên xứng đáng chưa? Họ có những nhà chính trị hiểu được nước Nga ngày nay cần gì và sẵn sàng đáp ứng chưa? Câu trả lời là: Chưa. Người mà nước Nga cần là một phiên bản của Rooservelt. Họ cần một nhà chính trị tinh nhanh, thật thà và hiểu viết sâu rộng, người thu hút được các chuyên gia và đi đầu một quá trình dân chủ, thiết lập các chính sách xã hội và những luật lệ thích đáng giúp tạo nền móng cho sự tăng trưởng. " Tôi vẫn hi vọng rằng cũng như ở Pháp, một thế hệ mới đang trưởng thành tại Nga, họ sẽ hiểu được hệ thống toàn cầu hóa và đòi hỏi cho có được những công cụ và bộ máy quản lý để phát triển đất nước trong toàn cầu hóa. Tháng 11/1999 tôi đến dự một hội thảo về cạnh tranh ở Colombo, Sri Lanka do USAID tổ chức. Cử tọa gồm các nhà kinh tế và thương gia của Sri Lanka, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Nepal. Một trong những người diễn thuyết chính của hội thảo là cựu Tổng thống Costa Rica, ông Jose Maria Figueres. Ông đã dành một tiếng đồng hồ, trước một cử tọa thật chăm chú, để miêu tả việc Costa Rica thu hút hãng Intel xây dựng một nhà máy ở nước này và thích nghi vào cuộc Cách mạng Thông tin. Cử tọa Nam Á có ấn tượng sâu sắc, và khi đến phần chất vấn thì hết người này đến người khác đứng dậy hỏi vị cựu tổng thống:" Ông có muốn ứng cử chức tổng thống ở đất nước của tôi không? " Đó là một khung cảnh đầy ấn tượng. Dân chúng từ nhiều quốc gia đứng lên đề nghị vị cựu lãnh đạo một nước khác tranh cử để lãnh đạo đất nước của họ – mà không cảm thấy xấu hổ. Điều này cho thấy trong thời đại mới khi dân chúng ngày càng hiểu thêm về cảnh sống của người khác – đặc biệt thế hệ từ 30-40 tuổi, được giáo dục – họ sẽ không chấp nhận chịu đựng mãi mãi một sự quản lý tồi về chính trị. Một phụ nữ người Sri Lanka, 46 tuổi, viên chức ngân hàng, tham dự hội nghị đã bày tỏ sự phẫn uất của chị một cách rất hay:" Chúng tôi đã để mất 25 năm, "chị nói," năm 1964 Lý Quang Diệu (cựu Thủ tướng Singapore) đến Sri Lanka và nói Singapore cần phải trở thành như Sri Lanka. Chúng tôi là điển hình cho ông ta – về giáo dục, y tế, và dân trí. Giờ đây Singapore là một điển hình và viễn cảnh chúng tôi hướng tới, nhưng sẽ không bao giờ đạt được. Nên khi mọi người lắng nghe ông Figueres, họ nói: "Tại sao chúng ta không thể có một lãnh đạo thế này nhỉ?'Ông ta từ đâu đến?" "Làm sao mà ông ta được như vậy?" "Liệu có phải dân thế nào thì quan thế vậy hay không?" "Chúng tôi có lỗi gì đây?" Chúng tôi đáng nhẽ cần phải tẩy chay, bài xích những loại lãnh đạo tham nhũng, nhưng chúng tôi đã không làm thế. Có bao nhiêu vị đáng nhẽ phải rơi đầu, thì lại không bị sao cả. "Chính vì vậy, chị này nói thêm," nhiều người sau khi nghe phát biểu của ông Figueres đã nói, "Nếu chúng ta không có những người làm ăn giỏi trong nước, thì chúng ta đi thuê người khác vậy?" Một trong những doanh nhân lớn của Sri Lanka cho biết, "Tôi sẵn lòng đứng ra trả lương cho ông ta." Trí óc là Ở đó. Hãy xem con số những công ty của người Sri Lanka và Ấn Độ mới được thành lập trong thung lũng Silicon, vậy mà chúng tôi không có sự lãnh đạo cần thiết ở ngay tại đây để chèo chống cho con thuyền của chúng tôi. " Liệu đất nước hay công ty của bạn có sẵn sàng kết liễu những kẻ bị thương và chăm sóc những người sống sót? Trong một thế giới không còn rào cản, bản thân công ty hay đất nước của bạn cần phải tạo ra một dòng văn hóa khuyến khích cho việc gỡ bỏ những doanh nghiệp lâu đời, thậm chí ngay cả lúc chúng tỏ ra làm ăn thành công, nếu không thì người khác sẽ làm điều đó.compaq ra đời là do IBM không muốn tự loại bỏ một trong những sáng tạo của họ, loại máy IBM AT, thuộc hệ điều hành 286, để bắt kịp với loại chip 386 đời mới.compaq ngay lúc đó đã vào cuộc, cho ra đời loại máy 386, giáng một đòn nặng vào IBM. Kinh tế gia Lester C. Thurow chỉ ra trong cuốn sách Làm giàu của ông, những hãng lớn lâu đời thường hiểu và thậm chí sáng tạo những công nghệ mới có khả năng biến đổi thế giới, nhưng thể chế của họ là một vấn đề hết sức nan giải." Khi những kỹ thuật mới ra đời, những công ty đó phải phá bỏ những kỹ thuật cũ để áp dụng chúng. Chẳng hạn, bốn trong số năm nhà sản xuất thiết bị ống chân không chưa bao giờ sản xuất thành công thiết bị bán dẫn – và ngày nay nhà sản xuất thứ năm không còn tồn tại, "Thurow cho biết." Và khi thiết bị vi xử lý mới ra đời cho phép máy tính cá nhân Chiếm lĩnh thị trường, thay thế hệ máy tính công nghiệp, thì cơ sở đứng đầu ngành công nghiệp máy tính là IBM đã bị ngã nhào. " Báo Business Week (13/12/1999) đã đăng bài giới thiệu Edward Zander, vị Chủ tịch luôn tiến công của hãng Sun Microsystem. Một dòng trong bài này khiến tôi chú ý:" Sau khi quan sát thấy những vị lãnh đạo hãng Data General và Apollo Computer được ca tụng về sự thành công của họ, Zander đang tổ chức cuộc cải tổ thứ hai tại hãng Sun trong vòng năm năm. Ông ta đang cố gắng xây dựng một cơ cấu công ty mới, với dự định sẽ giảm việc bán các máy tính cá nhân và dồn sức vào việc xây dựng các trang web, hệ thống mạng trong công ty và các thiết bị thiết kế mạng.. "Chúng tôi dự định sẽ cấu trúc lại công ty," Zander nói, "tôi muốn Sun trở thành một IBM mới trong thời đại Internet." Thế giới đúng là đang tiếp tục quay vòng – vì chính IBM cũng muốn trở thành công ty đứng đầu ngành công nghiệp điện toán trong thời đại Internet. Và trong thời gian đó, IBM cũng đang chuyển mình: Không những nó cải tổ để trở thành một công ty hoạt động trên nền móng Internet mà còn xây dựng doanh nghiệp của họ thành một cơ sở bảo trì toàn bộ các dịch vụ Internet – nơi mà bất cứ công ty nào lớn nhỏ đều có thể đến để tiếp cận công nghệ, hưởng những dịch vụ trợ giúp và được tư vấn để làm ăn theo lối công nghệ điện tử hay để trở thành một công ty điện tử. Nói cách khác, IBM đã chuyển mình từ mức một kẻ đứng đầu công nghiệp điện toán, trở thành một cấu trúc tương tự như Liên Xô rồi lại tiếp tục cải tổ trở lại. Họ cải tiến bản thân, trở thành trì trệ, rồi lại nhanh chóng cải tổ. Vào năm 2000 IBM là một trong những bác sĩ Internet và nhà cung cấp dịch vụ Internet hàng đầu – khiến cho Sun, Compaq và các đối thủ khác, những kẻ muốn tiêu diệt IBM trong những năm 80 và 90 phải kính nể. Để tăng trưởng, các quốc gia cũng cần xây dựng một thứ văn hóa tự đổi mới. Thurow cho biết thêm: "Các nước không muốn đoạn tuyệt với quá khứ thường đã không sẵn lòng cho phép các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động. Châu Âu là một điển hình của việc các doanh nghiệp mới hình thành và trở nên thiết yếu cho phát triển. Châu Âu đã tập trung vốn và đầu tư ở mức cao hơn Hoa Kỳ, họ có dân số được giáo dục tốt hơn và tri thức khoa học cũng cao tương đương như của Hoa Kỳ, thế mà đã không tạo dựng được những nền công nghiệp tiên tiến tri thức cao, xứng đáng với thế kỷ 21. Năm 1998 khu vực sản xuất của Siemens Nixdorf, tập đoàn điện toán cuối cùng của châu Âu, đã bị bán cho hãng Acer của Đài Loan. Làm sao một khu vực muốn trở thành lãnh tụ trong thế kỷ 21 mà lại hoàn toàn không dính dáng gì đến công nghệ điện toán? Những doanh nghiệp xứng đáng tồn tại ở châu Âu nay đã ra đi. Ở đó môn xã hội học gần như bao giờ cũng thống trị công nghệ học. Ở châu Âu, các ý tưởng mới thường bị xếp xó vì người ta không muốn dùng chúng và có những điều vĩnh viễn chỉ là tiềm năng." Một xã hội hoan nghênh hay ít nhất tỏ ra chịu đựng khái niệm hủy diệt để sáng Tạo, cần phải được tạo dựng, thì mới mong có được những sản phẩm mới mang tính cách mạng. Đó là điều kiện hết sức quan trọng trong thời đại thế giới không còn những rào cản, một thế giới trong đó không thể khoan dung những thứ cũ kỹ trong khi chào đón những điều mới mẻ. Một đất nước nên lo lắng về khả năng thiếu công ăn việc làm, hơn là chỉ chăm chăm lo lắng sợ mất đi những công ty lâu đời. Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực ra không phải vậy. Nếu sợ rằng các công ty sẽ sập tiệm thì có thể bạn sẽ bị mất đi nhiều cơ hội làm việc. Bạn cần có sự bảo hộ phúc lợi giành cho dân thất nghiệp nhưng không nên bảo hộ những công ty, những hãng xưởng không còn năng động. Không phải tình cờ mà Đài Loan đã qua khỏi cơn khủng hoảng kinh tế Á châu với ít thương tích hơn nhiều so với láng giềng của họ. Lý do quan trọng nhất là, như Chi Schive, Phó chủ tịch Hội đồng Phát triển và Kế hoạch Kinh tế Đài Loan lập luận, chính quyền Đài Loan đã sẵn sàng chịu đựng việc phá cũ xây mới [trong kinh tế] . Điều đó một phần bắt nguồn từ một mảng trong lịch sử của hòn đảo này. Khi những người Quốc dân đảng từ lục địa đến Đài Loan trong cuộc nội chiến Trung Quốc 1948, họ chiếm chính quyền nhưng không quan tâm gì đến giới doanh nghiệp. Cũng vì ban đầu họ không có ý định ở lại lâu trên hòn đảo này – họ nghĩ sẽ sớm có thể quay về lục địa. Vậy là ngay từ buổi đầu, chính quyền Đài Loan đã có tư tưởng thả lỏng doanh nghiệp, hơn là các chính quyền khác ở Đông Á. Thay vì nuôi nấng những tập đoàn lớn như trường hợp Hàn Quốc và Nhật Bản, chính quyền Đài Loan tương đối đứng ngoài, không can thiệp vào việc làm ăn của doanh gia. Kết quả cho thấy sự ra đời của một loạt các công ty cỡ nhỏ và vừa, thường khởi đầu từ một gia đình, làm ăn tại gia. Các doanh nghiệp tồn tại bằng cách hoạt động uyển chuyển và đầy hiệu quả, sẵn sàng nhảy nhanh chóng từ thương vụ này sang thương vụ khác, thị trường này sang thị trường khác. Và vì chính quyền đã mở cửa kinh tế vào những năm 80 và từ chối bảo hộ các doanh nghiệp nhỏ đó, họ thường xuyên phải tiếp cận với các thị trường và công nghệ cao đầy cạnh tranh. Vậy là các công ty phải nhanh chóng tự động hóa, tăng chất lượng sản phẩm, di chuyển vào khu vực hàng hóa có giá trị gia tăng và chuyển khâu sản xuất ra nước ngoài, dẫu cho làm như vậy là tạm thời giảm mức việc làm ở trong nước. Những công ty nào không theo kịp sẽ bị bỏ rơi hoặc bị các công ty làm ăn giỏi hơn mua lại. Bộ Kinh tế của Đài Loan đã tự hào đưa ra một thống kê mang tên "Sự sống và những cái chết của các công ty Đài Loan – 1986-1998," cho thấy một tỷ lệ cân bằng giữa những công ty mới nổi lên và sự tiêu hủy những công ty cũ, thậm chí trong thời gian khủng hoảng Á châu. Tiêu hủy những kẻ bị trọng thương và cho phép học thuyết sinh tồn của Darwin được áp dụng thực ra vẫn chưa đủ. Schive cho biết các nước làm ăn thành công cũng chính là nơi có tinh thần sẵn sàng đầu tư trong đó cộng đồng doanh nghiệp có khả Năng lựa chọn những người có tiềm năng, giúp đỡ họ về tài chính để nhanh chóng biến sáng kiến thành sản phẩm. Một thứ văn hóa đánh bạc như của Đài Loan là cần thiết, vì nó sẽ giúp cho những con người đầy sáng kiến nhưng lại rất khó phát triển chúng thành sản phẩm đại trà vì thiếu vốn và gặp nhiều rủi ro. Chính vì thế những công ty nhỏ và vừa ở Đài Loan cần những tay tư bản sẵn lòng đặt vốn, sẵn sàng mạo hiểm để có thể "được ăn cả." Nền công nghiệp mạo hiểm về vốn của Đài Loan đã nổi lên vào đầu những năm 80 và thành công rực rỡ trong nhiều phương diện, sinh ra hàng trăm công ty làm ăn có lãi. Ở Thung lũng Silicon một số các công ty ngày nay làm ăn thành công như Cisco và Intel vốn là những công ty buổi đầu đã sẵn sàng đặt bạc. Công ty và đất nước của bạn có dám mở rộng bè bạn hay không? Chúng ta đang di chuyển từ một thế giới nơi ai cũng muốn kiếm ăn một mình – nơi mà hình mẫu là những nhà công nghiệp đơn độc và công ty có thứ bậc, độc quyền, tự làm mọi thứ – sang một thế giới trong đó bạn không thể tồn tại nếu không có thật nhiều đồng minh, nơi hình mẫu là những người tìm kiếm bạn bè như Churchill và những công ty hoạt động bề ngang, có mạng lưới cộng tác rộng rãi. Trong nền kinh tế toàn cầu, bạn không thể tồn tại trong nhiều ngành nhất định nếu thiếu khả năng cạnh tranh toàn cầu; và bạn không thể cạnh tranh nếu thiếu đồng minh. Lý do thật đơn giản. Theo Staphen J. Kobrin, chuyên viên về toàn cầu hóa thuộc trường Wharton, trong một số ngành như bán dẫn, hàng không, viễn thông và dược phẩm, "quy mô của công nghệ đã mở rộng đến mức ngay cả những công ty hàng đầu cũng không có nguồn tài lực để tự nghiên cứu và phát triển một cách hữu hiệu vì chi phí quá cao, hướng kết quả không rõ ràng và chu kỳ sử dụng của thành phẩm lại bị cắt ngắn." Chỉ duy lượng tri thức khoa học kỹ thuật cần có để hoàn thiện những thành phẩm phức tạp ngày nay cũng đang ngày càng đòi hỏi nhiều công ty cùng phải chung lưng đấu cật. Hơn nữa, cung cách duy nhất để các công ty có thể thu hồi vốn đầu tư vào việc nghiên cứu và phát triển, là phải bán sản phẩm trên toàn cầu, vì thị trường nội địa quá nhỏ – đó là lý do họ cần đồng minh. Kobrin kết luận rằng sức ép buộc phải có đồng minh đang tăng lên, "và trở thành một trong những đặc điểm vì trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, một đặc điểm mới cả về hình thức lẫn nội dung, kết nối mọi yếu tố và tăng cường toàn cầu hóa ở mức hơn bao giờ hết." Đồng minh không đồng nghĩa với sự sáp nhập. Đồng minh diễn ra giữa hai công ty có danh tính khác nhau, nhưng thỏa thuận hợp tác chặt chẽ. Quan hệ đồng minh đang lan tràn trên khắp thế giới với tốc độ chưa từng có. Công nghiệp vận chuyển hàng không là một ví dụ thật rõ ràng của quan hệ đồng minh. Hãy nhìn quảng cáo của "Star Alliance" – một khối đồng minh gồm sáu hãng hàng không phối hợp phân phối vé trên các chuyến bay của nhau, thống nhất dịch vụ đặt vé và cùng chi trả những phần tiền thưởng cho khách thường xuyên đi lại. Điều này giúp cho các thành viên Của khối cung cấp dịch vụ gõ một cửa cho khách hàng – chỉ cần vào một phòng vé, họ có thể mua vé đi bất cứ đâu trên thế giới và hưởng những dịch vụ kèm theo. Thành viên của khối đồng minh hiểu rằng họ có thể cung cấp một thứ dịch vụ như vậy, nhưng nếu làm ăn riêng lẻ thì không một hãng nào có thể kham nổi. Quảng cáo của "Star Alliance" vẽ một chiếc máy bay phần đầu là Hãng United, buồng lái mang tên Air Canada, thân giữa là SAS, Varig và Thai Airways, đuôi mang tên Lufthansa – minh họa: "Star Alliance: Mạng lưới hàng không cho trái đất." Vậy ai sẽ là đối thủ cạnh tranh với khối đồng minh này? Tất nhiên là một khối đồng minh khác – mang tên "Một Thế giới," và quảng cáo của nó ghi: "Giờ đây bạn có thể trông đợi vào bảy hãng hàng không tốt nhất thế giới. Bạn sẽ sử dụng bảy phòng chờ. Quá cảnh thuận tiện. Và khả năng thắng điểm do đi lại thường xuyên cho phép bạn du hành đến nhiều nơi hơn." Có được một vị tổng giám đốc biết cách thúc giục và duy trì đồng minh – xây dựng lòng tin và tính trung thực với các hãng khác – là một điểm son giúp vào việc tồn tại trong toàn cầu hóa. Xây dựng đồng minh là một việc phức tạp.compaq, thông qua đối tác chiến lược với Intel để sản xuất thiết bị vi xử lý, và với Microsoft để sử dụng hệ điều hành và các phần mềm, đã có thể lập tức hội tụ đủ kỹ thuật mới nhất trong các máy tính họ sản xuất – cho phép họ đi đầu trong cạnh tranh. Báo cáo năm 1997 của Compaq cho biết "khách hàng đang ngày càng nhận ra rằng máy tính tốt nhất ra đời từ công ty duy trì được đối tác giỏi nhất." Tạp chí Forbes có lần đã trích dẫn một nhà tư vấn quản trị miêu tả quan hệ giữa Andy Grove (của Intel) và Eckhard Pfeiffer (của Compaq) : "Từ miệng của Andy tới ngay tai của Eckhard – giống như một cuộc hôn nhân vậy." Đối với công ty thì như thế và đối với các quốc gia cũng như vậy. Vì an ninh kinh tế, Hoa Kỳ bao giờ cũng cần đồng minh trong môi trường kinh tế quốc tế. Hoa Kỳ không bao giờ là một hòn đảo cô đơn. Hoa Kỳ cần thêm nhiều đồng minh hơn bao giờ hết. "Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng cách đây 20 hay 25 năm, những người tiền nhiệm của tôi phải lo lắng về khủng hoảng kinh tế ở Thái Lan, hay Indonesia, hay thậm chí Hàn Quốc," cựu Bộ trưởng Tài chính Robert Rubin nói với tôi. "Người ta lo cho nước Anh hay nước Nhật, nhưng không cần lo đến Thái Lan. Nhưng ngày nay có bao nhiêu là quốc gia đã trở thành bộ phận cấu thành của kinh tế thế giới. Hoạt động của họ ảnh hưởng đến Hoa Kỳ, và để đối phó, Hoa Kỳ đã tốn không biết bao nhiêu thời gian và sức lực." Trên phương diện an ninh quốc gia, nhiều nước càng cảm thấy sự cần thiết của việc tìm đối tác và đồng minh. Một mặt, khi Chiến tranh Lạnh không còn ngự trị, kẻ thù lớn nhất đã ra đi, dân chúng ở các nước không còn muốn hy sinh xương máu hay tiền của vào việc gây hấn với các quốc gia nhỏ và bất trị – dẫu cho những quốc gia đó có thể trở nên thật nguy hiểm. Ngay cả khi xuất hiện Saddam Hussein đe dọa những Con đường vận chuyển dầu lửa và sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt, thì chính phủ Bush đã phải mất sáu tháng để hình thành một liên minh các đối tác, không những để gây chiến với Saddam mà quan trọng hơn, để chung tiền nuôi cuộc chiến. Tôi đã đi cùng Ngoại trưởng Baker khi ông ta sang quyên tiền ở vùng Vịnh, tất cả phóng viên trên chuyến máy bay với Baker đã quyên một ca đựng tiền để tặng ông ta. Ngoài mục đích phòng ngừa những quốc gia bất phục, việc lập liên minh cũng là để xử lý những vấn đề xuyên quốc gia nguy hiểm. Ngày nay không còn những rào cản để bảo vệ bạn, vậy thì để chống lại những đe dọa bên trong và bên ngoài, chỉ còn cách là bạn phải tăng cường chất lượng quản lý nhà nước và tìm đối tác trong số những quốc gia có chung ý tưởng – nhằm chống khủng bố, chống mafia, chống những kẻ phổ biến vũ khí hay hiện tượng El Nino. Cuối những năm 90, Hoa Kỳ đã cố sức thuyết phục Chính phủ yếu ớt ở Nga kìm lại việc bán kỹ thuật hạt nhân và tên lửa cho Iran thông qua các công ty tư nhân. Trong thời Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã không bao giờ phải lo ngại về hoạt động của các công ty tư nhân ở Nga. Vì thời đó Liên Xô không có công ty tư nhân. Thời đó chỉ có những cuộc buôn bán vũ khí chính thức từ Liên Xô và được Hoa Kỳ đối phó bằng cách dọa chuyển giao vũ khí, và các quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Giờ đây mọi sự đã thay đổi. Các nhà máy chế tạo vũ khí của Nga đang ngày càng hoạt động độc lập và rất thiếu tiền. Hoa Kỳ không thể tự ý áp đặt cấm vận lên các công ty tư nhân Nga. Hoa Kỳ chỉ còn cách tạo những bức tường vô hình chống lại những thương vụ vũ khí của tư nhân Nga thông qua việc lập liên minh và lôi kéo sự ủng hộ chính thức cũng như tư nhân từ các nước khác. Trong vụ nước Nga chuyển giao vũ khí sang Iran, Chính phủ Clinton đã áp đặt cấm vận chống lại một trường đại học và hai học viện kỹ thuật của Nga, và thuyết phục (không mấy thành công) các đồng minh châu Âu cùng làm như vậy. Các chuyên gia tại các trường đó bị nghi ngờ đã cộng tác với Iran mà nhà nước Nga đã không thể hay không muốn ngăn chặn việc đó. Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ có thể tự thân đứng ra ngăn chặn việc đó. Nhưng ngày nay, Hoa Kỳ phải hoạt động như một nhạc trưởng, sử dụng một dàn giao hưởng để đối phó với vụ việc này. Chính vì thế trong toàn cầu hóa, thách thức lớn nhất đối với Hoa Kỳ là phân biệt những điều gì họ có thể tự cáng đáng, thông qua sự răn đe bằng quân sự, và những phương diện họ chỉ có thể ứng phó trong khuôn khổ một quan hệ đồng minh. Có những nhân vật theo trường phái hoạt động độc lập trong nền chính trị của Mỹ đã tin rằng người Mỹ có thể tự làm mọi việc; và cũng có những người theo trường phái đa nguyên cho rằng nước Mỹ phải cộng tác với đồng minh và những nước có khả năng thích nghi, trong vai trò sáng lập. Thật ra thì cả hai trường phái đó đều cần thiết. Nếu Hoa Kỳ không sẵn sàng hành động một mình trong một số vấn đề, thì sẽ không có ai đi theo. Nhưng nếu người ta thấy Hoa Kỳ điều gì cũng đứng ra tự làm, thì cũng chẳng Ai đi theo. Robert Shapiro, Chủ tịch hãng Monsanto, một công ty đã thiết lập rất nhiều liên minh trên thế giới với nông dân, công ty giống và giới tiêu dùng thực phẩm để tận dụng giá trị hàng hóa của họ. Ông ta nói với tôi về sự phức tạp khi tìm kiếm đối tác. Cách nói của ông ta nhiều khi giống như của Tổng thống Hoa Kỳ đánh giá cung cách Hoa Kỳ sẽ cứu giúp Mexico về tài chính ra sao, hay làm thế nào để tìm liên minh trong việc đối phó với Iraq. Shapiro nói: "Thế giới của những liên minh là một vùng đất lạ. Ai cũng có một nhận thức trong đầu nhưng không ai biết được nó hoạt động ra sao: Làm thế nào để cân đối giữa lợi ích riêng và chung? Ngắn hạn hay dài hạn? Nơi nào bạn muốn chia sẻ và nơi nào là bản sắc riêng mà bạn muốn bảo tồn? Ai cũng hiểu về sự sáp nhập công ty nhưng hình thành cho được một liên minh giữa các đối tác bình đẳng thì quả là một việc khó. Tôi phải lệ thuộc phần quan trọng của đời tôi vào khả năng của bạn. Thách thức thực sự là ở chỗ không những phải duy trì một liên minh, mà bạn phải đồng thời duy trì một chuỗi các liên minh, nếu bạn muốn cạnh tranh toàn cầu. Và kết cục cho thấy sự trao qua đổi lại giữa bạn và tôi, tôi và anh Fred, bạn và anh Fred? Thật phức tạp." Thương hiệu của công ty hay của đất nước của bạn có thành công không? Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, một công ty toàn cầu hay một cường quốc cần phải duy trì một "thương hiệu mạnh" để thu hút và duy trì giới tiêu dùng cũng như giới đầu tư. Thương hiệu là gì? Một nhóm thuộc công ty tư vấn McKinsey đã mô tả rất hay trong một tạp chí chuyên ngành của họ năm 1997: "Một cái tên trở thành thương hiệu khi người tiêu dùng có thể liên hệ nó với một hệ thống các lợi ích thực và ảo" khi họ mua sản phẩm hoặc sử dụng dịch vụ đó. "Khi sự liên hệ trở nên mạnh hơn, thì sẽ tăng khả năng khách hàng gắn bó với thương hiệu và trả tiền mua nó. Để xây dựng giá trị của thương hiệu một công ty cần làm hai việc: Một, phân biệt sản phẩm của họ với các sản phẩm khác trên thị trường; hai, giao đúng sản phẩm, theo như đã quảng cáo và tiếp thị. Từ đó xuất hiện một mối quan hệ giữa khách hàng và thương hiệu.. Và khi sự nhất quán giữa quảng cáo và chất lượng hàng được tăng cường thì thương hiệu sẽ trở nên mạnh hơn." Nói cách khác, để xây dựng một thương hiệu mạnh, một công ty phải cho thấy tính ưu việt và đặc điểm riêng của sản phẩm của họ. Thương hiệu càng trở nên quan trọng hơn trong thời toàn cầu hóa, do việc các nhà sản xuất và người tiêu dùng ngày càng tiếp xúc trực tiếp với nhau hơn nhiều mà không phải qua trung gian hay bị rào cản. Khi dân chúng có thể lên mạng để mua bất cứ thứ gì họ muốn – thay vì đến những siêu thị như Saks, Sears hay Circuit City, nơi có những nhân viên giới thiệu sản phẩm – thì việc có được một thương hiệu mạnh, tạo hình ảnh ấn tượng, là điều thiết yếu. Giữa những năm 90, Compaq gặp một trở ngại nghiêm trọng trong vấn đề thương Hiệu, khi đó, họ bị thương hiệu của hai đối tác chính, Intel và Microsoft đè nén. Người Tiêu dùng không còn quan tâm nhiều đến vỏ máy tính, phần cứng, dù nó là hiệu Dell, Gateway, HP, IBM hay Compaq. Họ chỉ lo rằng liệu trong máy có bộ vi xử lý của Intel và hệ điều hành Windows và phần mềm đi kèm của Microsoft hay không. Một viên chức quản trị Compaq đã nghiến răng giận dữ, "Chúng tôi đã quá mệt mỏi trong vai trò là người giao hàng cho Andy Grove." Một lý do Compaq bị thương hiệu của Microsoft và Intel lấn át đã thể hiện trong việc Compaq đã tự ti trong cách lăng xê hình ảnh của họ, theo những quảng cáo họ tung ra.compaq tự coi họ là một công ty chạy theo sản phẩm, một nhà sản xuất và tiếp thị máy tính. Công ty này sản xuất máy tính loại tốt, quảng cáo của họ chỉ là ảnh những chiếc máy vi tính đơn thuần, để bàn, xách tay hay máy chủ. Tháng sáu năm 1998, sau khi Compaq mua lại hãng Digital Equipment Corporation, họ đã tổ chức giới thiệu lại thương hiệu. Chiến lược mới nhằm tạo dựng quan hệ thực sự gắn bó giữa Compaq và khách hàng, dù đó là cá nhân hay công ty hay chính phủ. Chiến lược được thực hiện bằng ba phương pháp. Đầu tiên, thay đổi phương thức giao hàng. Xưa nay, Compaq bao giờ cũng bán máy tính qua hệ thống cửa hàng bán lẻ và qua trung gian. Hậu quả là họ không có được quan hệ trực tiếp với người mua. Giờ đây công ty này tổ chức kết hợp bán hàng qua điện thoại và Internet, giống phong cách của Dell, để thiết lập đối tác với khách. Thứ hai, Campaq mở rộng dịch vụ kỹ thuật của hãng để khách hàng có thể gọi đến bất cứ lúc nào từ đâu, nói về bất cứ trục trặc gì – về kỹ thuật trong máy, phần mềm, hay trò đố chữ trên tờ The New York Times – khi đó một nhân viên phục vụ sẽ tư vấn và giúp khách hàng sửa chữa. Và biện pháp sau cùng, Compaq đã cho ra đời những chương trình tiếp thị mới hỗ trợ cho hai biện pháp trên bằng cách tung ra những quảng cáo xây dựng một cảm giác quan hệ gắn bó hơn giữa khách hàng và sản phẩm, thay vì chỉ khăng khăng nói về sản phẩm.compaq đã mua một phụ bản 12 trang trên tờ Tạp chí Phố Wall để đăng một thương hiệu mới – cả 12 trang đều không thấy hình ảnh của một máy tính. Thay vào đó là, chẳng hạn, trong trang cuối, hình ảnh hai đứa trẻ đi dạo trong rừng, tay trong tay, với minh họa: "Compaq. Câu trả lời tốt hơn." Các quốc gia hiện nay cũng đang đương đầu với loại thách thức tương tự – chỉ khác là khách hàng của họ là thành viên của Bầy Thú Điện Tử. Xưa nay thương hiệu của một nước thường mang ý nghĩa thu hút du lịch. Điều đó không còn còn đủ. Khi chúng ta sang sống ở một thế giới mà ai cũng sở hữu những phần cứng giống nhau và bị bắt buộc phải dùng những phần mềm tượng tự, thì thương hiệu của một đất nước – sự gắn bó độc đáo giữa quốc gia đó với các nhà đầu tư nước ngoài đang đóng vai trò quan trọng hơn. Hãy nghĩ đến xã hội châu Âu sau khi Liên hiệp Tiền tệ châu Âu ra đời. Vì sao bạn muốn đặt nhà máy của bạn vào nước Ý, thay vì Scotland? Có thể vì lý do thời tiết, thức ăn hay cũng có thể vì thương hiệu Ý cho thấy chút ít kiểu cách hay dư vị hay hơn. Warren Hoge, đồng nghiệp của tôi làm Trưởng phân xã London của báo The New York Times đã cảm nhận được việc nước Anh cải biến thương hiệu của nó thành "Nước Anh Mới." Nước Anh với thương hiệu mới, Hoge đã viết bài ngày 12/11/97: "Không còn những cảnh chơi cricket ở nông thôn, trà và bánh ngọt, lâu đài của lãnh chúa, người ăn bít tết, săn thú, lễ hội giả trang, bia nội địa, và lá cờ vương quốc tung bay. Nước Anh đã đưa vào hình ảnh kỹ thuật viễn thông năng động, giao dịch tài chính toàn cầu, công nghệ thông tin, sự hăng say làm ăn, kiến trúc táo bạo, quảng cáo khôn ngoan, thời trang bạo dạn, nhạc pop thịnh hành, hộp đêm bận rộn – tóm lại, bất cứ điều gì mang sức trẻ, sáng tạo, và trong cách nói của các vị lãnh đạo của cái đất nước đã được nâng cấp này," hiện đại ".. Và sự lăng xê đang được đảng Lao động mới thực hiện bắt nguồn từ ý tưởng của Demos, một trung tâm nghiên cứu xã hội học gần gũi với Thủ tướng Blair. Trung tâm này vào tháng trước đã gợi ý về việc cải tiến thương hiệu của đất nước, biến nước Anh thành" Một trong những quốc gia tiên phong trên thế giới, thay vì giữ nguyên là một trong những viện bảo tàng của thế giới." "Tôi rất tự hào về quá khứ của đất nước tôi, nhưng tôi không muốn sống trong quá khứ," ông Tony Blair nói. Cơ quan du lịch của chính phủ Anh đã đưa ra một quyết định đúng đắn vào năm 1997, thay logo du lịch từ "Nước Anh là thống soái" thành "Nước Anh – Chơi được đấy"... " Một đất nước cũng có thể tự vấy bẩn thương hiệu của nó. Trong những năm 90, Malaysia đã phát triển được một thương hiệu tuyệt vời, một đất nước Hồi giáo nhiều sắc tộc, theo đuổi cách mạng công nghệ. Tên Malaysia đồng nghĩa với công nghệ thông tin, và họ đã xây dựng Hành lang Siêu Công nghệ Thông tin, một khu công nghiệp cao ở bên ngoài thủ đô Kuala Lumpur. Nhưng vào mùa hè 1997, những đồng nội tệ Á châu thi nhau mất giá, và Thủ tướng Malaysia Mahathir đã giận dữ kết tội người Do thái, George Soros và thậm chí cả người phó của ông ta là Anwar Ibrahim, là đã âm mưu phá hoại kinh tế Malaysia. Mahathir đã làm vấy bẩn thương hiệu Malaysia, Inc, và làm băng hoại niềm tin của cộng đồng quốc tế vào đất nước này. Ngày nay, mỗi đất nước đều phải lo gìn giữ thương hiệu của nó; thậm chí những kẻ tội phạm nhỏ cũng hiểu được điều đó. John Bussey, phóng viên Tạp Chí phố Wall đã viết một bài rất hay (27/2/1998) kể về những gì xảy ra với anh ta và bạn gái của anh khi họ lên một chiếc taxi, trong một đêm, ở Thủ đô Mexico. Thực ra họ đã bị người lái xe và đồng bọn bắt cóc." Tối thứ bảy hôm đó, thằng cha dí súng vào đầu tôi khám phá rằng tôi làm việc cho một tờ báo. Chúng lái xe đi loanh quanh khoảng một tiếng đồng hồ, ấn mặt tôi xuống sàn xe, một thằng khác ngồi cạnh, đè lấn lên người cô bạn tôi. "Mày làm việc cho một tờ báo Mỹ?" Tên cướp có súng hỏi lại. "Vâng, tôi từ Mỹ sang công tác." Tôi trả lời, không rõ nói thế có lợi hay có hại đây. Có thể thằng này nó ghét phóng viên thì sao. Hay nó ghét người Mỹ. "Vậy thì đừng có viết bài về những gì xảy ra đêm nay," tên cướp nói, "Như thế sẽ khiến đất nước chúng tao rất xấu hổ." "Gây sự xấu hổ cho đất nước?" Nếu họng súng 45 ly không kề vào đầu tôi gần tiếng đồng hồ, nếu bọn cướp không cướp sạch tiền, đồng hồ và không dùng thẻ của tôi để rút tiền ở nhà băng – thì tôi sẽ rất ưng thuận, không viết báo về chúng. Quả là những tên cướp đó vẫn còn có chút ít tự hào dân tộc, giống như nhuệ khí trong giải bóng đá quốc tế vậy. Trái tim của tên cướp gắn với Mexico. " " Đừng lo, "tôi nói với tên cướp." Báo của tôi là báo thương mại, viết về trái phiếu và cổ phiếu. Chuyện như thế này không được đăng đâu – cướp bóc ở Mexico. "Nếu Mexico mà là một cổ phiếu thì sao nhỉ.. Nếu dân chúng ngày càng nhận thức thấy đất nước của họ có thể đi theo con đường thịnh vượng mà không thực hiện điều đó, đồng thời họ thấy được dân chúng ở nước khác có cuộc sống tốt đẹp ra sao, thì họ sẽ đặt câu hỏi: Vì sao chính phủ của họ không tổ chức được một sự quản lý về chính trị cho thích hợp để thành công. Trong toàn cầu hóa, nhiều nước có thể tồn tại thành công được mặc cho họ là ai hay họ theo chiều hướng nào. Ai Cập là một đất nước đã làm ăn thành công do vị trí chiến lược của nó nằm giữa vòng ảnh hưởng của Liên Xô và Hoa Kỳ trên địa bàn Trung Đông và sau đó là giữa khối Ả Rập và Israel. Đất nước này cũng có thế mạnh vì sở hữu những kim tự tháp và bề dày lịch sử. Pháp cũng chiếm được một vai trò quan trọng do khả năng uyển chuyển hoạt động giữa Hoa Kỳ và Liên Xô cũng như có một bề dày lịch sử. Trong toàn cầu hóa, vị trí địa lý không còn quan trọng như trước. Và câu hỏi" bạn là ai "cũng không còn thiết yếu. Trong khi các nước cần được khuyến khích gìn giữ văn hóa và di sản của họ, họ không thể còn kiếm sống bằng những giá trị đó nữa. Điều quan trọng giờ đây là câu hỏi" bạn làm được điều gì? "Và ở đây liên quan tới những lựa chọn cho sự thịnh vượng mà bạn có thể tìm thấy trong toàn cầu hóa. Dereck Shearer đã kể cho tôi một câu chuyện nhằm minh họa cho những luận điểm trên. Giữa những năm 90, khi còn là đại sứ Mỹ ở Phần Lan, ông ta mang theo vợ là Ruth Goldway, vốn là thị trưởng thành phố Santa Monica trong những năm 80 – có công cải tổ thành phố này. Một hôm đại sứ Shearer cùng phu nhân từ Helsinki sang thành Petersburg để gặp các vị đứng đầu thành phố này. Cùng đi có Tổng lãnh sự Mỹ Ở Nga. Shearer kể:" Chúng tôi đã gặp phó Thị trưởng Petersburg cùng các viên chức phụ trách quy hoạch thành phố trong một chiêu đãi do tòa lãnh sự Mỹ tổ chức. Các vị quan chức Nga cứ nói đi nói lại về vẻ đẹp và giá trị văn hóa lớn lao của thành Petersburg. Nhưng khi đến, đi xe từ sân bay vào thành phố thì chúng tôi thấy con đường tồi quá, nhiều ổ gà đến mức khó mà lái xe được. Chúng tôi đến thăm Viện Bảo tàng Hermitage thì thấy tòa nhà đó xuống cấp ghê quá – hệ thống đèn chiếu sáng hầu như không có. Không có lấy một nhà hàng hay cửa hàng lưu niệm trong bảo tàng – khung cảnh bề bộn. Đúng là nó có một bề dày lịch sử, nhưng không thể nào cạnh Tranh được với các thành phố khác với những bảo tàng cũng vĩ đại không kém. Trong khi đó thì các vị quan chức Nga tiếp tục bàn cãi về chuyện đặt lại tên cho các đường phố (St Petersburg mang tên Leningrad trong thời Liên Xô, và phố phường đều mang tên của thời cộng sản). Và Ruth nói với họ, "Tôi có một gợi ý nhỏ. Thay vì cãi nhau về tên gọi của phố phường, tại sao quý vị không bắt tay vào sửa chữa cho chúng." Họ trả lời, "Sáng kiến hay quá".
12. Lý thuyết về vòng cung vàng ngăn ngừa xung đột. Bấm để xem Ở nước ngoài thỉnh thoảng tôi lại tự thưởng cho mình một chiếc bánh kẹp thịt cùng khoai tây rán hiệu McDonald's. Tôi cho rằng tôi là người đã ăn bánh kẹp thịt và khoai rán McDonald's ở nhiều nước trên thế giới nhiều hơn bất cứ ai khác, và tôi có thể làm chứng rằng chúng có hương vị giống hệt nhau. Qua lại trên thế giới trong những năm gần đây tôi bắt đầu nhận ra một điều thú vị. Tôi không rõ suy nghĩ này từ đâu đến: Có thể từ đâu đó giữa các tiệm McDonald's ở Thiên An Môn, Bắc Kinh, McDonald's ở quảng trường Tahrir ở Cairo hay McDonald's gần quảng trường Zion ở Jerusalem. Nó như thế này: Từ ngày có McDonald's sang đầu tư, không thấy hai quốc gia nào cùng có tiệm McDonald's, lại gây chiến chống nhau. Tôi không đùa đâu. Thật kỳ lạ. Hãy quan sát Trung Đông: Israel có tiệm McDonald's của người Do Thái, Arập Xê út có tiệm McDonald's, theo tục lệ Hồi giáo thường phải đóng cửa năm lần mỗi ngày để cầu nguyện, Ai Cập, Li Băng và Jordan đều có McDonald's. Không có nước nào trong số đó xung đột với nhau kể từ khi biểu tượng những vòng cung vàng của tiệm McDonald's được dựng lên ở những nơi đó. Những đe dọa chiến tranh nằm ở đâu trên đất Trung Đông ngày nay? Nằm giữa Israel và Syria, Israel và Iran, và Israel và Iraq. Nước nào ở Trung Đông không có tiệm McDonald's? Syria, Iran và Iraq. Tôi thấy thú vị đến mức đã gọi điện báo tin này cho đại bản doanh của McDonald's ở Oak Brook, Illinois. Họ ngạc nhiên đến mức đã mời tôi đến tham khảo các vị quản trị Đại học Hamburger, một trung tâm nghiên cứu và đào tạo của chuỗi nhà hàng McDonald's. Những tay quản trị này đã kiểm tra lý thuyết của tôi với những chuyên viên quốc tế của họ và bản thân họ đã không thể tìm ra một ngoại lệ nào cả. Tôi tưởng rằng có một ngoại lệ đối với trường hợp chiến tranh Falkland giữa Anh và Argentina nhưng Argentina cho mãi đến năm 1986 mới có tiệm McDonald's đầu tiên, bốn năm sau cuộc chiến. (Không tính những cuộc nội chiến và xung đột biên giới: McDonald's ở Moskva, El Salvador và Nicaragua đã phục vụ cho cả hai bên địch thủ trong những cuộc nội chiến ở đó) Với những thông số đó, tôi xin giới thiệu "Lý thuyết những vòng cung vàng ngăn ngừa xung đột," rằng một đất nước khi tiến tới một mức độ phát triển kinh tế, nơi có một tầng lớp trung lưu có khả năng hỗ trợ cho một chuỗi các tiệm McDonald's, thì đất nước đó trở thành đất nước McDonald's. Và dân chúng ở đất nước này không phải chinh chiến nữa, họ thà dùng thời gian để xếp hàng mua bánh kẹp thịt còn hơn. Nhiều người đã đưa ra những quan sát về những thời kỳ hòa bình và thương mại trước đó – họ sử dụng những hình tượng thông dụng hơn. Nhà triết học người Pháp Montesquieu viết hồi thế kỷ 18 rằng thương mại quốc tế đã tạo nên một "Nước cộng hòa vĩ đại" quốc tế, quy tụ tất cả các tay buôn và các quốc gia buôn bán ngoại thương, dệt nên một thế giới hòa bình hơn. Trong cuốn sách Tinh thần pháp luật ông viết, "hai quốc gia có giao thương với nhau sẽ trở nên lệ thuộc lẫn nhau; vì nếu một quốc gia muốn mua thì quốc gia kia sẽ muốn bán; và sự liên kết giữa họ với nhau sẽ được tạo dựng trên cơ sở sự cần thiết lẫn nhau." Và trong chương "Cách thức thương mại phá vỡ sự bạo tàn ở châu Âu," Montesquieu đã lập luận ủng hộ cho luận thuyết vòng cung vàng của chính ông: "Nhân loại cảm thấy hạnh phúc trong một môi trường mà vì lợi ích của chính họ, họ cần phải có tư tưởng nhân đạo và làm điều thiện, dẫu cho nhiệt huyết nhiều khi đã khiến họ trở nên độc ác." Trong thời toàn cầu hóa trước Chiến tranh thế giới thứ hai, tác giả người Anh Norman Angell đã quan sát và viết trong cuốn sách của ông năm 1910, mang tên Ảo tưởng lớn, rằng những cường quốc công nghiệp phương Tây như Mỹ, Anh, Đức và Pháp đã giảm đi cơn thèm khát gây chiến tranh: "Có lẽ nào mà cuộc sống hiện đại cùng những hoạt động công nghiệp mạnh mẽ và những phần chi phí vô cùng nhỏ cho hoạt động quân sự có thể nuôi nấng những bản năng gây chiến, vì chiến tranh đã bị coi là sự hủy diệt những thành quả do thời bình mang lại?" Do ngoại thương và những quan hệ thương mại ràng buộc nhiều cường quốc thời đó, Angell lập luận rằng, thật là điên rồ nếu những quốc gia đó lại đánh nhau, vì làm như vậy thì kể cả kẻ thắng lẫn người thua cuộc đều sẽ chịu mất mát. Montesquieu và Angell nói đúng. Hội nhập kinh tế đã khiến tăng gấp bội mức chi phí chiến tranh đối với kẻ thắng lẫn người thua, và quốc gia nào làm ngơ trước thực tế đó thì sẽ bị diệt vong. Nhưng nếu họ hy vọng rằng thực tế đó có thể xóa nhòa được tầm quan trọng của địa chính trị, thì họ cũng đã nhầm. Có thể nói Angell và Montesquieu đã quên không nhắc đến Thucydides. Khi viết về lịch sử cuộc chiến tranh Peloponnesian, Thucydides cho rằng các quốc gia gây chiến vì một trong ba lý do – "danh dự, sợ hãi và quyền lợi" – và toàn cầu hóa, trong khi khiến cho chi phí gây chiến vì danh dự, sợ hãi hay quyền lợi tăng lên, cũng không thể xóa hết được những bản năng đó – không thể, một khi thế giới vẫn còn nhân loại và còn máy móc, một khi những cây ô liu vẫn còn đó trong cuộc sống. Cuộc tranh đấu giành quyền lực, sự theo đuổi quyền lợi vật chất và chiến lược, sự co kéo những cây ô liu, vẫn tiếp tục ngay cả trong cái thế giới có chip vi tính, điện thoại vệ tinh và Internet. Không phải ngẫu nhiên mà cuốn sách này được đặt tên là "Chiếc Lexus và cây Ô liu." Mặc cho toàn cầu hóa, dân chúng vẫn bám giữ lấy văn hóa, ngôn ngữ và mảnh đất mà họ gọi là quê hương. Họ sẽ hát về gia đình, khóc than cho gia đình, chinh chiến và hy sinh vì quê hương. Chính vì thế mà toàn cầu hóa sẽ không chấm dứt những tham vọng mang tính địa-chính trị. Xin nhắc lại cho những người theo phái thực tế đang đọc cuốn sách này: Toàn cầu hóa sẽ không chấm dứt địa-chính trị. Nhưng toàn cầu hóa lại tác động tới nó. Một điểm đơn giản mà tôi đang cố gắng Hình thành bằng cách sử dụng McDonald's để hình tượng hóa – đó là toàn cầu hóa ngày nay đã khiến tăng gấp bội chi phí mà các quốc gia dùng để gây hấn vì lý do bảo tồn danh dự, phản ứng lại những nỗi sợ hãi hay theo đuổi những quyền lợi của họ. So với những gì Angell và Montesquieu viết xưa kia, sự thay đổi ngày nay thể hiện ở mức độ. Toàn cầu hóa ngày nay – với mức độ hội nhập kinh tế, kỹ thuật số, khả năng kết nối ngày càng rộng giữa đất nước và cá nhân, tư bản di chuyển nhanh chóng và sự lệ thuộc của chúng vào chiếc áo nịt nạm vàng và Bầy Thú Điện Tử – tất cả tạo một sự ràng buộc mạnh mẽ đối với các hoạt động đối ngoại của các quốc gia kết nối vào toàn cầu hóa. Kết quả là chúng tăng cường lợi ích của việc hạn chế xung đột và tăng cao cái giá mà các quốc gia phải trả khi tìm cách đánh lẫn nhau. Nhưng toàn cầu hóa không đảm bảo rằng sẽ không có chiến tranh nữa. Bao giờ cũng sẽ có những lãnh tụ và những quốc gia, vì lý do đúng hay sai, sẽ sử dụng đến chiến tranh, và những quốc gia như Bắc Triều Tiên, Iraq hay Iran sẽ lựa chọn cách tồn tại bên ngoài những ràng buộc trên. Dù sao thì câu kết luận sẽ là: Trong thời toàn cầu hóa trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, các quốc gia đã phải nghĩ hai lần trước khi gây chiến; đến toàn cầu hóa thời nay, họ sẽ phải nghĩ tới ba lần trước khi làm điều đó. Khổ một nỗi là ngay sau khi bản thảo đầu tiên của cuốn sách này được in, thì tháng tư năm 1999, 19 thành viên NATO, nước nào cũng có quán ăn McDonald's, xúm vào không kích Nam Tư, một đất nước cũng có quán ăn này. Ngay lập tức hàng loạt các bình luận gia và những người điểm báo đã viết bài phê bình rằng luận thuyết vòng cung vàng McDonald's của tôi là hoàn toàn sai lầm; qua đó họ cũng công kích khái niệm về toàn cầu hóa có thể chế ngự được địa-chính trị. Tôi thật ngạc nhiên và cũng thích thú khi thấy lý thuyết McDonald's của tôi được mọi người chú ý rộng rãi, và khi thấy mức độ hăng hái của một số người nhất định cố gắng chứng minh rằng đó là một sai lầm. Họ là những người thực tế và những nhân vật Chiến tranh Lạnh về vườn, những người cho rằng chính trị – đặc biệt là những xung đột giữa các quốc gia – chính là những yếu tố không thể miễn trừ dùng để đặc tả quan hệ quốc tế. Về chuyên môn cũng như về tâm lý, họ cảm thấy bị đe dọa bởi ý tưởng cho rằng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế có sẽ tác động đến địa-chính trị bằng những phương thức mới mẻ và cơ bản. Nhiều người trong giới phê bình rất muốn bám lấy chủ đề cuộc chiến Balkan chính vì họ muốn níu kéo tâm lý thời chiến lỗi thời trong đó họ chỉ biết chính trị, tinh thần và những câu ô liu được đặt trên kinh tế và chiếc xe hơi Lexus. Họ bận rộn đưa Balkan lên thành một chủ đề lịch sử, một luận thuyết của chính trị thế giới, mà không nhận thấy rằng đó chỉ là một ngoại lệ, một sự kiện độc lập và nhất thời. Những người chỉ trích chỉ bận rộn bàn cãi xem chúng ta đang ở năm 1917, 1929 hay 1939 và không nhận ra rằng những gì xảy ra vào năm 2000 thực ra đánh dấu cho một chuyển biến mới mẻ – một điều tuy không kết liễu địa-chính trị nhưng căn bản đã gây ảnh hưởng và thay đổi hình thù của chính trị. Tôi cho rằng những người chỉ trích chỉ bận rộn làm Sống lại quá khứ, dựa vào quá khứ để phán đoán với bạn về tương lai. Cách họ đoán về tương lai lại dựa vào quá khứ nhưng lại bỏ qua hiện tại. Cũng dễ hiểu vì sao nhóm này cảm thấy bị lý thuyết những vòng cung vàng đe dọa, bởi vì dù không hoàn hảo nhưng luận thuyết vòng cung vàng sẽ buộc họ phải thay đổi quan điểm và thậm chí, phải học lại cách nhìn nhận, phải tiếp nhận kinh tế, môi trường, thị trường, công nghệ, Internet vào những phân tích đánh giá về địa-chính trị của họ. Phản ứng đầu tiên của tôi đối với những người chỉ trích là thanh minh rằng NATO không phải là một đất nước, cuộc chiến Kosovo không thực sự là chiến tranh, mà là sự can thiệp của NATO vào một cuộc nội chiến giữa người Serb và người Albania ở Kosovo. Và tôi chỉ ra rằng khi hình thành luận thuyết McDonald's tôi đã loại trừ một vài khả năng quan trọng: Luận thuyết McDonald's không áp dụng cho các cuộc nội chiến, vì tôi giải thích, toàn cầu hóa sẽ tăng cường sự căng thẳng của các cuộc nội chiến, giữa phái địa phương chủ nghĩa và phái chủ trương toàn cầu – giữa những người thích ăn món bánh kẹp thịt McDonald's với những người sợ hãi loại bánh này rồi sẽ chế ngự họ. Hơn nữa luận thuyết của tôi có giới hạn giá trị, vì trước sau rồi nước nào cũng có những cửa hàng McDonald's, và trước sau rồi cũng có hai nước nào đó sẽ gây chiến lẫn nhau. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng sẽ không có ai quan tâm đến những điềm báo của tôi – sử dụng McDonald's như một biểu tượng để trình bày về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với địa-chính trị. Họ chỉ muốn đâm một nhát dao vào lý thuyết vòng cung vàng. Vậy càng nghĩ tới giới phê bình thì tôi càng nói với mọi người rằng: "Xin hãy quên đi những điềm báo và những ngoại lệ. Giả sử Kosovo là một sự thử nghiệm cho học thuyết, và hãy xem cuộc chiến ở đó kết thúc ra sao." Khi nhìn vào cung cách cuộc chiến Kosovo kết thúc bạn sẽ thấy lô gích của lý thuyết Vòng Cung Vàng. Vì sao? Lầu Năm Góc sẽ giải thích với bạn rằng cuộc không kích năm 1999 đã kết thúc cuộc chiến 78 ngày tại Kosovo vì một lý do – không phải vì NATO đã trừng trị được quân đội Serbia ở Kosovo. Thực tế cho thấy lục quân Serbia đã chuyển được hết xe pháo của họ ra khỏi Kosovo với không mấy tổn hại. Cuộc chiến 78 ngày kết thúc là do NATO, sử dụng không quân, đã gây hoang mang cực độ cho dân thường người Serbia ở Belgrade. Belgrade là một thành phố hiện đại châu Âu, hội nhập với Tây Âu, có một dân số mong muốn hòa nhập vào khuynh hướng toàn cầu, hòa nhập với Internet và phát triển kinh tế – hình tượng mà McDonald's đang đại diện. Một khi NATO phá hủy hệ thống điện ở Belgrade và hủy diện kinh tế, người dân Belgrade, cùng dân chúng trong những thành phố khác của Nam Tư, hầu như ngay lập tức đòi Tổng thống Slobodan Milosevic chấm dứt chiến tranh. Vì cuộc không kích đã buộc người ta phải lựa chọn: Bạn có muốn thành một phần của châu Âu và xu hướng kinh tế mới và chớp những thời cơ ngày nay – hay là bạn muốn chiếm giữ Kosovo và trở thành một ốc đảo cô lập và lạc hậu. McDonald's hay Kosovo – bạn không thể Chiếm cả hai. Và người dân Serbia chọn McDonald's. Không một người lính NATO và cũng không người dân nào ở Belgrade nào muốn chết vì Kosovo. Những người dân đó chỉ muốn trở thành một phần của thế giới. Họ muốn tiệm McDonald's được mở cửa trở lại, hơn là mong Kosovo bị chiếm đóng trở lại. Họ muốn xếp hàng để mua bánh kẹp thịt hơn là đăng lính đi chết ở Kosovo. Một mình không lực Hoa Kỳ không thể làm gì được Việt Nam vì người dân ở đó vốn đã sống trong một thời kỳ đồ đá và đã không còn gì để mất. Nhưng ở Belgrade, nơi dân chúng muốn hội nhập vào châu Âu và thế giới và họ sợ sẽ bị không quân ném bom làm mất đi cơ hội cho họ hội nhập. Khi NATO đưa ra những lựa chọn cho họ – chọn xe hơi Lexus hay cây Ô liu – họ đã chọn chiếc xe hơi. Vâng, như vậy là có một ngoại lệ cho lý thuyết Vòng Cung Vàng – một ngoại lệ mà rốt cuộc đã mạnh mẽ khẳng định lý thuyết này. Trường hợp Kosovo cho thấy những áp lực mà những chính quyền theo chủ nghĩa quốc gia, khăng khăng bám lấy gốc cây Ô liu, phải chịu đựng, khi họ theo đuổi chiến tranh và những phiêu lưu quân sự – và họ đã buộc dân chúng phải trả giá ra sao trong thời toàn cầu hóa. Bởi vì trong một thế giới nơi chúng ta ngày càng hiểu thêm về cảnh sống của đồng loại, khi chính phủ ngày càng phải cam kết với dân chúng và thực hiện cam kết, vậy thì chí ít chính phủ chỉ có thể đòi hỏi dân chúng đến một mức độ nhất định. Khi chính phủ có những hành động gây khó dễ cho việc hội nhập kinh tế và cải thiện đời sống – có McDonald's tượng trưng – thì dân chúng ở các nước phát triển sẽ không dung tha cho chính phủ như thời trước. Chính vì thế những quốc gia trong hệ thống toàn cầu hóa giờ đây phải suy ngẫm tới ba lần trước khi tham chiến và những quốc gia nào không suy nghĩ thì sẽ phải trả giá gấp ba lần. Vậy tôi xin sửa lại chút ít trong lý thuyết vòng cung vàng sau khi tham khảo trường hợp Kosovo và tương lai của vùng này: Dân chúng ở những quốc gia có McDonald's không thích đánh nhau nữa, họ thà đi xếp hàng để mua bánh kẹp thịt còn hơn – và những lãnh đạo hay những đất nước nếu coi thường thực tế đó sẽ phải trả giá cao gấp bội, cao hơn là họ nghĩ. Ngày 8/7/1999, báo USA Today đăng một câu chuyện về Belgrade khiến tôi chú ý. Câu chuyện nói về sự tàn phá kinh tế mà Nam Tư phải đương đầu sau cuộc chiến. Bài này có hai đoạn sau đây, mà nếu tự tôi viết ra thì người ta sẽ nói tôi là bịa đặt: "Zoran Vukovic, 56 tuổi, lái xe buýt ở thành phố Niw, có thu nhập 62 đô-la một tháng, thấp hơn phân nửa lương của ông ta thời trước chiến tranh. Chính phủ [Serbia]tháng trước đã sa thải gần một nửa số 200 tài xế xe buýt. Những người còn lại bị giảm lương. Do nhà nước hiện kiểm soát giá thực phẩm, Vukovic và tám miệng ăn phụ thuộc trong gia đình có thể tồn tại, đủ ăn. Nhưng họ không thể mua sắm thêm thứ gì khác. " McDonald's nay chỉ còn trong giấc mơ, "Vukovic, người ngày trước thường đưa ba cháu của ông đến tiệm McDonald's ở Belgrade, nói." Một ngày nào đó, có thể mọi Sự sẽ khá hơn. Nhưng đến lúc đó thì có lẽ tôi không còn nữa. " Bạn có thể thấy những điều cần thiết để hiểu về sự khác nhau trong cách thức Chiến tranh Lạnh và toàn cầu hóa định hình địa-chính trị nếu quan sát trường hợp Albania. Khi Albania lâm vào nội chiến đầu năm 1997, tôi tình cờ theo dõi tin tức trên truyền hình CNN. CNN lúc đó không có những hình ảnh trực tiếp truyền từ Albania nên đã chiếu mãi tấm bản đồ biển Adriatic, ngoài khơi Albania. Trên tấm bản đồ có những chiếc tàu chiến nhỏ, đại diện cho tàu của Hoa Kỳ, châu Âu và các nước khác đang đến để di tản kiều bào của họ từ Albania. Khi nhìn tấm bản đồ, tôi nghĩ, nếu đó là thời Chiến tranh Lạnh thì có lẽ đó sẽ là những tàu chiến của Mỹ hoặc của Liên Xô đang tranh giành để vào chiếm đóng, lấp đầy khoảng trống chính trị ở Albania. Bên nào sẽ vào được Albania nhanh hơn, tận dụng đất nước này như một con tốt Albania trên bàn cờ, dí sang tấn công bên kia. Tóm lại hai siêu cường đó sẽ cạnh tranh xem bên nào vào Albania trước, nhanh nhất và sâu nhất. Nhưng đó không phải là điều xảy ra ngày hôm đó trên bản đồ của CNN. Ngày nay là toàn cầu hóa, và những nước có tàu chiến ở đó đang tranh giành để di tản kiều dân của họ khỏi Albania trước tiên, nhanh nhất và đi xa nhất. Nước nào đưa kiều dân khỏi Albania nhanh nhất sẽ là người thắng cuộc, và thua cuộc chính là nước nào bị phải ở lại, bị ràng buộc trách nhiệm ở Albania – lúc đó thua cuộc chính là nước Ý. Chúng ta hiểu được gì từ điều này? Điều này cho chúng ta biết rằng hệ thống Chiến tranh Lạnh có hai đặc điểm căn bản mang hình tượng một ván cờ và một tập séc. Chiến tranh Lạnh do hai siêu cường – Liên Xô và Mỹ – điều hành. Họ cạnh tranh trên toàn cầu để dành cho được những lợi thế chiến lược, nguồn tài nguyên và vinh quang – chiến thắng của bên này chính là tổn thất của bên kia, và bất cứ vùng nào trên thế giới cũng là những miếng mồi cho cả hai bên. Michael Mandelbaum nhận xét:" Trong Chiến tranh Lạnh, thế giới như một cuộc cờ. Mỗi nước đi của Liên Xô sẽ tác động tới chúng ta và ngược lại mỗi nước đi của chúng ta sẽ có tác động đến họ. Chúng ta là quân trắng, Liên Xô là quân đen. Nếu họ đi vào ô trắng thì ta đi vào ô đen. Nếu họ dịch chuyển những tốt đen ở Albania thì ta sẽ di chuyển những tốt trắng. Mỗi con tốt đều quan trọng vì chúng góp phần bảo vệ vua. Vậy thì nếu họ chiếm được một nơi, biến thành tốt đen thì sẽ có lợi thế để tấn công vua của chúng ta. Chính vì thế mỗi bên đều ra sức bảo vệ các con tốt của họ. Bảo vệ tốt tức là bảo vệ vua vậy. Chính vì thế chúng ta đã phải can thiệp vào những nơi không có tầm quan trọng nội tại như Việt Nam, Angola hay El Salvador. " Nói cách khác, trong Chiến tranh Lạnh đã nảy sinh những lợi ích của việc khuyến khích xung đột khu vực và biến chúng thành một phần của cuộc cạnh tranh giữa các siêu cường và mang ý nghĩ toàn cầu. Và trong cuộc cạnh tranh trong ván cờ không bên nào chịu để mất những ô trắng hay đen của họ vì lo sợ họ sẽ mất dần ảnh hưởng Ở các ô này và rốt cuộc bị đối phương lấn át. Sự lo sợ đó được biết đến với cái tên" Học thuyết Domino. " Ngoài cuộc cờ, Chiến tranh Lạnh cũng được khắc họa bởi hình tượng một tập séc chuyển khoản. Như đã đề cập từ trước, Chiến tranh Lạnh giúp cho một nước đang phát triển tồn tại về kinh tế mặc dù hệ điều hành và phần mềm của họ yếu kém. Một số nước đang phát triển đã làm ăn chậm chạp trong một thời gian dài, vì họ có thể hút tiền từ các siêu cường thông qua việc cam kết lòng trung thành với bên này hay bên kia trong Chiến tranh Lạnh. Chính phủ Mỹ và Liên Xô, ở mức độ thấp hơn là Trung Quốc, lúc đó sẵn sàng lấy tiền đóng thuế của dân chúng, chuyển thành những tấm séc nhiều tiền, tặng cho nước ngoài để mua ảnh hưởng đối với những ô còn trống trên bàn cờ. Nền ngoại giao séc chuyển khoản đó được gọi là" Viện trợ nước ngoài. "Hoa Kỳ thúc ép người đóng thuế trong nước để trả lương cho nhóm đối lập Contras ở Nicaragua hay Mujahideen ở Afghanistan. Liên Xô cũng làm như vậy đối với những người Sandinista ở Nicaragua. Hoa Kỳ thúc nợ dân chúng để bao cấp cho quân đội Israel trong khi Liên Xô gom tiền để xây dựng lại lực lượng không quân Syria sau khi Israel bắn rơi 97 máy bay phản lực của Syria trong ngày đầu tiên của cuộc chiến Li Băng năm 1982. Các siêu cường mua ảnh hưởng không những bằng vũ khí mà còn bằng vật chất. Họ chuyển khoản để tài trợ những dự án làm đường, xây đập, nhà văn hóa và hàng nhập khẩu – bất cứ thứ gì để ràng buộc một nước thuộc Thế giới thứ ba vào với họ trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Moskva và Washington viết những tấm séc mà phần lớn đã không đòi hỏi gì về cung cách các nước đó quản lý kinh tế ra sao, vì cả Moskơva và Washington đều lo ngại rằng nếu đòi hỏi những chư hầu của họ cải tổ nhiều quá, thì chúng sẽ nhảy sang phía bên đối phương. Vậy là những chế độ kém hiệu lực, tham nhũng hay dễ mua chuộc như của Ferdinand Marcos ở Philippines hay Anastasio ở Nicaragua nhận séc từ Washington, trong khi Cuba, Angola nhận tiền từ Moskva chỉ vì lý do những cỗ máy kinh tế của họ theo tư bản hay cộng sản, mà không phải vì hiệu quả hoạt động của chúng. Các siêu cường đã không quan tâm đến sự kết nối kinh tế trong các nước chư hầu vì vào lúc đó họ chỉ muốn mua lòng trung thành chứ không muốn đầu tư vào những công ty điện thoại ở đó. Ngay cả trường hợp Nhật Bản, Hoa Kỳ đã phải chịu đựng chính sách bảo hộ mậu dịch vô lý của Tokyo vì họ cần đến sự ủng hộ của nước này trong Chiến tranh Lạnh. Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao sẽ không bao giờ để cho đại diện Bộ Thương mại bắt chẹt Nhật Bản về những vấn đề kinh tế, do họ lo sợ sẽ để mất Nhật Bản trong những vấn đề an ninh. Nhưng cũng chính vì các siêu cường sẵn sàng viết chi phiếu, rất nhiều cuộc xung đột khu vực trong thời Chiến tranh Lạnh cứ âm ỉ kéo dài. Tổ chức Giải phóng Palestine đã công nhận Israel trong những năm 60 và 70 là nhằm động cơ gì trong khi Liên Xô đang cung cấp học bổng cho tuổi trẻ Palestine và súng cho du kích quân Palestine. Chiến tranh Lạnh tạo lợi thế và tài lực cho việc duy trì xung đột khu vực và khoác cho chúng ý nghĩa toàn cầu. Bây giờ xin bạn hãy gạt Chiến tranh Lạnh sang một bên. Toàn cầu hóa đã đến. Sau Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa trở thành một hệ thống quốc tế chủ đạo và đã đặt một khuôn mẫu khác lên trên địachính trị. Dù toàn cầu hóa không tiêu diệt được địachính trị, nhưng nếu nghĩ rằng nó không tạo được những thay đổi căn bản trong địa-chính trị, thì thật ngốc nghếch. Trước hết, trong toàn cầu hóa không còn bàn cờ, thế giới không còn bị chia thành những ô đen và trắng. Liên Xô đã sụp đổ, vậy không còn màu đen, và cũng không còn màu trắng. Không còn" bên ta "hay" bên nó "nữa. Chính vì thế cũng chẳng còn lợi ích gì, chẳng còn nguồn tại lực nào cần thiết trong việc duy trì xung đột khu vực. Trong toàn cầu hóa có một nhân vật mới mẻ đứng ra quản lý tập séc chuyển khoản – Bầy Thú Điện Tử: Chúng tập trung thành một thực thể và có khả năng tung tiền đi đây đó. Liên Xô không còn nữa trong khi Hoa Kỳ mặc lên người tấm áo nịt nạm vàng và cũng không còn viết séc chi trả những khoản viện trợ lớn lao nữa. Nơi mà một đất nước muốn đến để kiếm một tấm séc lớn đó là chốn của bầy thú, và bầy thú hiện không biết đánh cờ. Chúng chơi trò Triệu phú. Intel, Cisco hay Microsoft sẽ đi đâu để lập nhà máy, quỹ đầu tư toàn cầu Fidelity sẽ đổ tiền vào đâu là những gì quyết định ai được cấp tín dụng và ai không. Và những con bò đực trong bầy thú không có chuyện viết những tấm séc khống để mua tình yêu hay lòng trung thành của bạn; chúng viết những tấm séc đầu tư để mong kiếm lời. Bầy thú và những siêu thị tài chính không cần biết màu cờ sắc áo của đất nước của bạn là gì. Chúng chỉ muốn biết là đất nước của bạn có sự lưu thông nội bộ tốt không, mức hiệu quả của hệ điều hành và phần mềm trong nước của bạn ra sao và chính phủ của bạn có luật bảo vệ được các tài sản tư nhân hay không. Do đó không những Bầy Thú Điện Tử sẽ không giúp tiền để một đất nước chi trả cho một cuộc chiến khu vực hay xây dựng lại quân đội của đất nước sau khi tham chiến – giống như cách làm của các siêu cường xưa kia. Bầy thú sẽ trừng phạt một đất nước nếu nó kình chống láng giềng, bằng cách sẽ rút hết nguồn vốn quan trọng nhất cho phát triển của đất nước này. Như vậy các nước không có lựa chọn nào khác là phải ứng xử tốt để hấp dẫn bầy thú. Nếu làm ngược lại thì họ sẽ phải trả giá. Dĩ nhiên có những nước chọn và sẽ lựa chọn cách tồn tại không đếm xỉa gì tới bầy thú để họ có thể theo đuổi những đường lối chính trị riêng. Tổng thống Iraq Saddam Hussein những muốn theo đuổi những tham vọng của riêng ông, chiếm giữ khí đốt và cướp bóc láng giềng, thay vì tuân thủ những đòi hỏi của bầy thú, và thông qua chế độ bạo ngược của ông đàn áp dân chúng Iraq. Điều tương tự cũng đang xảy ra ở Bắc Triều Tiên, Afghanistan, Sudan và Iran. Lý thuyết Vòng Cung Vàng không áp dụng đối với họ vì họ đã quyết định không kết nối với bầy thú và các siêu thị, và họ có trữ Lượng dầu lửa và ý chí để tồn tại thêm một thời gian nữa. Nhưng ngày nay những đất nước như vậy chỉ là thiểu số. Ví dụ nếu bạn nhìn Nga và Trung Quốc và hỏi tại sao họ không còn thách thức Hoa Kỳ trong những khu vực gần họ, thì câu trả lời là: Vì họ đã yếu đi, đồng thời thách thức như vậy họ cũng sẽ chẳng được gì. Một mạng lưới quyền lợi và lợi thế đã được toàn cầu hóa dệt nên và trói buộc các quốc gia như Nga và Trung Quốc. Năm 1979, ở Trung Quốc không có nhà hàng McDonald's. Đặng Tiểu Bình lúc đó đã bắt đầu mở cửa đất nước này ra thế giới. Khi sang hội nghị thượng định với Tổng thống Carter ở Mỹ, Đặng tình cờ nói rằng khi về nước ông ta sẽ xâm lược Việt Nam vì Việt Nam đang trở nên ngạo mạn và kẻ cả. Carter cố gắng thuyết phục ông ta bỏ ý định đó, giải thích rằng làm như thế sẽ làm xấu đi hình ảnh Trung Quốc (không phải là kinh tế Trung Quốc), nhưng Đặng không nghe và đã tiến hành xâm lược Việt Nam. Bây giờ chúng ta tua nhanh cuốn băng đến năm 1996. Lúc này Trung Quốc có 200 tiệm McDonald's. Lúc đó tôi ở Trung Quốc quan sát sự căng thẳng giữa họ và Đài Loan. Tôi đã phỏng vấn một nhà kinh tế cao cấp thuộc Học viện Khoa học, trước ngày Đài Loan tổ chức cuộc tuyển cử dân chủ đầu tiên mà nhiều quan chức cho biết: Có thể đánh dấu sự tuyên bố độc lập của hòn đảo này. Trung Quốc lúc đó đang đe dọa sẽ tấn công Đài Loan nếu Đài Loan tuyên bố độc lập. Khi chúng tôi đang ăn mỳ trong một tiệm ăn trên tầng thượng một tòa nhà ở Bắc Kinh, tôi hỏi nhà kinh tế Trung Quốc một câu đơn giản: Trung Quốc có thể tấn công Đài Loan hay không? Anh ta không ngần ngại trả lời:" Không – làm như vậy sẽ chấm dứt đầu tư vào Trung Quốc, chấm dứt tăng trưởng và chấm dứt cơ hội cho chúng tôi bắt kịp với thế giới. " Cũng giống như những quan chức Trung Quốc tôi gặp dạo đó, nhà kinh tế này cảm thấy Trung Quốc hoàn toàn có lý để đập tan Đài Loan, đặng ngăn trở chuyện trở thành độc lập. Nhưng cũng như những người khác, anh ta sẵn sàng nói ra điều mà các lãnh đạo cao cấp chỉ dám thầm thì – đó là Trung Quốc không thể tấn công nếu không muốn kinh tế của họ bị tàn phá. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, Trung Quốc và Đài Loan, cả hai đều hiểu rằng họ đều có khả năng sẽ tổn hại kinh tế nếu xung đột xảy ra. Thời gian 1995-96 khi Trung Quốc đe dọa Đài Loan, thị trường chứng khoán của Đài Loan đã bị sụt giá nhưng những thị trường nhỏ của Trung Quốc không bị ảnh hưởng mấy. Nhưng trong cuộc khủng hoảng năm 1999 giữa hai bên, khi Trung Quốc đe dọa Đài Loan thì thị trường TAIEX, Đài Loan sụt giá 20%. Nhưng điều mà ít ai để ý đó là thị trường Thượng Hải sụt giá 40%! Hai vùng đất nhưng một thị trường tài chính. Trong quan điểm của Bắc Kinh, Trung Quốc không còn là một nền kinh tế nông nghiệp bị cô lập của thời Mao và Đặng nữa. Trung Quốc hiện đã kết nối một phần với Bầy Thú Điện Tử, và ý thức hệ duy nhất của các nhà lãnh đạo ở đó ngày nay là:" Làm giàu là vinh quang. "Lãnh đạo Trung Quốc không thể thực hiện được ý thức hệ đó Nếu không có hàng tỷ đô-la đổ vào đất này mỗi năm. Theo Tạp chí Kinh tế Viễn đông, tổng đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc năm 2000 là 46 tỷ đô-la trong gần 46.000 hạng mục nhà máy và công ty. Doanh nhân Đài Loan biết điều đó và dám nhắc nhở Bắc Kinh về điều đó." Đài Loan là nơi cấp vốn nhiều nhất cho Trung Quốc ngày nay, vì [doanh nhân Đài Loan] sẵn sàng tuân thủ luật chơi ở đại lục. Nhưng điều đó không phải là vĩnh cửu, "Douglas Hsu, Chủ tịch công ty dệt Far East Textile, một trong những tập đoàn lớn nhất của Đài Loan nói với tôi vào một buổi chiều ở Đài Bắc." Vào giờ phút này tôi cảm thấy khó xử. Trung Quốc là một thị trường lớn. Tôi tìm đâu ra thị trường khác để thay thế Trung Quốc bây giờ? Nhưng tôi đang sống cùng họ trong hoàn cảnh bất định. Tôi là một nhà công nghiệp. Tôi có đầy rẫy khó khăn trong việc xây dựng nhà máy và tìm kiếm khách hàng. Tôi không còn sức để lo lắng về chuyện tên lửa bay đi bay lại. Một sự bất định còn đó, và Trung Quốc sẽ phải trả giá. " Trung Quốc cũng bị hạn chế trong khả năng xử lý bằng quân sự với Đài Loan vì thực tế là Quốc hội Mỹ chắc chắn sẽ trả đũa bằng cách ngăn cản hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ – lượng hàng chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Thời gian 1990- 99, Trung Quốc thu nhập 65 tỷ đô-la trong buôn bán với Hoa Kỳ, chiếm một nửa trong số tăng trưởng ngoại tệ của Trung Quốc thời gian đó. Wang Shougen, Chủ nhiệm Ủy ban Đầu tư Nước ngoài của Thượng Hải có lẽ đã tóm tắt hay nhất về khả năng dễ tổn thương của Trung Quốc nếu gây chiến với Đài Loan vào năm 1996 đó là: Dù bị tấn công thì" thái độ của chúng tôi đối với các nhà đầu tư Đài Loan vẫn sẽ không thay đổi nhiều lắm. "Tôi rất thích lời tuyên bố đó. Ngay cả khi tôi xâm chiếm nước bạn, tôi chắc chắn vẫn hy vọng rằng những nhà đầu tư của bạn sẽ không lấy làm phật ý! Khả năng cùng bị hủy diệt là rõ ràng. Đài Loan không thể chịu đựng được sự suy giảm lòng tin trong giới đầu tư quốc tế cao như mức của Trung Quốc, hậu quả tất yếu nếu họ cố gắng theo đuổi đường lối độc lập. Nếu chiến tranh xảy ra thì không những thị trường chứng khoán của họ đổ vỡ mà tài sản của Đài Loan sẽ đi tong. Sự thể sẽ rất tồi tệ. Bầy thú sẽ bỏ chạy. Một thực tế ít ai biết đến đó là máy vi tính các loại lưu hành trên thế giới trong một chuỗi xích bán lẻ toàn cầu trong đó Đài Loan và các công ty của họ ở Trung Quốc và Á châu là những mắt xích chủ chốt. Nhà máy của Đài Loan sản xuất những linh kiện quan trọng để lắp ráp vào máy của Dell, Compaq, Acer, Hewlett-Packard và IBM PCs cũng như vào các thiết bị dẫn truyền cho Internet của Cisco. Đa số các hãng máy tính của Mỹ đã chấm dứt tham gia vào giai đoạn sản xuất, khiến Đài Loan trở thành nhà sản xuất lớn nhất thế giới chịu trách nhiệm về 13 linh kiện quan trọng nhất trong phần cứng của máy tính. Chúng là vỏ hộp, màn hình, bộ Vi xử lý, modem, bộ nguồn, CD-ROM, và cạc màn hình. Nhiều loại trong số đó chỉ được sản xuất ở Đài Loan. Tạp chí Electronic Buyers' News (19/7/1999) đã đặt câu hỏi cho các nhà sản xuất máy tính trên toàn cầu về sự căng thẳng giữa Đài Loan và Trung Quốc. Một người phát ngôn của hãng Compaq ở Đài Bắc cho biết:" Cho đến nay mọi sự diễn ra bình thường, nhưng nếu có một phản ứng mạnh mẽ từ phía Trung Quốc thì chúng tôi sẽ có kế hoạch di chuyển các đơn hàng từ Đài Loan sang Hàn Quốc hoặc Nhật Bản. " Tôi không nghi ngờ rằng nếu Đài Loan đi quá xa trên con đường đòi độc lập thì Trung Quốc sẽ dùng quân sự để chặn họ lại – dù có phải trả giá về kinh tế cao đến đâu. Không một lãnh đạo nào ở Trung Quốc có thể giữ được ghế nếu họ để cho Đài Loan được độc lập – vì làm như thế sự hợp pháp của lãnh đạo của Trung Quốc sẽ bị mài mòn. Nhưng cũng không một lãnh đạo nào của Trung Quốc có thể giữ ghế nếu không duy trì được đầu tư và thương mại với nước ngoài – đó cũng chính là căn bản cho quyền lực của họ. Vậy thì lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải tính toán khác trước, một khi họ đã kết nối với bầy thú. Đại chiến chỉ nổ ra khi các cường quốc muốn tham chiến, nhưng ngày này, bản năng của các cường quốc khiến họ không nên nhảy ngay vào các xung đột. Thay vì bị kéo vào các xung đột khu vực như Bosnia, Rwanda, Liberia, Algeria hay Kosovo, các cường quốc ngày nay đang cố gắng tạo những bức tường chắn, cô lập những điểm nóng và lái xe tránh khỏi những vùng đó. Nhưng một khi bị lôi kéo vào Kosovo hay Bosnia chẳng hạn, họ cố gắng bước ra càng nhanh càng tốt, vì dây vào những nơi đó không làm cho họ mạnh hơn, mà chỉ khiến họ yếu đi mà thôi. Chính vì thế những xung đột khu vực hiện nay không còn có thể lan ra ảnh hưởng toàn cầu như trước kia, mà ngược lại, thường bị hạn chế chỉ trong khu vực. Đó cũng là điều đáng tiếc vì như thế người ta dễ làm ngơ bàng quan với chúng, nhưng đó là thực tế. Ngày nay trong khi những xung đột khu vực bị hạn chế thì có những sự kiện lại dễ ảnh hưởng tới toàn cầu – đó là những khủng hoảng kinh tế khu vực – như ở Mexico giữa thập niên 90, Đông Nam Á vào cuối những năm 90 và ở Nga khi kết thúc thập niên 90. Những cơn khủng hoảng kinh tế khu vực và tiềm năng lan tràn của chúng đang làm chấn động hệ thống toàn cầu hóa. Thuyết Domino, một thời áp dụng trong chính trị, nay đang được áp dụng vào thế giới tài chính. Lý thuyết Vòng Cung Vàng đã chứng tỏ ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với địa-chính trị – thông qua hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa khiến cho chi phí các hoạt động chiến tranh tăng gấp bội. Và ảnh hưởng của toàn cầu hóa cũng được thể hiện bằng nhiều cách khác. Chẳng hạn nó làm xuất hiện những nguồn quyền lực mới, mạnh hơn sức mạnh của xe tăng, máy bay và tên lửa, và làm xuất hiện những nguồn sức ép mới đối với các quốc gia – buộc họ phải tự tổ chức lại. Những nguồn sức ép không phải gây ra bằng những cuộc xâm lấn và đột nhập quân sự mà bằng sự xâm lược vô hình của các chuỗi siêu thị và những cá nhân được trao quyền. Để chứng minh xin lấy ví dụ vùng Trung Đông. Hãy đứng trên quan điểm toàn cầu đa diện để xem xét vùng này, bạn sẽ thấy được những điều thú vị. Mùa thu 1997, tôi sang Israel. Tiến trình hòa bình Trung Đông đang ở vào giai đoạn trì trệ. Nhưng tôi tình cờ thấy được một bài viết trong mục thương mại của một tờ báo rằng viện trợ nước ngoài ở Israel vẫn còn khá mạnh mẽ. Ngạc nhiên, tôi đến gặp Jacob Frenkel, Thống đốc Ngân hàng Trung ương và hỏi ông ta:" Vì sao tiến trình hòa bình Trung Đông đang đi xuống trong khi đầu tư nước ngoài vào Israel lại đi lên? " Câu trả lời của Frenkel và tôi là ngày nay Israel đang nhanh chóng chuyển dời từ một nền kinh tế nông nghiệp trồng cam, khai thác kim cương và dệt vải sang một nền kinh tế công nghệ cao, với hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ cho phép Israel không còn dễ bị uy hiếp trước áp lực chính trị của thế giới Ả rập, của nạn khủng bố, tẩy chay và những thăng trầm của tiến trình hòa bình nhưng cũng biến Israel trở nên yếu hơn nếu phải tham gia vào một xung đột quy ước. Lý do: Thời trước Israel trồng cam, Ma rốc cũng trồng cam, và Tây Ban Nha cũng trồng cam, vậy là nếu khách hàng ở Nhật hay Pháp không chấp nhận một chính sách nào đó của Israel thì, để trừng phạt, họ sẽ mua cam của nước khác. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một trong những công ty của Israel, công ty Galileo Technology, Ltd, chẳng hạn, phát minh ra thiết bị vi tính Ethernet sử dụng cho các mạng điện toán liên lạc nội bộ? Bạn không thể mua chúng ở Ma rốc được. Điều gì sẽ xảy ra nếu các công ty Israel thống lĩnh thị trường công nghiệp cao, như các công cụ mã hóa để bảo mật trên Internet, hiện đang được áp dụng cho các cơ sở công nghệ và quân đội Israel? Bạn không thể mua chúng ở Tây Ban Nha được. Kết quả là mọi người sẽ đến lạy van Israel, dù tiến trình hòa bình có thăng trầm đến đâu. Mọi công ty lớn của Hoa Kỳ đều đã mở một chi nhánh ở Israel hoặc mua lại một phần các công ty trong nội địa Israel – Intel lúc đó vừa tung vào 1, 5 tỷ đô-la đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất chip vi tính. Nhật Bản vốn dĩ lảng tránh Israel do sợ bị thế giới Arập trả đũa nay trở thành nguồn cấp vốn đứng thứ hai sau Hoa Kỳ ở nước này. Nhật Bản vốn không thông thạo về kỹ thuật thiết kế phần mềm, nay đang bỏ vốn đầu tư vào các công ty phần mềm của Israel. Tôi thấy điều đó thật thú vị khi nhớ lại thời còn là phóng viên thường trú cho tờ The New York Times ở Jerusalem giữa những năm 80, loại xe Nhật được bán thời đó chỉ là loại Daihatsu hay Subaru chất lượng thấp và rẻ tiền. Lúc đó Nhật bản chỉ bán xe hơi sang trọng cho dân Ả rập. Thời đó hết rồi. Giờ đây bạn có thể mua bất cứ loại Lexus nào nếu muốn, ở Israel, vì theo lý thuyết kinh tế, Israel ngày nay đã trở thành quốc gia xuất khẩu năng lượng mạnh hơn cả Arập Xê út. Bằng cách xuất khẩu phần mềm, chip vi tính và các sáng tạo công nghệ cao Irael đang xuất khẩu nguồn năng lượng dành cho nền kinh tế thông tin. Và nước nào cũng cần thứ năng lượng đó, mặc cho Israel có hành hạ người Palestine đến mấy. Cũng giống như thời 1974, ai cũng cần dầu lửa, mặc cho người Ả rập có bắt nạn dân Do Thái đến mấy. Ý nghĩa địa-chính trị nằm ở đó. Hãy nhìn vào các con số. Năm 1998, Trung Quốc có 52 nhà khoa học đang nghiên cứu ở viện nghiên cứu danh Tiếng Weizmann của Israel. Tại đó Ấn Độ cũng có 52 người của họ. Hai đất nước mà vào những năm 70 không dám bắt tay với Israel, nay đang cố sức gửi chuyên gia của họ đến đó. Một lý do khác giúp cho Israel trở nên không dễ bị áp lực đó là ở chỗ các mặt hàng tri thức công nghệ cao thường rất nhẹ và không dễ gì bị phá hoại. Một số sản phẩm được xuất khẩu bằng modem. Đầu tư công nghệ cao ở Israel là trang bị cho con người và trí óc chứ không cần phải xây dựng nhà máy hay những cơ sở dễ bị phá phách. Xuất khẩu kỹ thuật của Israel không đi sang các nước láng giềng, những nơi họ xung đột, mà đi đến những miền xa như châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Thực tế cho thấy các công ty đó không bán sản phẩm trong nội địa hay trong khu vực Trung Đông, chính vì thế họ không bị nhạy cảm với các hoạt động chính trị trong khu vực. Không phải ngẫu nhiên mà khách sạn Hilton ở Tel Aviv đã cho mở một quầy bán sushi, thay vì một quán ăn Ả rập. Các công ty công nghệ cao của Israel đã thu hút vốn từ phố Wall hay các cơ sở cấp vốn ở Thung lũng Solicon – họ không bị lệ thuộc vào thị trường chứng khoán Tel Aviv; và khuynh hướng hiện nay cho thấy các công ty đó mở các trụ sở ở nhiều nơi, ví dụ một ở Thung lũng Silicon, một ở Tel Aviv. Check Point, một công ty Israel kiểm soát khoảng 50 phần trăm thị trường công cụ bảo vệ an ninh Internet, tường lửa chẳng hạn, đã có một văn phòng và cơ sở nghiên cứu ở Israel nhưng cũng có một văn phòng ở Thung lũng Silicon, để tiếp cận thị trường. Một nhà phân tích tài chính phố Wall, chuyên theo dõi ngành công nghệ kỹ thuật cao của Israel cho tôi biết rằng, để quan sát tình hình Israel, chị thường phải sang California nhiều hơn là sang Tel Aviv. Nhưng khi làm như vậy, Israel đã bộc lộ những chỗ yếu nhất định. Israel phát triển một nền kinh tế tri thức, nhưng những người lao động – giới trí thức – lại là một lượng có khả năng di chuyển nhanh và muốn được hậu đãi. Nếu những kỹ thuật viên chủ chốt ở Israel nghĩ rằng đã đến một thời điểm họ không còn chịu đựng được nữa – do xung đột quân sự và tranh giành tôn giáo hầu như không thuyên giảm – họ sẽ ra đi hay chuyển nơi làm việc ra khỏi Israel. Những tình cảnh như vậy chưa xảy ra nhưng không phải là không tưởng. Mức thu nhập bình quân 17.000 đô-la/người của Israel gần tương đương với mức của nước Anh. Israel là nơi có McDonald's. Và nếu Thủ tướng Israel ra lệnh cho binh lính xâm lược và chiếm cứ một vài phần trên dải Gaza hay bờ Tây sông Jordan, không vì lý do sống còn của đất nước, thì sẽ có rất nhiều nhân tài trí thức của nước này bỏ đi. Dĩ nhiên nếu có người không kết nối với Bầy Thú Điện Tử, như Saddam Hussein hay những kẻ khủng bố chẳng hạn, họ chiếm được một loại vũ khí hạt nhân rồi muốn cho nổ tại Israel thì việc Israel sử dụng quân sự vẫn là cần thiết, dù kinh tế có là công nghệ cao hay thấp. Nhưng tôi vẫn tin rằng cái hố ngăn cách về trình độ kỹ thuật giữa Israel và thế giới Ả rập trong những năm tới sẽ còn rộng hơn nữa, nếu Israel có khả năng bỏ lại đằng sau sự xung khắc với người Palestine. Khi tất cả những thứ mà bạn chào mời thế giới chỉ là nhân lực rẻ mạt hay dầu lửa như trong trường hợp của đa số các nước Ả rập, thì chính bạn sẽ bị hạn chế. Nhưng khi bạn có một nền kinh tế đi theo hướng thịnh vượng và có khả năng quy tụ tri thức, vốn và tài nguyên từ khắp thế giới, bạn sẽ không bị trói buộc bởi nội lực, cũng như trường hợp Israel vậy. Trong lịch sử ta thấy hai quốc gia sử dụng thủy năng Ở Trung Đông: Ai Cập trên dòng sông Nile và Mesopotania có dòng sông Tigris và Euphrates. Trong thế kỷ 21 tôi tin rằng sẽ có đất nước thứ ba, sử dụng dòng sông Jordan. Israel sẽ trở thành một đầu tàu công nghệ cao và kéo theo sông Jordan và giúp đỡ người Palestine cùng tiến với họ. Công ty Siemens đã nối nhà máy của họ, Siemens Data Communications đóng gần Haifa, với một nhóm kỹ sư người Palestine của công ty này hoạt động ở thành phố Ramallah trên vùng bờ Tây, tất cả nối với đại bản doanh của hãng ở Đức. Đó là một sự khởi đầu. Cách nhìn toàn cầu cũng có ích lợi trong việc giải thích về thế giới Ả rập Hồi giáo ngày nay. Tháng 11 năm 1997 tôi đến vịnh Ba Tư. Xin hãy nghe tôi kể bốn câu chuyện trong chuyến đi này: Câu chuyện thứ nhất: Trong chặng dừng chân đầu tiên ở Kuwait, 10 giờ đêm, trong khách sạn Sheraton, khi sắp sửa lên giường đi ngủ, điện thoại của tôi rung chuông. Đó là một phụ nữ trẻ người Kuwait gọi điện, giải thích chị làm việc cho Hãng Thông tấn Kuwait (KUNA), và thường dịch bài của tôi. Chị muốn phỏng vấn tôi. Thật ngạc nhiên – một nữ ký giả Kuwait gọi điện cho một nhà báo phương Tây lúc 10 giờ đêm. Tôi nói hôm sau tôi sẽ đi thăm các cơ sở dầu lửa và nếu chị muốn thì có thể đi cùng tôi. Nhưng nhà báo này muốn gặp tôi ở khách sạn lúc 7 giờ sáng hôm sau. Đúng 7 giờ sáng, chị đến khách sạn, đeo khăn che mặt theo truyền thống – và tỏ ra là một người rất thông minh. Trong lúc trò chuyện tôi hỏi chị có anh chị em không." Tôi có một người anh, "chị nói." Anh ta vừa cưới một cô vợ người Kuwait, người mà anh ta gặp trong trên Internet, trong một chatroom. "Điều mà nhà báo này không nói với tôi nhưng tôi lại khám phá sau đó, đó là một đám cưới mà hai bên khác biệt về tông phái tôn giáo. Một bên là Hồi giáo phái Sunni, bên kia theo phái Shiite. Nhưng cặp vợ chồng đã gặp nhau trên Internet, nơi không có những ràng buộc về truyền thống và tập quán của Kuwait, và khi họ gặp nhau trực tiếp thì họ đã phải lòng ngay (nói theo ngành vi tính là" sét đánh ngang byte "). Cha mẹ của cô dâu rất buồn. Nhưng cô dâu nói với họ rằng lòng cô đã quyết." Chiếc bánh cưới của họ mang hình một chiếc máy tính cùng bàn phím, "nữ ký giả trẻ trung người Kuwait kể với tôi. Chuyện thứ hai: Khi ở Kuwait tôi đã đến gặp Ibrahim S. Dabdoub, Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Kuwait, một trong những vị quản trị ngân hàng đáng kính nhất vùng này. Khi vào văn phòng của ông ở thủ đô, tôi thấy ông ta đang giận dữ. Sao vậy? Tôi hỏi. Dabdoub giải thích rằng hãng hàng không Kuwait Airways, hàng không Quốc gia, muốn đăng ký vay tiền để mua hai máy bay Boeing mới, loại thương vụ mà xưa nay ngân hàng của ông thực hiện rất ngon lành. Nhưng lần này, ông giải thích" có ai đó tự nhận là NationsBank ở Maryland "đã đấu thầu tài trợ cho Kuwait Airways, với mức lãi suất chỉ cao hơn mức lãi tốt nhất thị trường 0, 25%." Đó là hiện tượng bán phá giá, "Dabdoub thốt lên." Phá giá trong tài chính. "Ông ta so sánh với hiện tượng các quốc gia cho xuất khẩu các sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản xuất để chiếm lĩnh thị trường." Không công bằng chút nào. Một ngân hàng lớn địa phương của Mỹ, thậm chí không mang danh toàn cầu, không ai biết đến, lại cạnh tranh với các ngân hàng Kuwait và đã chiếm được thương vụ này. " Chuyện thứ ba: Tôi rời Kuwait để sang một hội nghị ở Qatar. Khi đang xếp gọn đồ đạc trong khách sạn Sheraton để lên đường, điện thoại lại réo. Đó là một nữ phóng viên người Qatar, 21 tuổi, người đã đọc cuốn sách này của tôi và muốn gặp. (Tôi không bịa ra chuyện này, nhưng vợ tôi thì không tin chút nào). Tôi nói với cô ta rằng tôi đang trên đường ra sân bay, nhưng nếu cô ta muốn đi cùng trong taxi với tôi để trò chuyện thì cũng được. Đó là một phụ nữ đáng yêu, thông minh và nói tiếng Anh giỏi. Tiếng Anh của cô ta giỏi đến mức tôi đã hỏi có bao giờ cô viết báo bằng tiếng Anh, vì nếu được thì cô ta có thể trở thành cộng tác viên của báo The New York Times trong cuộc họp Thượng đỉnh Kinh tế ở Trung Đông sắp tới. Cô này nói:" Nói thật là tôi viết cho một trang web đưa tin vùng Vịnh, và chính phủ của tôi không gì về chuyện này. " Tôi thấy hay quá. Một phụ nữ trẻ Hồi giáo viết bài cho thế giới trên Internet kể về đất nước của chị vậy mà chính phủ không biết đến. 10 năm trước làm sao có chuyện như vậy, không nói đến 100 năm. Nhưng đây là hình tượng của tương lai. Ngày nay một số chương trình truyền hình và tờ báo được ưa thích nhất ở Trung Đông được các công ty tư nhân phát đi từ châu Âu và nằm ngoài tầm kiểm soát của các chính phủ trong khu vực. Chuyện thứ tư: Ả rập Xê út đang xem xét việc cho phép phụ nữ lái xe hơi, điều mà xưa nay họ cấm đoán. Vấn đề này đã và đang được tranh cãi quyết liệt tại nước này nhưng gần đây đã trở nên cấp bách hơn. Vì sao? Do sự sụt giá của dầu lửa, vương quốc này không còn khả năng trả lương cho nửa triệu người nước ngoài sang hành nghề lái xe. Hãy xem bài phỏng vấn đăng trên tờ báo Al-Quds al-Arabi và được dịch đăng trên tờ Mideast Mirror ngày 17/4/1998. Người được hỏi là hoàng tử Talal bin Abdelaziz, có lẽ là thành viên có tư tưởng tự do trong hoàng tộc Xê út. Talal là người anh em của cả quốc vương Fahd lẫn Bộ trưởng Quốc phòng Sultan, và là bố của hoàng thân al-Waleed bin Talal, một nhà công nghiệp năng động nhất của đất nước. Được hỏi là ông có ủng hộ việc cho phép phụ nữ nước này lái xe, Talal nhất trí ngay và nói thêm:" Phụ nữ Xê út vốn dĩ đã cưỡi lạc đà cùng đàn ông. Vậy thì có gì khác nhau giữa lạc đà và xe hơi? Việc phụ nữ lái xe đã trở thành một sự cần thiết về kinh tế. Chúng ta chuyển hàng triệu đô-la sang những quốc gia có kiều dân sang đây làm Tài xế, vậy thì tại sao không tiết kiệm khoản tiền đó. " Hoàng tử Talal nói tiếp:" Cải cách chính trị đang trở thành một bộ phận của toàn cầu hóa và chúng ta cần chuẩn bị tinh thần để ứng phó với tình hình đó.. toàn cầu hóa hiện nay đang dựa trên nền móng dân chủ, nhân quyền và kinh tế thị trường. Có người đã nói vui, gọi toàn cầu hóa là "thời trang" trong đó chúng ta phải chạy theo. Nếu Trung Quốc cũng chạy theo "thời trang" đó thì tại sao những quốc gia vùng Vịnh không làm điều đó? Họ phải hiểu rằng thay đổi là tất yếu. " Những câu chuyện trên nói với chúng ta điều gì? Chúng nói rằng những điều gì Saddam Hussein làm hay không làm, hay những gì láng giềng của ông ta tuân phục hay bỏ qua, tất cả đều sẽ tác động mạnh mẽ đến sự ổn định của Trung Đông. Và trước khi ông ta ra đi, những hành động của Hussein có nhiều khả năng sẽ gây ra chiến tranh hay ngưng bắn. Nhưng trong lúc này có một cuộc xâm lăng đang lặng lẽ xảy ra trong vùng Vịnh – cuộc xâm lăng của thông tin và tư bản tư nhân thông qua hệ thống toàn cầu hóa. Nhiều năm qua thế giới Ả rập đã bị cách ly khỏi những cuộc cách mạng thông tin và thị trường tài chính – những tác nhân lớn đối với châu Á và nhiều vùng khác trên thế giới. Dầu lửa đã cho phép người Ả rập và Iran tránh được sức ép phải giảm biên chế và tư nhân hóa những nền kinh tế của họ. Dầu lửa cho phép họ dựng rào cản trước những áp lực đó và tiếp tục duy trì rào cản ngay cả khi bức tường Berlin sụp đổ. Thời đó qua rồi. Làm thế nào để những xã hội Ả rập đối phó với cuộc xâm lăng của thông tin và vốn tư nhân – thích nghi hay chống lại – sẽ tạo những tác động tương tự vào toàn cảnh vùng Vịnh, mạnh không kém Saddam Hussein. Nếu bạn không nhận thấy cuộc xâm lăng đó, không thấy bộ mặt mới của Trung Đông ngày nay, và nếu làm ngơ trước cuộc xâm lăng không tiếng súng nói trên thì bạn thông thể vạch chiến lược đúng đắn cho Trung Đông. Và xin báo trước: Cuộc xâm lăng lặng lẽ này sẽ không bao giờ ngưng. Một lần tôi đi bộ trên đường phố Teheran cùng một cộng tác viên của báo The New York Times, cũng một phụ nữ 21 tuổi người Iran nhưng đã Âu hóa nhiều. Chúng tôi trao đổi về chủ đề dầu lửa ảnh hưởng ra sao tới nền chính trị của Iran, đặc biệt về việc dầu lửa đã cho phép các vị trưởng giáo tiếp tục cầm quyền trong một thời gian quá dài, vì thu nhập từ dầu lửa đã bù trừ cho hoạt động kinh tế yếu kém dưới chế độ Hồi giáo. Dầu lửa, chứ không phải lòng tin Hồi giáo, chính là vũ khí bí mật của Iran. Nếu không có sự cứu giúp về tài chính mà thu nhập từ dầu lửa mang lại, thì các vị trưởng giáo đã phải mở cửa đất nước và khoác lên mình chiếc áo nịt nạm vàng – đơn giản vì nền kinh tế ở đây không thể tăng trưởng kịp để cáng đáng mức tăng dân số mà không cần đến những đầu tư lớn từ nước ngoài. Và nữ đồng nghiệp của tôi nói một câu mà tôi nhớ mãi, về đất nước Iran:" Nếu không có dầu lửa thì chúng tôi có thể phát triển như Nhật Bản. " Tôi hứa với cô ta một điều. Một ngày nào đó các giếng dầu ở Iran sẽ khô cạn, hay thế giới sẽ khám phá ra một nguồn năng lượng thay thế dầu lửa thì điều gì sẽ xảy ra: Các vị trưởng giáo sẽ phải mặc tấm áo nạm vàng, nếu không, sẽ bị hạ bệ." Hãy báo cho tôi hay cái ngày mà dầu lửa ở Iran cạn dần, "tôi nói," và tôi sẽ báo cho cô và cái ngày có một trưởng giáo Gorbachev xuất hiện ở đây. " Và lúc đó cũng sẽ xuất hiện cả tiệm ăn McDonald's. Trong một bữa ăn tối ở Ma rốc năm 1996, bạn tôi, một nhà ngoại giao Mỹ, người tôi gặp lần đầu ở Moskva trong thập niên 80, đã giải thích cho tôi về những khác biệt trong vai trò của anh thời nay so với thời Chiến tranh Lạnh, về những thế lực đang định hướng ở những nơi anh ta hoạt động, về tình hình thế giới nói chung mờ đục so với sự tách bạch về quyền lực của thời Liên Xô và Mỹ. " Khi tôi vào ngoại giao, "anh ta thú thật," thì đó là một môi trường định hướng rõ ràng. Bạn học ngoại ngữ, được cử vào cuộc chơi và sang đóng ở một đại sứ quán ở nước ngoài. Cũng như đi câu vậy: Ném mồi ra rồi kéo mồi vào, bạn biết rõ luật chơi, trò gì, và mục đích gì. Ngày nay, sự nghiệp của bạn như trong cuộc chạy vượt chướng ngại. Chúng tôi nói với nhau, 'Chúng ta đi đâu thế này, dùng loại bóng gì để ném, và người bắt bóng là ai vậy?'Vị đại sứ có thể đến hỏi, 'anh đang làm gì thế?'Và bạn không rõ là mình đang làm gì, rồi tự hỏi, 'Mình đang làm gì ở đây nhỉ?'Chính phủ Hoa Kỳ có thể đóng cửa [như trong năm 1996] mà cũng chẳng ảnh hưởng gì, điều đó làm nhiều người giật mình.. càng ở ngành ngoại giao lâu tôi càng có cảm giác mình lạc vào một cảnh của câu chuyện Chùm nho uất hận trong đó viên chức ngân hàng đến siết nhà của người nông dân và người này đã dọa bắn chết ông ta, nhưng viên chức đó nói đó không phải lỗi của ông, vì ông chỉ là người thừa hành lệnh của một tổ chức. Và người nông dân hỏi đến bao giờ mới kết thúc được điều đó? Tôi phải bắn ai bây giờ? Vị quan chức nhà băng trả lời, 'tôi không biết, hình như không có ai cho anh bắn đâu.' " Lời than vãn của ông bạn tôi là điều bạn ngày nay thường nghe từ cộng đồng những chuyên viên vạch chính sách đối ngoại. Vì sao anh ta bị rối trí? Vì hệ thống Chiến tranh Lạnh là một thế giới được phân chia rõ ràng, và ai cũng biết cách đo đếm sức mạnh, đánh giá hiểm họa, sự răn đe và những lợi thế, đặng đưa ra những chiến lược đúng hướng. Dẫu cho thời đó có những bất đồng trong cách vạch chiến lược – phong tỏa chặt chẽ, hòa hoãn hay kiểm soát vũ khí – nhưng mọi người thường vẫn sử dụng một thứ thuật ngữ chung và quan điểm chung trong việc hình thành từng phần của chính sách. Có một sự nhất trí chung rằng Chiến tranh Lạnh là một hệ thống dựa trên cán cân lực lượng thông thường được xây dựng xung quanh quanh các quốc gia, các đội quân và những loại vũ khí hạt nhân. Một nhà chiến lược thời đó có nhiệm vụ hoán chuyển các yếu tố đó, kết hợp chúng để làm sao chúng sang bên phe ta nhiều hơn là ở bên phe đối phương. Nhưng địa-chính trị trong thời toàn cầu hóa phức tạp hơn nhiều. Bạn vẫn lo lắng về những đe dọa từ những quốc gia mang tính ly khai – Iraq, Iran và Bắc Triều Tiên. Nhưng bạn cũng dần phải quan tâm đến những đe dọa từ những nước mà bạn có quan hệ – thông qua cả Internet, thị trường và những cá nhân được trang bị tốt, những người có khả năng bước thẳng đến gặp bạn. Hơn nữa trong thế giới đầy những quan hệ, nhà nước có thể bị đe dọa, hoặc bị cuốn hút vào các cuộc xung đột, thậm chí chỉ do một nước láng giềng tan vỡ hay một kẻ thù cũ (như Nam Tư) ra đi, hoặc khi phải phản ứng trước sự hiếu chiến của một nhà nước (như Iraq). Quan trọng hơn, quan tâm của các nhà nước thời nay mang tính chất đa dạng hơn nhiều, ngày càng có thêm các chương trình nghị sự cho họ quan tâm, hơn là chỉ chăm chăm vào lo cho việc họ thuộc phe nào. Trên thế giới, bạn thấy có một gánh xiếc với năm sân khấu – trong đó các nước đang vật lộn với những vấn đề liên quan tới hình thù, kích cỡ, chất lượng, sự bình đẳng, tự do hoặc tổng hợp tất cả những điều đó. Trong tình hình đó, để đo đếm quyền lực và đánh giá hay dự đoán hoạt động của các nhà nước, các nhà phân tích phải đồng thời quan tâm đến cả năm vấn đề. Xin phân tích từng chủ đề. Trước hết, như Michael Mandelbaum nói, một khi chấm dứt Chiến tranh Lạnh" nhiều nước, lần đầu tiên trong vòng 50 năm, quan tâm tới hình thù của họ, nước nào là láng giềng chung biên giới và nước nào không. "Bạn có thể thấy hiện tượng này xuất hiện từ Nga, đến Nam Tư, rồi đến Indonesia – nhiều quốc gia cố gắng phân xử ai là người chủ của cây ô liu nào, trong địa bàn nào – vì chúng không còn bị Chiến tranh Lạnh quyết định một cách cứng nhắc nữa. Những nước cảm thấy thoải mái với hình dạng của mình thì lại có một mối quan tâm khác, trong thời toàn cầu hóa." Những nước khác lo về việc kích cỡ, "Mandelbaum nói." Kích cỡ của các cơ quan nhà nước của họ. "Điều này cũng áp dụng cho toàn bộ các thành viên của Liên hiệp Tiền tệ châu Âu – những nước này đang cắt giảm bộ máy chính phủ để cùng duy trì một đồng tiền và tồn tại trong toàn cầu hóa. Họ biết là hình dạng của từng thành viên trong khối đã được cố định. Giờ đây họ chú trọng vào kích thước của các chính phủ thành viên, giảm kích cỡ để cùng mặc chiếc áo nịt nạm vàng của châu Âu liên minh. Một số nước khác thì lo đến chất lượng của nhà nước trong toàn cầu hóa – ví dụ Thái Lan, Hàn Quốc và Brazil – tất cả, sau cuộc khủng hoảng Á châu, đang cố gắng nâng cấp chất lượng của chính phủ và các hệ thống tài chính, để đào tận gốc nạn tham nhũng và sự móc ngoặc trong làm ăn. Trong khi đó có những nước khác lại chú trọng vào đạt cho được sự bình đẳng, giải quyết cái hố ngăn cách giữa giàu và nghèo do toàn cầu hóa gây ra. Chẳng hạn Mexico và Venezuela đang dồn sức vào chủ đề bình đẳng và công lý – người thắng và kẻ thua trong toàn cầu hóa sẽ được chia phần như thế nào. Và sau cùng, có những quốc gia vẫn còn phải tập trung giải quyết chủ đề liên quan tới quyền tự do – toàn cầu hóa đòi hỏi rằng nếu không có dân chủ hóa, tự do báo chí và những cơ cấu kiểm soát chính phủ và nếu không có khả Năng thay đổi lãnh đạo thì họ sẽ khó có cơ tăng trưởng. Những quốc gia mang tính đa dạng cao như Pakistan, Peru và Trung Quốc đang vật lộn với chủ đề quyền tự do. Điều khiến cho Nga và Trung Quốc gặp nhiều khó khăn, Mandelbaum nói," chính là việc họ phải đương đầu với tất cả các chủ đề trên cùng một lúc. "Họ vật lộn với hình dạng đất nước – lãnh thổ nào thuộc về họ (Tây Tạng? Đài Loan? Chechnya) ; cố gắng cắt giảm bộ máy nhà nước trước sự đòi hỏi của toàn cầu hóa; cố gắng nâng cấp chất lượng bộ máy nhà nước; giải quyết sự bất bình đẳng xẩy ra khi chế độ phúc lợi cũ không còn nữa, hội nhập, và khi các vị quan chức mới ăn cắp tài sản của nhà nước thông qua chương trình tư nhân hóa; và họ tiếp tục vận lộn với sự đòi hỏi dân chủ hóa và quyền được tham gia chính phủ. Chính vì thế bạn không thể hoạch định chính sách đối với Nga hay Trung Quốc nếu không cảm nhận được toàn bộ năm thách thức kể trên, không tiên đoán được kết quả của những cố gắng đó, và không cảm nhận được khả năng của hai nước này đối phó ra sao trong cách ứng xử quốc tế của họ. Ứng xử của Nga và Trung Quốc sẽ tùy thuộc phần lớn vào việc họ phát triển ra sao, cụ thể là tùy thuộc vào việc họ xử lý năm thách thức ra sao. Những chủ đề trên đã không nổi lên trong thời Chiến tranh Lạnh, vì đó là một cuộc chiến và câu hỏi duy nhất thời đó là: Bạn ở phe nào? Nếu bạn Ở phe tôi thì tôi coi bạn là tốt – không cần biết đến đặc điểm hình dạng, kích cỡ, chất lượng, bình đẳng hay tự do của bạn ra sao. Nếu bạn thuộc phe đối phương thì bạn là xấu – dù đặc điểm của bạn có hay đến mấy. Chúng ta đã vô tình cho rằng sau Chiến tranh Lạnh, mọi sự sẽ trở nên ngon lành, nhưng thực ra, mọi sự đã trở nên phức tạp hơn nhiều, dẫu cho Nga, Trung Quốc và các nước khác có thái độ tích cực đến đâu. Đối phó với năm đặc tính là nhiệm vụ của các nguyên thủ quốc gia; nếu bạn là một vị nguyên thủ nhưng chỉ chăm chăm nói tới một đặc tính, hình dạng đất nước chẳng hạn, thì bạn sẽ bị lạc lõng trong thời kỳ mới. Tóm lại, tôi xin nhấn mạnh lần nữa rằng tấn kịch quan hệ quốc tế ngày nay đang kết hợp những điều mới mẻ – áp lực, ưu đãi và sự phức tạp của hệ thống toàn cầu hóa – tương tác với những điều cũ kỹ, nỗi đam mê câu ô liu trong mỗi chúng ta. Mỗi người đều phải tôn trọng sức mạnh của toàn cầu hóa, cùng với nó là chiếc áo nịt, những siêu thị tài chính và, vâng, cả McDonald's nữa, để làm thuyên giảm những hành vi hiếu chiến của một số quốc gia; nhưng mỗi người cũng phải tôn trọng sức lôi cuốn của cây ô liu và những điều gắn bó có thể làm sống dậy con người phi lý trong chúng ta. Điều kết luận duy nhất của tôi là những áp lực của hệ thống toàn cầu hóa, hiện thân là chiếc xe hơi Lexus, đang có khuynh hướng chế ngự sức lôi cuốn của cây Ô liu tại đa số các quốc gia – trong số đó có cả Serbia. Khuynh hướng này có bền vững và đảm bảo mang đến Hòa bình Vĩnh cửu hay không? Khó mà đoán được. Bạn không thể biết rồi liệu sẽ có hay không những khuynh hướng khác, khuấy động tinh thần cây ô liu trong mỗi chúng ta bằng những cung cách hiếu chiến và xấu xa. Để minh họa cho sự giằng co giữa toàn cầu hóa và những cây Ô liu trong mỗi chúng ta, tôi đã tưởng tượng ra cuộc trò chuyện giữa một vị ngoại trưởng Mỹ đúng đắn, ông Warren Christopher chẳng hạn, với một lãnh đạo không mấy đứng đắn, ví dụ Tổng thống Hafez el- Assad của Syria – một người ôm giữ các giá trị của cây Ô liu và Chiến tranh Lạnh. Cuộc trò chuyện sẽ như sau: Christopher:" Hafez – vui lòng cho phép tôi gọi ông bằng tên? Hafez, ông là một người của ngày hôm qua. Ông vẫn sống trong Chiến tranh Lạnh. Tôi biết là ông chỉ du hành khỏi Trung Đông có vài bận, vậy để cho tôi kể với ông về một thế giới mới. Hafez, Syria nhiều năm qua đã tranh cãi liệu có nên cho phép dân chúng ở đây được có máy fax. Rồi ông lại mất thêm bốn năm để bàn xem dân chúng có được phép lên Internet hay không. Thật đáng buồn. Làm như thế nên thu nhập bình quân theo đầu người của Syria mới chỉ ở mức 1.200 đô-la/năm. Và Syria chỉ may ra có thể sản xuất được bóng đèn điện. Từ năm 1994, toàn bộ khu vực tư nhân của ông chỉ xuất khẩu được một tỷ đô-la mỗi năm. Một vài công ty vô danh của chúng tôi cũng đã xuất khẩu được tới một tỷ mỗi năm. Hafez, ý tôi muốn nói là trong Chiến tranh Lạnh, Syria có sản xuất chip điện tử hay khoai tây rán, xe hơi Lexus hay bóng đèn điện thì cũng không ai quan tâm, vì nước này đã rất no đủ thông qua việc bú sữa của con bò siêu cường và tống tiền các nước láng giềng. Vâng, tôi có thể thấy ông đang mỉm cười, Hafez. Ông biết đó là sự thật. Ông đã bòn của Arập Sê út hàng tỷ bạc bằng cách nói với họ rằng, theo cách nói của giới Mafia, "sẽ có một trục trặc" xảy ra trong những khu dầu khí của họ, nếu họ không nộp tiền cho Syria. Ông vắt sữa con bò cái Liên Xô vào thứ hai, thứ tư và thứ sáu, vắt của con bò châu Âu vào thứ ba và thứ năm, và con bò Trung Quốc vào ngày chủ nhật. Liên Xô thậm chí đã mua những rác rưởi do nhà máy quốc doanh của ông sản xuất, trang bị vũ khí và viện trợ cho ông để đổi lấy tình hữu nghị. Đó là một thời hoàng kim, Hafez, thời mà ông lợi dụng phái này hay phái kia để thủ lợi. Nhưng Hafez ạ, thời đó qua rồi. Người Xê út không còn nộp tiền cho ông nữa, trữ lượng dầu lửa của ông không còn dồi dào; trong 10 năm nữa, Syria sẽ trở thành một nước nhập khẩu dầu thô, và ông lại có mức tăng dân số cao nhất vùng Trung Đông. Viễn cảnh không được tráng lệ cho lắm. Hafez. Tồi tệ hơn là sự ra đời một kiến trúc thượng tầng mới trên thế giới. Không còn hai siêu cường cạnh tranh để thủ lợi nữa. Liên Xô đi tong rồi và người Mỹ chúng tôi đang phải cân đối ngân sách. Thay vì siêu cường, Hafez ạ, giờ đây ta có Siêu thị tài chính. Xin nói với ông, ông không thể thủ lợi giữa thị trường Frankfurt, Tokyo hay Singapore chống lại phố Wall nữa. Không, không và không. Chúng sẽ chơi chính bản thân ông. Chúng sẽ thủ lợi bằng cách đặt Syria chọi với Mexico chọi với Brazil chọi với Thái Lan. Những nước nào làm ăn được sẽ được thưởng bằng vốn đầu tư từ các siêu thị. Những nước nào thua thì sẽ bị bỏ rơi ở vệ đường trên con đường đầu tư toàn cầu. Và Hafez, nạn nhân có thể chính là ông đó. Nhân thể, Hafez, tôi thấy Syria và Thổ Nhĩ Kỳ gần đây có chút xung đột biên giới, nhưng tôi cũng biết là ông ra sức tránh gây chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ. Cả hai chúng ta đều hiểu chuyện này, phải không ông? Đó là Liên Xô không còn nữa, và ông biết rằng trong một cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ, hay với Israel hay với ai cũng thế, nếu bị mất mát vũ khí, thì ông sẽ phải bỏ tiền túi ra mua mới – tiền mặt trao tay. Vậy thì tiền đâu ra, Hafez, cho tôi xem đi! Không còn Liên Xô để có thể trang bị những vũ khí mới, đổi lại bằng những thứ rác rưởi sản xuất từ những nhà máy quốc doanh của ông. Và cũng không còn những quốc gia dầu lửa Arập muốn thay mặt ông đi mua vũ khí nữa, vì chính họ cũng đang khánh kiệt. Vậy thì ông hết đường rồi, Hafez. Xưa nay bao giờ tôi cũng nói rằng cách tốt nhất để gây ép buộc đối với lãnh đạo của một nước đang phát triển: Đó là nói ông ta sẽ phải dùng tiền túi của ông để mua vũ khí, đặc biệt trong thời buổi này, khi mà một máy bay chiến đấu hiện đại có giá khoảng 50 triệu đô-la. Xin nói thêm, tôi sẽ để lại với ông một chiếc điện thoại di động của tôi. Loại Motorola mới nhất, kết nối với vệ tinh viễn thông. Dùng điện thoại này, ông có thể gọi tôi ở Washington sau vài giây. Vì, Hafez ạ, tôi không muốn sang đây nữa, vì cứ mỗi lần sang là phải chịu nghe ông giáo điều chín tiếng liền về cuộc Thập tự chinh. Tôi thà dùng thời gian vào việc khác còn hơn. Tại sao những bài giảng như thế ông không đưa vào đĩa CD rồi phân phát cho các ngoại trưởng nước khác khi họ sang Syria, hay là cài vào mạng Internet để nhân viên của tôi tải xuống. Hafez, có bao nhiêu nơi quan trọng để cho tôi đến như Mexico, Thái Lan hay Trung Quốc. Câu hỏi "ai sẽ chiếm giữ cao nguyên Golan" thật là hay, nhưng nó không còn liên quan gì đến quyền lợi của Hoa Kỳ ngày nay nữa. Nhưng, này, tôi vẫn muốn biết ông làm ăn ra sao, và vẫn mong được làm ăn cùng với ông. Dùng điện thoại di động như thế này, bấm số của tôi là 001-202-647-4910, bấm SEND [gọi] và xin được gặp Chris. Còn nếu không muốn thì, Hafez, xin đừng níu kéo gì tôi nữa. " Và sau đây là những gì tôi nghĩ Assad đã trả lời: Assad:" Chris – ông không phiền khi tôi gọi ông là Chris chứ? Tôi hy vọng rằng ông cảm thấy thoải mái trên chiếc ghế dày nhiều lần đệm ông đang ngồi. Tôi đã khiến cho nhiều vị ngoại trưởng Mỹ trước ông bị nguy ngập trong chiếc ghế này. Kissinger đã từng tâng bốc với tôi bằng những câu chuyện quan hệ giữa ông ta và Jill St. John – Kissinger quả là một tay chinh phục được phụ nữ. Baker đã thường gấp vội cuốn sổ tay của ông ta và nói rằng nếu tôi không chấp nhận những điều kiện của ông ta đưa ra, thì ông ta sẽ không bao giờ quay lại Damascus. À, nhưng họ bao giờ cũng quay lại, Chris nhỉ? Và bản thân ông cũng sẽ phải quay lại. Ông đã đến đây 21 lần, và ông mới chỉ sang Mexico được có một lần. Rất mừng được thấy là ông đặt ưu tiên đúng chỗ. Chris, ông nói với tôi nhiều điều về cái thế giới bên ngoài Syria. Nhưng hãy để tôi nói cho ông về khu vực của tôi. Chính trị và nhiệt huyết có thể tác động vào trị giá những chợ trái phiếu ở Hoa Kỳ, nhưng chúng chẳng có nghĩa gì trong những con hẻm ở Damascus. Ở đây chúng tôi có sự liên hệ giữa các sắc dân, chứ không phải các trái phiếu, đang nắm quyền. Nắm đấm thép của một nhóm cầm quyền chứ không phải nắm đấm vô hình của thị trường, đang thống lĩnh về chính trị. Ở đây, chúng tôi gắn bó với những cây ô liu, Chris, chứ không phải xe hơi Lexus. Tôi sinh trưởng trong một bộ tộc ở Syria, bộ tộc Alawites. Có nghĩa là nếu tôi bộc lộ sự nhu nhược thì đa số dân Hồi giáo ở đây sẽ lột da tôi và ném nắm xương của tôi sang vệ đường. Tôi không nói ẩn dụ đâu, Chris. Đã bao giờ ông thấy một người đàn ông đang sống bị lột da chưa? Sáng nào tôi cũng nghĩ về điều đó, Chris – thay vì nghĩ về Amazon.com. Chúng tôi đang sống trong một rừng rậm thực sự chứ không phải là rừng ảo. Chính vì thế tôi có thể nghèo chứ không yếu ớt, và dân chúng không muốn thấy tôi yếu ớt. Họ hàm ơn với sự ổn định mà nắm đấm thép của tôi tạo ra. Chúng tôi có một tục ngữ Ả rập: "Một trăm năm thống trị bạo tàn còn hơn một ngày phải chịu đựng sự vô chính phủ." Quả thực là chúng tôi không có, ông nói gì nhỉ, à, không có McDonald's ở đây. Và thu nhập theo đầu người của chúng tôi không cao bằng của Israel. Nhưng đồng nội tệ của chúng tôi ổn định, không ai chết đói, không ai phải sống bên lề đường, quan hệ gia đình keo sơn gắn bó và chúng tôi không bị bầy thú dầy xéo. Chúng tôi ở đây trong một thế giới đi chậm, Chris, chứ không phải một thế giới nhanh chân. Tôi có lòng kiên nhẫn. Dân chúng của tôi ông trông, họ có thiếu kiên nhẫn không? Hoàn toàn không. Trong cuộc tuyển cử vừa qua, tôi chiếm tỷ lệ 99, 7 phần trăm số phiếu, Chris. Phụ tá của tôi sau bầu cử đã đến thông báo: "Thưa Tổng thống, ông thắng 99, 7 phần trăm phiếu, có nghĩa là 0, 3 phần trăm dân chúng không bầu cho ông. Ông còn đòi hỏi gì nữa?" Tôi nói, "Tên của bọn chúng." "Ha ha ha!" " Không, Chris ạ, tôi không thể kiên nhẫn được nữa. Tôi sẽ hòa hoãn với người Do Thái với một biện pháp duy nhất đó là làm sao tôi có thể trở thành một lãnh tụ Hồi giáo, người biết dàn hòa trong danh dự – người sẽ không phủ phục thấp hèn như cái loại Arafat hay Sadat. Tôi sẽ không phải là một Sadat mới. Tôi quyết hành động giỏi hơn Sadat. Tôi quyết sẽ chỉ nhượng cho Israel phần ít hơn và chiếm phần nhiều hơn. Đó là cách duy nhất để tôi có thể tự vệ, phòng ngừa những kẻ cực đoan và những kẻ chống đối trong chúng tôi và bảo toàn vị thế lãnh tụ Ả rập và bao giờ cũng thu hút được tiền của về cho Syria. Và nếu vì điều đó mà tôi có phải dùng đến tay chân của tôi ở Li Băng để làm băng hoại Israel, tôi cũng làm. Đây là vùng nguy hiểm, Chris, và Israel đã trở nên mềm yếu hơn. Họ có bao nhiêu là chi nhánh McDonald's của Do Thái. Những thằng lính Israel đến đánh nhau ở Li Băng thường mang theo điện thoại di động để đêm đêm gọi về cho mẹ. Hiếu thảo ghê. Chúng tôi biết lắm chứ." "Vậy thì Chris, nếu ông muốn chúng tôi thỏa thuận với người Do thái về vùng Golan, thì ông sẽ phải trả tiền, bằng nội tệ của chúng tôi. Tôi không có chuyện sẽ vuốt Ve lấy lòng ông. Nhưng Chris, tôi đang lo lắng. Khi quan sát hàng ngũ các ngoại trưởng Mỹ đến chơi, ngồi vào chiếc ghế đệm ông đang ngồi, tôi thấy không phải là Chiến tranh Lạnh đã kết thúc mà chính là nước Mỹ, trong tư cách cường quốc, đang suy vong. Từ quan điểm của tôi thì hình như thế giới đang chuyển dần từ hai cực siêu cường sang một cực cho đến chỗ không còn siêu cường nào nữa. Ông đến đây, túi rỗng không và nắm tay mềm như cao su, Chris. Tốt hơn tôi thà đàm phán với Merrill Lynch. Ít nhất là họ dọa gì làm nấy. Hơn nữa, ông đến đây không hứa hạn gì về chuyện kiềm chế bớt Israel, vì chính phủ của ông quá yếu đuối về chính trị và sợ hãi, không dám làm phật lòng cử tri người Do Thái. Hãy nhìn những người Israel. Họ vẫn hăng say xây dựng các khu định cư ở bờ Tây, thế mà ông vẫn lặng thinh, Chris, lặng thinh. Có một điều mà một Tổng thống Syria học được đó là khả năng tiên liệu ra sự yếu đuối của người khác, và giờ này tôi đang ngửi thấy mùi nhu nhược ở khắp nước Mỹ." "Ông có biết người Mỹ làm tôi bực dọc ra sao không – các vị kiểu gì cũng tham. Các vị dạy đời mọi người về các giá trị, về tự do, nhưng khi những giá trị đó cản trở lợi ích chính trị hay kinh tế của các vị thì các vị quên chúng ngay lập tức. Vậy thì đừng có nói với tôi về giá trị, Chris. Chính các ông mới cần phải tự quyết ngay xem có muốn trở thành siêu cường, đại diện cho các siêu giá trị, hay chỉ là loại lái buôn, đại diện cho các siêu thị. Hãy quyết định đi. Cho tới ngày đó thì hãy tránh tôi ra. Và, này Chris, tôi trả lại cho ông cái điện thoại di động diêm dúa này. Tôi không có ai bên ngoài Syria để gọi tới cả." "Mà này, cẩn thận khi bấm nút SEND [gọi điện] nhé. Chưa biết chừng điều gì sẽ xảy ra.."
13. Người hủy diệt. Bấm để xem Năm 1993 hai diễn viên Sylvester Stallone và Wesley Snipes cùng đóng trong một bộ phim ít ai biết hay nhớ đến nhưng rất hay – phim Người hủy diệt . Cảnh trong phim viễn tưởng này là năm 2032 khi toàn cầu hóa thống trị đời sống nước Mỹ, khi đó chửi bậy, hút thuốc, dùng muối, nghèo đói, truyền máu, chửi thề, uống bia rượu, và sinh con không giấy phép, tất cả bị đặt ngoài vòng pháp luật. Trùm tội phạm Simon Phoenix (Snipes đóng) ra khỏi tù sau hơn 30 năm bị giam trong nhà tù đông lạnh, loại nhà tù dùng kỹ thuật đông lạnh để giữ tất cả tù nhân. Khi ra tù, nhân vật này tìm đến vùng nam California để sống, một nơi yên tĩnh, hiền hòa và an toàn – thật lý tưởng cho tay này sống theo lối ngựa quen đường cũ – hắn muốn gây tội ác trở lại theo lối xưa kia. Và các viên chức ở đó, những người không còn quen thuộc với nạn tội phạm, đã nhanh chóng hiểu rằng để đối phó, họ cần một loại cảnh sát lối cổ điển. Và họ đã rã đông cho John Spartan (Stallone đóng), người cũng bị giam đông lạnh trong cùng một nhà tù với Phoenix. Spartan và Phoenix trước kia đã từng đụng độ trong nhiều vụ khiến nhiều dân thường bị giết oan. Chuyện phim không can hệ nhiều. Nhưng gây ấn tượng chính là cảnh sống ở vùng nam California trong tương lai giả tưởng, nơi chỉ có một loại tiệm ăn mang tên: Taco Bell. Stallone đã khám phá ra điều đó sau khi được hâm nóng sống lại, khi một viên chức địa phương tổ chức một bữa tiệc mừng, cám ơn Stallone đã cứu ông ta. Stallone sửng sốt khi biết rằng tiệc mừng sẽ được tổ chức trong tiệm ăn Taco Bell. Anh ta có cuộc trò chuyện sau đây với đồng nghiệp cảnh sát (do Sandra Bullock đóng) trên đường tới tiệm: Stallone: "Ông ta nói tôi đã cứu mạng ông ta, nhưng tôi không dám chắc đã làm điều đó, phần thưởng cho tôi là một bữa tối và nhảy đầm ở Taco Bell? Ý tôi muốn nói, mặc dù tôi thích món ăn Mexico, nhưng sao lại thế?" Bullock: "Cứ nói bông lơn làm gì, anh không hiểu à? Taco Bell là tiệm ăn duy nhất còn lại sau những cuộc chiến giữa các chuỗi nhà hàng." Stallone: "Thế thì sao?" Bullock: "Thế thì giờ đây tất cả các nhà hàng đều mang tên Taco Bell." Stallone: "Không thể tin được." Sau đó hai người bước vào nhà hàng Taco Bell tráng lệ, nơi người chơi đàn piano, nói giọng rất giống Barry Manilow, đang hát một điệu nhạc quảng cáo cho hãng rau quả Người khổng lồ màu xanh: Những điều kỳ lạ đến từ thửa vườn Trong thung lũng Thung lũng của Người khổng lồ màu xanh Đấy là vì vào năm 2032 những ca khúc chỉ còn là những bản quảng cáo thương mại. Khi mọi người ngồi vào bàn ăn, Stallone nhờ một người nào đó chuyển cho anh ta lọ muối thì Bullock cản lại: "Muối không tốt cho con người, vậy nó là của phi pháp." Theo Hollywood thì đó chính là cảnh nước Mỹ một khi bị toàn cầu hóa thống lĩnh, trong đó văn hóa và môi trường được đồng hóa, tiêu chuẩn hóa và được giữ vệ sinh sạch sẽ. Đó là một bức tranh khoa học giả tưởng đáng sợ. Nhưng điều làm tôi lo ngại là có khi nó cũng phản ánh chút ít sự thật. Khi sang Doha, Qatar, vào mùa đông năm 1997, tôi trọ ở khách sạn Sheraton, nằm trên một đầu con đê Doha, nhìn ra vịnh Ba Tư. Con đê Doha là một con đường đi bộ dọc bờ biển dài 10 dặm, lát đá trắng và dọc đường có những vườn hoa và cây cọ. Phụ nữ Qatar mặc áo choàng truyền thống, một số đeo mặt nạ đen, chỉ hở mắt, đi dạo trên con đường đó. Đàn ông Qatar nhìn chòng chọc và trêu ghẹo họ, những bà mẹ đẩy con cái trong những xe đẩy và những gia đình cùng dạo chơi hóng gió biển. Buổi sáng đầu tiên đến đó, tôi xuống đi dạo trên con đường này, và khi đang thưởng thức cảnh quan và hình ảnh người dân tôi thầm nhủ: Cảnh này được tạo dựng thật lý tưởng. Nếu có một cảnh thực sự độc đáo đại diện cho văn hóa và thắng cảnh vùng vịnh Ba Tư, thì chính là đây. "Tôi đi tiếp, thưởng thức say đắm, cho tới khúc quanh thì nó sừng sững xuất hiện: Tiệm ăn Taco Bell. Vâng, đúng thế, ngay giữa con đê Doha là tiệm Taco Bell, với một bức tranh tiểu vương Qatar cao 6, 4 mét dựng trên nóc nhà. Tôi tự hỏi:" Cái thứ này đang làm gì ở đây vậy? Vì sao họ lại dựng một tiệm Taco Bell ngay giữa con đường đẹp như thế này? Tôi đang thưởng thức một Qatar độc đáo, vậy mà lại phải gặp một tiệm ăn Taco Bell. "Và tồi tệ hơn nữa là: Trong tiệm có rất đông khách! Nhà văn Thomas Wolfe đã nói," Bạn không thể quay về nhà nữa, "nhưng tôi sợ rằng ông ta đã sai lầm. Trong toàn cầu hóa, bạn sẽ không thể rời khỏi nhà để đi ra bên ngoài được nữa. Vì toàn cầu hóa đã tạo ra một thị trường đơn chiếc – với những nền kinh tế mở theo quy mô cho phép một thương vụ và sản phẩm có thể đồng loạt được bán ở mọi nơi trên thế giới – toàn cầu hóa có thể đồng hóa sức tiêu thụ đồng loạt trên thế giới. Và vì trong khái niệm một thế lực đồng hóa và gặm nhấm môi trường, toàn cầu hóa đang đến thật nhanh và chỉ trong vài thập niên, nó có thể xóa đi sự đa dạng về môi sinh và văn hóa, những thành tựu phải mất hàng triệu năm tiến hóa của con người và sinh vật mới xây dựng được. Chỉ có một hy vọng để có thể ngưng nó lại hoặc ít nhất cản đường, buộc nó đi chậm lại. Đó là việc các nước cần phát triển các loại bảo vệ điện áp và phần mềm để họ vừa có thể tận dụng lợi thế từ Bầy Thú Điện Tử vừa tránh được khả năng bị chúng giày xéo. Trong lãnh vực văn hóa và môi trường cũng cần làm điều tương tự. Các Nước cần xây dựng cho được những công cụ để lọc lựa về văn hóa và môi trường để họ có thể giao thiệp với bầy thú mà không bị chúng bắt nạt và nghiền nát bản sắc văn hóa và môi trường của họ. Nếu các nước, đặc biệt trong thế giới đang phát triển, không làm được điều đó thì chúng ta sẽ trở nên nghèo đi. Nơi nào cũng sẽ giống nơi nào, đâu đâu cũng dày đặc Taco Bell, KFC, và khách sạn Marriott với những siêu thị giống hệt nhau, MTV và hình tượng những nhân vật hoạt hình Disney, phim ảnh giống nhau, âm nhạc giống nhau và Muzak, với những vùng rừng trọc lốc và những thung lũng phủ bê tông. Lúc đó du lịch trên thế giới sẽ giống như đến vườn thú để xem cũng từng ấy con thú mỗi ngày – loài thú được nhồi bông. Khi sang Bangkok hồi tháng 3/1996, tôi vẫn nghe người ta nói về vụ việc được gọi là" Bà chúa của nạn kẹt xe. " Hôm đó bắt đầu bốn ngày nghỉ quốc khánh Thái Lan và mở đầu mùa mưa ở nước này, tháng tư năm 1995. Richard Frankel, một kỹ sư về môi trường tại Bangkok tả lại với tôi:" Đêm thứ tư, chúng tôi tính toán làm sao đưa cả nhà, lợi dụng lúc giao thông vắng vẻ sẽ đi thoát khỏi thành phố. Chúng tôi định lên Chiang Mai, 200 dặm về phía bắc để nghỉ mát. Vậy là xếp đồ lên xe, ăn uống đầy đủ và ra khỏi nhà. Kế hoạch là ra cho được con đường cao tốc, đi qua sân bay rồi lên thẳng phía bắc. Chúng tôi rời khỏi nhà lúc 10 giờ đêm. Trẻ con ngủ trong xe, mọi sự rất hoàn hảo – cho tới khi ra tới đường cao tốc. Giao thông ngừng trệ suốt 60 dặm, xe cộ chỉ nhích lên ít một. 10 giờ sáng hôm sau chúng tôi mới tới được sân bay. Một số người bỏ xe đi bộ quay lại. Chúng tôi cũng cố gắng quay về nhà, nghỉ ở nhà. " Bangkok là điển hình chính xác nhất của những hậu quả khi một nước đang phát triển mở cửa cho đầu tư nước ngoài nhưng không xây dựng được những bộ lọc và bảo hiểm chống sự quá tải trong tăng trưởng. Hãy nghĩ về sự quá tải như sau: Năm 2000, có khoảng 5, 8 tỷ dân sống trên hành tinh. Giả sử 1, 5 tỷ sống lối sống gọi là toàn cầu hóa: Có nghĩa là trong xã hội, họ thuộc tầng lớp trung lưu lớp dưới, lớp giữa hoặc thượng lưu, có TV, có thể có điện thoại, một loại xe, có nhà, có tủ lạnh, máy giặt. Nói cách khác, lối sống của họ dựa trên sự tiêu thụ sản phẩm hóa dầu (từ đồ nhựa cho tới phân hóa học), sản phẩm khí cac bon (than, ga và dầu lửa) và thép cán (xe hơi, tủ lạnh và máy bay). Trong thập niên tiếp theo, nếu toàn cầu hóa tiếp tục cho phép thêm nhiều nhiều người nhập vào lối sống này, và nếu chúng ta không học cách sản xuất nhiều sản phẩm nhưng giảm nhiên-nguyên liệu thì chúng ta sẽ đốt, nung, trải bê tông, gây ô nhiễm cho những khu vực hoang sơ, rừng rậm, sông ngòi. Và tốc độ đó sẽ tăng chóng mặt. Thăm Bangkok mà thấy tương lai: Thành phố giàu có nhưng cuộc sống thì nghèo kém. Do nạn kẹt xe mà các tài xế sẽ không ra khỏi nhà nếu không mang điện thoại di động; và trên xe của họ thường có thùng tiểu tiện cá nhân. Bangkok có 10 triệu dân, không được quy hoạch toàn diện nên đến cuối những năm 90, thành phố vẫn không Có đường ngầm và thậm chí cũng không có làn đường dành cho xe hơi. Nhiều người dân ở Bangkok không còn muốn mời khách đến ăn tối vì không thể biết khách sẽ đến muộn tới mức nào." Tất cả những niềm ngẫu hứng của cuộc sống không còn nữa, "James Fahn, phóng viên môi trường phàn nàn với tôi vào một buổi chiều khi đang ngồi trong một công viên xơ xác trong trung tâm thành phố," bạn không thể gọi điện cho người bạn nói, 'gặp nhau trong tiệm ăn trong 15 phút nữa nhé. " Lập luận truyền thống thường nghe trong các nước đang phát triển là:" Giờ đây chúng tôi bày biện bừa bộn, sau này khi nào có tiền, chúng tôi sẽ dọn. "Và trường hợp Bangkok đã chứng tỏ, nếu một thành phố phát triển quá nhanh và quá bừa bộn kiểu đó, thì sẽ không còn ngày mai để dọn rửa nữa. Những lối đi bộ biến mất rồi, không còn đất để xây công viên mới. Kênh rạch đã bị lấp xi măng để xây nhà phía trên. Cá dưới sông chết hết rồi. Một nửa số cảnh sát giao thông bị bệnh đường hô hấp. Ở Bangkok, Bầy Thú Điện Tử và thị trường tự do đã lũng đoạn chính quyền, hoặc chúng trở nên giàu có hơn chính quyền, giúp cho các nhà đầu tư đút lót và tránh né được hầu hết các luật định liên quan tới môi trường. Một nhà ngoại giao Mỹ ở Bangkok nhận xét với tôi hồi năm 1996:" Chúng tôi vừa mở cửa một loạt các đại sứ quán ở khu vực Liên Xô cũ, và nhiệm vụ của chúng tôi ở đó là giải thích cho dân chúng biết về khái niệm "thị trường." Còn ở đây, Bangkok, chúng tôi phải giải thích cho dân chúng tất cả các khái niệm, trừ "thị trường." Ở Jakarta một lần tôi gặp Agus Purnomo, người đứng đầu chi nhánh của Quỹ Thiên nhiên Hoang dã, WWF. Tôi hỏi ông ta: "Là một nhà môi trường hoạt động trong một thị trường mới nổi, ông thấy thế nào? Có giống như người thợ sửa chữa Maytag, con người cô đơn nhất?" "Chúng tôi đang liên tục chơi đuổi bắt với sự phát triển." Ông ta thở dài. "Trước khi chúng tôi có dịp thuyết phục mọi người rằng cần phải có sự phát triển đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường thì những dự án làm đường, dựng nhà máy hay nhà máy điện đã được duyệt rồi. Chúng tôi đang chịu nạn thất nghiệp cao, vì thế những nhà xây dựng, một khi hứa hẹn sẽ tạo công ăn việc làm, thì họ thường được ủng hộ. Khi đó, chúng tôi bị chụp mũ là những kẻ chống việc tạo công ăn việc làm và bị tẩy chay." Nhưng những sự tàn phá giờ đây xảy ra nhanh chóng quá và thường không thể đảo ngược được, ông nói. "Nếu bạn mất một quả núi tức là mất hẳn, không tài nào nặn lại được nó nữa. Nếu bạn mất đi một khu rừng, bạn có thể trồng lại nhưng như thế sẽ làm mất vĩnh viễn sự đa dạng sinh thái – cây cối và động vật. Tôi lo rằng trong một thập niên nữa, những nhà môi trường như chúng tôi sẽ không còn gì để bảo vệ nữa." Làm gì bây giờ? Liệu chúng ta có xây dựng được một phương thức toàn cầu hóa bền vững về môi trường? Một hy vọng đó là kỹ thuật sẽ phát triển để giúp chúng ta bảo vệ những khu vực xanh tươi nhanh hơn là mức giày xéo của Bầy Thú Điện Tử. Robert Shapiro của công ty Monsanto đã nói: "Dân số nhân với niềm háo hức được Sống mức sống trung lưu, chia cho số công cụ kỹ thuật hiện có hiện đang gây sức ép không chịu nổi đối với hệ sinh thái trên hành tinh. Khi ba người sống gần một hồ nước ném rác xuống hồ thì vẫn chưa sao. Nhưng khi 30 ngàn người cùng ném rác, thì bạn sẽ phải tính kế để không sản sinh ra từng đó rác rưởi, hay xử lý rác rưởi, hay giảm số người tạo ra rác – nếu không thì cái hồ đó sẽ không còn ở đó nữa." Như vậy cần phải có sự khai thông thực sự trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ nano (phân chia vật chất thành những mô hay hạt nhân, xử lý tạo những nguồn năng lượng mới gọn nhẹ ít chất thải – tạo năng lượng từ kỹ thuật phân hủy) nhờ đó chúng ta có thể tạo giá trị trong phạm vi hay kích cỡ nhỏ hơn và dùng ít nguyên-nhiên liệu hơn. Chẳng hạn, nhờ có công nghệ sinh học, chúng ta có thể thay đổi cấu trúc ADN để cây cối có thể tự thân chống sâu rầy, và nông dân không cần đến phân hóa học hay thuốc chống rầy. Nhờ có công nghệ thông tin, những thứ như băng nhựa hay phim nhựa giờ đây đã được cải biến thành kỹ thuật số, các nhóm ký tự 1 và 0, và giảm bớt lượng rác rưởi và biến rác rưởi trở thành có khả năng tái sinh. Nhưng chỉ những khai thông trong công nghệ không thể áp đặt những ý tưởng môi trường cho bầy thú, đơn giản vì sáng tạo khoa học không thể nào nhanh kịp – so với tốc độ sinh sôi và gặm nhấm của bầy thú. Bạn có thể thấy điều đó trong những thống kê môi trường mới được công bố. Tạp chí Times đưa tin là năm 1998, 50 phần trăm trong số 233 sinh vật quý hiếm của thế giới đang bị đe dọa tiệt chủng, và cứ mỗi phút sẽ có 52 mẫu rừng của thế giới bị tàn phá. Vì thế, các nhà môi trường cần phải học cách hành động nhanh hơn. Họ cần phải nhanh chóng phát triển các loại phần mềm và những thủ tục giám sát về môi sinh để đảm bảo phát triển bền vững và bảo tồn những khu môi sinh. Họ cần kết hợp chặt chẽ hơn với nông dân và dân bản xứ, những người mà nguồn sống lệ thuộc nhiều vào núi rừng và hệ thiên nhiên. Họ cần phải đào tạo những tầng lớp thượng lưu bản xứ để phát triển các công viên và khu bảo tồn tự nhiên, không cho phép những kẻ giàu có và dân nghèo thành thị có được phương tiện và ý thức phá hoại. Và tất nhiên, ngay lập tức, họ cần xúc tiến các chương trình dân số kế hoạch hóa, sự bùng nổ dân số sẽ sẽ làm tan vỡ những hệ thống sàng lọc bảo vệ môi trường. Howard Youth viết trong tạp chí World Watch về phương thức Cộng hòa Honduras ở vùng Caribe cho ra một chương trình đào tạo tri thức xanh trong nhiều năm. Anh cho biết chương trình này đã bị ngưng trệ do sự thiếu thốn một số lượng bao cao su. "Bay trên vùng nông thôn của Honduras," anh viết, "bạn gần như thấy được đất nước này phát triển ra sao: Cháy rừng tràn lan, thị trấn mới mọc lên, đường sá mới làm, những mảng rừng bị đốn trọc để con người có chỗ vào khai thác.. Mức tăng dân số lớn nhất đã diễn ra trong vùng nông thôn – trong những làng bản lẻ tẻ trong rừng – và trong nhiều khu vực ở đó hiện chưa có các phương tiện phòng tránh thai.." Ý tưởng thật là hay nếu các nhà môi sinh có thể hoạt động khẩn cấp hơn, nhưng điều đó chưa có nghĩa là họ sẽ hành động. Vậy thì chúng ta sẽ phải làm gì? Chúng ta sẽ phải đương đầu với một thực tế: Để di chuyển cùng tốc độ với bầy thú, chúng ta cần phải cưỡi lên chúng và điều khiển chúng. Chúng ta cần chứng minh cho chúng biết rằng bảo vệ môi trường, hoạt động toàn cầu và kiếm lợi đều có thể được thực hiện cùng một lúc. Nếu muốn cứu vùng Amazon thì mời bạn đến trường thương mại để học cách đàm phán. Rất khó có thể kiếm được người có thể kết hợp được lợi ích thương mại và môi trường, nhưng điển hình gần nhất mà tôi tìm thấy đó là Keith Alger. Tôi gặp Alger, 44 tuổi, trong một chuyến đi trong vùng rừng bên bờ Đại Tây Dương của Brazil, lúc đó anh ta là một trong những lãnh đạo của một liên minh có công cứu những phần còn lại của vùng rừng nhiệt đới của bang Bahia, phía đông bắc Brazil, đồng thời đã giúp tìm việc làm mới cho những người thợ đốn gỗ ở đó. Là một nhà nghiên cứu khoa học chính trị, kết hôn với một chuyên gia người Brazil về khỉ, Alger sang sống ở đó với mục đích sẽ cứu rừng bằng cách đào tạo cho dân bản xứ về tầm quan trọng của môi sinh. Nhưng anh ta đã nhanh chóng hiểu ra rằng nếu không tìm ra công ăn việc làm mới cho những người thợ đốn gỗ thất nghiệp khi rừng được cứu, thì thật vô ích. Alger miêu tả cho tôi: "Nghèo khó là chuyện khó chịu đựng và cũng thật xấu hổ nếu dân chúng không bảo tồn được rừng của họ. Những nông dân ở đây nói rằng chính họ cũng muốn bảo vệ rừng nhưng làm như thế thì nghề nghiệp của họ cũng mất luôn. Nếu muốn mua một chiếc xe hơi hay kiếm tiền cho con cái đi học đại học thì họ chỉ có việc thuê thợ đốn một vài héc ta trong khu rừng của họ, rừng của họ cũng giống nhà băng. Vậy thì nếu tôi muốn giúp họ giữ rừng thì tôi phải kiếm việc cho họ kiếm tiền." Và Alger, người đứng đầu Viện Nghiên cứu Xã hội và Môi trường ở nam Bahia, cộng tác với tổ chức Bảo tồn Quốc tế có trụ sở ở Washington và một nhóm các nhà môi trường ở địa phương, trở thành những thương gia môi trường với nhiệm vụ cứu rừng. Một mặt, nhóm của Alger tranh đấu trong nghị trường suốt bảy năm chống nạn đốn gỗ, cho tới năm 1998, rốt cuộc chính phủ Brazil ra được luật cấm đốn gỗ trong các khu rừng bên bờ Đại Tây Dương phía nam Bahia. Mặt khác, nhóm của Alger cùng các đồng nghiệp địa phương cho xây dựng một công viên môi sinh trong một khu vực của vùng rừng đó. Họ thuê một nhóm người leo núi chuyên nghiệp, dùng cung tên để bắn giây thừng, đan thừng, tạo ra những lối đi trên những ngọn cây cao chót vót, nối với những nhà lá làm trên cây. Những lối đi rộng khoảng 40 phân và hơi rung rinh khi bạn dạo bước từ ngọn cây nọ sang ngọn cây kia trong khu vực bên ngoài thị trấn Una, nơi rừng nhiệt đới một thời che phủ toàn bộ vùng duyên hải. Ngày nay, chỉ còn có bảy phần trăm vùng này được gìn giữ, tránh được dân đốn gỗ và những nông dân đốt nương làm rẫy. Những lối đi thật là đẹp. Không phải ở đâu người ta cũng tìm thấy một héc ta rừng có tới 450 loài động thực vật, cố tranh nhau để hưởng nắng. Nhón gót trên lối đi bện bằng thừng, bạn có thể thấy những con khỉ quý hiếm, loài khỉ đầu sư tử lông vàng di chuyển từ cây nọ sang cây kia. Bạn cũng có thể xem những tổ mối to như những quả bí đao treo trên những nhánh cây cao su đang rỉ nhựa. Đi vào khu này trên con đường đất, cũng thuộc khu công viên, bạn có thể sánh bước bên cạnh đoàn quân kiến đỏ khổng lồ, đang dọn quang những cành lá để mang về đắp những tổ kiến lớn. Với sự giúp đỡ của Bảo tồn Quốc tế, nhóm của Alger đã tìm được tài trợ của công ty xe hơi Ford và hãng bia Anheuser-Busch (Budweiser) để dựng nên công viên sinh thái đó. Hai hãng này đang làm ăn ở Brazil. Tiền cũng đến từ cơ quan viện trợ của Mỹ USAID và Banco Real, Ngân hàng Brazil, Ngân hàng sở hữu khách sạn Transmerica gần đó. Chủ tịch Ngân hàng đã nói với các viên chức Brazil: "Tôi muốn khách của tôi Ở khách sạn có thể chiêm ngưỡng vùng rừng Brazil từ cửa sổ của họ, thay vì chỉ thấy những vùng đồi trọc như trên mặt trăng." Anheuser-Busch đã cử các nhà thiết kế công viên của họ từ Florida đến để giúp thiết kế công viên môi sinh này. Cùng với việc xây dựng công viên, Alger đã phối hợp cùng thị trưởng của Una, bản thân vị này cũng vốn là dân đốn gỗ, để tạo việc làm mới. Chẳng hạn dự án khách sạn Transamerica đã tuyển dụng 600 người, rồi nay khu công viên cần người đi hướng dẫn du lịch. Nhóm của Alger cũng hoạt động để tăng cường kinh tế đồn điền, trồng cây công nghiệp như ca cao và cà phê trong một số nơi, những nhóm cây này có thể tồn tại dưới tán các loại đại thụ. Nhóm của Alger còn giúp chính quyền Una đề nghị chính phủ trung ương tài trợ cho việc đào tạo các giáo viên của các trường trong địa phương. Alger nói: "Tôi đã khiến cho ông thị trưởng bản thân là thợ đốn gỗ hết đường làm ăn. Và tôi biết sẽ phải thực hiện lời hứa kiếm việc khác cho họ, nếu không họ sẽ trách là chúng tôi đem con bỏ chợ." Một nơi khác mà Alger đã để mắt đến, đó là cộng đồng công nghệ cao, một cộng đồng được coi trọng ở các nước đang phát triển. Các thống đốc và các thị trưởng ở các nước này đang mơ tới việc sẽ có nhà máy sản xuất chip vi tính được xây dựng trên đất của họ. Intel, được Gordon Moore là một trong những người sáng lập của hãng đồng thời trong ban quản trị của Bảo tồn Quốc tế thúc giục, đã tài trợ về vốn và máy vi tính cho nhóm của Alger trong việc lập bản đồ các cánh rừng và chú trọng lựa chọn để cứu từng khu vực. Sử dụng phương tiện gọi là Hệ thống Thông tin Địa lý [GIS], nhóm của Alger có thể nạp dữ liệu các cánh rừng vào máy tính rồi phân tích chúng. "Điều quan trọng nhất chúng tôi muốn phân tích bằng máy tính là tìm xem những đoạn tắc nghẽn và những hành lang chia cắt các cánh rừng nằm ở đâu," Alger cho biết. "GIS sẽ chỉ ngay ra những nơi đó. Vì những hành lang có tác dụng nối hai vạt rừng lớn với nhau, chúng cần được bảo tồn, thì mới giữ các dạng động thực vật ở lại trong rừng, nếu không có các hành lang được bảo tồn thì các loại động thực vật sẽ bị Cô lập và dễ bị diệt vong. Chúng tôi đã xây dựng Công viên Môi sinh Una trên một hành lang mà trước đây vị thị trưởng đã cho phép khai thác gỗ." Alger cũng tìm đến George St. Laurent, một thương gia người Mỹ lập dị và ham phiêu lưu, người đã xây một nhà máy sản xuất máy vi tính cho thị trường Brazil trên khu đất gần Una, nơi trước kia có nhà máy sản xuất ca cao. St. Laurent đã được hưởng các ưu đãi về thuế của chính phủ bang để xây dựng nhà máy, nhưng ông ta nói với chính phủ rằng ông cần nhiều sự ủng hộ hơn nữa thì mới lôi kéo được các kỹ sư máy tính từ Sao Paulo và Thung lũng Silicon sang làm việc ở đó. Ông ta đòi thêm màu xanh của cây lá chứ không phải màu xanh của đô-la. Duy trì một môi trường sạch đẹp thật quan trọng trong việc thu hút nhân lực tri thức, những người thường dễ dàng di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Chẳng có thế mà Thung lũng Silicon lại được đặt ở California. "Tôi nói với ông thống đốc là chúng tôi cần một môi trường sạch đẹp," St. Laurent nói. "Tôi nói với ông ta rằng các kỹ sư máy tính muốn sống ở đâu cũng được. Họ muốn có điều kiện sống thật tốt và những nơi đi nghỉ vào cuối tuần. Nếu họ tình cờ đến làm việc ở một môi trường sinh thái đa dạng, thì họ muốn bảo tồn và gắn bó với nó, hơn là phải thấy nó bị tàn phá." Để giúp Alger lấy lòng được chính phủ địa phương, St. Laurent đã hứa sẽ tặng một số máy tính cho các trường học ở đó. Và rốt cuộc thì do những áp lực từ chính phủ Barazil và của nhóm Alger, Thị trưởng Una đã phải miễn cưỡng nhượng bộ. Ông ta nói với tôi: "Khi mới nghe về những tay môi trường đó, tôi nghĩ họ định truy tố chúng tôi. Cách đây hai năm tôi bắt đầu hiểu rằng chính họ đang lo giúp vùng này phát triển. Una có 32.000 dân sống trên 1.700 km2. Ba cơ sở chính để tạo việc làm ở đây là khách sạn Transameria, Unacaw (một đồn điền ca cao) và cơ quan thị chính. Cuộc sống ở đây khó khăn khủng khiếp. Khoảng 40 phần trăm dân sống trong những nhà gỗ, và từ ngày ngành ca cao đổ bể, mọi sự trở nên tồi tệ hơn.. Tôi không trách cứ gì chuyện Keith [Alger]nói với chúng về sự thật – rằng đốn gỗ không phải là giải pháp bền vững. Phía chúng tôi phải tự tạo công ăn việc làm. Nhưng Keith cũng phải ra tay cống hiến." Bài học mà Alger rút ra từ việc này đó là cung cách cứu sống rừng rậm cũng giống như phương pháp cứu nguy một hệ thống tài chính yếu kém của một đất nước – phải coi đó là một xã hội đang đi lên chứ không phải là một thị trường mới trỗi dậy. Cứu giúp xã hội sẽ hỗ trợ cho việc cứu giúp cây cối. Alger nói: "Chúng tôi bắt đầu bằng việc quy tụ các sinh viên đại học người Brazil Ở vùng này rồi thành lập Viện Nghiên cứu Xã hội và Môi trường Nam Bahia. Sau đó chúng tôi đào tạo và trang bị cho họ để trở thành những nhà bảo tồn môi sinh hiện đại. Có nghĩa là đào tạo những nhà sinh vật học về những chủ đề thương mại và dạy cho những nhà kinh tế biết cách dùng kỹ thuật đồ bản hiện đại trong địa lý học. Cho tới gần đây không một trường đại học nào của Brazil giảng dạy những chủ đề mang Tính hội nhập đó hay những kỹ năng cho nhiều ngành mà bạn cần biết để có thể trở thành những thương gia về môi trường. Chúng tôi đang đào tạo một thế hệ mới về cách thức tận dụng tiền bạc, trong việc bảo tồn môi trường và loài vật và xây dựng được những cơ hội kinh tế và xã hội cho những con người đang sống gần thiên nhiên. Nếu không kết hợp được hai việc đó thì chúng tôi chẳng thể nào cứu được cây cối." Một phương pháp nữa để duy trì toàn cầu hóa màu xanh là chứng minh cho các công ty và những cổ đông của chúng rằng giá cổ phiếu và cổ tức của họ sẽ tăng nếu họ thực hiện các biện pháp sản xuất hợp môi trường. Jim Levine, một kỹ sư ngành môi trường là thành viên quản trị của Ủy ban Bảo tồn và Phát triển Vịnh San Francisco đồng thời đang huấn luyện cho các công ty về lợi ích của việc kết hợp môi trường và lợi nhuận. Anh ta giải thích cho tôi về khái niệm này: "Nhiệm vụ của bạn là thuyết phục các công ty, cổ đông và những nhà phân tích chứng khoán ở phố Wall rằng những hoạt động ảnh hưởng xấu đến môi trường sẽ dẫn tới lãng phí về lợi nhuận. Cho tới cách đây 10 năm, bảo vệ môi trường vẫn chưa trở thành một trong những mục tiêu của các công ty. Giờ đây, với việc chính phủ đang giáng xuống đầu các công ty với những luật lệ mới và những ưu đãi về thuế để họ quan tâm đến môi trường hơn, và với việc Ủy ban Giao dịch Chứng khoán tuyên bố sẽ công bố mức ảnh hưởng của hoạt động của công ty tới môi trường cho các cổ đông – ví dụ họ đổ rác ở đâu và chi phí dọn rửa sẽ lên đến đâu – đã xuất hiện những thay đổi lớn. Các công ty nhận thấy rằng nếu họ sang Bangkok, xây một nhà máy gây ô nhiễm Ở đó, trong khi chính phủ ở đó đang cho ra đời những đạo luật bảo vệ môi trường, và ra lệnh cho họ phải chi phí để dọn rửa môi trường – như vậy chi phí cho nhà máy này sẽ rất đắt đỏ, so với việc tổ chức xây dựng và tuân thủ các quy chế môi trường ngay từ ban đầu." Một trong những công ty hàng đầu sử dụng mô hình mới là Baxter International, Inc, một hãng dược có trụ sở tại Chicago. Năm 1997, Baxter đạt doanh số 6, 1 tỷ đô-la, hàng hóa sản xuất từ 60 nhà máy trên thế giới. Trong báo cáo hàng năm trước cổ đông, Baxter đã ghi riêng một mục mới – báo cáo về tài chính liên quan đến môi trường của các hoạt động của công ty. Báo cáo năm 1997 cho biết các hoạt động sản xuất tuân thủ việc bảo vệ môi trường đã tiết kiệm cho công ty được 14 triệu đô-la, thừa trang trải cho chi phí vào chương trình môi trường. Hơn nữa, theo báo cáo, chương trình môi trường đã giảm chi phí hoạt động sản xuất và tiết kiệm được 86 triệu đô-la tính từ năm 1990. "Điều này cho thấy," báo cáo cho biết, "Baxter đáng nhẽ sẽ phải chi thêm 100 triệu đô-la trong năm 1997 để sơ chế nguyên liệu, chi phí rác thải và đóng gói, nếu họ không có những hành động bảo vệ môi trường từ năm 1990." Hầu hết các quốc gia ngày nay vẫn chưa có luật "người gây ô nhiễm phải bỏ tiền đền". Rồi một ngày tới nhiều nước sẽ có luật này. Chính vì thế báo cáo của Baxter năm 1997 cho biết "tốt nhất là rác rưởi của chúng ta ngày nay cần được chuyển tới Những cơ sở xử lý đảm bảo. Làm như thế sẽ tránh được khả năng phải đền bù trong tương lai." Nếu không làm được điều đó, thì chứng tỏ những quản trị công ty không quan tâm gì tới cổ đông và sẽ bỏ phí những phần thưởng giành cho chính họ. Tuy nhiên có những khi mô hình lợi nhuận này đã tỏ ra thiếu hữu hiệu. Đôi khi người ta chỉ muốn tận dụng kiệt cùng đất đai để rồi bán sản phẩm ra toàn cầu rồi kiếm đầy túi tham. Vậy để đối phó, chỉ còn một phương thức cuối cùng, rất mạnh mẽ – đó là học cách dùng toàn cầu hóa để chống lại chính nó. Tôi khám phá ra điều này cũng là ở Brazil, không phải trong vùng rừng nhiệt đới mà là ở vùng sình lầy Pantanal, nơi tôi đã đến cùng một nhóm thuộc tổ chức Bảo tồn Thế giới. Chúng tôi đi trên một máy bay cánh quạt nhỏ đến Fazenda Rio Negro, một trang trại trên con sông Rio Negro, trang trại có một sân đỗ máy bay ở đằng trước. Kế hoạch của chúng tôi là bước đầu sẽ phỏng vấn Nilson de Barros, Chánh thanh tra về môi trường của bang Mato Grosso do Sul, Brazil. Tôi biết đây sẽ là một cuộc phỏng vấn lý thú khi ông Barros khăng khăng nói cứ lên thuyền đi vào sông rồi hỏi gì thì hỏi. Chúng tôi lên những chiếc xuồng máy từ Fazenda đến một địa điểm bên bờ thấp của con sông. Ở đó, Barros và nhóm của ông ta chờ đón chúng tôi, đứng trong nước ngập tới thắt lưng, bên cạnh là một chiếc thuyền chở đầy bia ướp lạnh. "Uống bia trước, sau đó tắm, rồi chúng ta nói chuyện," ông ta nói, tay mở một lon Skol, ngay bên bờ sông. Thế mà tôi từng nghĩ nghề mình là nghề sướng nhất thế giới! De Barros giải thích vùng Pantanal nằm trên biên giới giữa Brazil, Bolivia và Paraguay, có địa bàn sông nước và sình lầy lớn nhất thế giới (diện tích tương đương với bang Wisconsin), là quê hương của loài báo và rất nhiều muông thú bị tiệt chủng đe dọa. Thiên nhiên Pantanal, nhìn từ nơi chúng tôi đang đứng, giữa sông, hoang dã như trong phim Công viên Kỷ khủng long, không có khủng long. Dọc theo bờ sông, chúng tôi đi qua những con cá sấu nằm sưởi nắng, chồn nước lặn ngụp, diệc trắng, vẹt đuôi dài, chim tu can, cò quăm, hươu.. đà điểu vv. Không giống vùng sông Amazon, Barros giải thích, Pantanal không bị đe dọa từ những người dân nghèo bị buộc phải phá môi trường để chống đói. Văn hóa ở Pantanal cho thấy một ví dụ rất hiếm về việc con người và thiên nhiên cùng phát triển hòa thuận thông qua hoạt động đồn điền, đánh cá và giờ đây là du lịch sinh thái. Đe dọa đến với vùng này từ toàn cầu hóa: Có những nông dân trồng đậu tương sống phía trên vùng lòng hồ Pantanal đang hăng hái muốn mở rộng canh tác để cung ứng cho các thị trường đậu tương trên thế giới. Thuốc trừ sâu và bùn từ những thửa đất của họ đang tràn xuống, xối vào vào những con sông và ảnh hưởng tới hệ động thực vật ở dưới. Đồng thời Brazil, Argentina, Uruguay và Bolivia đang hình thành một khối thương mại để cạnh tranh quốc tế. Và để chuyển đậu tương từ vùng này sang các thị trường toàn cầu nhanh chóng hơn, họ muốn nạo vét và nắn lại các con sông – để các loại xà lan có thể đi lại Nhanh và thuận tiện hơn – nhưng như thế sẽ dễ dàng tàn phá hệ sinh thái ở đây. Và sau cùng, một tổ hợp các công ty năng lượng quốc tế, đứng đầu là Enron, đang xây dựng một đường ống dẫn khí đốt từ vựa khí đốt Bolivia đến Sao Paulo, vùng đang thiếu thốn năng lượng. Đường ống dẫn này có thể gây hại rất nhiều cho môi trường Pantanal. Trong khi toàn cầu hóa là đe dọa chủ yếu đối với Pantanal, nó cũng là một hy vọng lớn đối với sự sống vùng này. Một mặt, những cư dân ở Pantanal hiện có một cơ hội gìn giữ lối sống truyền thống, dựa vào việc giữ nguyên thiên nhiên trên vùng đất, bán vé du lịch sinh thái và bán loại bò nuôi tự nhiên cho các thị trường toàn cầu, những nơi sẵn sàng trả giá cao cho những loại thịt bò đó. Hơn nữa, có những công ty kỹ thuật cao vào hoạt động ở vùng này cũng là một lợi thế. Thương vụ đậu tương đã thu hút những đội xà lan lớn, kỹ thuật cao trên toàn cầu, họ có khả năng dùng công nghệ cao để giảm thiểu các tác hại đối với môi trường – loại xà lan hiện đại có thể di chuyển hữu hiệu trên các luồng lạch khó đi, tránh được nhu cầu phải nắn lại sông ngòi. Nhưng quan trọng hơn đó là toàn cầu hóa đã làm sản sinh ra một thế hệ những nhà môi trường được trang bị tốt, những người có thể tự thân chống lại ảnh hưởng của Bầy Thú Điện Tử và sức ép từ phía các chính phủ. Nhờ có Internet, những nhà môi trường trong một nước có thể nhanh chóng báo động cho đồng nghiệp của họ ở nhiều nước khác về hoạt động của một công ty đa quốc gia. Do đó khi đương đầu với các hoạt động trên Internet đó, các công ty đa quốc gia dần dần nhận thấy rằng để giữ gìn uy tín và thương hiệu toàn cầu, họ sẽ phải có trách nhiệm cao hơn về vấn đề môi trường. Điều xảy ra ở Pantanal là việc những nhà bảo tồn địa phương liên kết với nhưng nhà hoạt động môi trường ở Hoa Kỳ để gây sức ép đối với ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, ngân hàng đang chuẩn bị tài trợ cho các dự án nạo vét và uốn nắn sông ngòi vùng này. Ngân hàng này, do nhạy cảm với uy tín toàn cầu của nó, đã gây áp lực với chính quyền địa phương để họ thực hiện một đánh giá thật đầy đủ về yếu tố môi trường. Sau cùng chính quyền sở tại đã cho ra một phương pháp mới để cải tiến công tác hoa tiêu trên sông và tránh được việc phải uốn nắn lại lòng sông. "Đây là điều tương phản với những gì có thể xảy ra cách đây chừng 15 năm," Glenn Prickett, Phó chủ tịch phụ trách đối tác doanh nghiệp của tổ chức Bảo tồn Thế giới. "Hãy nghĩ về một đất nước như Brazil. Mười lăm năm trước có các tướng lĩnh nắm quyền, khi đó nếu những nhà môi trường nước ngoài chỉ trích sự phát triển kinh tế vùng Amazon thì các tướng lĩnh đó nói với họ:" Biến ngay! Đây là chủ quyền lãnh thổ của chúng tôi. Chẳng dính dáng gì đến quý vị cả. "Nhưng khi có toàn cầu hóa và Internet và chính phủ Brazil đã bắt đầu để cho, thậm chí mời các công ty lớn vào đầu tư, thì một động lực mới đã xuất hiện. Động cơ của sự phát triển đã được chuyền sang tay các công ty và định chế toàn cầu – những tay làm ăn và đi lại trên toàn cầu – chính Những nhân tố đó phải lo lắng về uy tín toàn cầu của họ trong vấn đề môi trường. Nếu những nhà hoạt động vì môi trường người Brazil lên mạng và kể cho những đồng nghiệp của họ ở Mỹ và châu Âu rằng công ty toàn cầu đó đang phá môi trường ở Brazil, thì những đồng nghiệp ở đó sẽ hành động. Sớm muộn thì công ty toàn cầu đó sẽ phải đương đầu với một chiến dịch toàn cầu, gây hại cho công cuộc làm ăn của họ, không những ở Brazil, mà còn ở trên toàn thế giới." Với việc có thêm nhiều chính thể dân chủ trên thế giới hiện nay thì đôi khi chỉ cần một người tranh đấu vì môi trường đi đến cửa quốc hội, vẫy một bức email thì cũng có thể chặn đứng một dự án nhà máy năng lượng hay những thương vụ có thể gây hại cho môi trường. Các tổng công ty lớn đang nhận thấy rằng nếu ủng hộ những hoạt động môi trường, họ có thể cải thiện hình ảnh thương hiệu của họ trong giới tiêu dùng, những người ngày càng quan tâm hơn đến môi trường. "Trong một thế giới các hoạt động được phối hợp toàn cầu thì không còn chốn ẩn úp nào nữa giành cho các công ty có hành vi gây hại đối với môi trường," Prickett nói. "Khách hàng, người giám sát và các cổ đông mọi nơi giờ đây có thể khen thưởng hay trừng phạt những công ty về những điều chúng gây ra ở những nơi hẻo lánh. Đối với những kẻ biết nghe lời, họ sẽ mở cửa tiếp đón, đối với những kẻ bất chính, thì họ sẽ đóng cửa lánh xa." Những công ty làm ăn giỏi nhất đã học được bài học đó. Charles O. Holliday Jr, Chủ tịch công ty DuPont, một lần đã giải thích cho tôi, "Ngày trước, nếu muốn xây một nhà máy trong một khu dân cư, chúng tôi nghĩ chỉ cần được sự chấp nhận của dân chúng sống quanh đó là được. Thời đó qua rồi. Với Internet và những thứ khác, giờ đâu hình như bạn phải lấy lòng khoảng sáu tỷ dân láng giềng.. Bạn có thể khiến chính phủ phê duyệt rất nhiều thứ, nhưng câu hỏi giờ đây là làm thế nào bạn phải xây dựng cho được một liên minh công chúng rộng khắp." Điều này giải thích vì sao hãng xe Ford đang tài trợ cho nghiên cứu của Bảo tồn Thế giới về vùng Pantanal, về chương trình quản lý môi trường hoang dã của nó và việc chuyển giao các đồn điền gia súc vào tay tư nhân – và thậm chí còn vận động hành lang nơi chính phủ Brazil để trợ giúp việc bảo tồn Pantanal. Nói thẳng ra là Ford giúp Pantanal không phải vì họ yêu thích các loài muông thú đang chịu tuyệt chủng mà vì họ tin rằng họ có thể bán nhiều xe hơi hiệu con báo [Jaguar] hơn, khi người ta thấy họ đang cứu những con báo thật ở vùng Pantanal. Nếu làm như vậy mà cứu được hệ môi sinh và lối sống tuyệt diệu ở vùng này, thì xin chúa trời phù hộ cho Henry Ford và Internet. Nếu như cứu nguy được các khu rừng từ móng vuốt của Bầy Thú Điện Tử là một việc khó thì việc cứu nguy những vùng văn hóa xung quanh những khu rừng nhiệt đới đó là nhiệm vụ phức tạp hơn nhiều. Trong thời Chiến tranh Lạnh, chưa nói đến những thời kỳ trước đó, đất nước và Các luồng văn hóa khác nhau đã không cọ xát thường xuyên, trực tiếp và cởi mở như hiện nay. Đi lại khó khăn hơn nhiều và có vô số những tường, rào, màn sắt, thung lũng và đường hào để che dấu và nuôi dưỡng những mảng văn hóa riêng. Nhưng ngày nay các nền văn hóa trở thành món ăn cho giới tiêu dùng thưởng thức, so sánh và đặt vào thế đối chọi nhau, thông qua Internet, TV đa hệ màu và việc mở cửa biên giới, theo phong cách tàn bạo của học thuyết Darwin. Đến thăm một địa phương hẻo lánh phía đông bắc Trung Quốc để xem nơi đó lạc lõng khỏi toàn cầu hóa ra sao, vậy mà tôi gặp các cô gái làng chơi trẻ chân đi giày ống. Dạo bước ở sân bay Singapore tôi thấy có hai phụ nữ Ấn Độ mặc trang phục truyền thống đang ngồi chăm chú xem cảnh đấu vật kiểu Mỹ trên kênh truyền hình cáp Sky TV của ông Rupert Murdoch. Tôi không thể không thầm nhủ khi thấy họ xem những đô vật mặc theo lối Tarzan đang quần thảo: Không hiểu họ nghĩ gì trong đầu. Kết nối với toàn cầu hóa mà thiếu những hệ điều hành và phần mềm thích hợp thì trong nháy mắt nó sẽ làm kinh tế của nước bạn tan rã. Kết nối với toàn cầu hóa nếu không có những hệ thống bảo hiểm chống quá tải thì trong nháy mắt nó sẽ rải xi măng lên toàn bộ các vùng rừng của nước bạn. Mở cửa biên giới của bạn, cho phép văn hóa toàn cầu hóa tràn vào, mà nếu thiếu các thiết bị sàng lọc, bạn sẽ cảm thấy đêm nay, trước đi ngủ gia đình của bạn còn là người Ấn Độ, Ai Cập, Israel, Trung Quốc hay Brazil, nhưng sáng hôm sau bạn sẽ thấy con gái bạn ăn mặc như ca sĩ Ginger Spice và con trai thì mặc giống như võ sĩ Hulk Hogan. Một tháng sau khi ở Qatar khi nhìn thấy quán ăn Taco Bell, tôi sang Kuala Lumpur và ngụ tại khách sạn Shangri-La, một trong những khách sạn cổ nhất ở Đông Nam Á. Tôi rất thích cái tên "Shangri-La." Nghe rất huyền bí. Tôi đến Kuala Lumpur vào lúc đêm khuya nên không nhìn thấy gì trên đường vào thành phố, vậy sáng hôm sau, thức dậy, mở màn cửa sổ và điều đầu tiên đập vào mắt tôi trên một cao ốc gần đó là bức quảng cáo khổng lồ cao bằng hai tầng nhà, hình ảnh của đại tá Sander của hãng Kentucky Fried Chicken. "Trời ơi," tôi tự nhủ, "tại sao nó lại ở đây? Tôi đi hơn 15 ngàn dặm đến để ngụ tại khách sạn Shangri- La vậy mà người đầu tiên tôi gặp lại là đại tá Sander!" Một lần khác, khi đến thăm một thương gia ở trung tâm Jakarta tôi nhờ ông ta chỉ đường cho tôi đến một cuộc hẹn khác. Lời chỉ dẫn nguyên văn của ông ta cho tôi là: "Đi tới một tòa nhà trên lầu có cửa hàng Armani Emporium – anh có biết không, ở ngay phía trên Hard Rock Café – rồi rẽ phải ở chỗ có quán McDonald's." Tôi nhìn ông ta, cười phá, và hỏi: "Tôi đang ở đâu thế này?" Ấn Độ là một đất nước đã tích cực rất nhiều trong việc kháng cự lai sự đồng hóa toàn cầu. Nhưng ngay cả ở đó, trong giới thượng lưu, bầy thú đang hoạt động nhộn nhịp. Vào một buổi chiều nóng đổ lửa ở thủ đô Delhi, mùa hè năm 1998, tôi đến phỏng vấn cựu Thủ tướng Ấn Độ, ông I. K. Gujral, 78 tuổi, một trong những vị thủ Tướng thông minh nhất ở Ấn Độ. Ông ta mở đầu bằng cách gợi lại kỷ niệm trong một cuộc họp của UNESCO nơi ông đưa ra một nghị quyết về "trật tự thông tin mới", cho rằng trật tự này cho phép những trao đổi hai chiều về văn hóa và thông tin trên thế giới chứ không chỉ cho phép các nước phát triển áp đặt văn hóa của họ sang các nước đang phát triển. Và một đại biểu người Canada đã ủng hộ luận điểm đó, một điều khiến ông ngạc nhiên. "Tôi hỏi anh ta vì sao Canada lại hậu thuẫn cho luận điểm đó," Gujral nhớ lại. "Anh ta nói," vì chúng tôi đã trải qua cái điều mà quý vị đang lo lắng tiên liệu. Giờ đây không còn âm nhạc, nhà hát, phim, văn hóa hay ngôn ngữ Canada nữa. "Tất cả đã bị Mỹ hóa." Khi tôi hỏi vì sao chủ đề đó quan trọng đối với ông, Gujral, người đang bận một tấm áo truyền thống của Ấn Độ, nói rằng nếu không bảo tồn dù chỉ vài cây ô liu trong sân nhà bạn, thì bạn sẽ không bao giờ có cảm giác tổ ấm gia đình ngay khi bạn ở nhà. "Cội nguồn của tôi ở đâu?" ông ta hỏi to. "Cội nguồn của tôi chính là thực tế tôi đang sống ở đây, Ấn Độ. Cội nguồn của tôi là việc nghe thấy có ai đó đọc vài câu thơ bằng tiếng bản xứ, tiếng hát bản xứ nghe được khi tôi dạo bước xuống phố. Khi tôi ngồi tiếp anh trong nhà tôi, mặc tấm áo truyền thống. Truyền thống của chúng tôi đã một ngàn năm. Không có chuyện xóa sổ nó nhanh như thế. Thế giới sẽ giàu đẹp hơn nếu duy trì được sự đa dạng và màu sắc, khuyến khích các bản sắc văn hóa." Tôi hoàn toàn đồng ý với Gujral, có lẽ vì tôi sinh ra và lớn lên trong một cộng đồng tương đối nhỏ ở vùng Minnesota. Toàn cầu hóa có thể phân liệt sâu sắc mọi thứ. Để cho cây ô liu của bạn bị trốc rễ và nghiền nát thành thứ bột giấy toàn cầu, sẽ đồng nghĩa với việc mất mát phương hướng trong cuộc sống. Tôi nghiền ngẫm ý tưởng đó ở Jerusalem vào một buổi chiều cùng bạn tôi, Yaron Ezrahi, một nhà chính trị học và anh ta đã đưa ra một nhận xét: "Cậu có biết không, Tom, có hai cách để có thể khiến cho một người cảm thấy vô gia cư – thứ nhất là đốt nhà anh ta, và cách thứ hai là làm cho căn nhà của anh ta trông giống hệt và gây cảm giác giống hệt như nhà của tất cả những người khác." Làm thế nào để phòng trừ được cảm giác vô gia cư đó? Điều đầu tiên là phải hiểu rằng Mỹ hóa-toàn cầu hóa không chỉ mang ý nghĩa xô đẩy mà còn mang ý nghĩa lôi kéo thu hút. Dân chúng trên thế giới bị lôi cuốn vào toàn cầu hóa do nhiều lý do. Những khách hàng người Qatar chen chân vào ăn ở quán Taco Bell ở Doha không đến từ những quán rượu cổ kính có bàn gỗ sồi và đồ dùng bóng bẩy bằng đồng. Trước khi Taco Bell được đặt vào đó thì có lẽ ở chỗ đó đã từng có nhiều những quầy bán đồ ăn di động, nơi có những anh chàng bán các món ăn nướng trên lò than thiếu vệ sinh, không có ánh đèn, không có nhà vệ sinh. Ngày nay cũng ở chính nơi đó, người Qatar được mời thưởng thức một món ăn mới – món của người Mexico, tiệm ăn có phòng vệ sinh sạch sẽ, tiêu chuẩn vệ sinh quốc tế, dịch vụ vui vẻ và có kiểm tra chất lượng món ăn – tất cả với giá phải chăng. Chính vì thế mà người ta đến đông. Và còn một thứ khác mà khách hàng được mời, một giá trị ít được nhìn thấy nhưng lại quý hơn nhiều. Tôi thấy điều đó lần đầu tiên ở Malaysia. Tôi đến gặp bộ trưởng tài chính nước này. Khi chờ ở phòng ngoài, người phụ tá báo chí giới thiệu tôi với một doanh nhân Malaysia, người cũng đang chờ gặp vị bộ trưởng. Người phụ tá giới thiệu: "Đây là ông Ishak Ismal, ông ta là chủ của tất cả các chi nhánh Kentucky Fried Chicken ở Malaysia." Ngay lập tức, tôi mở máy vi tính xách tay IBM của tôi và đề nghị được phỏng vấn ông ta. "Xin ông cho biết," tôi mở đầu, "Vì sao KFC quyến rũ được người Malaysia?" Không những họ thích hương vị, ông trả lời, mà họ thích cả những gì món ăn này tượng trưng: Hiện đại, Mỹ hóa, chịu chơi. "Dân ở đây thích bất cứ thứ gì mang tính phương Tây, đặc biệt là Mỹ," ông Ismal giải thích. "Họ muốn ăn, muốn thưởng thức và hội nhập với chúng. Tôi thấy những người dân vùng quê quanh đất nước đã đến xếp hàng để ăn món đó. Họ muốn được gần gũi với Mỹ. Họ muốn có những gì hiện đại. Ăn món ăn đó khiến họ cảm thấy hiện đại hơn." Đúng là bước chân vào quán KFC ở Malaysia cũng giống như được du lịch qua Mỹ giá rẻ vậy. Người Malaysia đến tiệm KFC và người Qatar đến Taco Bell cũng giống như dân Mỹ đến phim trường Universal vậy – để nhìn ngắm những gì họ mơ tưởng. Ngày nay dù hay hay dở, toàn cầu hóa là một phương tiện đang truyền bá đi khắp thế giới niềm mơ mộng về nước Mỹ. Trên thế giới, dân chúng được biết dân nước khác, đặc biệt dân Mỹ có lối sống ra sao, và người ta muốn cắn một miếng lớn từ chiếc bánh đó. Một số đến Disney World thăm điều họ mộng mơ, trong khi số khác đến các tiệm KFC ở bắc Malaysia. Ivy Josiah, một người hoạt động vì nhân quyền trẻ tuổi, một lần đã nói với tôi về tâm lý trong thế hệ của cô về điều này. "Tôi rất buồn khi thấy những quầy có món ăn truyền thống của chúng tôi bị các chuỗi tiệm ăn lớn như KFC, McDonald's và Chili's đè nén," cô nói. "Chúng tôi đang mất dần bản sắc. Chúng tôi lớn lên với những quầy ăn truyền thống. Nhưng giới trẻ hiện nay đã không như vậy. Chúng lớn lên, đến các quầy ăn truyền thống và thấy chuột gián và nước bẩn. Đối với một đứa trẻ người Malaysia ngày nay, niềm vui lớn nhất là được đến ăn ở một tiệm Pizza Hut. Toàn cầu hóa tức là Mỹ hóa. Giới thượng lưu ở đây nói," Không nên có McDonald's, "nhưng với những người dân thường ở đây thì, vì họ không được sang Mỹ nên họ đã có Mỹ sang với họ." Với những lý do đó thì thật ngây thơ nếu nghĩ rằng chúng ta có thể chặn được những tay tài phiệt chủ của McDonald's hay Taco Bell, không cho họ mở các chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới. Chúng trở nên phổ biến vì chúng mời mọi người thưởng thức một thứ mà họ muốn. Và tuyên bố với dân chúng các nước đang phát triển rằng họ không được có những nhà hàng đó, vì như thế sẽ làm xấu đi cảnh đẹp hay tầm nhìn ngắm của các vị khách đến từ các nước phát triển, thì quả thực là ngạo mạn và vô ích. Tuy nhiên, trên phương diện văn hóa, sẽ có những mất mát – đối với cả hai phía – khi mà những chi nhánh toàn cầu như trên mọc lên ở mọi nơi, sân bay, hay ngóc ngách vùng thôn quê. Hy vọng duy nhất – và chỉ là hy vọng – là các nước học được cách thiết lập các hệ thống sàng lọc nhiều tầng để phòng ngừa khả năng bị chủ nghĩa tư bản toàn cầu xô đẩy và lôi kéo. Vì với sức mạnh và tốc độ của toàn cầu hóa ngày nay, những nền văn hóa nào không đủ mạnh để sàng lọc, sẽ bị xóa sổ cũng giống như những loài thú hiếm không thể thích nghi được với môi trường sống đang thay đổi. Tôi cho rằng hệ thống sàng lọc quan trọng nhất là khả năng "địa phương hóa" toàn cầu. Tôi định nghĩa "địa phương hóa toàn cầu" là khả năng của một nền văn hóa, khi va chạm với một nền văn hóa mạnh mẽ khác, có thể hấp thụ những ảnh hưởng lành mạnh để tự làm giàu giá trị của nó, nhưng lại có thể kháng cự và cô lập những điều thực sự quái gở, không phù hợp, để hai thứ giá trị đó đều có thể cùng được thưởng thức. Mục đích duy nhất của sự địa phương hóa đó là hội nhập những khía cạnh của toàn cầu hóa vào đất nước và văn hóa của bạn theo hướng: Nó phải giúp cho sự tăng trưởng và đa dạng, và không được đè bẹp giá trị nội địa. Địa phương hóa thực ra là một quá trình có từ lâu, từ thời cổ, khi chẳng hạn, các nền văn hóa địa phương phải cọ xát với văn hóa cổ Hy Lạp, hấp thụ những điều tốt đẹp nhất nhưng không bị tư tưởng này quán triệt. Do thái giáo dòng Juda là một ví dụ cổ điển về một nền văn hóa mang nặng tôn giáo mà đã hấp thụ ảnh hưởng từ nhiều nước, qua nhiều thế hệ mà không bị mất đi giá trị trong cốt lõi. Thầy giáo của tôi, Tzvi Marx, một học giả Do thái cho biết khi người Do thái tiếp cận với người Hy Lạp lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, chỉ có một điều duy nhất được hấp thụ vào tư tưởng của Do thái đó là tính biện chứng của người Hy Lạp, được khắc họa trong các kinh thánh và bài giảng thời đó. "Sự hấp thụ những lô gíc Hy Lạp đã là điều tương đối dễ dàng, vì chúng thực sự có quan hệ với hoạt động của các nhà truyền giáo và học giả thời đó, đó là làm thế nào vun trồng cho sự trung thực," Marx nói. "Dấu hiệu của một sự hấp thụ lành mạnh là khi một xã hội có thể lựa chọn một điều gì từ bên ngoài, nhận nó vào làm của riêng, đặt nó vào khuôn mẫu đối chiếu của họ và quên đi rằng chính đó là điều ngoại nhập. Điều này xuất hiện khi ảnh hưởng từ bên ngoài tiếp cận được với giá trị bẩm sinh, nhưng chưa hoàn toàn trưởng thành, trong nền văn hóa riêng của bạn, và kích thích cho giá trị đó sinh sôi nảy nở." Đó cũng chính là cách thức các nền văn hóa hay các giống sinh vật tiến hóa. Đồng thời với việc tiếp cận các lô gíc của người Hy Lạp, dân Do thái cũng tiếp cận với cung cách lễ hội Hy Lạp, phơi bày thân thể, đó là chưa nói đến tư tưởng tình ái và đa thần của Hy Lạp. Người Do thái đã không hấp thụ những giá trị đó. Chúng bị coi là dị biệt và mãi mãi vẫn bị coi là dị biệt. Người Hy Lạp rất thích ngắm nhìn những vận động viên thể dục dụng cụ cởi trần. Người Do thái không thích thế, và không bao giờ Tiếp thụ ý thích đó từ văn hóa Hy Lạp. Những ai chấp nhận văn hóa theo lối đó sẽ bị coi là đánh mất bản sắc. Sau cùng, những thứ mà người Hy Lạp ăn và kiểu cách quần áo của họ đã được người Do thái du nhập và sử dụng có chọn lọc vì chúng khác lạ, chứ không biến chúng thành một phần văn hóa Do thái. Nói cách khác: Người Do thái không vứt đi món xúp matzo để ăn món souvlaki, nhưng họ ăn món souvlaki và rất thích, vì đó là món ăn lạ. Địa phương hóa một cách lành mạnh bao giờ cũng là một quá trình thử nghiệm – sửa sai nhưng là quá trình cần thiết. Trong một thế giới và các hàng rào và tường phòng ngừa đang ngày càng bị phá bỏ, thì các nền văn hóa mang tính địa phương hóa mạnh mẽ sẽ có lợi thế, và những nền văn hóa khác cần phải học cách tồn tại và hấp thụ. Một số văn hóa rõ ràng không mang tính hấp thụ – ảnh hưởng mạnh, chính vì thế chúng dễ bị toàn cầu hóa làm cho suy yếu. Khi các quốc gia hay các nền văn hóa thiếu khả năng địa phương hóa, sẽ khiến xuất hiện sự phản ứng như của những phần tử Hồi giáo Chính thống Taliban ở Afghanistan: Họ lo sợ, không muốn có một quá trình thử nghiệm – sửa sai trong toàn cầu hóa vì làm như thế sẽ dẫn đến nhiều sai lầm và văn hóa của họ sẽ bị toàn cầu hóa chế ngự, chính vì thế họ đã kéo một tấm màn đen che phủ toàn bộ đất nước, hay dựng một tường rào che chắn, nội bất xuất ngoại bất nhập. Nhưng những bức tường đó trước sau rồi cũng bị bầy thú đạp đổ, và khi đó, dân chúng sẽ bị mất đi bản sắc. Họ bị đồng hóa ngay trong đất nước của họ. Đất nước của họ trở thành một chốn cho các nền văn hóa bên ngoài tự do qua lại. Còn thêm một hiểm họa khác. Một số nền văn hóa cho rằng họ có khả năng địa phương hóa một cách đúng đắn, nhưng thực tế cho thấy, chính chúng đang mất dần bản sắc một cách chậm rãi. Một ví dụ hay nhưng đã cũ nhàm đó là cung cách tiệm ăn McDonald's ở Nhật Bản đã được văn hóa và kiến trúc của Nhật hấp thụ. Với 2.000 tiệm ăn ở Nhật Bản, McDonald's, tên địa phương là "Makudonarudo," trở nên một mắt xích lớn nhất của McDonald's nằm bên ngoài Hoa Kỳ. McDonald's Nhật Bản đã được hội nhập thành công vào nước này đến mức: Chuyện kể rằng có một cô bé người Nhật khi sang Los Angeles và nhìn thấy McDonald's đã lôi tay của bà mẹ và nói: "Nhìn xem, mẹ ơi, ở nước này người ta cũng có McDonald's." Bạn có thể thông cảm với sự ngạc nhiên của em bé đó khi được biết McDonald's bắt nguồn và là một công ty của Mỹ chứ không phải của Nhật (lãnh đạo của McDonald's ở Nhật đã không dùng đích danh Ronald McDonald, mà đổi lại là Donald McDonald cho tiện phát âm) "Bạn không thể nào dựng được 2.000 tiệm McDonald's ở Nhật Bản nếu để cho người sở tại biết được đó là một thương hiệu Mỹ," James Cantalupo, Chủ tịch McDonald's International nói với tôi. "Hãy xem McDonald's có món ăn bằng thịt, bánh mỳ và khoai tây. Mà trên thế giới thì hầu hết các vùng đều ăn những thứ đó. Điều quan trọng là cách đóng gói thế nào và tạo khung cảnh ăn uống khác biệt." Việc cháu gái trong câu chuyện không biết rằng McDonald's bắt nguồn từ Chicago Và được một người tên là Ray Kroc sáng lập, không phải là người Nhật, khiến tôi nghĩ đó không phải là sự hấp thụ văn hóa đúng đắn. Trong môi trường Nhật Bản, McDonald's đáng nhẽ cần được coi là một món ăn nước ngoài. Địa phương hóa một cách thiếu lành mạnh là khi bạn hấp thụ một thứ không can hệ gì tới bản sắc văn hóa của bạn, nhưng lại coi thứ đó là biểu hiện của văn hóa nước bạn - làm như vậy bạn đã mất liên hệ với chính bản sắc của bạn. Tzvi Marx nói: "Trong y tế, có một cách virus ung thư xâm nhập vào một tế bào nhưng lại hóa trang khiến cho tế bào đó không biết đã bị xâm nhập, cứ nghĩ virus ung thư chỉ là một bộ phận của nó – cho tới khi quá muộn, virus ung thư chiếm lấy hạt nhân và giết hại tế bào đó." Điều này tương tự như hiện tượng những thế lực địa phương hóa đóng vai trò của virus ung thư, khiến cho bạn ôm trọn lấy một giá trị ngoại lai nhưng lại cứ nghĩ đó là của bạn. Tôi rất mừng là McDonald's có mặt ở Nhật Bản, và tôi cũng rất thích là vùng tôi ở Bethesda có một quầy sushi. Tôi thấy khoái trá khi cháu bé người Nhật thích ăn McDonald's và con gái tôi thích ăn sushi. Nhưng điều quan trọng là cháu gái người Nhật phải hiểu McDonald's là một thức khác biệt chứ không được ngộ nhận nó là món của Nhật Bản. Khi những ngộ nhận như thế xuất hiện thì đồng hóa không chóng thì chầy sẽ xảy ra. Và khi đồng hóa xảy ra thì có nhiều khả năng cháu bé người Nhật sẽ mất liên hệ với những điều thực sự Nhật Bản, vì một ngày, cũng như tế bào kể trên, cháu sẽ thức dậy và thấy bị xâm lăng, và không còn gì là bản sắc văn hóa cho cháu nữa. Địa phương hóa ngay cả khi có hình thức lành mạnh thì vẫn chưa đủ để bảo vệ các nền văn hóa bản xứ chống lại toàn cầu hóa. Cần phải có những hệ thống sàng lọc mạnh mẽ khác. Trước hết, bạn cần có luật phân khu vực, luật định những nơi cần bảo tồn và những chiến dịch giáo dục nhằm bảo tồn những vùng văn hóa độc đáo và những di sản văn hóa chống lại những sự phát triển theo lối hòa đồng. Điều đó không có nghĩa là cấm tiệt tất cả các tiệm McDonald's, nhưng có nghĩa là không cho McDonald's vào những khu dân cư nhất định. Điều này khiến các công chức chính phủ phải có các quy hoạch cứng rắn, họ phải bất khuất trước sức ép và sự mua chuộc của các nhà chính trị. Về phần các nhà chính trị thì họ phải sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ bảo tồn văn hóa. Miền nam nước Pháp là nơi được bảo tồn, mang giá trị chỉ của miền nam nước Pháp. Một phần là do nước Đức, thông qua Liên hiệp châu Âu, đã bao cấp cho nông nghiệp của Pháp, bao cấp đến tận những nông gia ở phía nam, khiến cho các làng mạc và những tiệm bán lẻ nhỏ nhắn và xinh đẹp ở đó được tồn tại – chống lại được sức ép toàn cầu hóa, kẻ đang đòi hỏi xóa đi nhưng làng mạc và nuốt chửng những tiệm tạp hóa thôn quê. Nói cách khác, nền chính trị ở miền nam Pháp đã giữ vững được một giá trị thực sự – bảo tồn bản sắc văn hóa. Nền chính trị đó được xây dựng trên cơ sở một chính sách nông nghiệp chung của châu Âu, chuyển vốn hỗ trợ các cơ sở nông nghiệp cỡ nhỏ để giữ nguyên được các làng mạc, nơi được người ta coi là mang bề dày Văn hóa. Chúng ta cần những mạng lưới bảo toàn xã hội như vậy để giữ vững được văn hóa của chúng ta. Các nhà chính trị phải giáo dục cho dân chúng về giá trị của những hệ thống đó và phải sẵn sàng thực hiện chúng. Ở các nước đang phát triển, nơi tầng lớp trung lưu chưa đủ mạnh để vận động bảo tồn văn hóa, nơi luật quy hoạch và môi trường còn yếu hoặc dễ bị vi phạm, bạn cần có một loại hệ thống lọc khác – thị trường. Nếu đến gặp một thợ đốn gỗ ở Indonesia, người có 12 miệng ăn phụ thuộc anh ta, mà nói anh ta không được phá rừng làm rẫy vì đó là một phần của di sản văn hóa – thì sẽ không được việc. Anh ta sẽ nói với bạn, "Nếu anh muốn bảo tồn nó – thì bỏ tiền mà mua." Dân chúng phải coi việc bảo tồn văn hóa gắn liền với giá trị cuộc sống của họ, và không được hy sinh vấn đề bảo tồn để sinh tồn. Ngành du lịch có vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cho các chính quyền địa phương bảo tồn bản sắc và truyền thống của địa phương. Du khách thường quan tâm rằng liệu không khí ở đó có trong lành không? Nguồn nước có sạch sẽ không? Đó là những vấn đề mà các khách sạn cần quan tâm nếu họ muốn thu tiền cao của du khách: Chẳng hạn bán suất ăn tối giá là 20 đô-la cho du khách, thay vì 1 đô-la cho dân địa phương. Có khi cách tốt nhất để bảo tồn một kim tự tháp, một nơi khai quật khảo cổ hay một khu dân cư độc đáo là tìm cách cho dân chúng sống quanh đó kiếm tiền nhờ việc bảo tồn. Khi sang Bali, Indonesia, năm 1997, vợ tôi và tôi đến thăm Pura Tanah Lot, một trong những thắng cảnh tôn giáo đẹp nhất, ngôi đền xây trên một mỏm đá nhô ra ngoài biển. Khi thủy triều lên, nước tràn vào và ngôi đền bị cô lập trong sóng nước. Thắng cảnh tuyệt đẹp, hàng triệu du khách Indonesia đã đến và dâng hương hoa theo lối Ấn Độ giáo. Chúng tôi đến đó vào lúc mặt trời lặn, và khi tôi bước ra chụp ảnh vợ trong cảnh đền thờ, tôi thấy có một chiếc xe hơi đánh golf đi qua. Người ta đã xây một sân golf dọc bờ biển, cách đền khoảng vài trăm mét, chiếc xe đi qua một lỗ golf ngay bên bờ biển. Quả thực tôi cũng là người mê chơi golf, nhưng tôi cũng rất yêu cảnh đẹp thiên tạo và tôn trọng những đền thờ thiêng liêng. Ở đây ta thấy hai khả năng: Hoặc một sự thiếu quy hoạch hoặc những quan chức quy hoạch địa phương đã bị mua đứt. Chẳng lạ gì khi chúng tôi ở Bali, tờ Jakarta Post đã đăng tin về một nhóm nghệ nhân vùng này đã tổ chức một cuộc triển lãm nghệ thuật với mục đích chống lại những sự phá hoại nhằm vào thiên đường của họ. Theo bài báo, trong triển lãm người ta trưng bày hình ảnh một trái bóng golf đang rơi vào một cuộc tuần hành Ấn Độ giáo; một hình ảnh khác cho thấy Bali như một trái bóng golf đang bị thế giới đánh quật; và một bức tranh một nông dân dùng gậy đánh trái bóng – mang hình tượng những nhà thầu xây dựng – đi nơi khác. Cuộc triển lãm có cái tên: "Glo-BALI-zation." [Toàn cầu hóa – và Bali] . Nếu Bali tiếp tục con đường tự hủy hoại như vậy thì nó sẽ kết liễu luôn du lịch tới vùng này. Trong cuốn hướng dẫn về Bali của chúng tôi, do nhóm Knopf xuất bản Cách đó hai năm có đoạn nói về Pura Tanah Lot: "Kế hoạch hối hả biến khu này thành nơi du lịch trở nên đáng lo ngại, nhưng nó vẫn chưa hoàn tất: Một khách sạn sang trọng và một sân golf đã được quy hoạch gần đó. Nhưng trong thời gian này, ngôi đền vẫn đáng để cho bạn thăm viếng." Khi một sách hướng dẫn du lịch bắt đầu báo động cho bạn hay là đất nước đó đang bóc lột quá mức nền văn hóa của chính họ và mời bạn đến thăm thắng cảnh trước khi quá muộn – thì bạn biết đất nước đo đang vào một vùng nguy hiểm. Tôi sợ rằng ấn bản hướng dẫn của Knopf lần sau về Bali sẽ được viết: "Muộn rồi. Hãy sang nơi khác." Chính vì thế, động cơ lợi nhuận, mặc dù thường là cần thiết nhưng vẫn không đủ, vì nó có thể dẫn tới sự thương mại hóa và bóc lột những điểm văn hóa. Bạn cần có một giai cấp trung lưu và thượng lưu hết lòng vì hoạt động xã hội, họ phải sẵn sàng tài trợ cho việc bảo tồn các điểm văn hóa, ngay cả khi không kiếm lợi riêng được – hay cũng chính là vì những nơi đó không thể tự kiếm ra tiền. Khi bảo tồn những khía cạnh phi thương mại của cuộc sống, bạn không thể nhờ vào thị trường quá nhiều, và bạn cũng không muốn nhờ vào thị trường quá nhiều. "Về lâu về dài, thật là một ảo tưởng nếu người ta cho rằng động cơ thị trường và lợi nhuận sẽ là đủ để bảo vệ tài sản văn hóa và môi trường của một đất nước," Fareed Zakaria, Tổng biên tập tạp chí Foreign Affairs, một người gốc Ấn Độ, lập luận. "Không thể thế được. Vì điều mà toàn cầu hóa đang làm là trang bị thế lực cho con người. Nó cho phép con người có những lựa chọn, họ sẽ tự do chọn lựa những giá trị cuốn hút nhất, hiện đại nhất, cám dỗ nhất, thuận tiện và mang tính thương mại nhiều nhất. Và khi đó con người có thể muốn lấp đầy các khu phố bằng những siêu thị và tiệm ăn Taco Bell – dẫu cho làm như thế có nghĩa là phải ủi đi những nền văn hóa địa phương và quốc gia. Chính vì thế cho nên cứ ôm vào thị trường thì sẽ không đủ; bạn phải kiểm soát thị trường bằng luật lệ. Và để kiểm soát thị trường thì giới lãnh đạo phải ra tay, không cho chúng rơi vào móng vuốt thị trường – tạo ra những môi trường mà thị trường không thể xâm lăng hay chế ngự. Và như vậy họ bảo vệ được những khía cạnh thuộc về bản sắc của đất nước của họ. Thông thường tầng lớp thượng lưu đầy đủ của cải là những người sẵn sàng lo tới điều đó. Như gia đình Rockefellers đã giúp xây dựng một hệ thống công viên ở Mỹ. Viện Bảo tàng Thủ đô là một công trình do các đại gia tư bản lập nên, những người nói rằng chúng ta cần một bảo tàng mà không dính dáng gì tới thị trường." Trên lý thuyết, những hệ thống lọc để bảo vệ văn hóa và môi trường nói trên là đúng đắn, nhưng bạn cần phải sử dụng chúng một cách đồng thời mới mong tạo ra kết quả. Đơn thuần một công viên rừng nhiệt đới sẽ không giúp cho việc giảm nạn đốn gỗ; công chức đơn thuần không thể có đủ nghị lực chính trị để áp dụng luật; chỉ các tập đoàn công ty mang ý thức môi trường không thôi sẽ không đủ sức để chặn sự băng hoại môi sinh; và nếu chỉ có các nhà hoạt động dùng Internet thôi thì cũng sẽ Không tài nào ngăn được bầy thú. Chính vì thế mà tôi hy vọng, và thực sự tin rằng khi chúng ta tiến vào thập niên toàn cầu hóa tiếp theo thì sẽ được thấy có ai đó, hay một chính đảng nào đó, sẽ xây dựng cương lĩnh của họ trên một lý thuyết kết hợp được tất cả những hệ thống sàng lọc nói trên. Tôi không có hàm ý chỉ tổ chức Hòa bình Xanh, ý tôi muốn nói đến các chính đảng và các nhà chính trị lớn mang tính quyết định. Mọi sự sẽ bắt đầu từ các quốc gia phát triển rồi sẽ lan tỏa đi nơi khác. Tin mừng là trường phái chính trị này đã được đặt tên – "Vấn đề sống tốt." Ở Hoa Kỳ, Al Gore là người đưa ra vấn đề này. Khả năng sống tốt, ông ta lập luận, đòi hỏi "sự tăng trưởng thông minh" và tăng trưởng thông minh đòi hỏi có những nhà chính trị hình thành được một tập hợp các bộ luật, các ưu đãi và sáng kiến có thể giúp những hệ thống sàng lọc đó cùng phối hợp. Một yếu tố then chốt trong chiến lược của Al Gore là sự tạo dựng chương trình "Trái phiếu nước Mỹ tốt hơn." Thông qua việc ưu đãi thuế liên bang, chương trình này cho phép các cộng đồng cùng nhau phát hành được 9, 5 tỷ đô-la trái phiếu, số tiền sẽ được dùng vào việc mua lại những khu vực còn xanh tươi, khôi phục những công viên khô cằn và cải tạo nhiều nơi, đặc biệt trong các nội đô, nơi môi trường đã bị phá hủy nhưng có thể phục hồi. Càng có nhiều các thành phố trung tâm được phục hồi thì càng giảm đi khả năng thành thị lấn chiếm nông thôn. Chỉ có một nền chính trị nhất quán không ngừng nghỉ, tranh đấu cho khả năng sống còn, mới làm cho xã hội kết hợp được những hệ thống chọn lọc cần thiết để bảo tồn văn hóa và môi trường, đương đầu với những kế hoạch kinh doanh dài hạn, nhiều vốn và đầy hiệu quả như của các hãng Nike, MTV, McDonald's, Pizza Hut, Enron và Taco Bell. Ngày nay, đó có lẽ chỉ là hy vọng hay lời cầu nguyện, nhưng là niềm hy vọng và lời cầu nguyện cần thiết – vì sẽ không có toàn cầu hóa bền vững nếu không có sự bảo tồn về văn hóa và môi trường. Môi trường và văn hóa đi đôi với nhau. Các nền văn hóa được nuôi dưỡng và duy trì trong các môi trường bản địa. Những bộ lạc đa dạng và phong phú của Amazon sống trong những vùng hoang sơ, không bị ô nhiễm và chưa phát triển hiện đại. Và những thị trấn đa dạng và phong phú ở Mỹ, Qatar hay vùng nam nước Pháp là những nơi mà môi trường chưa bị lát bê tông và bao phủ bởi những siêu thị – chúng tránh được hiểm họa trở thành những phiên bản của nước Mỹ. Israel là một trường hợp thú vị để nghiên cứu về chủ đề này, vì nó có một nền văn hóa mạnh mẽ, có bề dày hàng ngàn năm và một môi trường độc đáo hơn nhiều nơi trên thế giới, với những mỏm đá hay ngọn đồi được ghi trong Kinh thánh. Ngày nay, cũng chính tại Israel, Hội Bảo vệ Thiên nhiên Israel (SPNI) đang phải đấu tranh chống lại sự mở rộng lan tràn của đô thị về nông thôn. Nếu bạn trước đây đã trồng một cây xanh ở vùng giữa Tel Aviv và Jerusalem thì bạn hãy nhanh quay về mà thăm nó. Bởi vì không còn lâu nữa, vào năm 2020 theo quy hoạch, thì những địa phương từ Haifa tới Tel Aviv sẽ trở thành một giải đất nội đô lớn. Người Israel xây nhà cứ như thể họ đang ở Australia vậy – càng nhiều nhà càng tốt, nhà càng lớn càng hay, càng rộng càng đẹp. Nếu mức phát triển dân số hiện nay cứ tiếp tục thì Israel, ngoại trừ vùng sa mạc Negev, sẽ trở thành một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Buồn thay, những vòng cung vàng McDonald's giờ đây đang ngự ở một đỉnh đồi án ngữ lối ra vào Jerusalem từ hướng tây. Chính vì Israel không bao giờ có thể hạn chế được sự nhập cư của người Do thái nên phải quan tâm nhiều hơn tới sự phát triển bền vững; nếu không thì văn hóa Zion của Israel sẽ bị mất đi cái gốc mà từ đó nó ra đời và gắn bó sâu đậm. "Mỗi một dự án được cấp phép ngược với quy hoạch lớn của đất nước và làm xói mòn những miền đất mới sẽ hủy diệt di sản Do thái – danh lam thắng cảnh được ghi trong kinh thánh từ thời David và Solomon," Avram Shaked, điều phối viên về vấn đề bảo tồn, thuộc SPNI, giải thích vào một buổi sáng khi chúng tôi thấy những chiếc máy ủi ngoạm vào vùng đồi Jude. "Trong kinh thánh có nói đến những vườn nho của Ben Shemen. Ngày nay Ben Shemen là nút giao thông xa lộ lớn nhất trong nước. Chúng ta vẫn hay nói đến 'đất của Isarel' trên phương diện địa-vật lý nhưng chúng ta đã quên đi giá trị văn hóa thiêng liêng của nó." Yoav Sagi, Chủ tịch SPNI nói thêm vào: "Chúng ta phải thay đổi văn hóa ở đây từ chỗ khai phá đất đai thành bảo tồn đất đai. Bởi vì nếu ngày nào đó Israel trở thành một đất nước bình thường, không còn chiến tranh, thì những gì níu giữ chúng tôi ở lại đây sẽ chính là giá trị cuộc sống và những liên hệ với mảnh đất này. Nhưng nếu cứ tiếp tục cái đà hiện nay thì chúng tôi sẽ không còn giá trị cuộc sống và cũng chẳng còn đất đai cho chúng tôi gắn bó." Khi bạn làm cho những nhà cửa của dân chúng không còn tính độc đáo riêng biệt – bằng cách đồng hóa kiến trúc hay phá hủy môi trường quanh các ngôi nhà – bạn sẽ làm băng hoại không những văn hóa mà còn sự nhất quán trong xã hội của họ. Văn hóa, với ảnh hưởng lớn nhất của nó, có thể trở thành yếu tố mạnh mẽ tự khắc kiềm chế hành vi con người. Nó mang lại cấu trúc và ý nghĩa cho cuộc sống. Văn hóa quy định một loạt các thói quen, sự kiềm chế, sự mong đợi và những truyền thống dệt nên những khuôn mẫu cuộc sống và gắn chặt các xã hội cốt lõi của chúng. Khi toàn cầu hóa không kiềm chế nhổ bật rễ văn hóa và môi trường, thì nó sẽ phá hủy kết cấu cơ bản cần thiết của cuộc sống cộng đồng. Điều này đưa chúng ta trở lại với vấn đề toàn cầu hóa bền vững. Bạn không thể xây dựng một xã hội mới – điều kiện cốt lõi để ứng phó với hệ thống toàn cầu hóa – nếu bạn đồng thời phá đi những nền tảng văn hóa. Những nền tảng đó có nhiệm vụ gắn bó và tạo cho xã hội của bạn sự tự tin và sự kết dính để tương tác với thế giới. Chính vì thế nỗi lo của tôi về khả năng các nước đang phát triển sẽ bị toàn cầu hóa tàn phá, ủi bằng, vượt quá sự bận tâm hạn hẹp muốn duy trì những khu vực nhiều màu Sắc cho du khách đến thăm quan. Sự lo ngại của tôi là ở chỗ nếu không còn môi trường thì sẽ không có văn hóa bền vững; và nếu không có văn hóa bền vững thì sẽ không có cộng đồng bền vững, và nếu không có cộng đồng bền vững thì toàn cầu hóa bền vững sẽ không đến với chúng ta. Tôi thấy quá trình này diễn ra rõ rệt trong vùng tôi đang sinh sống. Quán cà phê mà tôi ưa thích nhất ở cách nhà tôi, ở Bethesda, Maryland, vài dặm, được gọi là Corner Bakery. Trước hết, tôi thích cái tên Corner Bakery (Lò bánh ở góc phố). Cái tên đó gợi cho tôi sự ấm cúng và tình hàng xóm, trong quán người ta bán 30 loại bánh mỳ. Quán cũng có hương vị và kiểu cách của một lò bánh mỳ thời cũ, đồ gỗ màu tối, đánh bóng, đồ đồng sáng bóng và nhân viên thì thân thiện. Vâng, đó là Corner Bakery của tôi. Nhưng chỉ có một điều: Thực ra nó không nằm ở một góc phố, nó nằm trong một khu thương xá mang tên Montgomery. Mặc dù cái tên và cảm giác trong quán gợi cho ta về một đường phố xưa nhà cổ, nhưng cái hồn xưa đó đã đi rồi. Khi bước vào quán, người ta không còn nghe thấy những câu "chào ông bạn hàng xóm – chào ông – chào bác sĩ." Trong quán chỉ có một lũ người lạ, nhân đi qua con đường cao tốc, dừng lại vào uống cà phê. Nói cách khác, khi vào quán, chúng ta có cảm giác của thời hậu- McDonald's. Nhưng chúng ta dường như đang quay trở lại với cội rễ của chúng ta – nhưng cái cộng đồng và môi trường một thời nảy sinh những cửa tiệm góc phố, nay không còn nữa. Corner Bakery thời nay là một chi nhánh của một chuỗi tiệm cà phê mang tên Corner Bakery. Giống như chiến hạm Potemkin của Nga nay không được thả neo trên biển – trong lòng cộng đồng Nga – mà là đang được tồn trữ trên một khối bê tông. Điều tôi lo ngại là Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Israel, Qatar và Indonesia sẽ phát triển đến độ họ sẽ muốn quay lại bảo tồn những tiệm bánh góc phố của họ – hình ảnh, mùi vị, màu sắc, quầy hàng trên phố, kiến trúc và danh lam thời xưa. Đó là những cái nôi trong đó bản sắc văn hóa, những cây ô liu của họ được vun trồng. Nhưng đến lúc đó các nước này sẽ chợt nhận ra rằng những giá trị đó đã bị xóa rồi, không phải được thay thế bằng các giá trị mới của chính văn hóa của riêng họ, mà bị thay thế bởi những giá trị của loại văn hóa toàn cầu láng bóng sạch bong đang nhanh chóng xâm nhập. Chúng ta không thể hy vọng có thể bảo tồn toàn vẹn được tất cả các nền văn hóa trên thế giới. Và chúng ta cũng không muốn một nền văn hóa được tồn tại nếu như nó không còn chất kết dính và sức mạnh tự thân để làm điều đó. Cũng giống như các loại muông thú, văn hóa ra đời, tiến hóa và bị đào thải tự nhiên. Nhưng trong toàn cầu hóa ngày nay, đó là quá trình tiến hóa siêu tốc độ. Không công bằng chút nào. Trong một thế giới không còn rào cản, thậm chí những nền văn hóa năng động nhất cũng đã phải nhường bước cho Bầy Thú Điện Tử. Văn hóa cần giúp đỡ để tồn tại, nếu không nó sẽ bị hủy diệt với tốc độ nhanh hơn là tốc độ cho chúng tiến hóa và rồi có khả năng Chúng ta chỉ còn lại mỗi một loài vật trong vườn thú. Tạp chí National Geographic trong ấn bản tháng 8/1999, cho biết, "Không một thước đo nào cho cuộc khủng hoảng này tốt hơn là thước đo mức độ các ngôn ngữ bị mất đi. Trong lịch sử đã từng tồn tại khoảng 10.000 ngôn ngữ khác nhau. Ngày nay chỉ còn khoảng sáu ngàn ngôn ngữ đang được sử dụng, rất nhiều trong số đó không được truyền lại cho trẻ – trên thực tế có thể coi những ngôn ngữ đó đã chết – và chỉ còn 300 thứ tiếng được trên một triệu người sử dụng. Vào thế kỷ sau, phân nửa số ngôn ngữ, mà hiện nay đang được dùng trên thế giới, sẽ mất đi.. Đối với hệ sinh thái cũng vậy. Sự đào thải cân đối với sự ra đời là điều bình thường. Nhưng làn sóng tiệt chủng hiện nay do hoạt động của con người gây ra cho những loài sinh vật là chưa từng có. Cũng tương tự, ngôn ngữ, văn hóa và các giống động thực vật đã và đang tiến hóa. Nhưng các loại ngôn ngữ ngày nay đang mất dần với tốc độ cao trông thấy, trong chu kỳ một hay hai thế hệ.'Khi chúng ta mất đi một thứ tiếng, thì không khác gì điện Louvre bị ném một trái bom, ' Ken Hale thuộc Học viện Kỹ thuật Massachusetts, than vãn. Khi ngôn ngữ mất đi thì văn hóa cũng bị diệt vong. Thế giới sẽ trở thành một nơi tẻ nhạt, nơi chúng ta hy sinh đi những tri thức xưa hiếm, những thành tựu mà cả ngàn năm mới có được." Không ai hiểu được điều đó kỹ hơn James Wolfensohn, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Ông ta kể với tôi về một chuyến đi sang Guatemala không lâu sau khi nhậm chức. "Tôi lúc đó đang ở vùng cao nguyên và gặp những già làng của bộ tộc Maya. Đó là một làng nghèo đói, mọi thứ đều thiếu thốn. Dân chúng không có tài sản gì cả. Chúng tôi đến để xem xét có thể giúp đỡ họ về giáo dục và y tế. Và giáo dục là chủ đề mà người dân ở đó muốn bàn nhiều nhất. Hơn cả vấn đề nước. Họ muốn chúng tôi giúp bảo vệ nền giáo dục văn hóa Maya, đó là những truyền thống được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, có bề dày ba ngàn năm. Chúng ta thấy dân chúng rất nghèo nhưng họ có bề dày lịch sử và văn hóa – họ đã từng nghiên cứu toán học và thiên văn trước phương Tây rất nhiều – và họ muốn chúng tôi giúp đỡ để con cháu họ có thể kế thừa những di sản văn hóa đó. Thế giới sẽ tồi tệ hơn nếu chúng tôi không giúp gì được họ." Và Wolfensohn đã cho bắt đầu một chương trình cho vay để bảo tồn văn hóa tại Ngân hàng Thế giới – song song với những trợ giúp phát triển nói chung – trong suy nghĩ rằng nếu để mất đi những tri thức và văn hóa của những vị trưởng lão của bộ tộc Maya thì cũng giống như đánh mất những phiên bản nhiễm sắc thể ADN của một loại cây hay thú quý hiếm. Trong số những khoản trợ giúp tài chính cho văn hóa của ngân hàng có dự án khôi phục Bảo tàng Quốc gia Brazil, khôi phục thánh đường Hồi giáo ở Samarkand, bảo tồn các điểm văn hóa ở Bethlehem, một cuốn từ điển cho Uganda, các dự án cho dân bản xứ ở Peru và Bolivia và giúp đỡ các nghệ nhân và thợ thủ công ở Ma Rốc. Điều đáng buồn là cứ mỗi năm Wolfensohn đều phải đấu tranh với các Thành viên ban quản trị của ngân hàng, bao gồm các bộ trưởng tài chính, để duy trì cho được chương trình đó. Wolfensohn nói, "Tôi nói với họ, 'Các vị cứ tưởng tượng nếu nước Anh không có lịch sử? Các vị thử tượng tượng sang đến Pháp mà không thấy được văn hóa Pháp? Nếu không thể tưởng tượng được những điều đó thì vì sao lại không giúp các nước đang phát triển, những nước đang cần điều đó hơn nhiều? Không thể nào khiến được dân chúng các nước tiến lên nếu không làm cho họ hiểu được bản sắc, gốc rễ và quá khứ của họ." Điểm hay nhất trong chương trình của Wolfensohn là những nước nhận viện trợ văn hóa sẽ phải sử dụng 15 phần trăm tiền quỹ để tài trợ cho các nghệ sĩ đương đại, họa sĩ, nghệ nhân và nhà thơ – ngân hàng không đưa văn hóa của họ vào các bảo tàng, mà là tiếp tục nuôi dưỡng cho văn hóa các nước này đâm chồi nảy lộc. Toàn cầu hóa sẽ là bền vững tùy thuộc một phần vào mỗi chúng ta cùng nhau sử dụng những hệ thống sàng lọc để bảo vệ văn hóa và môi trường của chính chúng ta, trong khi hấp thụ những điều hay của văn hóa người khác. Nếu toàn cầu hóa chỉ là một phương cách hữu hiệu trong trao đổi văn hóa – cho tôi được nếm món sushi hay kabuki của em bé Nhật trong lúc em bé đó nếm món McDonald và Disney của tôi – để cho dân chúng có thể tự lựa chọn, nếu toàn cầu hóa trở thành một liên hiệp của những văn hóa bản sắc mà không phải là một sự đồng hóa lấn át, và nếu toàn cầu hóa cho phép xuất hiện một môi trường đa dạng về văn hóa mà không phải là một hành tinh vô hồn và đồng phục, thì toàn cầu hóa sẽ được bền vững. Yaron Ezrahi nói: "Hoặc là toàn cầu hóa đồng hóa chúng ta trên bề mặt nhưng ta vẫn giữ nguyên được gốc rễ về văn hóa, hoặc nó đồng hóa chúng ta tới tận gốc rễ – khi đó nó sẽ trở thành một yếu tố hủy diệt trên phương diện môi trường, văn hóa và chính trị." Có thể chấp nhận việc Disney World cho dựng một phiên bản ở Trung Quốc, Pháp hay Mexico. Nhưng nếu để cho phiên bản Disney World ở Trung Quốc trở thành hình ảnh duy nhất của Trung Quốc một thời đã qua, hay vương quốc của loài vật ở Disney World trở thành hình ảnh duy nhất gợi lại những khu rừng nhiệt đới của một thời cũng đã qua, hay quán cà phê Rain Forest là hình ảnh khu rừng duy nhất mà con cái bạn có thể chứng kiến, thì.. xin Thượng đế hãy phù hộ cho loài người.
14. Được ăn cả, ngã về không. Bấm để xem Tôi có vé suốt mùa đi xem đội bóng rổ Wizards NBA của Washington và mùa hè năm 1996 thật là đen đủi đối với các fan của Wizards. Hồi đó, Juwan Howard, ngôi sao tiền đạo của đội đã bị câu lạc bộ Miami Heat giàu có cám dỗ với số lương 120 triệu đôla trong vòng bảy năm. Đội Wizards lúc đầu trả cho anh ta "có mỗi" 75 đến 80 triệu đô-la. Khi những đàm phán về hợp đồng của Howard lên đến mức sôi động nhất, tôi tình cờ gặp bình luận viên chính trị Norman Ornstein thuộc Viện Kinh doanh Hoa Kỳ, cũng là một fan của Wizards. Chúng tôi than vãn về khả năng Howard sẽ lọt về tay câu lạc bộ Miami. "Anh có nhận thấy rằng," Ornstein nói, "tất cả là do lỗi của Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ, NAFTA." Chúng tôi cùng cười nhưng biết rằng nhận định của Ornstein cũng có lý. Nói đơn giản là toàn cầu hóa đã tạo ra một thị trường toàn cầu mở rộng và hợp nhất cho rất nhiều hàng hóa và dịch vụ. Vì thế khi một nước đã kết nối vào hệ thống này, những ai có tài năng hay kỹ năng đều có thể cung ứng hàng hóa và dịch vụ cho một thị trường có quy mô toàn thế giới. Vận may của Juwan Howard là khi anh ta cải tiến được kỹ năng nhảy lên ném bóng đúng vào cái thời sụp đổ của tường Berlin, NAFTA, Liên hiệp Tiền tệ châu Âu, GATT và những thế lực thị trường khác đã cho phép NBA trở thành một môn thể thao toàn cầu, trong đó các fan từ Moskva, tới Mexico và Miami có thể hùn vào cùng trả lương cho Howard. Giải NBA năm 1998 đã bán được một lượng hơn 500 triệu đô-la các mặt hàng bóng rổ, rổ bóng, áo phông, đồng phục và mũ, hàng hiệu NBA, ra bên ngoài nước Mỹ, đó là chưa nói đến hàng triệu đô-la bản quyền truyền hình qua vệ tinh hay qua cáp. Ngày nay giải bóng rổ NBA đã bắt đầu trở thành đối thủ cạnh tranh với bóng đá thế giới. Quy mô toàn cầu của NBA ra sao? Bạn có biết loại búp bê Matrushka của Nga – bằng gỗ, cứ mở một con ra thì có một con khác ở trong, tiếp tục mở con thứ hai thì lại thấy một con khác, cứ thế.. Khi tôi sang Nga vào năm 1989, lúc đó loại búp bê này mang hình tượng các nhà lãnh đạo Liên Xô và các Sa hoàng, bán rất chạy. Bạn có thể mua loại có Lê nin bên trong Stalin, bên trong Khrushchev, bên trong Brezhnev, bên trong Gorbachev. Nhưng hồi sang tường thuật cuộc bầu cử tổng thống Nga năm 1996, những con búp bê mới được bán bên ngoài điện Kremlin mang hình tượng Dennis Rodman bên trong Scottie Pippen, bên trong Toni Kukoc, bên trong Luc Longley, bên trong Steve Kerr, bên trong Michael Jordan! Đội bóng rổ Chicago. Nếu không thích họ, thì mời bạn mua những con búp bê mang hình tượng các đội khác của giải NBA, bán rất chạy trong năm đó. Trong khi toàn cầu hóa giúp giải thích về sự may mắn của cầu thủ Howard, nó cũng giúp giải thích một hiện tượng khác – một hậu quả của việc kết nối vào toàn cầu hóa: Trong những năm 80 và 90, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong các nước công nghiệp hóa đã tăng đáng kể, sau hàng chục năm ở mức tương đối ổn định. Các nhà kinh tế sẽ giải thích cho bạn về nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch đó. Bao gồm sự di cư từ nông thôn ra thành thị, những thay đổi nhanh chóng về công nghệ tạo lợi thế cho các công nhân lành nghề, quyền lực của các nghiệp đoàn bị hao mòn, di trú vào các nước phát triển tăng khiến cho sàn lương bổng tại đó bị hạ thấp và sự chuyển giao sản xuất từ các nước lương cao sang các nước có nhân công rẻ mạt. Tất cả những nhân tố đó đều cần được tính đến khi xem xét khoảng cách giàu nghèo. Trong chương này, tôi muốn tập trung vào một yếu tố mà có thể là quan trọng nhất, và là yếu tố dễ nhìn thấy nhất ở những nơi mà tôi qua lại. Đây là hiện tượng "được thì ăn cả" – một thực tế cho thấy những kẻ thành công trong bất cứ lĩnh vực nào đều có thể kiếm rất nhiều tiền vì họ đang phục vụ cho một thị trường, thị trường toàn cầu; trong khi những kẻ chỉ kém chút tài năng hoặc thiếu tài năng thì sẽ chỉ ăn quẩn ở các thị trường địa phương và vì thế thu nhập thấp hơn nhiều lần. Tờ USA Today cho biết ngày đầu câu lạc bộ Miami đã đề nghị chỉ trả cho Howard ở mức 98 triệu đô-la trong bảy năm, mức lương này tương đương với 3.267 năm lương của một thầy giáo với mức 30.000 đô-la/năm. Hai nhà kinh tế Robert H. Frank và Philip J. Cook trong cuốn sách của họ, Xã hội được thì ăn cả, nói toàn cầu hóa "đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng sự thiếu công bằng" vì đã tạo ra trên toàn cầu một thị trường trong đó người thắng cuộc sẽ được hưởng hết. Họ nói một khi các hàng rào mậu dịch bị gỡ bỏ hoặc thủ tiêu trên khắp thế giới, chi phí đi lại giảm xuống, các thị trường nội địa bị thả nổi và thông tin được truyền rộng rãi và miễn phí xuyên biên giới, thì một thị trường hợp nhất sẽ được tạo dựng đối với nhiều ngành nghề. Một nhân viên bán hàng khi xưa phải đi lại nhiều trên các địa bàn trong nước, thì nay đang dùng máy fax, điện thoại vệ tinh và Internet để vươn sang các nước khác hay các khách hàng toàn cầu. Người bác sĩ khi xưa chỉ khám trong bệnh viện của mình thì nay đã có thể chẩn đoán và tư vấn cho các bệnh nhân ở nhiều nơi khác trên thế giới thông qua hệ thống truyền dữ liệu. Một ca sĩ khi xưa chỉ hát cho dân của mình trong nước, nay có thể dùng công nghệ CD và hệ thống nghe hát - trả tiền trên truyền hình cáp, không những để đến với thính giả toàn cầu, như nhóm Beatles chẳng hạn, mà còn để thu tiền của họ bằng nhiều cách. Trong khi đó, Frank và Cook lập luận, việc xóa bỏ các điều luật chính thức cũng như không chính thức mà trước đây được dùng để hạn chế cạnh tranh – ví dụ luật dùng trong thể thao chuyên nghiệp, không cho phép một cầu thủ tự "bán mình" cho những nơi trả lương cao hơn, hay thông lệ trong một công ty cho phép một chế độ "sống lâu lên lão Làng," hay thăng quan tiến chức nội bộ, không cho phép tìm nhân tài từ bên ngoài vào quản lý – đã góp phần làm xuất hiện một thị trường cạnh tranh và đấu giá quy mô toàn cầu. (Giới tiêu thụ cũng được lợi trong tình huống đó. Nếu bạn mắc những chứng bệnh lạ, thì qua Internet, bạn sẽ có điều kiện tìm thầy thuốc giỏi từ bất cứ nơi nào trên thế giới; và nếu bạn là một cổ đông của một vài công ty trong số 500 công ty do tạp chí Fortune liệt kê thì bạn có thể vui mừng khi thấy những công ty đó đang ra sức tuyển mộ nhân tài quản lý từ bên ngoài, có thể từ Australia xa xôi chẳng hạn, thay vì sử dụng các loại "lão làng" trong nội bộ các công ty) Bạn tập hợp những yếu tố kể trên và sẽ thấy được tình huống trong đó thị trường tiềm năng cho bất cứ mặt hàng hay dịch vụ nào, cho bất cứ ca sĩ hay nhạc sĩ, tác giả hay diễn viên, bác sĩ hay luật sư, vận động viên hay học giả.. nay mở rộng từ đầu này sang đầu kia của thế giới. Sự cởi mở và cơ hội di chuyển chưa từng có trên thế giới sẽ khuyến khích và buộc các công ty, các ngành công nghiệp và các chuyên viên phải bung ra thế giới – nếu không thì sẽ có những người khác. Và khi một trong những người/công ty đó thành công – được gọi là "Hãng kế toán ấy," "Bác sĩ ấy," "Diễn viên ấy.." thì họ không những thành công ở Hoa Kỳ hay châu Âu, không chỉ ở Nhật Bản hay Trung Quốc. Họ có thể kiếm mức lợi nhuận và mức tác quyền khổng lồ từ tất cả mọi nơi cùng một lúc. Khẩu hiệu quảng cáo của hãng xe hơn Ford tóm tắt rất hay: "Ford: Chinh phục cả thế giới." "Trong cái làng toàn cầu đó," Frank và Cook cho biết, những kẻ thắng cuộc – những kẻ có thể giao sản phẩm tốt nhất – sẽ có thể hưởng mức lợi nhuận khổng lồ. Hãy tưởng tượng một hãng mang tên Acme Radials, sản xuất lốp xe hơi ở Akron, Ohio. Trong quá khứ, nếu chỉ thành công ở địa phương Ohio thì đã là thành công. Nhưng ngày nay, giới tiêu dùng ngày càng khắt khe lựa chọn, họ chỉ mong có những sản phẩm tốt nhất dù đến từ bất cứ đâu trên thế giới – vậy Acme sẽ phải tính, nếu họ làm ăn ngon lành, sản phẩm thượng đẳng thì lợi nhuận sẽ rất cao, ngược lại: Nếu chất lượng không đảm bảo thì ngay cả ở Ohio họ cũng sẽ mất khách. Frank và Cook cũng chỉ ra rằng trong khi những kẻ thắng cuộc sẽ kiếm rất nhiều từ thị trường toàn cầu thì những kẻ thiếu kỹ năng hay không có kỹ năng sẽ bị thua rất nhanh. Chính vì thế khoảng cách giữa vị trí đứng đầu và đứng thứ hai sẽ gia tăng. Tất nhiên trong nhiều lĩnh vực sẽ không có duy một kẻ thắng cuộc, nhưng những kẻ đứng đầu bao giờ cũng chiếm phần cực kỳ lớn. Các thị trường càng trở nên toàn cầu hóa và theo lối "được ăn cả" thì khoảng cách lợi nhuận hay sự bất bình đẳng trong thu nhập sẽ tăng nhanh chóng trong một nước, cũng như giữa các nước. Sự bất bình đẳng đó đã trở thành một trong những hậu quả nghiêm trọng nhất của hệ thống toàn cầu hóa này. Theo một bài đăng trên tạp chí National Journal, thu nhập của các hộ nghèo khó nhất, chiếm một phần năm tổng các gia đình người lao động của nước Mỹ, đã giảm 21 phần trăm trong thời gian từ 1979-1995, trừ hao mức lạm Phát, trong khi đó mức thu nhập của những gia đình giàu có nhất tăng 30 phần trăm trong cùng thời kỳ. Ngày 30/5/1998, báo The Economist đăng Hoa Kỳ có 170 tỉ phú, so với 13 người, trong năm 1982. "Chẳng qua kinh tế phát triển rất tốt nên ai ai cũng nhanh chân chạy tới," tờ báo nói tiếp. "Nhưng sự bất bình đẳng đã tăng đáng kể trong vòng 30 năm, một điều ai cũng nhận thấy. Trong các tranh vui trên báo chí, Bill Gates từ chỗ được khắc họa là một người hùng nay trở thành một kẻ độc quyền chuyên bắt nạt kẻ yếu – theo kiểu Rockefeller. Phim Titanic đã cho thấy một cách nhìn sự vật theo lối Mac xít, khiến dân Mỹ rất khoái, đó là cảnh một vài người khách giàu có đi trên tàu đã kêu than vì rét." Sadruddin Aga Khan, chủ tịch Quỹ Bellerive, nghiên cứu tác động của toàn cầu hóa, đã cho biết tài sản Bill Gate trong một thời điểm tương đương với tài sản của 106 triệu người Mỹ nghèo khó nhất. Có rất nhiều các ví dụ về ảnh hưởng của toàn cầu hóa thể hiện trong chênh lệch thu nhập và các hậu quả xã hội. Nhưng, như tôi đã nói từ trước, bạn có thể tìm hiểu tất cả các chi tiết của hiện tượng đó bằng việc nghiên cứu một nhóm người – thuộc Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia NBA, và đặc biệt là đội bóng vô địch thế giới năm 1997-98, đội Chicago Bulls. Chủ nhân và cầu thủ của NBA là những người được hưởng lợi nhiều nhất trong hệ thống toàn cầu hóa ngày nay – không ai có thể hiểu rõ và tận dụng cơ hội đó giỏi hơn David Stern, Chủ nhiệm hiệp hội. Trong một cuộc phỏng vấn, Stern giải thích với tôi là nhờ có trào lưu dân chủ hóa về công nghệ trong khối cộng sản cũ, NBA bỗng dưng tìm thấy "nhiều kênh mới để chuyển tải tường thuật các trận đấu của họ – thông qua cáp, đĩa vệ tinh, Internet, cáp quang và truyền hình truyền thống vào rất nhiều nước." Stern giải thích ngày nay NBA có quan hệ với 90 hãng phát thanh và truyền hình trên thế giới đưa hình ảnh các trận đấu của họ vào 190 nước, bằng 41 thứ tiếng. Thậm chí Trung Quốc đã cho phát trận đấu trong tuần vào chương trình sáng thứ bảy của họ. Nhờ có sự dân chủ hóa về tài chính, sự chấm dứt hàng rào quan thuế, cửa khẩu đi lại giữa các nước được mở rộng, một thị trường tiêu dùng được mở ra rất nhanh. Các công ty muốn vào thị trường này thường gắn cho hàng hóa của họ cái nhãn hiệu toàn cầu và có thể xuất hàng vào nhiều nơi khác nhau cùng một lúc. Logo và biểu trưng của NBA cùng các đấu thủ của họ đã trở thành một biểu trưng toàn cầu và được gắn lên các mặt hàng bán trên thế giới – kem đánh răng, giày dép hay các loại sản phẩm khử mùi – và khiến tăng độ tin cậy của các mặt hàng đó khi chúng được bán ở mọi nơi, từ Buenos Aires cho tới Bắc Kinh. Và nhờ có dân chủ hóa thông tin – và cùng đó là sự lên ngôi của Michael Jordan chẳng hạn, một thần tượng xuất hiện và được mọi người từ khắp toàn cầu cùng lắng nghe. "Hãng Sprite đang có chương trình quảng cáo cùng một lúc ở Đan Mạch và Ba Lan, ở cả hai nơi, sản phẩm đều mang logo của NBA, khiến cho sản phẩm mang tính khả tín ở mọi thị trường," Stern giải thích. "NBA hiện có những văn phòng tiếp thị Truyền hình ở Paris, Barcelona, London, Đài Loan, Tokyo, Hồng Kông, Melbourne, Toronto. New Jersey, Miami – cho châu Mỹ La tinh – và Mexico City. Bây giờ chúng tôi thi đấu tám trận trong mùa tại Tokyo và hai trận tại Mexico City." Năm 1990, các trận đấu của NBA được truyền tới 200 triệu hộ dân của 77 quốc gia. Năm 1998, số hộ dân đó lên tới 600 triệu tại 190 nước, 35 phần trăm số người vào mạng thăm trang www. Nba.com sống bên ngoài nước Mỹ. Dân chúng có máy tính từ 50 nước thường xuyên vào trang mạng đó. Từ năm 1994, số cầu thủ quốc tế sang thi đấu cho NBA đã tăng gấp bốn lần. Để tìm hiểu thêm tôi đã đến phỏng vấn Steve Kerr, một cây chuyên làm bàn ba điểm, chơi cùng Michael Jordan trong nhiều năm trong đội Chicago Bulls. Sự nghiệp của Kerr trong NBA bắt đầu ngay trước khi bức tường Berlin sụp đổ, khi bóng rổ chuyên nghiệp là môn hầu như chỉ dành cho người Mỹ, nhưng đang dần dần lên được mức toàn cầu. Kerr nói với tôi: "Cách đây khoảng hai năm, khi tôi sang Nhật Bản để tham dự trại [huấn luyện] bóng rổ do Sean Elliott [một ngôi sao khác của NBA] phụ trách, tôi không thể tin được khi thấy mức độ mà dân chúng ở quanh Tokyo nhanh chóng nhận ra tôi. Một buổi sáng tôi dậy từ năm giờ để đi xuống chợ cá Tokyo để xem họ đấu giá bán cá buổi sáng. Đó là một thú vui của du khách: Bạn đến đó thấy bao nhiêu là loại cá ngừ, được đấu giá và bán mức 50.000 đô-la một lố. Cá nằm trên các đệm gỗ trên mặt đất, và tôi thì đi quanh quất, ngắm nhìn cá và những ngư dân đang làm việc. Nhưng mỗi chỗ khi tôi đi qua thì những người Nhật – ngư dân Nhật đã bước đến chào tôi và nói" A, Steve Kerr – Chicago Bulls. "Sự việc đó diễn ra lúc năm giờ sáng ở chợ cá Tokyo." Khi Chicago Bulls chơi một trận giao hữu trước giải ở Paris năm 1997 (giải này được mang tên Giải vô địch McDonald's) khoảng 1.000 phóng viên và nhiếp ảnh viên đăng ký vào tường thuật – đông hơn là mức trong các trận chung kết của NBA. Kerr nhớ lại: "Cũng cảm thấy là lạ khi dạo bước trên phố của Paris thấy ai ai cũng biết đến mình." Allen Alter, bạn tôi, biên tập viên của truyền hình CBS có lần đã cố gắng thu xếp visa để gửi một nhóm làm truyền hình sang Bắc Triều Tiên năm 1997. Anh ta đã hành động như cách của các biên tập viên giỏi – thường xuyên ve vuốt hai nhà ngoại giao cao cấp phụ trách cấp visa của Bắc Triều Tiên ở Liên Hiệp Quốc. Một buổi tối trong một bữa tiệc, các nhà ngoại giao Bắc Triều Tiên ngỏ lời rằng họ rất quan tâm tới bóng rổ NBA, vậy là Alter đã gửi tặng họ một băng hình của trận chung kết NBA năm 1997: Chicago Bulls đấu với Utah Jazz. Sáng hôm sau, những người Triều Tiên đó, (xưa nay rất miễn cưỡng trong việc hồi đáp công văn), đã gửi fax cho Alter, cám ơn anh và nói "cuốn băng đã được chuyển về Bình Nhưỡng trong túi thư ngoại giao." Một vài tuần sau đó có một phái đoàn ngoại giao từ Bắc Triều Tiên sang New York, và một thành viên trong đoàn đã thông báo với Alter: "Chúng tôi rất thích những vũ nữ múa cổ Động – hình ảnh của họ gây hào hứng ở đất nước chúng tôi." Quả là "vị lãnh tụ kính mến của Bắc Triều Tiên, ông Kim Jong Il, trước kia được biết đã rất khoái phim Godzilla và nhà ảo thuật David Copperfield, nay đã chú ý tới hình ảnh những vũ nữ cổ động trong các trận đấu của giải NBA. Nahum Barnea, bình luận viên chính trị hàng đầu của Israel, làm cho báo Yediot Aharonot là một fan cuồng nhiệt của NBA, và anh ta dễ dàng được thỏa mãn nhu cầu đó, vì các trận đấu của NBA được tường thuật trực tiếp trên truyền hình Israel mặc cho sự khác nhau bảy tiếng đồng hồ giữa Mỹ và Israel. Barnea nói khi đi thăm mẹ trong một nhà dưỡng lão vào ngày diễn ra trận đấu thứ 6, giải NBA 1997-98 giữa Chicago Bulls và Utah Jazz. Khi đang nói chuyện với mẹ anh, Barnea vừa bật TV để xem trận đấu. Bà mẹ thấy thằng con chăm chú xem, đã hỏi:" Đội nào là Israel? "Điều chưa bao giờ bà mẹ này nghĩ tới đó là làm sao con của bà lại có thể say mê xem một trận bóng mà trong đó không có đội nào của Israel. Nhưng toàn cầu hóa đối với NBA đã gây ra những ảnh hưởng xã hội. Hãy nhìn vào băng ghế của Chicago Bulls, một đầu là Michael Jordan. Tạp chí Forbes đánh giá mức thu nhập của anh từ quảng cáo là 47 triệu đôla, năm 1997, lương thi đấu năm đó là 31 triệu đô-la, tổng số thu nhập là khoảng 80 triệu đô-la. Năm 1998, trước khi Jordan ngưng thi đấu, tạp chí Fortune đánh giá là tác động tổng hợp của Michael Jordan vào kinh tế Mỹ từ ngày gia nhập NBA năm 1984, là" 10 tỷ đô-la "– bao gồm mức vé bán chạy cho các trận đấu anh có mặt, bản quyền tường thuật bán cho nước ngoài, xếp hạng truyền hình, và việc anh quảng cáo cho các hãng thể thao như giày Nike.. và các mặt hàng khác. Tờ The Sporting News cho biết" giá trị của Jordan "đã được ghi nhận khi anh quay lại NBA vào tháng ba năm 1995, sau 18 tháng đứt quãng khi anh tham gia vào môn bóng chầy. Giá trị chứng khoán của năm nhà tài trợ cho anh ta – McDonald's, Sara Lee, Nike, General Mills và Quaker Oats – tăng 3, 8 tỷ đô-la trong vòng hai tuần." Chẳng thế mà công ty Upper Deck, sản xuất bóng rổ và những quân bài trò chơi bóng rổ, đã quảng cáo trên tờ The Sporting News, cho thấy Jordan giữ trái đất trong tay, kích cỡ trái đất chỉ bằng một trái bóng rổ – với dòng chữ "kích cỡ thật." Michael Jordan đúng là một kẻ thắng cuộc và lấy hết. Nhưng trong một đội bóng của NBA có tới 12 cầu thủ. Cùng trong đội hình với Jordan, cách Jordan 10 người, là một đấu thủ có mức ghi bàn chỉ kém chút ít, mức nhảy cao thấp hơn chút ít, mức ném rổ thiếu chính xác hơn – nhưng vẫn là một đấu thủ giỏi của NBA – anh ta tên là Joe Kleine. Lương của anh ta năm 1997 là 272.250 đô-la, mức lương thấp nhất của NBA, nhưng ít hơn thu nhập toàn bộ của Jordan khoảng 79.727.750 đô-la. Giữa hai cầu thủ là cùng một môn thể thao, cùng một tổ chức, cùng một đội bóng, cùng một đội hình thi đấu! Một lý do cho sự chênh lệch thu nhập của hai người là Michael Jordan có một thị trường toàn cầu dành cho dịch vụ và bút tích của anh, trong khi dịch vụ và bút tích của Kleine chỉ bao gồm trong sân vận động United Center của Chicago. Sau trận đấu giữa Chicago Bulls và Orlando Magic ngày 11/4/1998, tôi đã đến phòng thay quần áo của Chicago Bulls để phỏng vấn Joe Kleine và đồng đội. Đến đó tôi đã thấy thực tế của thị trường toàn cầu được phản ánh. Trước khi căn buồng thay quần áo mở cửa đã có khoảng 30 phóng viên, báo chí lẫn truyền thanh – truyền hình, đứng ngoài chầu chực. Đến khi mở cửa buồng, thì cả ba chục con người lao vào vây chặt một cầu thủ, Michael Jordan. Trong đó có một toán truyền hình Nhật Bản, nói tiếng Nhật do một nữ phóng viên Nhật đi đầu, cô này không khỏi đỏ mặt khi thấy những cầu thủ cao chừng hai mét ăn mặc sơ sài bước khỏi buồng tắm. Ở Nhật Bản hiếm khi nào bạn thấy cảnh đó. Nhưng giờ thì mời bạn hãy tưởng tượng cảnh buồng thay quần áo. Có 12 tủ đựng đồ cho 12 người, nhưng tất cả phóng viên chỉ tập trung vây quanh một tủ đựng đồ, của Michael Jordan. Micro và ống kính của phóng viên được chĩa vào cái ghế của anh ta, chờ đợi phút anh ta xuất hiện, hy vọng sẽ trích dẫn một lời nói của anh để đưa tin trên toàn thế giới. Trong khi đó các cầu thủ khác ra vào nơi các ngăn của họ mà chẳng có ai để ý đến. (Trừ Scotties Pippen, khi xuất hiện, đã thu hút được một vài phóng viên) Tôi tò mò đi đến gặp Joe Kleine, tự giới thiệu và hỏi anh ta xem anh có thấy bực mình khi có sự bất bình đẳng thu nhập giữa bản thân anh và Jordan. Kleine cho biết anh hiểu rất rõ về nguyên tắc người được thì ăn cả. Kleine nói: "Trong môn này, mức lương cho mọi người đã tăng lên, nhưng đối với những siêu sao thì đó là một bước đại nhảy vọt. Trong trường hợp của tôi, tôi đến đây thi đấu, và hưởng mức tối thiểu. Đó là lựa chọn của tôi và tôi không lấy làm tiếc về điều đó." Trong xã hội cũng như trong nội bộ NBA đã có những hậu quả đến từ sự bất bình đẳng về thu nhập. Trong những đội bóng nơi có những cầu thủ chơi cùng với Jordan trong các giải, nhưng không được hưởng lộc như Jordan, đó là điều nghiêm trọng. Vì bao nhiêu tiền thưởng sẽ bị siêu sao chiếm hết, thì còn lại bao nhiêu để chia cho đồng đội của các siêu sao. Vấn đề đó được phản ánh trong báo cáo tài chính 1998-99 của NBA. Theo báo cáo thì trong 1998, số lượng cầu thủ có mức lương tối thiểu thuộc NBA chiếm khoảng 25 phần trăm và cao nhất từ trước đến nay. Tạp chí Petersen's Pro Basketball đánh giá: "NBA đang bắt đầu phản ánh thực trạng của xã hội Mỹ mở rộng: Người giàu thì càng giàu thêm, và nhiều những người thuộc trung lưu ở mức thấp có thể nghèo đi." Năm ngoái (1996-97) khoảng một phần ba cầu thủ NBA – 110 trong số 348 cầu thủ – là những người chỉ được hưởng thu nhập tối thiểu, "ông bầu Don Cronson của NBA cho biết." Cứ cái đà đó thì năm nay, số lượng cầu thủ hưởng lương tối thiểu sẽ tăng lên tới con số 150. Ngoài những hạn chế về trần lương và những chi phí cho các siêu sao thì không còn mấy tiền để chi trả cho các cầu thủ có giá trị từ 1-2 triệu đô-la, những người thông thường đứng xếp hạng mức thứ tư đến thứ bẩy. Vậy trong một đội 12 người, bạn có ba cầu thủ đứng đầu cùng năm cầu thủ hạng chót yên Tâm thi đấu; những cầu thủ còn lại là những người bạn phải động viên và lấy lòng nếu muốn họ thi đấu nhiệt tình. Sẽ có những sự ghen tức và thất vọng hơn bao giờ hết. Những hố ngăn cách về thu nhập bao giờ cũng tạo ra những cảnh trớ trêu như ở trong buồng thay quần áo. Cũng là bản tính con người mà. Và điều đó chắc chắn sẽ giải thích cho bản chất của các cầu thủ bóng rổ nhà nghề thời nay. "Ví dụ điển hình của sự phân biệt giai cấp trong trong mùa bóng năm ngoái là trường hợp Houston Rockets, trong đó bộ ba siêu sao kiếm được số lương 21 triệu đô-la, và trong các trận đấu chỉ thấy có hai chân trong mức trung bình (Kevin Willis và Mario Elie) và còn lại là các cầu thủ hạng xoàng lương tối thiểu." Tôi được biết, đó là một đội bóng không được hòa thuận cho lắm, ' Cronson cho biết. " Đó là một vấn đề" thực sự nghiêm trọng, "Steve Kerr cho biết, Kerr đã từng chơi cho hai đội khác thuộc NBA, trước khi gia nhập Chicago Bulls." Có rất nhiều đội có những đấu thủ hưởng mức tối thiểu, họ thi đấu tận tình, trong khi có những đội những đấu thủ sau khi kiếm được khoảng bốn triệu, họ đã rời khỏi đội. Những người hưởng lương tối thiểu đôi khi sẽ rất bực mình, trong khi những người bỏ đội ngũ sau khi kiếm bốn triệu cũng sẽ cảm thấy tội lỗi. "Được hỏi là có bao giờ anh ta ghen tị với Jordan, Kerr cho biết rõ ràng anh hiểu về toàn cầu hóa và chỗ đứng cho bản thân anh." Không, nói thật là không, "anh nói." Tôi nghĩ về hàng ngàn cầu thủ ở ngoài đời, họ rất giỏi nhưng không xin được vào hội. Tôi chỉ nghĩ về sự may mắn đối với bản thân. " Hố ngăn cách trong đội hình các đội của NBA cũng được phản ánh qua những vị trí của các ông chủ. Xưa kia những người chủ NBA vốn là những thương gia trong cộng đồng. Ngày nay chủ mới của NBA là những tập đoàn có mức thu nhập toàn cầu, họ trang trải cho các chi phí quy mô toàn cầu. Ai là chủ của đội New York Knicks? Công ty Cablevision System. Ai là chủ của Atlanta Hawks? Hãng Time Warner. Ai là chủ của Portland Trail Blazers? Comcast Cable. Của Seattles SuperSonics? The Ackerley Group Inc. Một tổ hợp truyền thông. Abe Pollin, chủ của Washington Wizards là một trong những chủ nhân người địa phương còn sót lại trước khi ông ta trở thành đối tác với Michael Jordan và một quản trị viên hãng AOL. Một trụ cột của cộng đồng Washington và là một mạnh thường quân vùng này, Pollin kiếm tiền từ các thương vụ địa ốc ở Washington và đã hứa với Juwan Howard số tiền gần bằng nửa trị giá của thương vụ của ông, nhằm có thể giữ Howard lại trong bảy năm, không cho anh, anh nhảy sang đội Miami Heat. Nhưng những ông chủ như Pollin, lớn lên trong cộng đồng, nay không còn mấy nữa, và điều đó khiến cho giá trị cộng đồng giảm đi nhiều. " Rất hiếm khi mà Charles Dolan, Chủ tịch hãng Cablevision, chủ của đội Knicks, lại bước vào phòng thay quần áo của đội ở Madison Square Garden, "tờ The New York Times đăng tải (10/1/1999). " Vào cái thời 60 và 70, các ông chủ có thể mời cầu thủ đi nghỉ cùng với họ. Ngày nay, có những cầu thủ sẽ chẳng bao giờ được gặp chủ Của họ. "Quả thực khi hậu vệ Mike Piazza được đổi từ đội Los Angeles Dedgers sang đội Florida Marlins, rồi sang New York Mets vào tháng năm 1998, anh ta phàn nàn là chủ nhân của Dodgers ở xa xôi quá, khiến anh không tài nào liên lạc với họ được. Ai là chủ nhân của Dodgers? Đó là tập đoàn truyền thông của Rupert Murdoch mang tên Newscorp, Piazza mô tả là" chủ nhân xa rời cầu thủ, giống như nhân vật thần thoại vậy. " Sau cùng, cái khoảng cách trong đội hình và khoảng cách trong số các chủ nhân đã tạo nên những khoảng cách vị trí xã hội. Fan của Michael Jordan sẽ không bao giờ thắc mắc về lương bổng của anh ta, một khi anh tiếp tục tạo chiến thắng trong các giải thi đấu. Nhưng cái khoảng cách giữa những kẻ thắng và người thua trong kinh tế toàn cầu phản ánh trong những đồng lương thể thao vừa kể, đã nảy sinh những hậu quả xã hội. Người giàu và người nghèo ngày càng sống cách biệt, cho con cái đến học ở những trường khác biệt, sống ở những khu khác biệt, mua sắm đồ ở những tiệm khác biệt và đến thưởng thức thể thao ở những nơi khác nhau –, tồi tệ hơn, có người đến được, người không. Nhưng giới yêu thể thao không còn được đi xem thể thao nhiều như trước, vì để trả lương hậu cho cầu thủ, giá vé đã bị tăng gấp nhiều lần và rồi chỉ có người giàu có mới mua được, sân vận động được chia ô cho nhiều giai cấp khác nhau, trong đó những người nghèo không mua được loại vé 75 đô-la đã chen chúc nhau ở một góc sân, nhai lạc rang xem thi đấu, trong khi những người giàu ngồi trong những lô ghế riêng, duỗi chân thoải mái và ăn món cua rán do bồi bàn phục vụ. Ngay cả những cầu thủ xuất thân từ tầng lớp đói nghèo đã nói về khoảng cách giữa bản thân họ và cái đám đông giàu có phần nhiều là da trắng đến xem họ thi đấu." Bạn lao đầu ra sân, đuổi theo một trái bóng, "một cầu thủ da đen không cho biết danh tính nói với báo Sports Illustrated," rồi bị vấp vào một máy điện thoại di động của một thằng cha chủ ngân hàng đầu tư ném vào. Trong khi đó những người cùng sinh ra và lớn lên với bạn không có tiền mua vé vào xem. Vâng, đó là những điều khiến bạn phải suy nghĩ. "Để trả 121 triệu đô-la trong bảy năm cho Shaquille O'Neal, đội bóng Los Angeles Lakers đã phải tăng giá vé hạng xoàng nhất từ 9, 5 đô-la lên 21 đô-la/vé, và giá thượng hạng của họ trong mỗi trận đấu là 500-600 đô-la. Michael J. Sandel, nhà khoa học chính trị của Đại học Harvard cho biết, kết quả là sân đấu bóng, một thời là trung tâm của dân chúng trong cộng đồng" không còn là nơi công cộng để quy tụ các tầng lớp khác nhau trong dân chúng. " Khoảng cách mức sống giữa siêu sao thể thao với fan của họ đã trở nên một trời một vực." Hôm trước tôi đọc thấy câu chuyện về võ sĩ quyền Anh Evander Holyfield người cho xây một căn nhà rộng 5.200 mét vuông, "Steve Kerr nói với tôi." Và tôi chắc rằng anh ta cũng có thiện ý khi làm chuyện đó, nhưng bài báo này trích dẫn anh ta nói sẽ mời những trẻ em nghèo khó đến thăm quan căn nhà để chúng có thể thấy nếu làm việc chăm chỉ, chúng cũng có thể có căn nhà như vậy. Một căn nhà 5.200 mét Vuông! Để có căn nhà như vậy thì chỉ có cách trở thành lực sĩ vô địch quyền anh thế giới, trên thế giới thì chỉ có một người làm được điều đó. Mọi sự giờ đây tùy thuộc vào những gì anh trả tiền mua. Có những cầu thủ đến trường học và nói với học sinh, "hãy đi học để sau này có thể mua được những gì mà tôi có." Tôi không nghĩ đó là một lời khuyên tốt. Một lời khuyên tốt phải là, hãy đến trường để bạn sau này có thể làm được bất cứ điều gì bạn muốn làm trong cuộc sống. " Khi tôi không dùng đến vé đi xem các trận đấu của đội Washington Wizards, tôi thường tặng chúng cho một người bạn của tôi, đang làm chân gác cửa. Anh ấy rất mừng, nhưng tôi thì rất buồn. Tôi buồn là anh ta rất hàm ơn khi được làm cái điều mà cha tôi và tôi thời trước thường dễ dàng thực hiện – hứng lên là đi xem các trận của đội Minneapolis Lakers, khi đó lương của cha tôi là 13 ngàn đô-la một năm. Có điều gì đó không ổn, khi số đông dân chúng bị hắt hủi khỏi những lối sống như vậy. Cộng đồng đã bị băng hoại thêm một mức, bạn không mấy ngạc nhiên khi nhặt tờ Washington Times ngày 12/11/1997 và đọc mẩu tin sau đây:" Hai người dân thường bị giết hại ở Philadenlphia sau một bất đồng về chuyện ai là hậu vệ giỏi hơn: Allen Iverson của Philadelphia 76ers hay Gary Payton của Seattle SuperSonics. Sự cãi cọ đã chuyển sang đọ súng hôm chủ nhật sau trận đấu giữa 76ers và Sonics. Derrick Washington, 21 tuổi, và người họ hàng của anh, Jameka Wright, 22 tuổi, đã bị giết trong vụ đọ súng ở công trường xây dựng Southwark Plaza. " Tôi biết rằng về nhiều mặt, một nền kinh tế hai tầng như vậy là điển hình trong nhiều giai đoạn của lịch sử nước Mỹ và sự nổi dậy của tầng lớp trung lưu là một hiện tượng thực sự trong những năm giữa thế kỷ 20. Cha tôi sẽ không tài nào hiểu được chuyện không thể đủ tiền đi xem một trận đấu bóng rổ, nhưng tôi có thể dám chắc là ông nội của tôi đã có thể hiểu được điều đó. Nhưng không may là cháu tôi sau này chắc cũng phải hiểu và chứng kiến điều đó. Tôi dùng hình ảnh NBA làm ví dụ không phải do tôi đồng cảm với những cầu thủ lương tối thiểu mức 272.250 đô-la/năm, mà vì nó phản ánh rõ ràng sự khác biệt về thu nhập đã và đang tạo những phản ứng khắp nơi trên thế giới chống lại toàn cầu hóa. (Tôi sẽ bàn chi tiết trong chương sau). Những hố ngăn cách về thu nhập đã xuất hiện khá nhiều ở bên ngoài nước Mỹ nơi những giai cấp trung lưu có số lượng nhỏ hơn, và những luật lệ chống độc quyền cũng như chia sẻ phúc lợi không chặt chẽ như ở Mỹ. Đây là một trong những tình thế tiến thoái lưỡng nan trong kinh tế của toàn cầu hóa: Áo nịt nạm vàng, Bầy Thú Điện Tử, thương mại và thị trường tự do, tất cả khiến cho toàn thể xã hội tạo ra nhiều của cải và thu nhập nhiều hơn. Đó là thực tế. Nhưng những nguồn thu nhập đang ngày càng được phân chia không cân bằng và cùng với điều đó, cái chủ nghĩa tư bản được ăn cả, tự do khai thác đã trở nên mang mầm mống gây đảo lộn xã hội. Nhưng nếu cứ sống mãi với một nền kinh tế đóng cửa, được điều tiết chặt chẽ bằng cơ chế quan liêu thì toàn bộ xã hội sẽ nghèo đi và hỗn loạn càng có Cơ diễn ra và diễn ra ở mức cao hơn – mà cũng không tạo ra được nguồn của cải để cứu giúp những người khốn khó. Hãy nhìn trường hợp Cuba của Fidel Castro trong những năm 90.. Fidel Castro đã hé mở cửa kinh tế Cuba và cho phép hình thành một khu vực kinh doanh tự do, điều đó ngay lập tức khiến xuất hiện những khoảng cách lớn về thu nhập. Một hướng dẫn viên du lịch nói với tôi khi tôi sang Cuba năm 1999:" Ngày trước tôi có thể có hai đôi giày và ông có ba đôi. Nhưng ngày nay, vì là hướng dẫn viên và có ngoại tệ, tôi có thể có tới 30 đôi giày, trong khi ông vẫn chỉ có ba đôi. "Về lâu về dài, những khoảng cách thu nhập đó, nếu tiếp tục mở rộng, sẽ trở thành những cái gót chân A sin của toàn cầu hóa. Có điều gì đó không ổn định về cái thế giới đang bị công nghệ, thị trường và viễn thông, khâu dệt lại cho chặt chẽ trong khi các giai cấp xã hội bị tách xa nhau hơn, ngày càng xa. (Chương cuối cùng của cuốn sách, tôi sẽ nói đôi lời về những giải pháp) Hãy xem xét mẩu tin sau mà tôi tình cờ đọc được trên các nguồn tin thông tấn:" PORT-AU-PRINCE (Reuters) – Haiti, đất nước nghèo nhất Tây bán cầu, lần đầu tiên sẽ được trang bị điện thoại di động từ cuối tháng tám 1998, các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động cho biết vào hôm thứ sáu. Chỉ có thiểu số các gia đình giàu có, giới đầu tư người nước ngoài và thương gia mới có khả năng trả tiền dùng dịch vụ này. Thu nhập bình quân của người dân Haiti là khoảng 250 đô-la/năm. Máy điện thoại có giá 450 đô-la, giá nối mạng là 100 đô-la, và mức dịch vụ bảo hành hàng tháng là 20 đô-la. "Nói cách khác, đối với thiểu số toàn cầu hóa trong dân chúng Haiti thì điệu thoại di động là một dụng cụ làm việc hàng ngày, còn đối với đa số dân ở đó thì điện thoại di động là hai năm lương của họ. Một hiện tượng bất ổn, nhưng không phải là hy hữu. Theo báo cáo của tổ chức Phát triển Dân số của Liên Hiệp Quốc, thì Internet nối kết dân chúng trong một hệ thống toàn cầu mới, nhưng cơ hội để sử dụng Internet vẫn chỉ nằm tại phần lớn trong các nước giàu có. OECD chiếm 19 phần trăm dân số thế giới nhưng chiếm 91 phần trăm tổng số người sử dụng Internet. Bulgaria có số máy chủ nhiều hơn tổng số máy chủ ở vùng tiểu Sahara, châu Phi, trừ Nam Phi. Ở Hoa Kỳ và Thụy Điển, cứ một ngàn người thì có 600 đường điện thoại trong khi ở Chad thì trong một ngàn người thì chỉ có một người có điện thoại. Nam Á, với 23 phần trăm dân số thế giới, chỉ chiếm một phần trăm trong số người sử dụng Internet trên thế giới. Tiếng Anh được sử dụng trong 80 phần trăm các trang mạng mặc dù trên thế giới cứ 10 người thì chưa tới một người biết tiếng Anh. Các nước công nghiệp chiếm giữ 97 phần trăm tác quyền các sản phẩm trên thế giới. Tôi chắc rằng các công cụ thông tin và Internet sẽ tiếp tục được phổ biến nhanh hơn là mọi người nghĩ, nhưng sự chia rẽ, bất bình đẳng về kỹ thuật số là đã rõ và đang góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, một phần năm dân chúng trong các nước có Thu nhập cao cho ra 86 phần trăm tổng sản phẩm nội địa, chiếm 82 phần trăm thị trường xuất khẩu, 68 phần trăm lượng đầu tư nước ngoài trực tiếp và 74 phần trăm đường điện thoại trên thế giới. Còn một phần năm dân số nghèo đói trong các nước nghèo nhất chiếm khoảng một phần trăm trong các con số kể trên. Không lấy gì làm ngạc nhiên là cái một phần năm giàu nhất tiêu thụ 45 phần trăm lượng thịt và cá, trong khi số một phần năm nghèo khó chỉ tiêu thụ 5 phần trăm lượng thức ăn đó. Và cái hố ngăn cách đó ngày càng rộng ra. Trong những năm 60, 20 phần trăm dân sô thuộc các nước giàu có nhất có thu nhập cao gấp 30 lần thu nhập của số dân nghèo nhất thế giới, cũng chiếm 20 phần trăm trong dân số thế giới. Nhưng vào năm1995, tổng thu nhập của những người giàu đó tăng 82 lần. Chẳng hạn ở Brazil trong năm 1960, 50 phần trăm dân số là người nghèo, họ chiếm 18 phần trăm thu nhập của đất nước. Đến 1995, họ chỉ còn chiếm 11, 6 phần trăm tổng thu nhập trong toàn quốc, trong khi con số 10 phần trăm giàu có của Brazil chiếm giữ tới 63 phần trăm tổng thu nhập toàn dân. Tại nước Nga, số 20 phần trăm người giàu có nguồn thu nhập gấp 11 lần tổng thu nhập của số 20 phần trăm nghèo túng ở đây. Năm 1998, báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho biết, nhờ có toàn cầu hóa, các thương gia đang bán sản phẩm của họ cho" các nhóm thượng lưu toàn cầu "," tầng lớp trung lưu toàn cầu, "và các" thanh thiếu niên toàn cầu, "vì dù đang sống ở đâu họ cũng đang theo đuổi một trào lưu tiêu thụ thống nhất: Nghe loại nhạc, xem băng video và mặc áo phông có thương hiệu" thịnh hành trên thế giới." "Hậu quả sẽ ra sao?" báo cáo này đặt câu hỏi. "Trước hết một loạt các lựa chọn được đặt ra cho rất nhiều người tiêu thụ – nhưng rất nhiều người trong số đó không đủ tiền để mua. Và sức ép tiêu thụ ngày càng lên cao.'Trào lưu đua đòi đã khiến dân chúng chuyển từ việc tiêu tiền để đủ ăn đủ mặc, sang việc đua đòi với hàng xóm, rồi đến mức mua sắm bắt chước lối sống của những nhân vật giàu có và nổi tiếng thường chỉ xuất hiện trên truyền hình và phim ảnh." Đến bất cứ đất nước đang phát triển nào bạn cũng gặp nhan nhản những hố ngăn cách giàu nghèo. Khi sang Rio de Janeiro, tôi đến phỏng vấn dân chúng vùng Rocinha, nơi họ chen chúc sống trong các khu ổ chuột tạm bợ, một khu vực nghèo, lớn nhất vùng Nam Mỹ. Khi đi xe đến đó, bạn sẽ gặp một ngã ba đường. Nếu rẽ phải bạn sẽ vào một con đường nhỏ, đi qua những khu vườn được trồng tỉa đẹp đẽ để đến Trường Tư thục American, trường đắt nhất đất nước, học phí khoảng 2.000 đô-la một tháng. Trường này nằm trong trung tâm vùng Gavea, khu vực bảo thủ nhất ở Rio, tuyển dụng học sinh cho trường thì "hạn chế". Nhưng từ ngã ba đó nếu bạn rẽ trái thì sẽ vào được khu vực nghèo nhất, khu Rocinha, nơi dân chúng không kiếm ra nổi 2.000 đô-la một năm, và trường học ở đó thì tuyển dụng học trò "thoải mái." Hơn 100 ngàn dân chen chúc sống trong khu này. Nếu Brazil tiếp tục tăng trưởng kinh tế thì ngã ba đường đó rồi sẽ được cải thiện. Nhưng nếu Brazil trì trệ thì nơi đó sẽ là giới tuyến mãi mãi chia đôi đất nước. Để mặc tấm áo nịt nạm vàng làm vừa lòng Bầy Thú Điện Tử, Tổng thống Fernado Henrique Cardoso của Brazil đã phải ngay lập tức cắt giảm các chi tiêu về an sinh xã hội sau ngày ông nhậm chức do tái thắng cử, tháng mười năm 1998. Diana Jean Schemo, phóng viên báo The New York Times đã viết một bài về những người dân nghèo bị cắt trợ cấp xã hội ở Brazil. Tổng thống Cardoso đã bị chỉ trích kịch liệt khi ông gọi những người muốn về hưu và hưởng trợ cấp xã hội là "những cái mông đít." Schemo kể câu chuyện về Nilton Tambara, 54 tuổi, một công nhân luyện thép về hưu, người bắt đầu đi làm từ năm 11 tuổi, và đã cống hiến cho quỹ phúc lợi của Brazil suốt 33 trong số 41 năm làm việc trong đời ông. "Liệu có cách nào giữ được bình tĩnh khi sống trên đất này hay không?" Tambara hỏi, khi ông đứng trước siêu thị Wal-Mart ở Sao Paulo, phàn nàn về việc ông ta không đủ tiền để mua một chiếc thang gấp bằng nhôm, giá 16 đô-la. "Những giai cấp mà chính phủ nói đến – người giàu, người trung lưu và người nghèo – không thấy đâu. Tôi chỉ thấy có hai loại: Người giàu và những kẻ khốn khổ." Ở thủ đô Cairo, Ai Cập, bạn thấy khoảng 500 ngàn dân sống chui rúc trong những hầm mộ trong "Thành phố của người chết" – diện tích năm cây số vuông trong trung tâm Cairo. Và thành phố của những người chết chỉ nằm cách khu cộng đồng những người chơi golf, khu Katamya Heights, kín cổng cao tường, có 10 dặm. Khu này là một trong những phức hợp nhà ở, có vài trăm gia đình sinh sống, trông như một ốc đảo gồm nhà cửa, vườn, hồ nhân tạo, và khách sạn. Quảng cáo cho khu nhà này trên Internet cho biết: "Katamya Heights là một khu cộng đồng giành cho những người chấp nhận thách thức trong môn golf và tennis và những sinh hoạt gia đình trong một môi trường sa mạc sạch sẽ. Trong khu vực này có sân golf 27 lỗ, tiêu chuẩn quốc tế, các phương tiện và một trường đào tạo đánh golf, một câu lạc bộ rộng 50 ngàn bộ, với nhà hàng và phòng nghỉ, bể bơi, các cơ sở giải trí và sức khỏe. Giá cho một người chơi golf bao gồm phí đi lại từ nơi nghỉ đến sân golf là 165 đô-la." Thu nhập bình quân của người dân Ai Cập trong năm 1998 là 1.410 đô-la/ năm – vừa đủ để chơi khoảng chín ván golf. Thái Lan là một đất nước có sự chia rẽ sắc nét giữa tầng lớp dân thành thị hóa, làm ăn theo hướng xuất khẩu, sống trong các trung tâm tài chính và sản xuất của đất nước và tận hưởng những lợi thế toàn cầu hóa, với khu vực nông thôn nghèo đói, đóng cửa, không nhìn nhận được toàn cầu hóa và cũng chẳng biết đến lợi lộc do toàn cầu hóa mang lại. Khi đồng tiền baht của Thái bị mất giá vào năm 1997, thì bộ phận dân chúng sống dựa vào đất đai trong vùng nông thôn, đã không tỏ ra cảm thông gì với những khổ đau của giới thương gia thành phố, ăn diện và nhiễm đầy toàn cầu hóa – những kẻ bị đào thải khi chính phủ bị buộc phải thả nổi đồng tiền. Vào lúc đó ca sĩ tạp kỹ người Thái đã cho ra đời một bài hát theo lối nhạc rap mang tên "đồng baht trôi nổi." Bài hát là một đoạn đối thoại giữa một nông dân Thái Với một ông chủ nhà băng. Tôi xin viết lại nội dung bài hát dưới đây, vì nó phản ánh rất hay sự xung khắc và ngăn cách giữa những người được toàn cầu hóa và giới xa rời toàn cầu hóa trong cùng một xã hội. Nếu không được sửa chữa, thì sự ngăn cách đó sẽ khiến cho sinh ra những người cùng nói một thứ tiếng nhưng lại hoàn toàn không hiểu được nhau, chưa nói đến việc gắn bó với nhau. Sau đây là lời bài hát được tạm dịch: Bài hát khởi đầu với điệp khúc, "đồng [tiền] baht được thả nổi.. Nổi bao lâu thì còn tùy thuộc vào tình hình. Hãy theo dõi đầy đủ tình hình." Chủ nhà băng: "OK. Mọi người xem đây. Hôm nay, đồng baht đang trôi nổi." Nông dân: "Hôm qua có cháu bé hai tuổi ngã xuống sông nhưng không bị chết đuối." Chủ nhà băng: "Vì sao? Sao thằng cu đó không bị chết đuối?" Nông dân: "Thằng bé ngã xuống nước, người ta thấy nó ngụp lặn trong nước. Đến khi chạy ra bờ sông thì họ thấy thằng bé đang bám vào một tờ baht được thả nổi." Chủ nhà băng: "Anh không hiểu gì cả? Tôi đang nói đến chuyện thả nổi đồng nội tệ của Thái lan." Nông dân: "Nhưng, nếu không có tờ baht thì thằng bé đã chết chìm rồi." Chủ nhà băng: "Đồ ngu, tôi đang nói đến việc thả nổi đồng tiền." Nông dân: "Vì sao ông lại nói chuyện đó với chúng tôi? Quan trọng gì chuyện đó?" Chủ nhà băng: "Tôi nói với các người vì các người cần phải quan tâm đến điều đó. Tôi nói vì sợ rằng các người không hiểu." Nông dân: "Vì sao chúng tôi phải bận tâm tới những chuyện đó? Chủ nhà băng: " Đó là những tư tưởng mang tính triết lý mà các người phải để tâm đến. " Nông dân:" Vì sao tôi phải nghĩ đến điều đó? Chúng tôi có phải là những nhà hiền triết đâu? Chủ nhà băng: "Anh là một thằng ngốc." Nông dân: "Thực ra nếu tôi không phải là thằng ngốc thì tôi đã không trở thành người đứng đầu một quỹ tín dụng." [Hầu hết các quỹ tín dụng của Thái lan đã bị khánh kiệt khi đồng baht bị mất giá.] Điệp khúc: "Đồng baht của chúng ta đang được thả nổi. Khi baht được thả nổi thì giá các mặt hàng cũng được thả nổi." Chủ nhà băng :(lên lớp) "Khi baht được thả nổi đến đâu thì giá hàng hóa tăng đến đó. Baht trượt giá đến đâu thì trong vòng một hai ngày giá của hàng hóa sẽ trượt theo mức đó. Mọi thứ trôi nổi, không thứ gì lặng chìm. Đó là thực tế." Nông dân: "Vậy thì tại sao ông phàn nàn và than vãn suốt ngày vậy?" Chủ nhà băng: "Chúng tôi phàn nàn, hô hoán, chửi thề và sau cùng chúng tôi sẽ đi biểu tình trên đường phố, chặn các phố phường, và rồi dân chúng nhìn thấy, thông cảm với chúng tôi và giúp chúng tôi giải quyết vấn đề đó." Nông dân: "Vì sao ông lại nóng lòng muốn giải quyết vấn đề đó?" Chủ nhà băng: "Để mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn, đồ khờ khạo ạ." Nông dân :(cười phá vào mặt chủ nhà băng) "Ha ha ha. Nhìn lại mình xem. Ông kêu la như trẻ con vậy. Lúc trước thì nói năng hoạt bát, vậy mà giờ đây ông gào thét như vậy." Chủ nhà băng: "Đồ khờ khạo." Điệp khúc: "Đồng baht đã yếu hơn trước và gây bao nhiêu khó khăn cho chúng ta. Giá của mọi mặt hàng đang tăng vọt. Chủ nhà băng:" Tiền của Thái Lan đang ra khỏi Thái Lan, mà ngoại tệ thì không thấy chuyển vào nội địa. Người Thái muốn ra nước ngoài để du lịch. Họ ra vào và mua đồ từ nước ngoài. Nông dân: "Thì đã sao. Họ có tiền thì họ mua. Tiền của họ. Làm gì mà nhắng lên? Chủ nhà băng:" Họ mang tiền Thái Lan ra ngoài, khiến cho tình hình trở nên bí bét hơn. Đồng baht mất hết giá trị, vậy là các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng đi tong. "Nông dân:" Làm thế nào mà ông biết điều đó? " Chủ nhà băng:" Tin tức ngày nào, tuần nào cũng nói. Anh không theo dõi tin tức À? " Nông dân:" Tôi chẳng bao giờ nghe đài. Chẳng bao giờ đọc báo. Tôi không quan tâm tới chuyện ông nói. Tôi chỉ xem đấu võ truyền thống Thái Lan và giải vô địch bóng đá. " Chủ nhà băng:" Vậy thì đổi tính đổi nết đi. Hãy nghĩ đến những vấn đề của đất nước. Nông dân: "Tôi chỉ lo rằng võ sĩ Thái Lan rồi bị người nước ngoài đánh bại trong giải vô địch. Đó không phải là điều đáng lo hay sao?" Chủ nhà băng: "Anh có biết đất nước ta vay bao nhiêu là tiền từ nước ngoài?" Nông dân: "Nhiều không?" Chủ nhà băng: "Nhiều, nhiều ghê lắm. Anh là một thằng ngu. Anh không hiểu bất cứ điều gì tôi đang nói phải không? Tôi tốn hơi giải thích cho anh. Khi vay tiền từ nước ngoài, thì anh phải thanh toán, trả lại cho người ta." Nông dân: "Nhưng chẳng lẽ cái người đi vay không có cách gì hưởng những đồng tiền vay đó?" Chủ nhà băng: "Những thứ người như anh chính là loại đang phá hoại đất nước và tiêu tốn tiền của. Anh là một phần của quốc gia Thái Lan, của gia đình Thái Lan, là những người phải chịu trách nhiệm cho việc chi tiêu quá đà hiện nay. Chúng ta đều cùng hội cùng thuyền cả." Nông dân: "Nhưng tôi chưa cưới vợ. Và tôi hiện không có gia đình."
Phần III: Chống đối toàn cầu hóa. 15. Chống đối. Bấm để xem Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos hàng năm là một phong vũ biểu các vấn đề toàn cầu khá tốt. Tháng Hai mọi năm, những nhà toàn cầu hóa của thế giới họp mặt ở khu nghỉ dưỡng vùng núi của Thụy Sĩ để ăn mừng và bàn về toàn cầu hóa. Tham gia diễn đàn là các nhà công nghiệp hàng đầu, lãnh đạo chính trị, kinh tế, công nghệ, khoa học gia và các nhà nghiên cứu khoa học xã hội đến từ khắp nơi trên thế giới. Mỗi năm có một hay hai nhân vật đứng ra chủ trì. Có năm đó là vị sa hoàng về kinh tế của người Trung Hoa, ông Chu Dung Cơ; có năm là các ông Yasser Arafat, Yitzhak Rabin và Simon Peres; một năm khác là những nhà cải tổ người Nga; có năm là những lãnh đạo kinh tế Á châu bị thất bại tả tơi. Năm 1995, ngôi sao ở diễn đàn là nhà tài phiệt tỉ phú George Soros. Tôi biết điều đó khi được mời dự một cuộc họp báo, trong đó phóng viên các hãng truyền thông lớn trên khắp thế giới vây quanh bàn và phỏng vấn ông Soros, cứ như ông ta là tổng thống của một siêu cường vậy. Và dường như ông ta cũng nghĩ mình là như vậy. Phóng viên của Reuters, Bloomberg, AP-Dow Jones, The New York Times, The Washington Post, The Times của London và The Financial Times.. mọi người thi nhau chất vấn Soros xem ông đánh giá ra sao tình hình Mexico, Nga, Nhật Bản và những khuynh hướng kinh tế toàn cầu. Sau đó họ chạy ra khỏi phòng và dùng điện thoại gửi bài về tòa báo hay trụ sở của họ. Những đánh giá của Soros được đăng trên trang nhất của tờ International Herald Tribune và nhiều báo khác ngay ngày hôm sau. Nhìn cảnh đó tôi cảm thấy mình đang chứng kiến một chuyển biến quan trọng. George Soros đại diện cho Bầy Thú Điện Tử. Ông ta là một con bò mộng đi đầu trong bầy thú. Có thể là con bò mộng duy nhất được đi đầu. Và đó cũng là lúc dân chúng nhận thấy rằng bầy thú đang thay thế cho Liên Xô, trở thành một siêu cường trong cái thế giới hai cực bây giờ. Chỉ vài năm trước đó, George Soros đã dạy một bài học kinh tế cho vị Thủ tướng Anh lúc đó là ông John Major. Major lúc đó cho rằng đồng bảng Anh đã được định giá một cách đúng đắn. Soros không nghĩ như vậy, và vào tháng 9/ 1992 Soros đã chỉ đạo bầy thú gây sức ép khiến cho giá trị của bảng Anh hạ xuống mức mà ông ta cho là "thích hợp." Major đã chế giễu, dè bỉu rồi phản đối Soros, rồi đã phải giương cờ trắng đầu hàng và hạ giá trị của bảng Anh khoảng 12 phần trăm. Soros kiếm được một tỷ đô-la lợi nhuận sau hai tháng kiếm chác ở Anh. Vĩnh biệt Liên xô. Xin chào Bầy Thú Điện Tử. Điều thú vị là một năm sau khi nhìn ông Soros trong cuộc họp báo đó, tôi đã quay lại Davos để xem ai sẽ là ngôi sao trong năm sau tại diễn đàn, năm 1996. Hôm đó tôi đang đứng trước một máy tính để đọc email thì thấy Soros đi qua. Điều làm tôi ngạc Nhiên là trong năm đó, không thấy ai quan tâm đến ông ta. Ông ta hoàn toàn cô đơn. Điều gì đã xảy ra sau một năm. Vì sao? Ai là ngôi sao ở Davos 1996? Không ai khác mà chính là Gennadi A. Zyuganov, người đứng đầu Đảng Cộng sản Nga! Diễn đàn Davos là một diễn đàn mang tính chất tư bản. Vì sao một con khủng long của thời kỳ Chiến tranh Lạnh - Gennadi A. Zyuganov – lại đến và là nhân vật quan trọng nhất trong năm đó? Vì giới thượng lưu chính trị và kinh tế ở Davos năm đó hiểu rằng cái hiện tượng gây chấn động gọi là toàn cầu hóa nay đã khiến sản sinh ra một sự phản ứng mạnh mẽ không kém từ một vài nơi. Vào lúc dường như Zyuganov có thể đánh bại Boris Yeltsin để giành chức Tổng thống Nga, và những lực lượng chống đối đang chuẩn bị tiếm quyền trong một quốc gia rộng lớn. Vậy là các vị quản trị lớn đã đến Davos và muốn gặp Zyuganov – "con thú chống đối" – để xem ông ta có dự định gì đối với vấn đề tài sản tư nhân, ngân sách Nga và hối đoái giữa đồng rúp và đô-la. Dạo đó. Tôi đã phỏng vấn Zyuganov và thấy là vào lúc đó ông ta quả thực không biết phải làm những gì về những vấn đề như thế. Dường như ông ta suốt ngày chỉ cố lảng tránh các lãnh đạo phương Tây. Cũng giống như những tầng lớp duy ý chí chống đối toàn cầu hóa, Zyuganov chỉ biết cách tỏ thái độ chứ không đưa ra được chương trình làm ăn nào đúng đắn; ông ta nói nhiều về vấn đề phân chia thu nhập, hơn là cung cách tăng cường thu thập. Tuy nhiên từ ngày đó sự phản ứng chống đối nhằm vào toàn cầu hóa đã trở nên rõ ràng và tràn lan hơn. Rõ ràng là toàn cầu hóa đã cho phép nảy nở những sáng tạo về tài sản và công nghệ chưa từng có. Nhưng những sáng tạo đó, như đã phân tích trong những chương sách trước, đã thay đổi cung cách làm ăn truyền thống, các cơ cấu xã hội, văn hóa và môi trường – và đã khiến sinh ra một sự phản ứng dữ dội – một hiện thân rõ ràng và lớn tiếng của nó xuất hiện tại cuộc họp thượng đỉnh của Tổ chức Thương mại Thế giới tại Seattle vào cuối 1999. Điều này không lấy gì làm lạ. Thị trường thường mang lại cả vốn liếng lẫn sự hỗn loạn; thị trường càng trở nên mạnh hơn trong toàn cầu hóa, thì chúng càng có cơ gặp phải những rối loạn đa dạng và tràn lan hơn. Ngoài những lo sợ chung đối với sự hỗn hoạn đó, những người chống đối toàn cầu hóa cho rằng một khi đất nước của họ kết nối với hệ thống toàn cầu hóa, thì chính họ sẽ bị buộc phải mặc chiếc áo nịt nạm vàng dù cho chiếc áo đó chỉ có một cỡ. Có những người không thích chiếc áo là bởi vì họ cảm thấy bị bó buộc về kinh tế. Có người khác lo ngại rằng họ không có đủ tri thức, kỹ năng hay tài lực để mặc hoặc rút những sợi chỉ vàng từ chiếc áo. Có người không thích nó vì họ không muốn có những hố ngăn cách về thu nhập, hay họ lo ngại khả năng cơ hội việc làm sẽ bị cắt bớt ở các quốc gia có mức lương cao, chuyển sang những nơi có nhân công rẻ mạt. Có người không thích toàn cầu hóa vì nó khiến đất nước của họ bị những văn hóa và ảnh hưởng mới lũng đoạn, khiến cho con cháu họ không còn biết đến những bản sắc truyền Thống của cha ông chúng để lại. Có người không thích toàn cầu hóa vì họ lo sợ rằng luật lệ giờ đây chỉ chú trọng vào vấn đề tự do thương mại hơn là vấn đề bảo tồn các loại rùa và cá heo hiếm, bảo tồn nguồn nước và cây cối. Có người không thích chiếc áo nịt vì họ không được tham gia vào khâu thiết kế kiểu cách của chiếc áo. Và có người không thích chiếc áo đơn thuần là do họ cảm thấy khó mà nâng cấp được hệ điều hành của đất nước họ lên tới mức DOScapital 6.0. Nói cách khác, phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa là một hiện tượng lớn, là tập hợp của những lo âu và tâm lý khác nhau. Phản ứng đó mang nhiều hình thái, thông qua nhiều nhân vật và xảy ra ở nhiều đất nước khác nhau. Chương này sẽ nói về những trạng thái tâm lý, hình thái và điển hình của sự chống đối và cung cách chúng đang kết hợp lại thành một cơn gió mạnh cản trở toàn cầu hóa. Cơn gió này có thể trở thành bão, nếu chúng ta không để tâm hiểu nó một cách nghiêm túc. Như tôi đã kể trước đây, vào mùa hè năm 1998 tôi sang du lịch Brazil cùng tổ chức Bảo tồn Thế giới, tổ chức đã giúp thành lập một công viên sinh thái ở vùng rừng duyên hải Đại Tây Dương của nước này. Họ đã giúp dân chúng ở thị trấn Una xây dựng một ngành du lịch địa phương, để có thể tạo công ăn việc làm và đẩy lui được nạn đốn gỗ để sinh nhai. Bảo tồn Thế giới đã đề nghị Dejair Birschner, 48 tuổi, Thị trưởng Una cùng đi thăm và giải thích cho tôi những thay đổi mà dự án môi sinh mang lại cho thị trấn của ông. Thị trưởng này xuất thân từ lớp thợ đốn gỗ, thuộc loại Paul Bunyan, có cha và ông cũng là thợ đốn gỗ. Nhưng giờ đây các nhà môi trường đã khiến họ thất nghiệp. Khi đi trong rừng, Thị trưởng Birschner chạm tay lên các loại cây cối. Ông ta biết tên bằng tiếng Brazil của tất cả các loài thực vật trong rừng. Tôi cảm thấy quý mến ông ngay từ phút đầu – vì có một điều gì đó rất vững chãi trong bản thân ông ta. Sau khi dạo trong rừng, chúng tôi ra ngồi trên ghế trong một khu cắm trại ở bìa rừng, và bàn về những thách thức mà vị thị trưởng đang phải đương đầu. Ông ta nói về mặt tri thức thì ông đã hiểu rằng đốn gỗ không còn là nghề hữu ích. Nhưng đồng thời ông cũng nhận ra rằng dân chúng trong thị trấn chưa thực sự sẵn sàng sống cuộc sống không có nghề đốn gỗ. Chúng tôi nói chuyện trong khoảng 30 phút, sau khi kết thúc cuộc phỏng vấn, tôi cám ơn và đóng máy tính IBM ThinkPad lại, ông ta quay sang nói với tôi, "Bây giờ tôi muốn hỏi anh chuyện này." "Xin mời ông," tôi đáp, "ông hỏi chuyện gì cũng được." Vị thị trưởng nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, "Liệu chúng tôi sẽ có tương lai hay không?" Câu hỏi của ông như giáng cho tôi một đòn nặng. Nó khiến tôi suýt chảy nước mắt, khi nhìn sang bên kia bàn: Đối diện tôi một con người đầy tự trọng, vững chãi, một vị thị trưởng, người đang hỏi tôi xem liệu bản thân ông và dân chúng của ông có được tiền đồ gì không trong tương lai. Tôi hiểu chính xác điều ông muốn nói: "Dân làng tôi không thể sinh nhai bằng cách đốn gỗ trong rừng và chúng tôi không được Trang bị để sống với máy vi tính. Cha và ông tôi dựng cơ nghiệp bằng cách chặt gỗ trong rừng và con cái chúng tôi có thể kiếm sống bằng Internet. Nhưng còn thế hệ chính chúng tôi, thế hệ kẹt ở giữa thì làm gì bây giờ?" Tôi ấp úng tìm một câu trả lời, giải thích một cách đơn giản rằng bản thân và dân làng của ông chắc chắn sẽ có tương lai nhưng họ phải bắt đầu một thời kỳ quá độ từ nền kinh tế nông nghiệp đi lên một nền kinh tế tri thức, bắt đầu bằng việc đào tạo con cháu. Vị thị trưởng lắng nghe, gật gù, lịch sự cám ơn và bước đến xe hơi của ông. Khi ông ta đi rồi, tôi kéo người phiên dịch sang một bên và nhờ anh ta hỏi hộ khi gặp lại ông thị trưởng, xem ông ta nghĩ gì về câu trả lời của tôi. Vài phút sau anh này quay lại. Anh ta nói rằng ông thị trưởng muốn nói với tôi một điều mà ông ta đã không nhắc tới trong cuộc phỏng vấn: Mỗi sáng, khi đến sở làm việc ông thường thấy có 200 dân làng đang tụ tập chờ đợi ông, họ nhờ ông tìm việc, xin ông giúp nơi ở và thức ăn – đó là chưa nói đến chuyện những người thợ rừng nay thất nghiệp đến để dọa giết ông ta. Nếu ông ta không giúp tìm việc, nơi ở và thực phẩm cho họ thì họ sẽ phá trụi các cánh rừng – dẫu đó là phát triển bền vững hay không bền vững. "Ông ta muốn anh hiểu cho điều đó," người phiên dịch nói. Thị trưởng Birschner đại diện cho một thế hệ trên thế giới ngày nay cảm thấy bị toàn cầu hóa đe dọa vì họ sợ rằng họ không có những kỹ năng hay sức lực để gia nhập vào cái "Thế giới Đi nhanh". Tôi xin gọi họ là "những con rùa." Vì sao? Vì các thương gia kỹ thuật cao trong Thung lũng Silicon thường bao giờ cũng so sánh thứ nghề siêu kỹ thuật của họ với câu chuyện về con sư tử và loài linh dương nhỏ trong rừng rậm. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, con sư tử đều lo nghĩ là sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, liệu có đủ sức để đuổi cho kịp những con linh dương nhỏ yếu, nếu không thì sẽ phải chịu đói. Và mỗi đêm khi đi ngủ, con linh dương đều lo nghĩ xem sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, liệu có đủ sức để chạy nhanh, thoát cho được những hàm sư tử, nếu không sẽ mất mạng. Nhưng có một điểm tương đồng mà hai bên cùng lo nghĩ, đó là vào sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, cả hai bên đều phải ra sức mà chạy cho nhanh. Và đó cũng là câu chuyện của toàn cầu hóa. Điều không may là không ai cũng được trang bị để chạy nhanh. Ngoài đời có không biết bao nhiêu con rùa, tuyệt vọng; chúng không muốn bị giết bỏ trên đường đi. Những con rùa đó là những dân chúng, khi tường rào trên thế giới sụp đổ, đã bị cuốn hút vào "Thế giới Đi nhanh", và do nhiều lý do, họ cảm thấy bị đe dọa hay hắt hủi về kinh tế. Cũng không phải vì họ không có công ăn việc làm. Nhưng vì việc làm của họ đang bị toàn cầu hóa thay đổi, giảm quy mô, rút gọn hay bị khiến trở thành lỗi thời. Mặt khác sự cạnh tranh toàn cầu đang buộc chính phủ của họ phải tự thân cải cách và rút gọn, và những con rùa đó không thấy những mạng lưới bảo hiểm để cứu Vớt chúng. Trong vở ca kịch Ragtime diễn trên phố Broadway có một cảnh Henry Ford giải thích sự ưu việt của dây chuyền lắp ráp xe hơi của ông ta. Lúc nào tôi cũng nhớ những vần thơ, vì chúng phản ánh rất hay về một thế giới – một thời là thiên đường của loài rùa – nhưng nay đã thay đổi. Sau đây là lời thơ trong vở ca kịch Henry Ford: Dân chúng, hãy nghe luận thuyết của tôi Về nơi đất nước này đang đến: Mỗi công nhân là một bánh răng cưa đang chuyển động. Và khái niệm đó là của Henry. Một người siết ốc và người khác vận hành Và người khác vươn tay lắp bánh răng cưa Và xe hơi sẽ di chuyển theo một hướng. Một sáng tạo của Henry Ford (Vòng quay của động cơ – hãy khiến chúng quay nhanh, Sam) Sản xuất hàng loạt sẽ tràn lan trên đất nước, Một ý tưởng mà thế giới chào đón. Ngay cả những kẻ không lấy gì làm thông thái Cũng có thể học cách siết ốc mãi mãi, Và lắp tay quay hay kéo cần gạt.. Lạy thánh, ngày nay, nếu không thông minh thì không ai có thể học để cách sản xuất chip vi tính suốt đời. Những nghề tốt đẹp nhất đòi hỏi rất nhiều kỹ năng. Một lần tôi viết một câu chuyện về cơ quan viện trợ Mỹ, USAID, thường có nhiệm vụ giúp đào tạo dạy nghề và viện trợ kinh tế cho các nước đang phát triển ở châu Phi, cố gắng dùng kỹ thuật của họ để khôi phục những khu dân cư nghèo đói vùng Baltimore. Hay như hàng tít trên tờ Baltimore Sun hô hoán: "Baltimore sẽ thử áp dụng đơn thuốc của Thế giới thứ ba." Một lý do Baltimore kêu gọi sự trợ giúp của USAID là vì những con rùa của thành phố này đơn giản đã không theo kịp bước tiến của "Thế giới Đi nhanh". Một viên chức của thành phố đã giải thích một cách rành mạch: Trong những năm 60, bà này nói, nhà tuyển dụng việc làm lớn nhất trong thành phố là Tập đoàn thép Bethlehem. Bạn có thể kiếm một việc làm trong nhà máy luyện thép chỉ với tấm bằng phổ thông hoặc thấp hơn, để kiếm sống, mua một căn nhà, nuôi con và gửi chúng vào đại học. Có nghĩa là giấc mơ của Mỹ dành cho cả những con rùa và những khu dân cư nhiều khó khăn. Ngày nay, nhà tuyển dụng lớn nhất ở Baltimore là Trung tâm Y tế Johns Hopkins. Nếu không muốn trở thành một lao công, thì bạn phải có bằng đại học mới mong được mời phỏng vấn xin việc ở trung tâm này. Những con rùa thì không có cách gì vào được. Và bạn sẽ không có cách gì xin vào đó được nếu bạn thuộc vào số 150.000 người thất học (trong tổng số dân 730.000 ở Baltimore). (Các viên chức Baltimore thắc mắc vì sao những người nghèo thành thị không tận dụng Những chương trình xã hội dồi dào vốn có sẵn trong thành phố đó, đến khi họ nhận ra rằng những người dân đó thậm chí không biết đọc những bảng hiệu. Đó là một lý do khiến họ phải mời USAID: Cơ quan này đã cho ra đời một loạt các tranh vẽ các nhân vật biếm họa và những thiết bị nghe nhìn vốn dùng để giải quyết nạn mù chữ ở châu Phi. "Anh có biết được điều trớ trêu?" Bác sĩ Peter Beilenson, Chủ nhiệm Ủy ban Y tế của Baltimore nói trong cuộc phỏng vấn của tôi. "Công ty đã tạo ra những chương trình xóa mù chữ cho USAID, lại chính là của Baltimore. Văn phòng của nó chỉ cách đây vài dãy phố) Khi toàn cầu hóa lây lan, thay thế những công việc lặp đi lặp lại, bằng máy móc, và đòi hỏi những kỹ năng mới trong những công việc khác, nó đã khiến cho những con rùa mất dần cơ hội việc làm. Một bài trên tờ Washington Post vào tháng sáu năm 1998 về cuộc đình công ở hãng General Motors vùng Flint, Michigan, đã tả cho độc giả cảnh khốn cùng của loài rùa ngày nay:" Sau 20 năm, GM đã giảm biên chế công nhân của họ ở Flint xuống còn 35.000, từ mức 76.000, và hãng này cho biết trong vài năm nữa, họ sẽ cắt tiếp 11.000 việc làm.. Trong tổng số công nhân từ Mỹ, GM đã giảm 297.000 công việc theo giờ trong vòng 20 năm, giảm tổng việc làm còn 223.000.. Một số cơ hội việc làm đã được chuyển sang Canada và Mexico, nơi có những nhà máy hiệu quả cao và chi phí thấp hơn, và một số lượng lớn công nhân của họ đã bị máy móc thay thế [đoạn viết nghiêng là của tác giả] . " Cũng trong bài báo, George Peterson, Chủ tịch hãng AutoPacific Inc, một công ty nghiên cứu và tư vấn ngành xe hơi có trụ sở ở California, được trích dẫn đã nói rằng tại những nhà máy không có nghiệp đoàn đóng ở Hoa Kỳ – như chi nhánh của Honda Motor ở Marysville, Ohio – công nhân đa kỹ năng và có thể thực hiện những nhiệm vụ đa dạng. Tính đa dạng hóa đó, theo ông ta, đã giúp cho Honda cắt giảm chi phí sản xuất." Hoàn toàn có thể giữ được một công việc toàn thời gian trong ngành này, nếu bạn sẵn sàng làm nhiều loại công việc [tác giả viết nghiêng], "Peterson nói, khi bàn về những lo lắng của giới nghiệp đoàn về mức ổn định trong công ăn việc làm. Vậy nếu muốn làm việc trong khu vực sản xuất, không những bạn cần thêm các kỹ năng hơn trước, mà còn phải có kỹ năng đa dạng để tránh được khả năng công việc của bạn bị người máy thay thế. Đó là những khó khăn lớn đối với những con rùa ngày nay. Các nhà phân tích có thời gian đã cố tìm hiểu xem những con rùa bị toàn cầu hóa hành hạ, xúc phạm hay bỏ rơi, có thể tìm được ra giải pháp hay ý thức hệ gì thay cho khái niệm tư bản thị trường tự do. Như nói trước đây, trong thời toàn cầu hóa đợt một khi đương đầu với sự tiến hóa tư bản theo lối phá cũ xây mới, những lực lượng phản ứng đã cho ra đời một loạt các ý thức hệ – cộng sản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, phát xít chủ nghĩa – những quan điểm hứa hẹn sẽ bẻ được nọc độc của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt trong vấn đề cứu giúp người lao động. Giờ đây, khi những ý thức hệ đó Không còn được tín nhiệm, tôi không nghĩ rằng sẽ có một hệ ý thức mới nhất quán để chống lại toàn cầu hóa – vì tôi không tin rằng sẽ có một chương trình hay tư tưởng mới nào vừa có thể xóa bỏ được sự tàn nhẫn và sức công phá tư bản, vừa có thể cho phép nâng cao mức sống của nhân loại. Một lý do khác, khiến sự phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa khó có thể cho phép hình thành một hệ tư tưởng thay thế, đó là bản thân sự phản ứng đó chỉ quy tụ được các nhóm rời rạc – bằng chứng cho thấy là sự liên minh giữa các nghiệp đoàn bảo hộ công nhân, các nhà môi trường, các người chống đối loại nhà xưởng bóc lột công nhân, các nhà bảo tồn rùa, bảo tồn cá heo, chống cải biến gen và cả một nhóm mang tên" Tín hiệu từ hành tinh khác, "tất cả đã tụ tập hồi tháng 12 năm 1999 để chống toàn cầu hóa tại cuộc họp thượng đỉnh của WTO tại Seattle. Những nhóm người rời rạc đó gắn bó với nhau bằng một sự hiểu biết rằng thế giới đang bị các tập đoàn công ty thống trị, họ lo lắng cho một thế giới bất công – bất bình đẳng, gây hại cho lợi ích nhân loại, đặc biệt là lợi ích của các con rùa. Nhưng khi bị chất vấn là làm thế nào để định nghĩa lợi ích của loài người và làm thế nào để bảo vệ được lợi ích đó, thì những nhóm người chống đối không đưa ra được câu trả lời nhất quán. Mỗi nhóm một vẻ quan điểm, đa dạng như những trang phục của chính họ vậy. Những công nhân ngành xe hơi, luyện thép và những ngư dân đang đòi cho được sự bảo hộ mậu dịch ở Seattle, thực ra không đoái hoài gì đến việc Hoa Kỳ có cho phép nhập loại cá ngừ đánh bắt bằng lưới lẫn với rùa biển hay không. Tôi thực không muốn mình trở thành thân phận con rùa bị mắc trong lưới đánh cá ngừ được kéo về cảng Seattle. Những lẫn lộn trong cái liên minh đó khiến cho việc lượng đoán sức mạnh của sự phản ứng đối với toàn cầu hóa trở nên khó khăn hơn, vì trong khi cùng nhất trí là toàn cầu hóa gây đau thương cho họ, thì cho đến nay, những người chống đối không có chung bất cứ cương lĩnh, hệ tư tưởng hay chiến lược nào nào để cùng hoạt động. Chính vì thế tôi ngờ rằng những con rùa trong nhân loại và những người chỉ đơn thuần căm ghét những thay đổi mà toàn cầu hóa gây ra cho văn hóa, môi trường hay cộng đồng của họ, sẽ không để tâm đến việc tìm ra một tư tưởng mới. Sự chống đối sẽ chỉ có hình thức bộc phát khác nhau. Những người thợ luyện thép sẽ vận động Washington dựng lên những bức tường chống lại thép nhập khẩu. Những người khác, các nhà môi trường chẳng hạn, những người muốn cứu những cánh rừng nhiệt đới, đơn thuần sẽ lên án toàn cầu hóa mà không đưa ra được các giải pháp kinh tế bền vững. Khẩu hiệu duy nhất của họ là: STOP Đối với những con rùa đói nghèo nhất trong thế giới đang phát triển, những kẻ thực sự bị toàn cầu hóa bỏ rơi, họ sẽ chống toàn cầu hóa bằng cách tiếp tục đốt phá thiên nhiên mà không giải thích, thanh minh hay đưa ra một tư tưởng nào về việc đó. Tại Indonesia, họ sẽ tấn công các tiệm hàng của thương nhân người Hoa, chiếm dụng tài sản. Tại Nga, họ sẽ bán vũ khí cho Iran hoặc gia nhập giới tội phạm. Tại Brazil, họ Sẽ đốn cho hết những mảng rừng tự nhiên hoặc gia nhập phong trào nông dân mang tên" Sem Teto "(Không nhà), trộm cắp để kiếm sống. Có khoảng 3, 5 triệu những người như thế sống ở Brazil – những nông dân thiếu đất đai, sống trong khoảng 250 khu trại trên khắp đất nước. Có lúc họ sống bên vệ đường, chờ đến khi người khác phải trả tiền thì họ mới dọn đi, có lúc họ vào cướp bóc các siêu thị, cướp nhà băng, hay ăn cắp xe tải. Họ không có cờ hiệu, không có cương lĩnh. Họ chỉ có nhu cầu và hoài bão của riêng họ. Chính vì thế điều chúng ta đã và đang chứng kiến ở nhiều nước, là, thay vì một đám đông đoàn kết chống toàn cầu hóa, ta chỉ thấy dập dìu những làn sóng tội phạm – những người chống đối chỉ vơ vét những gì bản thân họ cần, dệt cho được những mạng lưới an sinh xã hội mà không cần nghĩ đến chuyện xây dựng học thuyết hay ý thức hệ. Mặc dù sự phản ứng này không vững chắc về luận thuyết và không được phối hợp chặt chẽ, nó đã và đang thực sự hiện hữu. Nó đến từ sâu thẳm tâm hồn của con người, vì vậy quy tụ được đông đảo dân chúng và gây ảnh hưởng đối với nền chính trị ở bất cứ nước nào. Nếu làm ngơ nó thì các xã hội liệu mà ráng chịu. Trong hầu như bất cứ đất nước nào đã mang lên chiếc áo nịt nạm vàng, bao giờ cũng có một chính đảng hay một cá nhân nổi tiếng đứng tuyên truyền chống toàn cầu hóa. Những đảng phái hay cá nhân đó sẽ đưa ra những giải pháp theo lối bảo hộ và thu phục lòng người – những giải pháp theo họ, sẽ dẫn đến cải thiện đời sống cho dân chúng mà không phải tiến bước quá nhanh hay mở cửa biên giới quá rộng. Họ nói là cứ chịu khó dựng rào cản ở chỗ này chỗ kia thì mọi sự rồi sẽ tốt đẹp. Họ gây được sự chú ý của những người chỉ muốn sống trong quá khứ, thay vì tương lai. Chẳng hạn tại Nga, những Dân biểu cộng sản trong Viện Duma tiếp tục đi đầu trong những phản ứng chống toàn cầu hóa bằng cách tuyên truyền với dân lao động và những người hưu trí rằng trong thời Liên Xô, mặc dù họ chỉ có được những công việc không hứng thú và phải xếp hàng để được phân phối bánh mỳ, nhưng bao giờ cũng có công ăn việc làm và bao giờ cũng được phân phối bánh mỳ khi đến lượt. Sức mạnh của những đảng phái hay cá nhân trong công cuộc chống toàn cầu hóa đó tùy thuộc vào mức độ yếu kém của nền kinh tế ở nước đó. Thông thường thì kinh tế càng trì trệ thì những luận điểm giản đơn kể trên càng có sức lôi cuốn. Những người chống đối toàn cầu hóa không chỉ thành công trong thời gian đất nước hay nền kinh tế của họ gặp khó khăn. Năm 1998, đa số trong Quốc hội Mỹ đã chặn, không cho phép Tổng thống Mỹ mở rộng khu vực mậu dịch tự do NAFTA sang Chi lê – một đất nước nhỏ bé – lý do là làm như vậy người dân Mỹ sẽ mất thêm cơ hội việc làm. Lý luận sai lầm đó đã thắng thế vào lúc trị giá các chứng khoán của Hoa Kỳ lên cao kỷ lục, thất nghiệp ở mức thấp nhất và tất cả những nghiên cứu đều cho thấy là NAFTA mang lại những giải pháp nhiều bên cùng có lợi khi áp dụng ở Hoa Kỳ, Mexico và Canada. Hãy nghe điều ngu xuẩn sau đây: Quốc hội Mỹ duyệt chi 18 tỷ đô- La cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế để tổ chức này cứu giúp các nước đang vật lộn với toàn cầu hóa, nhưng Quốc hội không chấp nhận mở rộng NAFTA sang Chi lê. Lô gíc nằm Ở đâu? Phải chăng nó nằm ở chỗ:" Chúng ta ủng hộ viện trợ, không ủng hộ thương mại? " Điều đó thực vô lý, nhưng có một lý do để những lập luận kiểu đó thắng thế trong cả thời kỳ thịnh vượng lẫn lúc khó khăn – đó là tâm lý bất an trong dân chúng mỗi khi có những thay đổi nhanh quá. Tâm lý này xuất hiện cùng lúc với sự thịnh vượng. Tâm lý này khiến cho người ta hoang mang, cho rằng cuộc sống của họ giờ đây đang bị những thế lực khác biệt kiểm soát, những thế lực mà người ta không thể nhìn ngắm hay sờ mó. Hệ thống toàn cầu hóa vẫn còn quá mới mẻ đối với quá nhiều người và khiến xảy ra quá nhiều thay đổi trong cuộc sống của quá nhiều người. Vậy là người ta hoang mang, người ta lo sợ không còn giữ được công ăn việc làm đúng ý. Trong hoàn cảnh đó những người chống đối toàn cầu hóa được dịp đưa ra những luận thuyết sơ sài và đơn giản hóa. Nó tạo những cảm giác mạnh mẽ trong dân chúng, cho rằng chúng ta cần phải đi chậm lại, dựng lên một vài bức tường hay ném chút ít cát vào bánh răng đang chuyển động – để cho chúng ta có thể ngồi vững trên cỗ xe, chứ không phải để chúng ta bỏ xe bước xuống đường. Bạn cũng đừng tự huyễn hoặc cho rằng sự phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa chỉ là những cơn giận dữ của những người bị chịu nhiều thiệt thòi. Cũng giống như các cuộc cách mạng, toàn cầu hóa liên quan tới việc chuyển giao quyền lực từ một nhóm người này sang một nhóm khác. Trong nhiều nước nó là sự chuyển giao quyền lực từ nhà nước và bộ máy quan liêu vào tay khu vực tư nhân và giới kinh doanh. Khi điều đó xảy ra, tất cả những người vốn có vị trí trong bộ máy quan liêu, hay hưởng lợi từ đó, hay những người có vị trí cao trong bộ máy kinh tế vốn bao cấp, tất cả trở thành những kẻ thua thiệt – nếu họ không hòa nhập vào bước quá độ lên" Thế giới Đi nhanh ". Những kẻ thua thiệt cũng bao gồm những nhà công nghiệp và giới liên quan hưởng lợi từ những hoạt động kinh tế độc quyền nhờ sự hỗ trợ của chính phủ, những chủ doanh nghiệp được lợi từ các chính sách chống hàng nhập cảng, những thủ lĩnh nghiệp đoàn – những người quen với việc mỗi năm đi tranh đấu để giảm giờ làm và tăng lương trong một số ngành nghề được bảo hộ, công nhân thuộc các nhà máy quốc doanh xưa nay vẫn được trả lương dẫu cho nhà máy làm ăn lãi hay lỗ, những người thất nghiệp xưa nay vốn vẫn nhận được những khoản trợ cấp xã hội và y tế đều đặn và những người khác vốn lệ thuộc vào những ưu đãi của nhà nước bảo vệ trước sự xâm lấn của các thị trường toàn cầu. Điều đó giải thích vì sao trong một số nước, sự chống đối toàn cầu hóa mạnh mẽ nhất không đến từ nhóm dân chúng nghèo đói, mà từ những kẻ" vốn xưa nay.. "trong giới trung lưu và trung lưu lớp dưới, những người được hưởng sự ổn định trong những hệ thống cộng sản, xã hội chủ nghĩa hay nhà nước phúc lợi khác. Khi họ thấy Những bức tường phòng hộ sụp đổ, khi những cuộc chơi thiếu thành thực mà trước kia họ tham gia kiếm lợi, những lưới bảo hiểm xã hội, bị thu nhỏ lại – họ trở nên rất rầu lòng. Khác với những con rùa, những nhóm người kể trên vẫn còn ảnh hưởng để họ quy tụ người khác tổ chức chống đối toàn cầu hóa. Liên đoàn AFL-CIO có lẽ đã trở thành một lực lượng chính trị hùng mạnh nhất, chống đối toàn cầu hóa tại Hoa kỳ. Các nghiệp đoàn lao động đã bí mật tài trợ cho rất nhiều hoạt động quảng cáo, đại diện cho các cuộc biểu tình tuần hành ở Seattle, khuyến khích sự chống đối từ các tầng lớp dưới nhằm vào thương mại tự do. Hiểu biết của tôi về sự chống đối toàn cầu hóa từ giai cấp trung lưu đã tình cờ xuất hiện khi tôi ở Bắc Kinh, trò chuyện với Wang Jisi, phụ trách ban nghiên cứu Bắc Mỹ, Viện Khoa học Xã hội của Trung Quốc. Chúng tôi nói chuyện lan man từ chủ đề Hoa Kỳ sang chuyện cuộc sống của anh ta ở Trung Quốc, rồi thị trường tự do, những điều khiến cho trong dân chúng Trung Quốc có người thích thú có người lo âu." Guồng máy thị trường đang di chuyển vào Trung Quốc, nhưng câu hỏi hiện nay là làm thế nào để vận hành nó, "Wang nói." Nhờ cơ quan của tôi thì tôi mới có nhà ở. Nếu giờ đây nhà cửa được đưa đấu giá trên thị trường tự do thì có khi tôi không mua nổi nhà. Tôi không phải là người bảo thủ, nhưng khi những vấn đề thực tế như vậy được đặt ra thì dân chúng hoàn toàn có thể trở nên bảo thủ. Nếu mọi người bị ném ra thị trường sau thời gian được bao cấp chu đáo, họ sẽ phản ứng. Người lái xe của tôi hôm trước đã phàn nàn rằng thời trẻ, ông ta đã cống hiến tất cả cho chủ nghĩa Mao và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng giờ đây ông ta 45 hay 50 tuổi, thì đột nhiên người ta bắt ông phải ra thị trường. "Như thế có công bằng không?" ông ta chất vấn chính phủ, 'khi tôi đã hết lòng vì bất cứ điều gì các vị đòi hỏi ở tôi hàng chục năm nay và giờ đây các vị quên tôi luôn, đẩy tôi ra thị trường khi tôi già? Không công bằng chút nào. Tôi chưa làm điều gì sai trái. Bao giờ tôi cũng tuân theo chỉ dẫn của các vị, chính phủ thân mến, vậy mà giờ đây chính phủ lại nói tôi quên chính phủ đi.'[Người lái xe này] rất thích làm việc ở cơ quan chúng tôi. Ông ta không muốn trở thành một lái xe taxi để rồi mất hết phúc lợi xã hội. Ông ta không muốn nhập vào thị trường. " Bạn không cần phải trở thành một người công nhân cộng sản mới hiểu được điều đó. Peter Schwartz, Chủ tịch hãng Global Business Network, một hãng tư vấn, có lần kể cho tôi về một cuộc đối thoại trước buổi phỏng vấn với chương trình kinh tế của đài BBC ở London:" Khi đưa tôi tới chỗ phỏng vấn, phóng viên người Anh đó hỏi tôi một số điểm cốt lõi trong quan điểm của tôi. Tôi nói bóng gió tới chuyện nước Anh là một điển hình của một nền kinh tế có sức đột phá – đặc biệt khi so với toàn châu Âu – con số thất nghiệp là minh chứng cho điều đó. Phóng viên này nói với tôi: 'Thế không phải là chuyện tồi tệ sao? Trợ cấp thất nghiệp ở Anh thấp đến nỗi người ta không còn muốn ngồi nhà để hưởng nữa, họ xoay ra kiếm việc đi làm. " Schawartz nói tiếp:" Có những người coi sự quá độ tới toàn cầu hóa là một tổn thất Lớn lao, chứ không phải là một thành tựu. Họ mất đi không chỉ những phúc lợi, mà còn mất đi điều họ coi là quyền lợi: Rằng các xã hội công nghiệp hiện đại giàu có đến nỗi dân chúng có quyền được hưởng những trợ cấp thất nghiệp hào phóng. " Nếu muốn quan sát điển hình của cuộc chiến giữa những người toàn cầu hóa và những giới ham được bảo hộ thì mời bạn sang thế giới Ả rập. Năm 1996, đến lượt Ai Cập đăng cai hội nghị Thượng đỉnh Kinh tế Trung Đông, hội tụ các lãnh đạo kinh doanh của phương Tây, Á châu, Ả rập và Israel. Những nhà quan liêu ở Ai Cập đã quyết liệt chống lại kế hoạch đăng cai hội nghị này. Một phần là lý do chính trị – có những người cảm thấy Israel chưa thực hiện đầy đủ những cam kết đối với người Palestine, nên họ chưa thể bình thường hóa với Israel. Nhưng một phần là do chính những viên chức quan liêu Ai Cập, những người đang cai quản kinh tế nước này từ ngày Nasser quốc hữu hóa các định chế kinh tế trong nước trong những năm 60. Họ tự hiểu rằng cuộc họp thượng đỉnh có thể là bước đầu tiên mở ra khả năng họ mất dần quyền lực vào tay khu vực tư nhân, một khu vực đã bắt đầu có cơ hội mua lại các xí nghiệp quốc doanh cũ và có thể tiến hành chiếm giữ dần hệ thống truyền thông của đất nước. Tờ báo Hồi giáo al-Shaab đã chỉ trích hội nghị thượng đỉnh là" hội nghị của sự hổ thẹn. " Tuy nhiên lần đầu tiên khu vực tư nhân của Ai Cập đã đoàn kết thành các lực lượng vận động hành lang mạnh – Phòng Thương mại Ai Cập - Hoa Kỳ, Hội đồng các Lãnh đạo Doanh nghiệp Ai Cập trực thuộc Tổng thống và Hiệp hội Doanh nghiệp Ai Cập – đã chung sức thuyết phục Tổng thống Mubarak nghe theo họ. Họ giải thích nếu tổ chức họp thượng đỉnh với hàng trăm các nhà đầu tư trên thế giới sẽ là cơ hội để tạo việc làm cho lực lượng lao động của Ai Cập, mỗi năm tăng 400.000. Tổng thống Mubarak đi lui đi tới, và sau cùng đã về phe với khu vực tư nhân, chấp thuận tổ chức hội nghị. Ông thẳng thắn tuyên bố trong diễn văn khai mạc hội nghị:" Năm nay, Ai Cập gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Ai Cập sẽ tuân thủ những luật lệ của nền kinh tế đó. "Nhưng bộ máy quan liêu ở Ai Cập, không muốn nhường bất cứ quyền lực gì cho khu vực tư nhân, vẫn tiếp tục tranh đấu, và mỗi lần có biến cố trong kinh tế thế giới chẳng hạn như khủng hoảng ở Á châu năm 1998, họ là đến nói với Tổng thống Mubarak," Thấy chưa, chúng tôi đã nói rồi. Chúng ta cần phải đi chậm lại, dựng thêm rào cản, nếu không thì những gì xảy ra ở Brazil rồi sẽ xảy ra với chúng ta. " Trong một thời gian dài tôi nghĩ rằng sự miễn cưỡng của Ai Cập trong việc kết nối với toàn cầu hóa bắt nguồn từ tính thiển cận của giới công quyền và sự thiếu tầm nhìn trong hàng ngũ lãnh đạo đất nước. Nhưng sau đó có một kỷ niệm đã khiến tôi hiểu rõ thêm. Trong tư cách một tác giả, tôi đi thăm Ai Cập vào đầu năm 2000, gặp gỡ các sinh viên ở đại học Cairo, gặp phóng viên các báo của Ai Cập và những thương gia hàng đầu ở Cairo và Alexandria. Tôi trao đổi với họ về bản thảo tiếng Ả rập cho cuốn sách này. Hai hình ảnh nổi bật từ chuyến đi này. Đầu tiên là hình ảnh chuyến tàu từ Cairo đến Alexandria, đi trong toa tàu là hành khách thuộc giới thượng lưu và trung lưu người Ai Cập. Nhiều người trong số họ có điện thoại di động, kêu chuông liên tục trong suốt hai giờ tàu chạy, giai điệu chuông khác nhau, liên miên đến mức có lúc tôi muốn đứng dậy dùng ba toong làm nhạc trưởng cho dàn nhạc chuông điện thoại. Tôi chán nghe nhạc điện thoại di động đến mức nóng lòng muốn được xuống tàu. Trong khi những điện thoại đó thi nhau reo chuông trong toa tàu, thì bên ngoài là cảnh sông Nile, dọc bờ sông là những dân làng người Ai Cập đang cày ruộng, dùng cày và trâu kéo giống như những gì tổ tiên của họ làm ăn từ cái ngày xây dựng kim tự tháp Pharaoh. Tôi không thể tưởng tượng được một hố ngăn cách rộng lớn hơn thế về công nghệ trong một đất nước – trong toa tàu là Ai Cập năm 2000 sau Công nguyên, ngoài toa tàu là Ai Cập năm 2000 trước Công nguyên. Hình ảnh thứ hai là lần đến thăm Yousef Boutros- Ghali, Bộ trưởng Kinh tế của Ai Cập, người từng học ở MIT. Khi tôi đến tòa nhà của ông ta thì một người trông thang máy, một nông dân Ai Cập, chờ tôi ở thang máy, anh có chìa khóa để vận hành thang máy. Trước khi đút chìa khóa vào mở cho thang máy hoạt động, anh ta đã khấn theo kinh Koran:" Nhân danh chúa, đấng từ bi và tinh thần. "Là một người nước ngoài, bạn có thể rất hoảng khi thấy người trông thang máy khấn khứa trước khi đóng cửa thang máy để lên lầu, nhưng đối với anh ta, đó chỉ là một thói quen văn hóa, cắm rễ sâu trong truyền thống của anh. Một lần nữa ta thấy sự tương phản: Ông Boutros Ghalis, đầu tàu kỹ thuật cao dẫn dắt toàn cầu hóa, một bên là người trông thang máy, cứ mỗi lần cho thang chạy là lại khấn bái. Những cảnh đó phản ánh cho tôi thấy sự căng thẳng thực sự trong lòng Ai Cập: Trong khi giới thượng lưu nhỏ bé, được trang bị điện thoại di động đang cố sức để được nối mạng, nhập vào con tàu kinh tế toàn cầu, thì phần đông những người khác bị bỏ rơi hoặc để mất đi bản sắc của họ khi cố sức chạy theo con tàu đó. Sau một tuần trò chuyện về phí tổn và lợi ích của toàn cầu hóa, tôi ngạc nhiên thấy phần đông người Ai Cập, gồm rất nhiều những trí thức, chỉ thấy ra được tổn phí. Càng giải thích về toàn cầu hóa, càng làm cho họ khó chịu. Sau cùng, một ý nghĩ đến với tôi rằng tôi đang đối diện với điều mà các nhà nhân chủng học gọi là" sự hiểu lầm có hệ thống. "Sự hiểu lầm đó sinh ra khi cái khuôn mẫu của bạn khác hẳn với khuôn mẫu của người khác, mà không thể dùng thông tin bổ sung để làm cho chúng khớp với nhau. Sự khó chịu của dân Ai Cập đối với toàn cầu hóa bắt rễ từ nỗi sợ hãi hợp lý rằng họ không có đủ công nghệ để cạnh tranh. Nhưng nó cũng bắt rễ từ một điều mang tính văn hóa – và không chỉ là điều mà một giáo sư đại học Cairo nói với tôi:" Toàn cầu hóa có nghĩa là chúng tôi phải hết thảy trở thành người Mỹ? "Sự khó chịu ăn sâu hơn nữa, và bạn phải hiểu được nó nếu muốn biết thêm về những chống đối nhằm vào toàn cầu hóa từ những xã hội truyền thống. Nhiều người Mỹ dễ dàng tiếp thụ hiện Đại hóa, kỹ thuật và Internet vì họ biết chúng là những công cụ cho họ thực hiện lựa chọn. Lợi ích của những công cụ đó là trang bị và tăng cường lợi thế cho các cá nhân. Nhưng trong các xã hội truyền thống như Ai Cập chẳng hạn thì các tập thể, các các nhóm người thường có vai trò quan trọng hơn các cá nhân; vậy nếu tăng cường cho các cá nhân thì sẽ dẫn tới chia rẽ trong xã hội. Vậy toàn cầu hóa đối với họ không những mang ý nghĩa họ phải ăn món McDonald's, mà còn có nghĩa là sự thay đổi quan hệ giữa cá nhân và nhà nước và cộng đồng một cách tiêu cực, dẫn tới chia rẽ xã hội. " Liệu toàn cầu hóa có phải là để chúng tôi cứ mặc xác những người nghèo phải tự lo thân? "Một phụ nữ Ai Cập có tri thức đã hỏi tôi." Làm sao chúng tôi có thể tư hữu hóa trong khi không có được hệ thống phúc lợi xã hội? "Một giáo sư đặt câu hỏi. Khi chính phủ ở nước này nói sẽ" tư hữu hóa "một ngành công nghiệp thì phản ứng bản năng của dân Ai Cập sẽ là: Hình như có điều gì đó đang" bị đánh cắp "từ nhà nước, lời của một viên chức cao cấp của Ai Cập. Sau những cuộc tranh luận đó tôi nhận thấy phần đông dân Ai Cập hiểu về toàn cầu hóa như một sự thất vọng kết hợp với sự cần thiết, chứ không phải là một cơ hội, điều đó cũng dễ hiểu. Toàn cầu hóa là cách thích nghi với một đe dọa từ bên ngoài, trong khi không tăng thêm được quyền tự do. Tôi cũng nhận ra rằng những ý thức hệ trước đây của họ – chủ nghĩa dân tộc Ả rập, chủ nghĩa phát-xít – đã có ảnh hưởng mạnh, mặc dù không mang lại lợi ích gì về kinh tế. Nhưng chủ nghĩa toàn cầu hoàn toàn không giống thế. Khi bạn nói với một xã hội truyền thống rằng họ phải cắt giảm biên chế, rút gọn và kết nối Internet, thì những điều bạn nói ra không có ảnh hưởng nhiều hoặc không có sức lôi cuốn. Đó là lý do của những khó khăn bạn vấp phải khi cố gắng thuyết phục hàng triệu người dân Ai Cập, những người vẫn cầu nguyện trước khi vận hành các cầu thang máy. Trò kéo co này đang diễn ra trên toàn thế giới Ả rập ngày nay, từ Ma rốc cho tới Kuwait. Một viên chức tài chính người Ả rập đã mô tả cuộc tranh đấu của toàn cầu hóa trong đất nước của ông ta:" Thỉnh thoảng tôi có cảm giác mình thuộc vào một thứ hội kín Freemasons, vì cách nhìn thế giới của tôi khác hẳn với cách nhìn của những người quanh tôi. Có một sự khác biệt lớn về ngôn ngữ và từ vựng của tôi và người xung quanh. Không phải vì tôi không thuyết phục được họ. Tôi nhiều khi không thể giao tiếp được với họ, những người đó có cách nhìn toàn cầu xa lạ quá. Vậy là mỗi khi tôi phải giải thích một chính sách gì đó liên quan tới toàn cầu hóa, thì bao giờ câu hỏi cũng là: Có thể quy tụ được bao nhiêu người để có thể tạo được một sự quá độ? Nếu anh có thể quy tụ được đủ số người từ những vị trí thích đáng, thì anh sẽ đẩy được hệ thống đi tới. Nhưng điều đó rất khó. Có nhiều ngày dân chúng đến và nói với tôi: "Chúng ta cần phải quét sơn lại căn phòng." Và tôi trả lời, "Không, chúng ta thực ra cần phải đào móng mới và xây lại toàn bộ tòa nhà" Vậy là toàn bộ cuộc hội thoại giữa Anh và họ xoay quanh việc chọn màu sơn, nhưng trong đầu anh là ý nghĩ rằng toàn bộ kiến trúc cần phải được thay thế và một móng nhà mới phải được xây dựng – rồi sau đó hẵng lo tới màu sơn! Brazil, Mexico, Argentina, ở đó họ có những đám đông và những viên chức có tầm nhìn về thế giới. Nhưng phần đông các nước đang phát triển hiện chưa có được điều đó, chính vì thế gian đoạn quá độ của họ vẫn còn bất ổn. " Ở Ma rốc, chính phủ tư hữu hóa đơn giản bằng cách bán các xí nghiệp quốc doanh cho chính những nhóm kinh tế nhỏ có quan hệ với hoàng gia, những người một thời lũng đoạn kinh tế nhà nước. Chính vì thế mà ba phần trăm dân số Ma rốc hiện kiểm soát 85 phần trăm tài sản của đất nước. Các trường đại học ở Ma rốc, thường kết hợp những đặc điểm tồi tệ nhất của hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa và của Pháp, mỗi năm cho ra trường rất nhiều sinh viên, nhưng họ không kiếm được việc làm, không có tinh thần thương mại hay những kỹ năng công nghệ thích hợp với nền kinh tế thông tin thời nay. Ma rốc hiện có" Hội liên hiệp các sinh viên đại học thất nghiệp. " Càng có thêm các quốc gia hội nhập vào toàn cầu hóa và" Thế giới Đi nhanh ", thì càng có thêm một nhóm chống đối khác – họ như những con linh dương bị tổn thương. Nhóm này gồm những người cảm thấy họ đã thử hội nhập với toàn cầu hóa nhưng đã bị hệ thống này giày vò, nhưng đáng nhẽ phải đứng dậy, phủi bụi và chạy tiếp để theo kịp toàn cầu hóa, họ đã về nhà đóng kín cửa, thay đổi luật lệ để tránh toàn cầu hóa. Điển hình cho nhóm chống đối này là Thủ tướng Mahathir của Malaysia. Không gì có thể sánh kịp với sự tức giận của một nhân vật toàn cầu hóa thất bại. Ngày 25/10/1997, giữa lúc kinh tế Á châu đang thua thiệt, Mahathir đã tuyên bố với hội nghị Thượng đỉnh khối thịnh vượng chung ở Edinburgh rằng kinh tế toàn cầu – vốn dĩ đã đổ hàng tỷ đô-la vào Malaysia, và nếu không Malaysia đã không bao giờ tăng trưởng nhanh như thế – nay đã trở thành" vô chính phủ. " " Đây là một thế giới bất bình đẳng, "Mahathir giận dữ nói." Nhiều người trong chúng tôi đã vận lộn khó khăn và thậm chí đã đổ máu để giành được độc lập. Khi những đường biên giới được mở cửa và thế giới trở thành một thực thể thống nhất, thì độc lập có thể trở thành vô nghĩa. " Chẳng lấy làm lạ khi năm 1998 Mahathir là nhà toàn cầu Á châu đầu tiên áp đặt chính sách kiểm soát trong một cố gắng nhằm chặn đứng làn sóng đầu cơ tự do chống lại đồng nội tệ và thị trường chứng khoán của ông. Khi Bộ trưởng Thông tin Singapore George Yeo mô tả hành động của Mahathir lúc đó, ông ta nói," Con thuyền Malaysia đã rút lui vào một cái hồ ven biển và thả neo ở đó, nhưng chiến lược đó sẽ không phải là không có rủi ro. " Đúng như vậy. Nếu cho rằng rút lui vĩnh viễn vào một nơi hẻo lánh và an hưởng những mức sống cao của" Thế giới Đi nhanh ", và tránh được bất cứ sức ép nào, thì chính bạn đang tự huyễn hoặc bản thân và dân chúng của bạn. Tuy nhiên, sự rút lui Của Mahathir, sau này được biết chỉ là tạm thời, đã nhận được sự thông cảm trong thế giới đang phát triển – thông cảm nhưng họ không làm theo. Khi chúng ta sang thập niên thứ hai của toàn cầu hóa, có một quan niệm mới trong số các quốc gia vốn dĩ chống đối chiếc áo nịt nạm vàng và" Thế giới Đi nhanh "– đó là: Họ không thể tiếp tục chống đối nữa. Và họ biết chiến lược rút lui sẽ không mang lại lợi ích gì về lâu về dài cho tăng trưởng. Trong nhiều năm tôi hay gặp Emad El-Din Adeeb, biên tập viên tạp chí al Alam al Youm của Ai Cập trong những hội nghị của Ngân hàng Thế giới và những nơi khác, và trong cũng nhiều năm anh ta nói với tôi về sự ngờ vực của anh về khả năng Ai Cập hội nhập toàn cầu hóa. Khi gặp lại anh năm 1999 tại Diễn đàn Kinh tế Davos, anh nói với tôi," OK, tôi hiểu rằng chúng tôi phải sẵn sàng để hội nhập toàn cầu hóa, một phần đó cũng là trách nhiệm của chúng tôi. Có một đoàn tàu đang chuẩn bị rời ga và chúng tôi biết điều đó và phải chuẩn bị. Nhưng liệu anh có thể nói đoàn tàu đó chạy chậm lại chút ít để chúng tôi có thời gian để nhảy lên bám theo tàu. " Tôi không dám nói thực với anh ta lúc đó rằng tôi vừa dự bữa ăn trưa cùng giới báo chí với Bill Gates. Tất cả các nhà báo cứ hỏi mãi Bill Gates," Ông Gates. Những cổ phần Internet. Chúng là những bong bóng xà phòng phải không? "Sau cùng, Bill Gates bực tức nói với đám phóng viên: Đúng chúng là những bong bóng xà phòng, nhưng các bạn đã lẫn lộn ở một điểm. Những bong bóng đó đã thu hút rất nhiều tiền đầu tư vào ngành Internet và sẽ thúc đẩy" nhanh nữa, nhanh nữa "quy trình sáng tạo. Vậy tôi đã chứng kiến những gì: Buổi sáng thì nghe Bill Gates nói cái" Thế giới Đi nhanh "sẽ tiếp tục tăng tốc, buổi chiều thì gặp anh bạn Adeeb nói rằng, anh ta cũng muốn nhảy vào cái thế giới đó, nhưng, ai đó làm ơn nói nó chạy chậm lại chút ít. Tôi nói với Adeeb rằng tôi cũng mong muốn đoàn tàu toàn cầu hóa chạy chậm lại, nhưng ở đầu tàu, tôi không thấy ai đang cầm lái. Có một lần uống cà phê trong một quán cà phê Internet, mang tên Books@Cafe ở Amman, Jordan. Quán này ở ngay gần khu di tích được bảo tồn đẹp đẽ – một trong những nhà hát thuộc kiến trúc La Mã ở Trung Đông. Hồi đó là năm 1997, chủ quán, Madian al-Jazerah đứng lại bên bàn và làm quen với tôi. Anh ta nằng nặc mời tôi nếm thử món bánh chuối kem. Vì sao bánh chuối kem? Tôi hỏi. Anh ta trả lời rằng bánh này là do vợ của phó đại sứ Israel ở Amman làm. " Để tôi nhắc lại coi thử đúng không, "tôi nói," bánh chuối kem trong cà phê Internet ở Amman do vợ của phó đại sứ Israel làm! Hay thật. Tôi khoái quá. " Nhưng anh này nói cũng có nhiều người không thích thú gì điều đó. Khi những người Hồi giáo chính thống ở Amman biết bánh chuối kem trong cà phê Internet ở Amman do vợ của phó đại sứ Israel làm họ đã kêu gọi tẩy chay cho đến khi nào chủ quán rút món đó khỏi thực đơn." Và họ đã dùng Internet để kêu gọi tẩy chay, "chủ quán nói. (Rõ ràng là cuộc tẩy chay đã thất bại vì món bánh chuối kem vẫn được ghi trong thực đơn) Những người Hồi giáo chính thống chống-bánhchuối- do-người-Israel-làm đã đại diện cho một làn sóng khác chống toàn cầu hóa. Đó là sự chống đối của hàng triệu người dân uất ức trước sự đồng hóa mà toàn cầu hóa gây ra, dám đưa món bánh chuối Israel ra diễu trước mặt dân Hồi giáo Jordan, đưa người lạ cùng thói lạ vào nhà, xóa đi những đặc tính văn hóa và nhổ bật những câu ô liu truyền thống của bạn. Cũng có nhiều người rõ ràng đã sẵn sàng dẹp đi nhiều phần trong văn hóa địa phương để đón nhận văn hóa tiêu dùng, Mỹ hóa hay toàn cầu hóa, hoặc tung hứng cả hai luồng văn hóa thể hiện trong cách sống, quần áo, ẩm thực và ý thức. Không bao giờ nên coi thường những người biết tung hứng như vậy. Nếu không có họ thì làm sao McDonald's và Disney có thể lan tràn đến được nhiều nơi trên thế giới. Nhưng có những người rõ ràng đã không muốn chơi trò tung hứng. Họ sẵn sàng tham chiến để bảo vệ văn hóa riêng của họ. Khẩu hiệu xung trận của những người này là:" Tôi không muốn toàn cầu. Tôi chỉ muốn địa phương. "Đối với các nhà toàn cầu hóa, họ tôn trọng những người nối kết nhiều nhất. Đối với phái cực đoan, họ kính trọng những nhân vật xa rời mạng – xa rời mọi thứ trừ chân lý của họ. Những phản ứng về văn hóa trở nên gây bất ổn về chính trị một khi chúng kết hợp với những phản ứng khác – khi những nhóm người bị thiệt thòi về kinh tế trong toàn cầu hóa kết hợp với những nhóm đau khổ về văn hóa. Hiện tượng này rất phổ biến ở vùng Trung Đông, nơi những phần tử cực đoan của nhiều phái đã trở nên rất giỏi trong việc thêu dệt nên những sự chống đối mang tính chính trị, kinh tế và văn hóa nhằm vào toàn cầu hóa, tập hợp chúng dưới một ngọn cờ và một phong trào chính trị chung, họ muốn tiếm quyền rồi choàng lên trên cộng đồng một chiếc khăn, chắn cả cộng đồng không cho ai nhìn ra thế giới. Lá cờ chống đối đầu tiên của người Algeria là một bao tải lúa mạch couscous, món ăn chủ yếu ở vùng Bắc Phi, lá cờ tượng trưng cho sự phẫn uất của những người lao động Algeria, đặc biệt giới trẻ không có việc làm. Dần dần những người cầm lá cờ đó đã liên hiệp với những phần tử Hồi giáo chính thống cùng chống lại trào lưu phương Tây hóa và phi tôn giáo hóa chế độ của Algeria, cùng với nhau họ tạo một làn sóng chống đối mạnh mẽ, dưới lá cờ xanh lục của Hồi giáo chính thống, chống lại những ai ở Algeria mong muốn hội nhập đất nước với hệ thống toàn cầu hóa. Việc bầu phiếu đưa Benjamin Netanyahu lên chức Thủ tướng Israel năm 1996 một phần cũng là một sự phản ứng chính trị chống lại Hòa ước Oslo, một phần cũng là sự chống đối về văn hóa nhằm vào toàn cầu hóa và hội nhập tiềm ẩn trong các cố gắng hòa bình giữa Israel và khối Ả rập. Học giả tôn giáo người Israel Moshe Halbertal có lần đã nói với tôi rằng Shimon Peres có một viễn tưởng rằng cháu của ông ta và cháu của Yasser Arafat một ngày nào đó sẽ" cùng nhau sản xuất chip vi tính "– viễn tưởng đó đã đe dọa rất nhiều người Do Thái chính thống đang sống ở Israel. Họ sợ rằng một khi những bức tường ranh giới ở quanh Israel đổ xuống, đất nước này hội nhập vào Trung Đông – giống như người Do Thái hội nhập vào xã hội Mỹ – thì đạo Juda sẽ bị ảnh hưởng xấu. Họ lo ngại rằng sẽ không có chuyện sống chung hòa bình giữa hai khái niệm" hòa bình bây giờ "hay" Do Thái bây giờ "– đặc biệt khi hòa bình còn có nghĩa là toàn cầu hóa, hội nhập, dịch vụ thuê video Blockbuster, các kênh truyền hình cáp truyền các hình ảnh gợi dục, và Pizza Huts. Vậy nên mới có những tấm biển xuất hiện trong những khu Do thái chính thống trước ngày bầu cử Thủ tướng Israel năm 1996, viết:" Bầu cho Bibi [Netanyahu] . Ông ta bênh vực người Do Thái. "Ở Israel chống đối mang màu sắc văn hóa nhằm vào toàn cầu hóa đã kết hợp với các sắc thái chính trị và kinh tế. Sau khi có hòa ước với Jordan, các nhà máy dệt Israel bắt đầu có những hành động hợp lý: Họ chuyển những dây chuyền sản xuất, những công ăn việc làm kỹ năng thấp từ các địa phương Israel như từ Kiryat Gat qua sông sang cho Jordan, nơi có nhân công rẻ hơn. Và bỗng nhiên những thợ dệt Do Thái, chưa có đủ kỹ năng để xin vào nhà máy của Intel đang được xây dựng ở Israel, thấy công ăn việc làm của họ bị chuyển sang Jordan – điều mà nếu không có hòa ước Israel-Jordan và toàn cầu hóa thì không bao giờ xảy ra. Những người thợ dệt đó lo sợ rằng hòa bình sẽ không đi đôi với việc làm cho họ, và cũng vì nhiều người trong số họ thuộc phái Do Thái phương Đông – vậy là họ quay sang ủng hộ đảng Shas, một đảng chính thống cực đoan, chống toàn cầu hóa trên cơ sở văn hóa và tôn giáo, một chính đảng chỉ quan tâm tới các đức cha. Vậy là những người thất nghiệp, kết hợp với giới có đường lối cố kết sắc tộc và tôn giáo, thành một phong trào chống toàn cầu hóa. Hiển nhiên là không có gì sai trái trong việc đặt xã hội của bạn lên trên một trụ cột tôn giáo và truyền thống. Đó là những cây ô liu khiến cho xã hội gắn bó. Không phải ai trong số những người tôn trọng những giá trị đó cũng đều ra tham gia chủ nghĩa cực đoan. Nhưng khi chủ nghĩa cực đoan đó không còn do những yếu tố tâm linh điều khiển mà do tâm lý chống toàn cầu hóa điều phối thì nó thường rơi vào khuynh hướng giáo phái phân liệt, bạo động và ly khai. Và càng rời xa thực tế, càng mất dần liên lạc thì càng bị tụt hậu; càng tụt hậu thì càng tiếp tục rút lui và ly khai. Nhưng cũng không cần phải là một người cực đoan Do Thái hay Hồi giáo để muốn tham gia chống đối toàn cầu hóa bạn. Bạn chống đối có thể vì toàn cầu hóa đã khiến bạn trở nên lạc lõng ngay trong môi trường thân thuộc của bạn. Đây là một hiện tượng thông thường. Khi tôi sang châu Á vào năm 1996, thì những người Australia tổ chức bầu cử. Tôi ngạc nhiên khi thấy các vận động tranh cử ở Úc lúc đó xoay quanh chủ đề bánh quy và áo tắm khá nhiều. Vâng, John Howard, lúc đó là thủ lĩnh đảng Tự do, phái bảo thủ, tố giác Paul Keating thuộc đảng Lao động đang cầm quyền, rằng trong khi hăng say thúc đẩy nước Úc hội nhập với kinh tế toàn cầu và đầu tư nước ngoài, đã tạo ra một tình huống trong đó các công ty thân thuộc của đất nước bị các tập đoàn của nước ngoài vào sáp nhập và người nước ngoài đang vào nắm quyền quản lý. Howard tố giác rằng người Úc đang mất dần những biểu trưng dân tộc, bản sắc và chủ Quyền vào tay thị trường, dẫu cho kinh tế có được cải thiện đến đâu. Đặc biệt ông ta chỉ vào hãng bánh quy hiệu Arnott's, có sản phẩm mà bất cứ đứa trẻ nào ở Úc khi lớn lên đều biết đến, đã bị bán cho một công ty Mỹ (Campbell's Soup, cũng rất nổi tiếng), công ty này sau đó đã thay đổi thành phần của bánh quy Iced Vo-vos – thương hiệu nổi tiếng rất Úc, làm bằng dừa và kẹo dẻo. Ông Howard cũng nói điều tương tự cũng đã xảy ra cho thương hiệu áo quần bơi Speedo nổi tiếng của Úc, cũng đã bị bán cho một hãng của Mỹ. Thương vụ Iced Vo-vos và Speedo đã trở thành một chủ đề nóng hổi trong các cuộc tranh cử. Và chính những lập luận theo lối ôm chặt cây ô liu đã giúp cho Howard chiến thắng ròn rã Keating, một người thích xe hơi Lexus. Một năm sau đó vào mùa xuân 1997, khi tôi đang đi qua những vùng đồn điền bang Indiana trên đường đến Đại học Purdue. Lái xe cho tôi là Giáo sư John Larson, một người có nhiều suy nghĩ sâu sắc. Khi đến gần Lafayette, tôi nhìn thấy xa xa có một nhà máy lớn." Nhà máy gì đó? "Tôi hỏi." Nhà máy sản xuất xe hơi Subaru, "Giáo sư Larson trả lời, khi chúng tôi gần đến nơi. Ông ta nói thêm rằng nhà máy Subaru đó là khiến cho bang Indiana có" cảm giác giống như một nước thuộc Thế giới thứ ba. " " Vì sao? "Tôi hỏi thêm. " Đối với thế hệ như của tôi, lớn lên trong những năm 50, nước Mỹ bao giờ cũng là nước vươn ra thế giới, "Larson giải thích." Chúng tôi sinh ra cái gọi là toàn cầu hóa. Đến khi những chủ hãng xe hơi người Nhật đến Mỹ tìm chỗ để đặt nhà máy xe Subaru, họ đến vùng này như cái lối người Mỹ sang Ấn Độ. Họ hỏi những câu: "Hãy giành cho chúng tôi những thứ mà chúng tôi muốn? Trình độ văn hóa ở đây ra sao? Chúng tôi có được hưởng ưu đãi về thuế không?" Những người đứng đầu cộng đồng ở đây rất thích được đầu tư, nhưng một số người khác thì chất vấn: "Những tay Nhật Bản là ai vậy mà dám hỏi han về trường lớp của chúng ta?" Khi những lãnh đạo của Subaru quyết định đặt nhà máy ở Lafayette, có người đã gợi ý nên đổi tên con đường cao tốc trước cổng nhà máy thành "Đường cao tốc Subaru," để vinh danh công ty Nhật đó đã đến và mang theo nhiều công ăn việc làm. "Nhưng khi tổ chức VFW nghe chuyện đó họ đã làm ầm lên," Larson giải thích tiếp. "Họ nói rằng không thể đổi tên đường cao tốc đó. Anh có biết đường này có cái tên mang ý nghĩa gì không?" Đường này mang tên Bataan - tên của bán đảo Philippines nơi hàng ngàn lính Mỹ bị giết sau khi họ bị quân Nhật bắt hồi tháng Tư năm 1942. "Người của Subaru rất nhạy cảm. Họ nói chúng tôi không nên đổi tên đường cao tốc đó," giáo sư Larson nói. "Từ ngày đó, dân chúng quen dần với những người Nhật, và họ chấp nhận những người này trong cộng đồng. Các quản trị viên người Nhật cùng gia đình thay nhau dọn vào sống trong vùng này. Con cái họ đến trường ở địa phương – trừ ngày thứ bảy, bọn trẻ đến trường riêng để học ôn tiếng Nhật và một phần cũng vì họ nghĩ rằng cách dạy toán của chúng ta không được triệt để cho lắm."
16. Tập hợp lực lượng. Bấm để xem Mùa đông năm 1995, tôi đến Hà Nội. Mỗi buổi sáng khi đi tập thể dục, tôi dạo quanh những ngôi chùa bên hồ Hoàn Kiếm, ngay ở trung tâm Hà Nội; và mỗi buổi sáng tôi lại gặp một phụ nữ Việt Nam nhỏ bé ngồi bên lối nhỏ, bên cạnh là một chiếc cân buồng tắm. Chị mời mọi người lên cân để kiếm chút tiền. Và mỗi buổi sáng tôi trả cho chị ta một đô-la và bước lên cân. Không phải vì tôi muốn biết tôi nặng bao nhiêu cân – tôi biết rõ trọng lượng của bản thân tôi (và nếu nhớ không lầm thì cân của chị cũng không được chính xác cho lắm). Nhưng, bằng cách bước lên cân, tôi muốn đóng góp cho toàn cầu hóa ở Việt Nam. Đối với tôi, phương châm của người phụ nữ này, mà chị này không nói ra, là: "Có được thứ gì, dù lớn hay nhỏ thì cứ việc bán, đổi chác, cho thuê, thế chấp.. làm bất cứ điều gì để kiếm lời, cải thiện đời sống và hội nhập vào cuộc chơi." Người phụ nữ và chiếc cân bàn thể hiện một thực tế căn bản của toàn cầu hóa, một điều ít khi được nhắc tới trong những bàn bạc của các nhà quản trị tiền tệ, quỹ đầu tư và những bộ vi xử lý kỹ thuật cao. Đó là: Toàn cầu hóa bắt đầu từ tầng lớp dưới, từ hè phố, từ tâm hồn và những hoài bão của con người. Đúng là toàn cầu hóa là kết quả của các trào lưu dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ, nhưng động lực để lái những trào lưu đó chính là hoài bão của con người – mong muốn có một cuộc sống tốt hơn – cuộc sống có nhiều lựa chọn để đi lên, ăn ngon, mặc đẹp, du lịch, làm việc, đọc sách, viết sách và học thêm. Toàn cầu hóa bắt đầu từ một phụ nữ ở Hà Nội, ngồi bên lề đường, dùng chiếc cân bàn như chiếc vé để gia nhập cái Thế giới đi nhanh đó. Trong trung tâm Hà Nội ngày nay, mỗi phân vuông trên hè phố dường như đều có những người buôn bán, hoặc từ mảnh chiếu, từ rương hòm hay từ cửa hiệu của họ. Trên đường phố là những người đã đổi dép guốc để lấy xe đạp, đổi xe đạp sang xe máy, đổi xe máy lấy xe hơi Honda Civic, đổi Civic lấy Camry và thỉnh thoảng có người thậm chí đổi được Camry để lấy xe Lexus. Chúng ta thường nghĩ toàn cầu hóa chỉ dính dáng tới việc một đất nước hội nhập với bên ngoài, hay những gì được áp đặt từ phía trên hay từ bên ngoài, chúng ta thường quên rằng toàn cầu hóa bắt đầu từ những tầng lớp địa phương, từ thâm tâm mỗi chúng ta. Điều đó giải thích tại sao cùng với sự xuất hiện những sự chống đối nhằm vào những sức ép, sự tàn khốc và thách thức của toàn cầu hóa, là cả một nền tảng dân chúng ở dưới đang đòi hỏi những phúc lợi từ chính quá trình này. Nền tảng này là tập hợp của hàng triệu nhân công, những người bị toàn cầu hóa xô đẩy, nhưng chính họ đã đứng lên, phủi bụi trên quần áo, và gõ cửa toàn cầu hóa, đòi được gia nhập vào hệ thống này. Vì nếu họ chỉ có dù một phần cơ may thì những con rùa sẽ không muốn mãi mãi mình là rùa, những người bị bỏ rơi sẽ không muốn lặng lẽ đi sau, và những Người thiếu hiểu biết nay sẽ muốn học thêm. Họ muốn trở thành những con sư tử hay linh dương, họ muốn hưởng chút ít từ toàn cầu hóa, họ không muốn phá bỏ nó. Tình cờ tôi sang Rio de Janeiro lúc chính phủ Brazil tư nhân hóa công ty điện thoại quốc doanh Telebras. Lúc đó có một cuộc biểu tình trên đường phố Rio chống tư nhân hóa. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là vào ngày hôm sau, tờ báo Brazil O Globo đăng một phỏng vấn với một trong những người xuống đường biểu tình. Khi được hỏi vì sao anh ta đi biểu tình, người này trả lời anh ta làm thế bởi vì "nghĩ rằng tôi có thể kiếm được một việc làm." Anh chàng này không chống tư nhân hóa, mà chỉ muốn kiếm phần. Dân chúng có thể chịu đựng được nhiều sức ép từ toàn cầu hóa hơn là người ta tưởng – vì, chẳng hạn những người thợ mỏ Nga, nông dân Mexico và lao động ở Indonesia hiểu rằng ở một mức nào đó, họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải theo kịp vào Thế giới Đi nhanh; phần nữa cũng bởi vì số đông dân chúng không muốn thế giới đó đi chậm lại. Dĩ nhiên, nếu những thế lực thị trường trở nên khó kiểm soát – nếu dân chúng cảm thấy toàn cầu hóa trở nên điên rồ, phá vỡ quan hệ giữa lòng hăng say làm việc và mức cải thiện sinh hoạt và những sự cải tổ đầy đau đớn và chính sách thắt lưng buộc bụng không đem lại gì cho họ – thì chắc chắn họ sẽ đạp bỏ toàn cầu hóa. Nhưng chúng ta chưa phải đã tiến đến cái mức đó. Hãy nghĩ về những người thợ ở Nga sau khi Liên Xô sụp đổ – những người bị chậm hàng tuần hay hàng tháng lương. Vì sao họ đã không đốt cháy điện Kremlin? Vì họ trước kia cũng đã làm điều đó và nay họ đã hiểu rằng làm thế cũng vô ích. Lần này họ muốn có một kết cục khác – họ muốn sự thịnh vượng, tự do và những lựa chọn – và họ sẵn sàng hy sinh vì chúng. Câu chuyện về nước Nga mà tôi rất thích, do một nhà kinh tế Nga kể lại cho một người bạn tôi, cho biết có một lính xe tăng người Nga trong một thị trấn nằm phía sau dãy núi Urals. Anh này đã lái xe tăng vào trong tòa thị chính để đòi cho được tiền lương nhà nước nợ anh ta. Nhưng khi những người dân thị trấn xúm lại quanh xe tăng và hỏi liệu anh ta có muốn bắn đổ tòa thị chính hay không thì anh này trả lời không bao giờ – lý do anh ta đi xe tăng vào là vì không có phương tiện giao thông nào khác sẵn có, và anh không đủ tiền để đi taxi. Anh ta chỉ muốn truy lĩnh lương thôi. Thực tế cho thấy dẫu cho có những sức ép mà chủ nghĩa tư bản toàn cầu gây cho các xã hội, toàn cầu hóa ngày nay đã giúp nâng cao mức sống với tốc độ nhanh và cho nhiều người hơn bất cứ trong giai đoạn nào trong lịch sử. Chúng đã đưa nhiều dân nghèo nhập được hàng ngũ trung lưu nhanh hơn trước nhiều. Vậy thì trong khi cái hố ngăn cách giàu nghèo đang trở nên rộng hơn – vì những kẻ thành công trong toàn cầu hóa tiến rất nhanh và ngày càng bỏ xa các tầng lớp khác – thì mức sống thuộc loại nghèo khó cũng đang dần được nâng cao hơn, ở nhiều nơi trên thế giới. Nói cách khác, trong khi mức đói nghèo tương đối đang dâng lên ở nhiều nước, thì mức đói Nghèo tuyệt đối lại đang giảm đi ở nhiều nơi. Theo báo cáo về Phát triển Nhân loại của Liên Hiệp Quốc năm 1997, mức đói nghèo đã giảm trong vòng 50 năm qua nhanh hơn thời gian 500 năm trước đó. Tốc độ tiến của các nước đang phát triển trong 30 năm qua tương đương với tốc độ của các nước công nghiệp hóa tiến trong cả một thế kỷ. Từ năm 1960, tỷ lệ tử vong lúc sơ sinh, thiếu dinh dưỡng và mù chữ đang giảm xuống đáng kể, trong khi việc cung cấp nước sạch cho dân đang tiếp tục được cải thiện. Trong một thời gian tương đối ngắn, những nước và những vùng mở cửa ra thế giới như Đài Loan, Singapore, Chile, Israel, Chi lê và Thụy Điển đã đạt được mức sống tương đương với Hoa Kỳ và Nhật Bản, trong khi kích thước của giai cấp trung lưu trong các nước như Thái Lan, Brazil, Ấn Độ và Hàn Quốc đã tăng lên, nhờ có toàn cầu hóa. Mời bạn xem bài sau đây của tạp chí The Economist (8/1/2000) : HÃY CẢNH GIÁC: Các công ty đa quốc gia đang hoành hành, cướp bóc công ăn việc làm, xóa bỏ lương bổng và nói chung đang phá hủy các nền kinh tế địa phương. Đó là những điều giới chỉ trích chống toàn cầu hóa lập luận. Nhưng nếu lạnh lùng nhìn vào những con số thì ta thấy một câu chuyện hoàn toàn khác. Một nghiên cứu đối chiếu của OECD [Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế], nghiên cứu đầu tiên loại này cho ta thấy con số các hãng nước ngoài đóng góp cho các nền kinh tế quốc gia. Thực tế 1: Các hãng nước ngoài trả lương cho công nhân cao hơn mức lương bình quân – và khoảng cách này ngày càng rộng hơn. Ở Mỹ chẳng hạn, năm 1989, các hãng nước ngoài trả lương cao hơn lương nội địa 4 phần trăm; năm 1996, mức chênh lệnh đó là 6 phần trăm. Thực tế 2: Tại phần lớn các nước, các hãng nước ngoài tạo cơ hội việc làm nhanh chóng hơn các hãng nội địa. Tại Hoa Kỳ, nhân lực tại các hãng nước ngoài tăng 1, 4 phần trăm trong thời gian 1989-1996, so với con số tăng nhân lực 0, 8 phần trăm trong các hãng nội địa. Cả ở Anh và Pháp, nhân lực trong hãng nước ngoài tăng 1, 7 phần trăm/năm; trong khi ở các hãng nội địa, nhân công giảm 2, 7 phần trăm. Chỉ có ở Đức và Hà Lan thì các hãng nước ngoài mới giảm nhân công. Thực tế 3: Các hãng nước ngoài đầu tư nhiều vào nghiên cứu và phát triển (R&D) Ở những nước họ đầu tư. Năm 1996 mức R&D của nước ngoài chiếm 12 phần trăm tổng vốn dành cho R&D ở Mỹ, 19 phần trăm ở Pháp, và đáng kể nhất: 40 phần trăm ở Anh. Trong một số nước, các hãng nước ngoài dùng doanh thu vào R&D cao hơn là các hãng trong nước. Ví dụ ở Anh, hãng nước ngoài dùng 2 phần trăm doanh thu vào R&D, trong khi hãng nội địa chỉ chi có 1, 5 phần trăm cho R&D. Thực tế 4: Hãng nước ngoài xuất khẩu nhiều hơn các hãng nội địa. Năm 1996 các hãng nước ngoài ở Ireland xuất 89 phần trăm sản phẩm của họ, trong khi các hãng nội địa xuất có 34 phần trăm sản phẩm. Sự chênh lệch ở mức 64-37 phần trăm diễn ra ở Hà Lan, 35, 3-33, 6 phần trăm ở Pháp và 13, 1-10, 6 ở Nhật Bản. Ngoại lệ lớn nhất là Hoa Kỳ trong đó hãng trong nước xuất 15, 3 phần trăm trong khi hãng nước ngoài xuất 10, 7 phần trăm. Những lợi ích của đầu tư nước ngoài còn cao hơn tại các nước nghèo hơn trong OECD. Ví dụ Thổ Nhĩ Kỳ: Tại đó lương trong các hãng xưởng nước ngoài bằng 124 phần trăm lương trung bình; mức nhân công của hãng nước ngoài tăng 11, 5 phần trăm/năm, so với con số tăng 0, 6 phần trăm trong các hãng xưởng nội địa; và R&D của các hãng nước ngoài cao gấp đôi so với chi phí của các hãng nội địa. Rõ ràng là trong khi sự chống đối nhằm vào toàn cầu hóa đang còn đó thì sự chống đối này cũng bị kiềm chế vì nguyện vọng của người dân muốn toàn cầu hóa nhiều hơn nữa. Không cần phải là một nhà khoa học chính trị thì mới biết được điều đó. Chỉ cần bạn đi dạo trên bất cứ phố phường nào, đặc biệt trong bất cứ đất nước đang phát triển nào: Bạn sẽ gặp Chanokphat Phitakwanokoon, 40 tuổi, phụ nữ người Thái gốc Hoa, bán thuốc lá và bánh bao trong một kiosk trên đường Wireless Road, trung tâm Bangkok. Tôi đã ngụ tại một khách sạn gần đó hồi tháng 12/1997, vào cái tuần mà chính phủ cho đóng cửa phần lớn các quỹ tín dụng của đất nước. Tôi nhờ người phiên dịch đi cùng để đưa tin về phản ứng của những người buôn bán trên hè phố. Người đầu tiên tôi gặp là Chanokphat. Trước hết tôi hỏi chị: "Hàng họ buôn bán thế nào rồi?" " Sụt mất 40-50 phần trăm," chị buồn rầu trả lời. Tôi hỏi có bao giờ chị biết ai tên là George Soros, tỉ phú, chủ một quỹ đầu cơ, người bị đổ tội là đã đầu cơ các đồng nội tệ Á châu và khiến chúng sụt giá. "Không," chị lắc đầu. Chị chưa bao giờ nghe về người này. "Vậy xin hỏi chị, chị có biết thị trường chứng khoán là gì không?" tôi hỏi tiếp. "Có," chị nhanh nhẹn trả lời. "Tôi có cổ phiếu của Bangkok Bank và Asia Bank." "Vì sao chị biết mà lại mua cổ phiếu của chúng?" tôi hỏi. "Bà con của tôi ai cũng mua, vậy là tôi mua," chị trả lời. "Tôi giữ các cổ phiếu trong ngân hàng, giờ đây chúng chẳng còn mấy giá trị." Vào phút đó tôi nhìn xuống và thấy chị không đi giày dép gì cả. Có thể chị vứt giày ở đâu đó, nhưng đúng là chị đang đi chân không. Tôi tự nhủ: "Chị này không có giày dép, văn hóa chỉ khoảng lớp năm, vậy mà lại sở hữu cổ phiếu ngân hàng trên thị trường chứng khoán." Có những câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi: Những niềm quan tâm của chị ta là gì? Liệu chị có định dẫn đầu một đám biểu tình đến đốt tòa trụ sở của IMF, một tổ chức đã ép buộc Thái Lan phải cải tổ và thắt lưng buộc bụng? Hay là, do giờ đây chị này đã hội nhập vào hệ thống, liệu chị có cố gắng làm việc nhiều hơn, tiết kiệm hơn và hy sinh nhiều hơn, thậm chí hy sinh cho IMF, nếu điều đó giúp khôi phục kinh tế Thái Lan? Tôi có cảm giác chị sẽ thực hiện lựa chọn sau. Tập hợp lực lượng là như vậy đó. Trên phố bạn cũng có thể gặp Teera Phutrakul, đứng đầu một một trong những quỹ hỗ tương lớn nhất ở Thái Lan. Tôi đến phỏng vấn ông ta và hỏi liệu sẽ có một phản ứng ở Thái Lan nhằm vào các ông chủ nhà băng người Mỹ và phương Tây, những người có thể vào mua chiếm lĩnh các ngân hàng và doanh nghiệp Thái Lan, vì giờ đây tiền Thái mất giá và khá nhiều các doanh nghiệp đang lỗ chỏng vó. Teera nghĩ một lúc rồi trả lời, bằng cách kể cho tôi một câu chuyện: Vài tuần trước đó, một người bạn của ông bị mất ví. Trong ví có những thẻ tín dụng của bốn ngân hàng: American Express, và ba ngân hàng Thái Lan. Người này ngay lập tức đã gọi điện cho các ngân hàng đó để báo về chuyện mất cắp thẻ tín dụng. American Express hỏi nếu anh ta muốn thì họ có thể cấp thẻ mới, gửi Honda ôm, mang đến cho anh ngay hôm đó. Nhưng với các ngân hàng Thái thì cho mãi đến hôm nay, vẫn chẳng thấy họ hồi âm cho anh bạn này. "Vậy thì," Teera nói, "hãy tự hỏi: 'Liệu anh bạn tôi có cần quan tâm xem liệu ba ngân hàng Thái Lan đó bị Citibank mua lại và nâng cấp chất lượng để theo kịp American Express hay không?'" Nhưng còn vấn đề niềm tự ái dân tộc? Ừ thì tự hào, nhưng tự ái này sẽ giảm đi nếu ngân hàng thuê nhân lực Thái Lan và làm ăn có lãi có hiệu quả như Citibank hay American Express. Tập hợp lực lượng là như thế đấy. Trên phố bạn cũng có thể gặp Liliane, 32 tuổi, một nhân viên xã hội người Brazil sống ở khu Rocinha ở Rio, làm việc cho chính quyền địa phương. Chị cho tôi đi xem một trung tâm trông trẻ em trong khu phố nghèo, và trên đường đi đã giải thích rằng chị đã tiết kiệm hàng năm trời để có thể chuyển gia đình ra khỏi khu phố nghèo đó. Giờ đây gia đình của chị đã kết nối được với Thế giới Đi nhanh, và chị không bao giờ muốn thế giới đó bị loại bỏ. Chị nói: "Khi còn nhỏ, tôi thấy tất cả mọi người trong xóm không có TV, họ đến xem nhờ trong một gia đình. Giờ đây tôi chuyển đến chỗ mới, cách sở làm là một giờ 20 phút, đi làm lâu hơn trước một tiếng, nhưng đó không phải là nơi ổ chuột và ổ tội phạm. Tôi chuyển gia đình đến đó để tránh xa những tay buôn ma túy. Mỗi tháng, lương của tôi là 900 real. Giờ đây tôi có thể mua một chiếc điện thoại. Nhà chúng tôi là nhà gạch, không còn là nhà lá, và đến cuối tháng vẫn còn để dành được ít tiền. Khi có nạn lạm phát, không ai được mua hàng theo lối khất nợ vì không ai kham nổi mức lãi suất nợ. Ngày nay, ngay cả người nghèo cũng có điện thoại, truyền hình cáp và nhà cửa thì có điện vào. Tôi cũng có những vật dụng cơ bản như của người giàu. Giờ đây tôi có thể khiếu nại về [chất lượng] các dịch vụ [công ty điện thoại hay nhà máy điện] . Trước đây chúng tôi không được hưởng những dịch vụ đó, nên không thể khiếu nại chuyện đó được." Đó chính là hiện tượng tập hợp lực lượng. Bạn sẽ gặp Fatima al-Abdali, một nhà khoa học nghiên cứu môi trường, chủ của Coffee Valley, quán cà phê Internet nổi tiếng nhất thủ đô Kuwait, nơi bạn có thể vừa Uống cà phê vừa vào mạng. Tốt nghiệp ở Mỹ, al-Abdali vẫn đeo khăn che mặt theo truyền thống Hồi giáo, nhưng đã trở thành một người hiểu biết cao về Internet. Và chị là một trong những cử tọa trong phiên tôi giảng bài về toàn cầu hóa ở Kuwait vào năm 1997. Sau bài giảng, chị mời tôi đến quán cà phê, cũng để gặp một vài sinh viên ở đó. Quán này nằm trong một thương xá trong trong phố. Khi ngồi vào bàn, tôi nói với chị: "Có một điều tôi không hiểu, xin chị giải thích. Chị trùm khăn che mặt, chắc chắn là một người theo đạo, nhưng lại tốt nghiệp ở một đại học ở Mỹ, và giờ đây đang giới thiệu Internet cho dân chúng Kuwait. Tôi không rõ về sự kết hợp như vậy." Đại thể câu trả lời của chị là, trong quá khứ có nhiều lần thế giới Ả rập bị nước ngoài xâm lăng, và chính họ cũng mang đến những ảnh hưởng và công nghệ khác lạ. Nhưng, chị nói, lần này thêm một cuộc xâm lăng mới, nhưng lại do chính những người Ả rập gây ra. Họ chiếm giữ công nghệ mới, chứ không để công nghệ mới điều khiển họ. Chị dự định sẽ dùng tấm khăn choàng quanh Internet và muốn những bạn trẻ đến quán chị cũng dùng khăn choàng đúng cách. Tôi kính phục cố gắng của chị. Đừng chống lại nó – hãy tận dụng và chiếm hữu nó. "Cách đây ba năm tôi nảy ra ý nghĩ mở một cà phê Internet," chị nói. "Tôi biết Internet đang tràn đến và nếu tôi không mở một dịch vụ như thế thì sẽ có người khác làm. Tôi nhận thấy chúng ta có thể kiểm soát nó về một số phương diện, vậy thì hãy đào tạo dân chúng về những điều hay của nó, khiến nó hội nhập với văn hóa của chúng tôi, hơn là chịu để nó lũng đoạn. Tôi áp dụng, khiến cho nó thích nghi, và giờ đây tôi đang dần dần giới thiệu về quyền của phụ nữ [Hồi giáo] trên trang web của mình. Al-Abdali đã mời một số sinh viên thuộc đại học Kuwait đến. Một người tình cờ cho biết họ vừa tổ chức bầu cử đại diện sinh viên trong trường và những thành phần chính thống Hồi giáo đã bị các phe độc lập, tự do và thế tục đánh bại. Bầu cử sinh viên là một hoạt động quan trọng trong thế giới Ả rập, vì nó có khuynh hướng tự do nhất, và vì thế chúng bộc lộ rõ nhất về thái độ chính trị của dân chúng, ít nhất là trong thế hệ trẻ. Tôi hỏi Abdul Aziz al-Sahli, một sinh viên 21 tuổi ngành truyền thông, vì sao những người cực đoan Hồi giáo bị thua phiếu." Người Hồi giáo cực đoan không còn sức thu hút, "anh này nói." Những phái thế tục đang giúp đỡ sinh viên nhiều hơn trong những chuyện mà sinh viên đặc biệt quan tâm – in ấn, sửa chữa trong kỹ thuật email, sách thư viện, đậu xe. Xã hội giờ đây không còn duy ý chí nhiều nữa. Chúng tôi chỉ muốn đi tìm việc làm. "Đó chính là hiện tượng tập hợp lực lượng. Bạn sẽ gặp hai người bạn Australia của tôi, nhà nghiên cứu khoa học xã hội Anne và chồng là Gerard Henderson. Nhà Hendersons gặp tôi ở Washington và kể với tôi về con gái của họ đang theo học đại học ở Australia:" Johannah, con gái của chúng tôi, 21 tuổi, "Gerard kể." Một hôm, cháu và bạn ở chung nhà nhận được một lá thư của Telstra, công ty điện thoại Úc, thông báo rằng một phần ba công ty này đã bị tư hữu Hóa, và mỗi gia đình Úc dùng dịch vụ Telstra sẽ được phép mua cổ phần của công ty. Cháu gọi điện hỏi ý kiến chúng tôi, và chúng tôi nói, được, cứ mua đi. Vậy là cháu mua. Cháu có rất ít tiền – lúc đó giá là 3 đô-la Úc một cổ phiếu, và cháu đã mua 300 cổ phiếu. Cháu nó vẫn chưa được hưởng lương. Cháu có thể trở thành một nhân viên thư viện, hay một cô giáo, hay một người làm công ăn lương chăm chỉ, nhưng cháu là người đầu tiên trong gia đình đứng ra mua cổ phiếu của Telstra. Những công nhân trong công ty Telstra đã mua tổng cộng 90 phần trăm số cổ phiếu, và họ đã trở nên hiền hòa, không thấy phản đối nhiều trong chuyện công ty của họ bị tư hữu hóa. Dân chúng đã hiểu tầm quan trọng của việc làm như vậy. Chính phủ bảo thủ Úc đã dùng lập luận chống toàn cầu hóa để đánh bại chính phủ lao động của Paul Keating trong năm 1996, để rồi ngay sau đó dang tay tay chào đón toàn cầu hóa. Không có cách nào khác ngoài chuyện chấp nhận toàn cầu hóa, nếu bạn không muốn bị lạc hậu. Cách đây 10 năm, con gái tôi có lẽ sẽ gia nhập vào dòng biểu tình chống toàn cầu hóa, nhưng với những cổ phiếu Telstra mà cháu nó mua được, giờ đây cháu trở nên quan tâm nhiều hơn đến những gì xảy ra ở phố Wall. " Đó chính là tập hợp lực lượng. Nếu những trí thức đang chỉ trích toàn cầu hóa sử dụng thêm thời gian vào việc tìm cách tận dụng nó, thay vì tìm cách xé tan nó ra, thì họ có thể nhận ra những điều dễ hiểu – toàn cầu hóa có thể tạo ra những giải pháp và cơ hội cũng nhiều như những khó khăn nó gây ra. Nhưng liệu nó có có thể tạo ra giải pháp lớn nhất không? Liệu toàn cầu hóa, với sự trỗi dậy của Internet và các công nghệ hiện đại có thể cải thiện đời sống của những người ở dưới đáy xã hội – 1, 3 tỷ người đang sống ở mức 1 đô-la/ngày? Có rất nhiều những lập luận chính trị ngớ ngẩn theo lối thời trang đã xuất hiện, nói về điều đó. Những người chống toàn cầu hóa đã dùng những thông số cho thấy 90 phần trăm, hay tương đương, dân chúng trên thế giới không có điện thoại hoặc chưa bao giờ được gọi điện thoại. Vì lẽ đó, họ lập luận, toàn cầu hóa và Internet sẽ không có tác dụng gì đối với họ – mà chỉ làm tăng khoảng cách giữa họ và phần còn lại của dân chúng thế giới. Đây đơn giản là một lập luận sai lầm. Trước hết nói về công nghệ. Vào năm 2000 cứ cho rằng phần lớn dân chúng trên hành tinh chưa hề được gọi điện thoại, nhưng thực tế đó sẽ thay đổi vào năm 2005, và sẽ không còn là thực tế vào năm 2010. Theo đánh giá trong ngành viễn thông thì vào khoảng năm 2005, một tỷ những kết nối Internet di động, chi phí thấp sẽ được lắp đặt trên khắp thế giới – thông qua điện thoại di động, máy nhắn tin hay máy tính cầm tay. Và năm 2010 sẽ có khoảng 3 tỷ kết nối mới được lắp đặt. Chúng ta có khoảng một tỷ gia đình trên thế giới, những thiết bị viễn thông sẽ trở nên rẻ tiền hơn, không có lý do gì mà đại đa số những người nghèo trên thế giới lại không được kết nối mạng. (Một người bạn tôi trong ngành kỹ thuật đã đánh giá rằng vào năm 2010 thì khoảng 100 Triệu máy nướng bánh mỳ nhỏ, sẽ được lắp Internet, khi đó mọi công cụ điện tử đều sẽ được gắn phần mềm và nối mạng) Chính vì thế câu hỏi thực sự là một khi công nghệ được phổ biến rộng rãi thì liệu chúng có góp phần xóa đói nghèo hay không khi các cuộc cách mạng kỹ thuật trước đây đã không làm được? Khi đặt ra câu hỏi này, tôi không có ý nói phải là kỹ thuật hay việc thiếu kỹ thuật mới là yếu tố duy nhất để chống đói nghèo. Tạo ra môi trường ổn định chính trị, pháp luật và kinh tế giúp tăng cường sự hăng say làm ăn, giúp cho dân chúng bắt tay vào kinh doanh và tăng năng suất, chính là những yếu tố tiên quyết để chống đói nghèo ở mọi nơi mọi lúc. Nhà kinh tế Amartya Kumar Sen, đoạt giải Nobel, lập luận rõ ràng trong cuốn sách của ông Phát triển là một quyền tự do – rằng tự do, hay khả năng một người được đưa ra những quyết định trong cuộc sống của anh hay chị ta, không những là phương tiện hiệu quả nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và phát triển, mà là một mục đích tối hậu của con người ta. Khi bạn giao tài sản cho người nghèo, sống trong một môi trường bất ổn về chính trị, như Liberia hay Myanma, thì cũng chẳng lợi lộc gì. Nhưng khi trao tài sản vào tay người nghèo trong một môi trường ổn định và tự do, thì bạn sẽ thấy nhiều kết quả. Chính vì thế, Sen chỉ ra, chưa bao giờ nạn đói xảy ra trong một nền dân chủ, có đa đảng và tự do báo chí, điều này áp dụng cả với Ấn Độ." Tự do về chính trị, "Sen nói," cho phép những bộ phận yếu ớt nhất trong xã hội được lên tiếng và trao cho họ quyền được đòi hỏi và tiếp nhận những sự hỗ trợ khi xảy ra khủng hoảng. " Những đất nước nghèo nàn như Kenya và Zambia đã tụt hậu trong hệ thống toàn cầu hóa không phải do toàn cầu hóa làm hại họ, mà do họ đã không xây dựng được những hạ tầng chính trị, kinh tế và pháp luật tối thiểu để có thể tận dụng toàn cầu hóa. Sự thịnh vượng không phải đã bỏ họ mà ra đi, mà chính họ đã không tạo ra những điều kiện để giữ nó lại. Những nước như Uganda, Ba Lan hay Hàn Quốc đã có những lựa chọn đúng đắn và đã thu lợi rất nhiều từ toàn cầu hóa. Các quốc gia không bao giờ đơn thuần ngưng phát triển – điều mà chúng thiếu là những chính phủ đúng đắn. Do vậy chúng ta có thể sửa lại câu hỏi quan trọng kể trên. Có điều gì trong toàn cầu hóa mà có thể tăng cường được quyền tự do và đóng góp vào quá trình xóa nghèo đói, những điều mà những cải cách và tiến bộ kỹ thuật trước đây không thực hiện nổi? Câu trả lời là" có. "Tôi đã cố gắng giải thích trong chương 9 và 10 về cách thức toàn cầu hóa có thể giúp cho chính phủ chịu trách nhiệm cao hơn và giúp cho cá nhân, các nhà hoạt động và các công ty những quyền lực mạnh mẽ hơn đặng trở thành những nhà sáng lập trong một thế giới không còn rào cản. Điều đáng nói là người nghèo rồi sẽ hiểu và khai thác điều đó như thế nào. Dẫu có nguy hiểm đến đâu toàn cầu hóa vẫn có thể trao cho những người nghèo một khả năng to lớn hơn để họ có thể tuyên truyền, tập hợp và tự đối phó với sức công phá của chính toàn cầu hóa. Chính điều này giải thích và duy trì sự tập hợp lực lượng trong dân chúng. Chẳng hạn nhờ có Internet mà không còn chuyện chỉ một vài công ty truyền thông lớn giao tiếp với số đông, mà ngày nay thực tế đang cho thấy số đông đang giao tiếp với số đông. Tôi tìm hiểu điều này từ Chandra Muzaffar, Chủ tịch một tổ chức nhân quyền Malaysia mang tên Phong trào quốc tế vì một thế giới công bằng. Tôi đến gặp người đàn ông Hồi giáo hiền lành này trong văn phòng của ông ở thủ đô Kuala Lumpur. Tôi đến với một mục đích để nghe ông ta chỉ trích toàn cầu hóa, thay mặt cho những người bị hắt hủi và bỏ rơi, những người mà tổ chức của ông đang bênh vực. Nhưng ngược lại tôi đã nhận được một thông điệp nhẹ nhàng và thú vị hơn từ ông ta. " Tôi nghĩ toàn cầu hóa không phải chỉ là sự tái sinh của chủ nghĩa thực dân, "Muzaffar nói." Những người nói như vậy thật đã không hiểu vấn đề. Sự thể phức tạp hơn thế nhiều. Hãy nhìn quanh. Do toàn cầu hóa, đã có những thành phần văn hóa của những dân tộc bị đè nén lại đang xâm nhập lên phương Bắc. Món ăn phổ biến của người Anh ngày nay không còn là cá và khoai tây rán, mà là món cà ri. Cà ri không còn là món lạ miệng đối với người Anh nữa. Nhưng tôi không chỉ nói đến cà ri. Trong Ý thức hệ, hiện nay xuất hiện những quan tâm nhất định đối với những tôn giáo mới. Vậy thì trong khi có cái thế lực thống trị [Mỹ hóa], anh cũng thấy tư tưởng của những người bị thống trị đang lan tràn.. Hiện có nhiều cơ hội cho phép những người khác bộc lộ tư tưởng thông qua Internet. Iran kết nối với Internet rất chặt chẽ. Họ coi đó là một công cụ để họ phổ biến quan điểm của họ. Ở Malaysia, Mahathir được CNN đưa tin [đến khắp thế giới] . Chiến dịch vận động cấm mìn trên đất liền đang được tuyên truyền trên Internet. Đó chính là công của toàn cầu hóa giúp cho những nhóm dân chúng sống ngoài lề. Nói rằng đó là một thứ giao thông một chiều thì không đúng, và chúng ta phải hiểu được sự phức tạp của nó. Dân chúng hoạt động trong nhiều cấp độ khác nhau. Ở một mức họ có thể tức giận vì những bất công mà hiện tượng Mỹ hóa gây cho xã hội của họ, nhưng họ lại bàn về vấn đề đó khi ngồi trong quán McDonald's với con cái của họ, những người đang theo học tại Hoa Kỳ. "Tập hợp lực lượng đối mặt với chống đối toàn cầu hóa. Điều đó là thực tế ngay tại các xã hội phát triển. Tạp chí Forbes – khó có thể gọi là thứ tạp chí bênh vực cho người nghèo – đã đăng một bài rất hay vào tháng 7/1998 sau phim tài liệu của Time Warner- CNN (7/6/98) nói về lực lượng Mũ Nồi Xanh của Mỹ đã dùng dùng hơi ngạt đối với những kẻ phản bội ở Lào năm 1970. Ngay sau bản tin, những cựu chiến binh Mỹ đã tố cáo cái gọi là sự thật về chiến dịch Tailwind dựa trên các báo cáo giả mạo và các nguồn tin mơ hồ. Mặc cho rất nhiều khiếu nại, nhưng tập đoàn truyền thông khổng lồ CNN đã không đưa ra cải chính gì về bản tin. (Những người khổng lồ truyền thông toàn cầu thường không xin lỗi ai, đặc biệt không có chuyện xin lỗi cựu chiến binh) " Time Warner có thể đã dự kiến mọi khiếu nại rồi cũng đi vào quên lãng, "tạp chí Forbes cho biết." [nhưng] những cựu chiến binh chiến trường Việt Nam đã sử dụng Internet – vũ khí duy nhất mà họ có. Không có Internet thì có khi phải mất hàng tháng mới có thể tìm ra sự thật, mà đến lúc đó thì chẳng còn ai nghe họ nữa.'[Internet]cho phép tôi làm trong ba ngày những việc mà [nhà làm phim CNN] April Oliver làm trong 8 tháng, ' đại tá không quân Perry Smith (đã nghỉ hưu), một tư vấn quân sự cho CNN, người đã đi khỏi CNN để phản đối phim tài liệu đó. Smith cho biết trong đêm mà phim tài liệu đó được chiếu, ông ta đã viết xuống một loạt các câu hỏi xung quanh điều gì đã xảy ra hồi đó ở Lào. Chỉ bấm một nút, ông ta đã gửi email đến hơn 300 nguồn tin của riêng ông – "Email được gửi khắp nơi, ' Smith giải thích". Hồ sơ về chiến dịch Tailwind thời đó là tối mật, vậy là nếu những người cựu chiến binh phải đợi các vị quan liêu trong Bộ Quốc phòng quyết định cho công bố hồ sơ thì sẽ mất nhiều thời gian mới bác bỏ được tư liệu của CNN, và lúc đó thì quá muộn. Nhưng bằng cách dùng email, chi phí hầu như bằng không, các cựu chiến binh đã tập hợp hồi ức của họ từ những binh sĩ có mặt thời gian đó, rồi trong vài ngày cho công bố. Họ quả đã giáng cho CNN một cái tát. Những cựu chiến binh, nhận tiền hưu trí, trang bị bằng email đã buộc ông Rick Kaplan, Chủ tịch CNN, lương cao, xuất hiện trên chính truyền hình CNN của ông ta, run run giống như một con hươu bị rọi đèn, bác bỏ phim tư liệu đó và xin lỗi lên xin lỗi xuống, để cố gắng giữ cho được công ăn việc làm của chính ông ta, và khôi phục uy tín cho truyền hình CNN. Tỷ số: Cựu chiến binh với email: 1 – Time Warner-CNN, tập đoàn truyền thông hùng mạnh nhất thế giới: 0. Trong khi Internet và toàn cầu hóa có thể và sẽ ngày càng tạo ra tự do ngôn luận cho các cá nhân và sự minh bạch trong chính phủ, vì sao tôi lại tin rằng chúng sẽ góp phần một cách độc đáo vào việc xóa nghèo đói? "Vì Internet đến với dân chúng nhanh hơn bất cứ công nghệ nào khác," Alan Hammond, Trưởng khoa học gia của Viện Tài nguyên Thế giới giải thích. "Một trang web dịch sang ngôn ngữ Ấn Độ, Trung văn, Swahili và Tây Ban Nha có thể trở thành một kho tư liệu cho khoảng hai tỷ dân. Nó có thể giúp dân chúng, thậm chí những người nghèo nhất, tìm cách thoát khỏi nghèo đói, tạo lợi ích kỹ thuật số thay cho hố ngăn cách kỹ thuật số. Xin xem một câu chuyện của Iqbal Z. Quadir, ông chủ ngân hàng người Mỹ gốc Bangladesh." Đầu năm 1993, "Quadir kể," tôi được tuyển vào làm trong một hãng đầu tư ở New York, ở đó tôi và đồng nghiệp cùng phối hợp viết các báo cáo, lưu giữ và chia sẻ chúng trên các đĩa máy tính mềm, lắt nhắt. Sau đó khi các máy tính của chúng tôi được nối vào một mạng nội bộ, giảm được việc phải trao đổi các đĩa mềm, chúng tôi đã viết báo cáo nhanh hơn, làm việc sáng tạo hơn và đầy hứng thú. Điều đó khiến tôi nhớ lại kỷ niệm của tôi trong một ngôi làng ở nông thôn Bangladesh trong thời gian chiến tranh giành độc lập của nước này, năm 1971. Chiến tranh nổ ra đầu tiên ở đô thị, khiến gia đình tôi tản cư vào một vùng quê hẻo lánh. Cả vùng đó không có Công nghệ hiện đại, ngoại trừ hai chiếc phà máy dùng để chở khách và hàng hóa giữa hai thị trấn, nó dừng bến làng tôi. Trong nhiều tháng, chiến tranh khiến cho dịch vụ chuyên chở bị đình đốn. Khi dịch vụ trở lại thì nó đã khiến cuộc sống vùng tôi thay đổi tích cực. Nông dân và ngư dân bán sản phẩm của họ với giá cao hơn, hàng hóa đa dạng hơn. Sự cải thiện lên đến mức tôi có thể thấy tận mắt, dù cho lúc đó chỉ mới 13 tuổi. Thêm nữa, trong thời gian đó tôi phải đi bộ rất nhiều giữa hai ngôi làng. Cha mẹ nói tôi đi bộ 10 km sang làng bên để nhận ít thuốc men từ một dược sĩ ở đó. Nhưng sau khi đi hết buổi sáng, đến nơi, tôi mới biết là ông dược sĩ đó đã vào thành phố để mua thêm thuốc. Và thế là mất cả buổi chiều tôi đi bộ quay lại làng của mình. Sau đó nhờ có phà nối hai làng mà đỡ phải đi bộ. Khi máy tính trong sở của tôi được nối mạng vào năm 1993, tôi nhớ lại những năm tháng bị phí hoài thời 1971, và thấy nảy sinh một thực tế. Kết nối chính là điều sẽ tăng năng suất, dù đó là chuyện xảy ra trong một văn phòng hiện đại hay trong một ngôi làng nghèo túng; kết nối sẽ tăng tiềm năng; không kết nối sẽ gây tê liệt và thui chột tiềm năng. "Nếu kết nối đồng nghĩa với năng suất," Quadir nhớ lại, "thì nó cũng là một vũ khí chống nghèo đói. Nhưng dân Bangladesh của tôi năm 1993 đã làm gì để chống nghèo đói? Qua nghiên cứu, tôi thấy Bangladesh đã qua những bước phát triển mà ít cần đến điện thoại, tôi không hiểu được sức người bị uổng phí bao nhiêu trong việc đi lại ở cái đất nước 120 triệu dân đó. Trong 1.000 người dân chỉ có hai người có điện thoại, và trong vùng nông thôn với hơn 100 triệu dân thì hầu như không có điện thoại. Đây là một thực tế phũ phàng vì ngày nay những hình thức kết nối mới đang không ngừng xuất hiện, với Internet và Email, tạo ra những chuyển biến ngay cả ở những nền kinh tế trưởng thành như của Mỹ chẳng hạn. Vào thời điểm này năm 1993, tôi được biết chính phủ Bangladesh đang có sáng kiến cấp giấy phép hoạt động cho các dịch vụ điện thoại di động, dự định bắt đầu vào năm 1994. Đây là điều rất phù hợp. Để có được sự kết nối liên lạc trong vùng nông thôn cần phải có một cách thiết lập một hệ thống liên lạc điện thoại – trong trường hợp đó, điện thoại di động là thích hợp nhất – và cần phải có giấy phép của chính phủ. Tôi đã phải hành động thật nhanh. Mặc dù thu hút đầu tư để xây dựng viễn thông ở nông thôn Bangladesh là một việc khó khủng khiếp, nhưng tôi nghĩ phải tìm ra một cách. Nếu kết nối có nghĩa là tăng năng suất, vậy thì cần phải giành trước những phần lời lãi của năng suất đó để có thể trang trải cho việc đầu tư vào kết nối. Điều quan trọng, tôi cứ nghĩ trong đầu, không phải là cần bao nhiêu tiền để cho một làng mua cho được các dịch vụ điện thoại, mà là nếu có những dịch vụ đó thì làng đó sẽ làm ra bao nhiêu tiền. Dân làng sẽ dùng lợi tức từ việc sử dụng dịch vụ để trả cho chính dịch vụ họ được hưởng." Nhưng làm thế nào để khởi sự? "Một đốm sang hy vọng xuất hiện Grameen Bank," Quadir kể tiếp. "Ngân Trong bối cảnh đó là định chế mang tên hàng chuyên cung cấp các khoản vốn vay Nhỏ, hoạt động trong 35.000 làng mạc, có 1.100 chi nhánh và 12.000 nhân viên. Thông thường một phụ nữ sẽ vay 100 hay 200 đô-la, miễn thế chấp từ Grameen Bank để mua, ví dụ, một con bò. Con bò này sẽ cho sữa, chị sẽ bán sữa cho người hàng xóm, kiếm đủ tiền để sống và trả dần khoản vay ban đầu. Quá trình đó sẽ giúp những người nghèo đói nhất đứng dậy. Đối với tôi, khả năng kết nối có thể được tổ chức theo cách tương tự. Nghĩa là một điện thoại di động cũng giống như 'con bò nọ' – ít nhất là trong cách nhìn của người đi vay vốn. Một phụ nữ có thể vay 200 đô-la từ nhà băng, mua một điện thoại di động, dùng nó, đi từng nhà, mời chào dân làng sử dụng, và thu phí, như vậy vừa kiếm ra tiền, vừa có thể trả nợ ngân hàng. Đề nghị của tôi được Muhammad Yunus, người sáng lập Grameen Bank chú ý. Không có ông ta thì chẳng làm được gì. Ông ta khuyến khích và năm 1994, tôi đã bỏ việc ở hãng đầu tư và thuyết phục Joshua Mailman, một nhà đầu tư người Mỹ có đầu óc xã hội, cùng tôi lập một công ty ở New York. " Hai năm sau, kết quả là ra đời một quan hệ đối tác gọi là Grameen Phone Limited – một công ty cung cấp dịch vụ điện thoại di động cho đô thị và nông thôn Bangladesh. Ngân hàng Grameen chịu trách nhiệm lựa chọn đối tượng phụ nữ để cho vay vốn, dựa vào hồ sơ của họ vay vốn trong quá khứ. Chẳng hạn một phụ nữ đã chứng minh rằng chị có một kỹ năng nhất định và có khả năng học hỏi thêm, sẽ được hỗ trợ cho vay vốn và mở dịch vụ điện thoại. Một yếu tố khác là nhà của chị nên nằm ở trung tâm một cộng đồng, ở giữa làng. Grameen cũng giúp cho ít nhất là một thành viên trong gia đình mở dịch vụ có thể đọc được ngôn ngữ và chữ số bằng tiếng Anh. Mỗi một người làm đại lý điện thoại như vậy trung bình có thể kiếm được hai đô-la một ngày. Và đã có rất nhiều câu chuyện kể về cách sống, cách làm ăn của dân làng thay đổi ra sao kể từ ngày điện thoại xuất hiện trong làng mạc của họ. Chẳng hạn có một phụ nữ suy nghĩ sẽ nuôi một đàn gà lớn hơn, một lối làm ăn mà chưa bao giờ chị dám nghĩ tới vì trước kia nếu gà ốm thì đã không thể gọi thú y cho kịp thời. Một người đàn ông muốn mở rộng vườn chuối của ông vì giờ đây ông có thể dùng điện thoại để hỏi thăm dò giá cả thị trường để quyết định thời điểm bán sản phẩm. Một người mẹ đã dùng điện thoại để gọi bác sĩ và đã cứu được đứa con của chị, cháu bị sốt cao. Những người dân Bangladesh lưu lạc làm ăn phương xa trên khắp thế giới giờ đây có thể gọi về nói chuyện với bà con gia đình họ, và kiểm tra xem tiền họ gửi về có đến tân tay người thân. Cả một sự tác động xã hội tích cực do liên lạc đem lại. Khi có những người phụ nữ nghèo đói nhất giờ đây có thể cầm trong tay phương tiện liên lạc toàn cầu, những làn sóng tiến bộ đã xuất hiện trong những làng bản xa xôi hẻo lánh. Ngay cả những người tương đối giàu có cũng tìm đến căn nhà của người phụ nữ nghèo khó để được sử dụng dịch vụ điện thoại. " Quadir cho biết anh rút được nhiều bài học từ kinh nghiệm đó. Một điều rõ ràng là kỹ thuật số đã cho ra một lối tư duy mới và những mô hình làm ăn mới thích hợp với Các nước nghèo. Nhưng cần phải có những định chế mới trong những quốc gia đó để có thể cung cấp công nghệ tới người dân thường để bản thân họ có thể tận dụng được sức mạnh kỹ thuật. Đó là điều GrameenPhone đã thực hiện. Bài học khác cho thấy không thể có cái gọi là" phát triển kinh tế "nếu không có tinh thần doanh nghiệp. Tinh thần doanh nghiệp là sức mạnh quan trọng nhất để nâng bậc các quốc gia và điều mà Internet và toàn cầu hóa có thể làm, với chút ít trí tưởng tượng, là đã khiến cho những người nghèo nhất ở Bangladesh có được tinh thần kinh doanh này. " Theo định nghĩa thì nước nghèo thường có đông dân dân nghèo, những nước này cần xác định dân nghèo của họ cũng chính là một trong những nguồn sức mạnh để đưa đất nước tiến lên, "Quadir kết luận." Nói cách khác, một chiếc điện thoại di động cũng là một 'con bò' đối với người cung cấp dịch vụ điện thoại, nhưng nó có thể là một 'con ngựa' đối với làng đó, con ngựa giúp kéo cả làng ra khỏi nghèo đói. " Những câu chuyện trên cho chúng ta thấy thực tế: Một đằng toàn cầu hóa sản sinh ra tâm lý thờ ơ xa lánh khi các thế lực và ảnh hưởng phát triển tới mức gần như vô hình và khó hiểu, một đằng nó cũng tạo ra những tiến bộ thực tế. Nó có thể tiếp cận những tầng lớp thấp nhất trong xã hội, tạo cho những người dân nghèo yếm thế những lợi thế, cơ hội và nguồn tài nguyên mới để họ có thể tự sáng tạo. Những câu chuyện trên cũng giải thích vì sao những phản ứng chống lại toàn cầu hóa cho đến nay vẫn chưa lôi cuốn được đông đảo quần chúng để phá tan toàn cầu hóa. Quá nhiều người dân vẫn còn muốn có hệ thống toàn cầu hóa, họ tiếp tục tìm đường để hội nhập vào hệ thống đó, dù cho quá trình hội nhập có khó khăn đến đâu. Bởi vì có quá nhiều người dân ở các nước đang phát triển tin rằng toàn cầu hóa là công cụ để họ nhanh chóng tìm ra một cuộc sống khá hơn, một công cụ hữu hiệu hơn tất cả những gì xưa nay họ có được. Liệu ai cũng tìm được công việc mình ưa thích? Chắc chắn là không. Liệu ai ở Sri Lanka cũng sẽ được trả lương cao như những người sống ở Seattle không? Không. Nhưng liệu những cơ hội việc làm do Bầy Thú Điện Tử tạo ra ở các nước phát triển có hay hơn những công việc khác, nảy sinh từ cảnh nghèo khó, từ việc bóc lột tình dục từ trẻ em không? Chắc chắn rồi. Những cơ hội việc làm đó là những bước đầu tiên cho dân nghèo bước khỏi cảnh nghèo túng? Chắc chắn. Nhà kinh tế Paul Krugman đã thẳng thắn chỉ ra:" Sự thật trần trụi cho thấy mỗi điển hình phát triển kinh tế thành công trong thế kỷ trước – mỗi khi có một quốc gia hăng say làm ăn để tiến lên sự thịnh vượng, hay ít nhất đã đạt được mức sống khá hơn – đã diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa; có nghĩa là họ đã sản xuất cho thị trường toàn cầu thay vì chỉ tự cung tự cấp. Nhiều công nhân tham gia sản xuất cho thị trường thế giới đã không được trả lương xứng đáng theo mức của Thế giới Đi nhanh. Nhưng không thể nói rằng họ đã bị toàn cầu hóa làm cho đói khổ.. thì bạn đã quên rằng chính họ là những người rất nghèo, trước khi họ nhận được công việc phục vụ xuất khẩu. Và nếu nghĩ như thế thì bạn cũng đã làm ngơ trước một sự thực là những ai không vào Được toàn cầu hóa thì nghèo kém hơn nhiều so với những ai được vào. "(Slave, 23/11/1999) Chính vì thế mà rất nhiều đại diện từ các nước đang phát triển đã rất lo buồn tại hội nghị thượng đỉnh WTO tại Seattle năm 1999 khi Hoa Kỳ và các nước phát triển khác đã dọa cắt họ khỏi mậu dịch toàn cầu nếu trong một thời gian ngắn họ không cải thiện được quyền lợi cho công nhân và tình hình môi trường của mình – mặc dầu những thông điệp đó chẳng qua là một thời trang chính trị do các nghiệp đoàn thợ thuyền Hoa Kỳ đề ra để kêu gọi giảm bớt thương mại với các nước có mức lương công nhân còn thấp. Nếu không có mức lương thấp đó thì các nước đang phát triển không thể bước những bước đầu tiên vào nấc thang phát triển, điều kiện tiên quyết cho phép họ cải thiện tiêu chuẩn môi trường và đời sống công nhân. Vì thế những phản ứng chống toàn cầu hóa trong hàng ngũ những trí thức phương Tây đã và đang mạnh hơn những phản ứng trong hàng ngũ công nhân ở các thị trường mới nổi. Những công nhân ở đó có thể không thích nhiều điều thuộc về toàn cầu hóa, nhưng họ có còn giải pháp nào tốt hơn không? Chưa ai biết được. Có lúc những khẩu hiệu trên đường phố Seattle và những bức tranh bôi bẩn lên tường được báo chí tung ra thành tin tức đáng chú ý. Nhưng có lúc những sự im lặng cũng rất đáng chú ý. Là một phóng viên, sự thành công đối với bạn là khả năng phân biệt được sự khác nhau giữa hai sự việc nói trên. Tôi thấy mẩu tin quan trọng nhất từ châu Á và Nga trong năm 1998 và 1999 là sự im lặng tương đối trong hàng ngũ những tầng lớp trung lưu và dân nghèo ở Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia và Liên Xô cũ. Họ chấp nhận sự phán quyết về thị trường tự do – chấp nhận rằng đất nước của họ có những khó khăn liên quan tới hệ điều hành và các phần mềm, và họ sẵn sàng chịu bị trừng phạt và cố gắng đưa ra những điều chỉnh cần thiết. Giai đoạn này kéo dài bao lâu thì khó mà đoán trước, nhưng nó gây bối rối trong số những người dự đoán về sự thất bại của toàn cầu hóa. Sau mỗi cơn hỗn loạn trong kinh tế toàn cầu, sau mỗi cuộc thử nghiệm hạt nhân của Ấn Độ, sau mỗi cuộc họp thượng đỉnh của WTO, những chuyên gia nói trên đều kết luận rằng toàn cầu hóa đã bị" cáo chung, "hệ thống toàn cầu hóa đang đổ vỡ và dân nghèo sẽ vùng lên chống lại nó. Toàn cầu hóa bao giờ cũng là khái niệm bị chôn vùi trong trí óc của những người không hiểu về nó, không hiểu về hoài bão thực sự của con người. Những người chống toàn cầu hóa chắc chưa bao giờ gặp những người như Liliane hay Teera, Chandra hay Iqbal, hay cô con gái của nhà Hendersons hay những người thợ mỏ ở Nga, chưa nói đến người phụ nữ nhỏ nhắn ở Hà Nội. Khi nào tất cả những con người nói trên bỏ cuộc, không muốn gia nhập Thế giới Đi nhanh, tuyên bố rằng họ thích quay về những hệ thống cũ kỹ, đóng cửa và bị kiểm soát, và khi họ bỏ cuộc không muốn tìm đến một cuộc sống tốt hơn – cho bản thân hay cho con cháu của họ – thì tôi sẽ đầu hàng, chấp nhận toàn cầu hóa bị" diệt vong "và rằng những người chống đối toàn cầu hóa Thắng cuộc. Nhưng cho đến ngày đó thì cho phép tôi được chia sẻ với bạn một điều bí mật nhỏ, tôi thu lượm được khi trò chuyện với những con người nói trên:" Những người nghèo đói trên trái đất"chỉ muốn đến cho được Disney World – chứ không còn muốn dựng chiến lũy. Họ muốn có Vương quốc Mầu nhiệm chứ không muốn trở thành Những người khốn khổ. Và nếu bạn có thể xây dựng được những môi trường chính trị và kinh tế mà tạo cho họ được chỉ một chút hy vọng, rằng bằng cách làm việc hăng say và hy sinh thì sẽ đến được Disney World và thưởng thức Vương quốc Mầu nhiệm – thì phần lớn những người đó sẽ gắn bó với cuộc chơi toàn cầu hóa lâu, lâu hơn mức bạn tưởng tượng.
Phần IV: Hoa kỳ và toàn cầu hóa. 17. Sự phấn khích hợp lý. Bấm để xem Khi Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang đưa ra đánh giá nổi tiếng vào đầu năm 1997, cảnh tỉnh những nhà đầu từ ở thị trường chứng khoán Hoa Kỳ trước "sự phấn khích vô lý," trong cung cách họ kích giá của các cổ phiếu lên vượt quá các tính toán giá và lãi, tôi đã viết một cột báo, trong hình thức một bức thư gửi ông Greenspan, coi ông ta là một bác sĩ tư vấn cho tờ báo. Cột báo của tôi bắt đầu như sau: "Thưa bác sĩ Greenspan, tôi có một chứng bệnh tồi tệ. Tôi cảm thấy hớn hở một cách vô lý về thị trường chứng khoán Hoa Kỳ mà không cách gì kìm lại được. Tôi biết ông đã nói" phấn khích một cách vô lý "thì sẽ không tốt cho sức khỏe, và tôi đã thử chữa bằng rất nhiều phương pháp: Thôi miên, thuốc an thần, bán đổ bán tháo. Thậm chí đã đọc lại bài phát biểu của ông hồi năm 1987. Nhưng vẫn không qua khỏi chứng bệnh đó. Mỗi lần tôi sang châu Âu hay Nhật Bản, thì khi quay về tôi lại muốn đầu tư thêm nhiều vào thị trường Hoa Kỳ. Làm ơn hãy giúp tôi. Trân trọng. Ký tên Người đầu tư qua hệ thống điện tử." Sau đó tôi nói tiếp rằng tôi không biết về cái mức độ hoạt động đúng đắn mà thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ phải tuân thủ, và tin rằng nếu Hoa Kỳ không tiếp tục thực hiện những biện pháp căn bản như tăng năng suất và giữ lãi suất cùng lạm phát ở mức thấp, thì giá cả trên thị trường chứng khoán sẽ đi xuống. Nhưng điều tôi muốn nói là nếu có những sự nhiệt tình thái quá thể hiện ở các thị trường của Hoa Kỳ, thì đó là vì không những ở đó có nhiều những "sự phấn khích vô lý", mà còn có cả những sự phấn khích có lý về nước Mỹ. Do thường ra nước ngoài nhiều và ít khi ở gần phố Wall, tôi thường nhìn nước Mỹ từ bên ngoài – và tôi thường chứng kiến những thái độ niềm nở có lý mà thế giới dành cho nước Mỹ. Sự niềm nở đó được xây dựng trên lô gíc sau đây: Nếu coi toàn cầu hóa là một hệ thống quốc tế chủ đạo ngày nay, và nhìn vào những đóng góp từ các công ty và nhà nước cho hệ thống đó, thì bạn có thể kết luận rằng Hoa Kỳ có nhiều tài sản nhất và ít nợ nần nhất trong hệ thống, hơn bất cứ nước lớn nào khác. Đó là điều tôi gọi là sự phấn khích có lý. Cảm giác chung trong giới đầu tư toàn cầu cho thấy trong khi nhiều nơi ở châu Âu và châu Á vẫn đang phải cố gắng điều chỉnh xã hội của họ để thích nghi với toàn cầu hóa, trong đó có những nơi chỉ mới bắt đầu, thì Chú Sam đã chạy được một quãng dài và đang tiếp tục tiến rất nhanh. Một cách dễ hiểu để phân tích sự phấn khởi có lý nói trên là hãy đặt vấn đề sau đây: Nếu cách đây một trăm năm, đến gặp một nhà địa lý kiêm kiến trúc sư, bạn nói với ông ta rằng vào năm 2000 sẽ có một hệ thống thế giới gọi là "toàn cầu hóa," thì ông ta sẽ thiết kế một đất nước như thế nào để có thể cạnh tranh và thắng được trong Thế giới đó? Câu trả lời sẽ là đất nước đó sẽ rất giống nước Mỹ ngày nay. Nghĩa là: Trước hết, ông ta sẽ thiết kế một đất nước có vị trí địa lý có sức cạnh tranh lý tưởng. Ông sẽ thiết kế một cường quốc của cả Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, thoải mái trông ra cả hai hướng, ở trên bộ thì nối với Canada và Mỹ La tinh, khiến cho nó có thể tương tác được với ba thị trường chủ chốt của thế giới –Á, Âu và Mỹ. Thật tiện lợi. Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có dân cư đa dạng, đa văn hóa, đa sắc tộc, đa ngôn ngữ, những người có quan hệ tự nhiên với tất cả các lục địa trên trái đất, nhưng đồng thời được gắn bó bởi chỉ một ngôn ngữ – tiếng Anh – một thứ tiếng chủ chốt dùng trên Internet. Ông ta sẽ đặt vào đất nước này ít nhất là năm nền kinh tế địa phương nhưng chỉ một đồng tiền chung, đồng đô-la, cũng là đồng ngoại tệ mạnh, làm dự trữ ngoại tệ cho tất cả các nước trên thế giới. Một đồng tiền chung cùng với năm nền kinh tế địa phương là thứ tài sản quý báu, vì khi một vùng kinh tế gặp khó khăn thì lại có một vùng kinh tế khác ăn ra làm nên để bù đắp, lấp đi những khoản thiếu hụt trong chu kỳ thương mại. Đó là một điều tiện lợi. Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có những thị trường tư bản hữu hiệu, đa dạng và đầy sáng tạo, nơi gọi vốn mạo hiểm được coi là một nghệ thuật đáng trân trọng, khiến cho bất cứ ai có sáng kiến (dù có vẻ hợp lý hay vô lý) trong nhà bếp hay ngoài gara cũng có thể tìm được người tài trợ cấp vốn. Thật là hay. Vì khi nói đến tốc độ, thì không đâu nhanh bằng các thị trường vốn của Hoa Kỳ trong việc ném tiền đầu tư cho những sáng kiến mới. Nếu bạn so sánh danh sách của 25 công ty lớn nhất châu Âu cách đây 25 năm với danh sách 25 công ty lớn nhất châu Âu ngày nay – thì thấy tên các công ty trong hai danh sách đó gần như không đổi. Nhưng nếu làm như vậy đối với trường hợp Hoa Kỳ, thì thấy phần lớn trong danh sách ngày nay là các công ty mới mẻ, khác xưa. Tất nhiên các thị trường tài chính của Mỹ, với việc thường xuyên đòi hỏi thu lợi nhuận ngắn hạn và thu nhập theo quý, thường không muốn các tổng công ty "tốn tiền" vào những hoạt động dài hạn. Điều đó đúng. Nhưng cũng chính những thị trường đó có thể trong vòng một đêm ném tiền cho một cá nhân, tài trợ cho một người có chút ít ý tưởng chưa chín muồi, để sau đó người này cho ra đời một mẫu máy vi tính đời mới. Massachusetts có khu vực cấp vốn cho sáng tạo quy mô bằng cả châu Âu cộng lại. Các nhà tư bản tài trợ cho sáng tạo là những nhân vật quan trọng nhất thời nay; không chỉ vì họ là những nguồn tiền bạc. Những người giỏi nhất trong số họ có thể cung cấp các kỹ năng để lập công ty. Họ có rất nhiều kinh nghiệm và thấu hiểu những giai đoạn mà các công ty phải trải qua để phát triển, và họ sẽ hỗ trợ trong những khâu đó – những điều quý báu không kém gì tiền bạc. Kiến trúc sư của chúng ta chắc chắn sẽ thiết kế một đất nước có môi trường pháp lý và luật lệ trung thực nhất thế giới. Ở đất nước này các nhà đầu tư trong và ngoài nước đều được hoạt động trên một sân chơi công bằng, với tương đối hiếm các hiện Tượng tham nhũng, với rất nhiều luật lệ bảo vệ cho bất cứ người nước ngoài nào vào đầu tư, kiếm lời và chuyển tiền ra ngoài bất cứ lúc nào. Đất nước sẽ có nền pháp chế giúp cho thị trường và các hợp đồng được thực hiện và đảm bảo việc bảo vệ tác quyền cho các sáng chế. Các thị trường vốn của Hoa Kỳ ngày nay không những hữu hiệu hơn so với thị trường ở các nước khác, mà còn được coi là minh bạch nhất. Các thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ không chấp nhận chuyện giữ bí mật, những công ty được niêm yết sẽ phải thường xuyên báo cáo về thu chi, kiểm toán, lỗ lãi để có thể dễ dàng phát hiện và trừng phạt về những sai lầm trong quản lý và sử dụng tài lực. Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có hệ thống luật và tòa án để xử phá sản, khuyến khích những ai làm ăn thất bát có thể tuyên bố phá sản và rồi lại bắt đầu từ đầu, làm đi làm lại, để rồi có ngày sẽ thành công, như Amazon.com chẳng hạn – họ sẽ không phải đeo đẳng tiếng xấu trong cuộc đời của họ. Trong Thung lũng Silicon, John Doerr, một nhà tư bản tài trợ cho sáng tạo, cho biết, "thất bại cũng không sao, và trong thực tế, điều quan trọng là bạn hãy ngã khi đang dùng tiền của người khác." Trong Thung lũng Silicon, phá sản được coi là điều cần thiết và là một phần của chi phí cho sáng tạo, đó là thái độ khiến cho người ta chấp nhận mạo hiểm. Nếu không biết ngã thì sẽ không đứng vững được. Harry Saal, người sáng lập một trong những hệ thống sửa chữa phần mềm thành công nhất trong khu này, sau nhiều lần công ty của ông chết đi sống lại, đã nói với tôi trong một lần cùng uống cà phê ở Palo Alto: "Quan điểm ở đây cho rằng cứ mỗi lần ngã là một lần nên khôn. Chính vì thế những người ở đây khi thử nghiệm một điều gì đó mà thất bại, thì lần sau, khi họ đứng dậy thì họ dễ dàng tìm thấy tài trợ hơn lần trước. Người ta sẽ nói," anh ta lần trước đã bị phá sản? Tôi cuộc rằng anh ta đã học được điều gì từ đó, và thế là tôi lại bỏ tiền đầu tư vào cho anh ta ". Ở châu Âu, phá sản sẽ là tiếng xấu gắn cho bạn suốt đời. Làm gì thì làm, đừng có tuyên bố phá sản khi ở nước Đức: Vì bạn, con cái của bạn, rồi cháu chắt của bạn sẽ phải mang tiếng trong xã hội người Đức. Nếu phải tuyên bố phá sản ở Đức thì tốt nhất là rời bỏ nước này mà đi. (Và bạn sẽ được chào đón ở Palo Alto) Nhân chủ đề đó, nhà thiết kế của chúng ta chắc chắn sẽ thiết kế một đất nước sẵn sàng chào đón dân nhập cư mới, về nguyên tắc sẽ cho phép bất cứ ai lên được bờ biển nước Mỹ thì, theo hiến pháp, sẽ được đối xử như dân chúng trong nước. Điều đó khiến đất nước này có thể tận dụng được những bộ óc giỏi nhất thế giới, tập trung chúng vào những công ty, trung tâm y tế và các trường đại học. Khoảng một phần ba các kỹ sư và nhà khoa học ở Thung lũng Silicon là những di dân, sinh ra ở nước khác, những người đã đến đó, nghiên cứu rồi lại chuyển giao sản phẩm và giá trị khoa học ra thế giới. AnnaLee Saxenian, chuyên gia về đô thị của Đại học California ở Berkeley cho biết nghiên cứu của Viện Chính sách California năm 1996 tìm ra rằng: Di dân Trung Quốc và Ấn Độ trực tiếp điều hành 1.786 công ty kỹ thuật cao của Silicon, doanh thu tổng cộng 12, 6 tỷ đô-la và 46.000 nhân viên. Donald Rice, cựu lãnh đạo Công ty Teledyne, đã thành lập một hãng công nghệ sinh học, hãng UroGenesys vào năm 1997 để nghiên cứu các phương pháp chữa các bệnh tuyến tiền liệt. Ông ta đặt công ty mới của mình ở Santa Monika, California. Một hôm ông miêu tả cho tôi về đội ngũ nhân viên của ông:" Chúng tôi có 19 nhân viên. Ba trong số đó sinh ra ở Việt Nam, hai nhà khoa học và một nhân viên hàng chính; hai người sinh ở Canada, cả hai là nhà khoa học; một người sinh ra ở Nhật, nghiên cứu; một khoa học gia sinh ở Peru; một khoa học gia sinh ở Malaysia; một khoa học gia sinh ở Trung Quốc; một khoa học gia sinh ở Iran; một sinh ở Ấn Độ. Còn lại là người sinh ở Mỹ. Tôi không thể tìm một đất nước nào khác trên thế giới mà có thể có một đội ngũ như vậy. "Đúng thế. Có ai đó đã cố gắng để vào quốc tịch Nhật Bản bao giờ chưa? Hay là quốc tịch Thụy sĩ? Để trở thành người Nhật bạn hầu như phải là người sinh ra ở Nhật. Để trở thành người Thụy Sĩ bạn hầu như phải là người sinh ra ở Thụy Sĩ. Để trở thành người Mỹ bạn chỉ cần muốn thành người Mỹ. Nhưng khi quốc tịch chỉ là vấn đề pháp luật, không liên quan gì đến sắc tộc, chủng tộc hay quốc gia, thì sẽ dễ dàng hơn cho một đất nước thu phục tài năng. Một người bạn tôi trong Thung lũng Silicon hay nói:" Tôi không sợ người Nhật hay người châu Á nào khác. Người gốc Á của chúng tôi lúc nào cũng sẽ thành công hơn người Á ở châu A. " Càng thu hút được nhiều công nhân lành nghề sang nước bạn thì đất nước càng có cơ thành công. Nói về nước Mỹ, tôi mong muốn không chỉ thu hút những người giàu có và có trí tuệ. Tôi sẽ không bao giờ từ chối một thuyền nhân người Haiti. Những người thông minh đến mức có thể dùng các thùng sữa để làm thành chiếc bè và vượt biển sang đến bờ của nước Mỹ sẽ đều là những người tôi muốn tiếp nhận. T. J. Rodgers, Tổng giám đốc điều hành công ty Cypress Semiconductor, khi phàn nàn về những hạn chế do quốc hội Mỹ áp đặt đối với chế độ visa cho các kỹ sư nước ngoài vào làm việc, đã nhận xét:" Người thắng và kẻ thua trong thời đại thông tin chỉ khác nhau về đầu óc. Nhưng có những vị thượng nghị sĩ của chúng ta không nhìn ra điều đó, họ muốn đẩy những trí trức của thế giới ra xa để rồi chính những trí thức đó, từ đất nước của họ, sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh với chúng ta. Bốn trong số 10 chủ tịch của hãng chúng tôi vốn là di dân. Khoảng 35 phần trăm các kỹ sư của tôi là người di dân. Phó chủ tịch của tôi phụ trách nghiên cứu – người đã thiết kế chip vi tính tiên tiến nhất của hãng – là người đến từ Cuba. "Liệu bạn có muốn công việc trong đất nước của bạn chỉ do các chuyên viên nội địa đảm trách, hay bạn muốn vươn tới số 10 phần trăm các chuyên viên giỏi nhất thế giới? Hoa Kỳ ngày nay là đất nước duy nhất làm được điều đó. Nhật Bản, Thụy sĩ, Đức – họ không có truyền thống di dân thực sự, và đó là điểm yếu của họ. Nhà kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước với hệ thống chính trị dân chủ và liên bang, đặc điểm uyển chuyển, cho phép tản quyền chính trị và do đó khuyến khích các vùng và địa phương điều chỉnh chính sách của họ với các khuynh Hướng trên thế giới, mà không phải đợi sự phê duyệt của chính quyền liên bang. Một hệ thống liên bang – với 50 bang có khả năng cạnh tranh và thử nghiệm để tìm giải pháp cho các vấn đề giáo dục, an sinh xã hội và y tế – là một thế mạnh trong toàn cầu hóa. Nó được dùng để thử nghiệm, tìm tòi nhằm ứng phó với tính phức tạp của các vấn đề nói trên. Nhà kiến trúc đó chắc chắn sẽ tạo ra một đất nước có thị trường lao động linh hoạt nhất thế giới – thị trường cho phép nhân công di chuyển từ vùng kinh tế này sang vùng khác, cho phép các công ty tương đối dễ dàng tuyển dụng hay sa thải nhân công. Trong một thời kỳ phát triển nhanh chóng thì khả năng di chuyển dễ dàng thật là quan trọng. Ở Hoa Kỳ, hôm nay bạn mất việc ở Maine thì ngày mai bạn có thể tìm được việc mới ở San Diego, nếu bạn sẵn sàng đi lại. Nếu ở Tokyo mà bạn mất việc hôm nay thì theo tôi bạn không nên tìm việc mới ở Seoul ngày hôm sau. Nếu ngày hôm nay bạn bị mất việc ở Munich, ngay cả khi châu Âu đã trở thành một liên hiệp với đồng tiền và thị trường chung, thì bạn vẫn rất khó tìm việc ở Milan vào ngày hôm sau. Đó là những khó khăn nhãn tiền đối với thế giới ngoài nước Mỹ. Hơn nữa, càng dễ dàng sa thải công nhân thì các hãng xưởng càng dễ dàng tìm người mới. Điều có vẻ nghịch lý lại được dùng để giải thích cho những tiến bộ – trong những năm 90, Hoa Kỳ nhờ có chính sách nhân lực uyển chuyển đã vượt châu Âu và Nhật Bản rất nhanh chóng trong việc hấp thụ cách mạng thông tin vào nền kinh tế. Hãy tự hỏi một câu đơn giản: Vì sao trong khi công nghệ, với Internet và máy tính cá nhân sẵn có cho mọi quốc gia phát triển, vậy mà có quốc gia tận dụng chúng nhanh nhẹn vào thương mại, trong khí có những quốc gia khác không làm được điều đó? Câu trả lời ngắn gọn là phần lớn các công nghệ mới đó đã làm tăng năng suất của một nhà máy, và mức sống trong một xã hội, bởi vì chúng giúp loại bỏ bớt nhân lực. Các robot làm việc hiệu quả hơn so với công nhân làm bằng tay trong dây chuyền sản xuất. Thiết bị trả lời tự động trong điện thoại của bạn làm việc hiệu quả hơn nhân viên trực tổng đài. Nói cách khác, chìa khóa để vào cách mạng thông tin không phải là do nó làm tăng chi phí cho đầu ra, mà là nó làm giảm chi phí nhân công cho đầu vào – tiết kiệm và tăng hiệu quả sản xuất. Công việc làm bằng tay giảm đi. Có nghĩa là nếu có một thứ môi trường văn hóa và xã hội cho phép bạn giảm bớt nhân lực bằng cách áp dụng công nghệ mới thì bạn sẽ kiếm lời do tăng năng suất, tăng lợi nhuận, tăng tài sản và sau cùng sẽ tăng công ăn việc làm. Tất cả các yếu tố đó tập hợp trở thành một đất nước có khả năng cạnh tranh. Hoa Kỳ ngày nay đã có được một nền văn hóa và xã hội trong đó cho phép phá cũ, sáng tạo và xây mới. Alan Greenspan một lần đã chỉ ra rằng vào giữa năm 1999, mỗi tuần có khoảng 300.000 việc làm ở Mỹ bị công nghệ mới xóa sổ. Nhưng chính công nghệ mới đã tạo ra 300.001 việc làm mới trong một tuần đó, cũng ở Mỹ. Chính vì thế nạn thất nghiệp ở Mỹ vẫn được giữ ở mức thấp. Các công ty Mỹ dễ dàng sa thải nhân viên, Dùng máy móc thay thế họ, không ngần ngại mua kỹ thuật mới. Nhưng khi làm điều đó, họ có thêm khả năng dễ dàng tuyển dụng nhân viên mới. Ngược lại, ở châu Âu và Nhật Bản, rất khó có thể sa thải công nhân. Hãy tưởng tượng khi linh kiện tự động trả lời điện thoại được sử dụng giúp bạn có thể dẹp đi 10 nhân viên tổng đài. Nhưng một công ty ở Tây Âu sẽ mua linh kiện đó nhưng vẫn giữ 10 nhân viên tổng đài đó lại, hoặc trả rất nhiều tiền đền bù cho họ thôi việc. Kết quả sẽ là hoặc công ty đó rất ngần ngại trong việc tuyển người mới, hoặc ngần ngại trong việc mua và áp dụng kỹ thuật mới vì nó sẽ không đủ tiền để mua kỹ thuật đồng thời trả lương cho những nhân viên mà kỹ thuật đó thay thế nhưng vẫn nằm lại công ty, hoặc có thể họ ra đi nhưng phải được đền bù nhiều. Như vậy đầu tư mới sẽ không mang lại lợi nhuận đáng kể. Nhân nói về điều này ta có thể nhận xét rằng bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ trước khi bước sang thiên niên kỷ mới là khi Ronald Reagan quyết định sa thải toàn bộ số nhân viên hoa tiêu hàng không đã đình công vào năm 1981. Không một sự kiện nào lớn hơn thế trong việc đánh dấu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa chủ và nhân viên, mở đường cho các công ty Mỹ mặc sức sa thải nhân viên, áp dụng kỹ thuật, rồi lại mặc sức tuyển lao động mới. Chẳng có thế mà sau đó, hàng triệu việc làm ở Mỹ đã bị xóa sổ đồng thời hàng triệu việc làm mới được hình thành cũng ở Mỹ trong những năm 90. Trong khi đó các thị trường nhân lực ở châu Âu tiếp tục trì trệ, và mức thất nghiệp đứng ở 12 phần trăm. Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó người ta căm ghét những tập đoàn được chính phủ bảo hộ, buộc mỗi công ty và mỗi ngân hàng phải vật lộn để tự tìm chỗ đứng, nhưng sự độc quyền thì sẽ không được dung tha. Đó là điều quan trọng, bởi vì khi một công ty Mỹ, như Microsoft chẳng hạn, trở thành đầu tàu được ngưỡng mộ trên thế giới, thì nó vẫn phải ra trước cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư pháp Mỹ để chịu chất vấn. Đó là một trong những thế mạnh tiềm ẩn lớn nhất của Mỹ. Những người cho rằng để bảo tồn sức mạnh, nước Mỹ sẽ phải dung túng những công ty như Microsoft chẳng hạn – cho nó làm gì tùy ý – đã hoàn toàn sai lầm. Thực tế cho thấy một nhóm người trong Bộ Tư pháp, lương 75.000 đô-la Mỹ mỗi năm, có thể đứng ra thách thức Microsoft, một công ty lớn nhất nước Mỹ, và thắng cuộc – đó chính là nguồn sức mạnh của Mỹ. Bao giờ cũng có thể có một công ty khác xuất hiện, cạnh tranh với Microsoft, một khi cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư pháp vẫn còn đó và có khả năng dẹp bỏ các tập đoàn độc quyền, và một khi vẫn có những chánh án như Thomas Penfield Jackson, dũng cảm phân xử và kết án các tập đoàn độc quyền. Điều trớ trêu là tháng 11 năm 1999, khi Jackson phán quyết rằng Microsoft có hành vi độc quyền và gây hại đối với người tiêu dùng ở Mỹ, trùng vào tuần lễ kỷ niệm 10 năm Bức tường Berlin sụp đổ. Những người đạp đổ bức tường đó đã nóng lòng mong đợi những gì ở bên kia bức tường? Chắc chắn là họ mong những thứ mà Bill Gates bán – Windows, Disney World, McDonald's và một cuộc sống tốt Đẹp. Nếu có một điều những xã hội hậu cộng sản nhận ra trong vòng 10 năm qua, thì đó chính là việc pháp chế đóng vai trò nền móng của sự thịnh vượng của nước Mỹ. Như nước Nga đã nhanh chóng nhận thấy nếu không có nhà nước pháp quyền thì sẽ không có thịnh vượng. Chính hệ thống quản lý bằng luật pháp của Hoa Kỳ, trong đó không một cá nhân hay công ty nào đứng trên luật pháp, là cốt lõi của phong cách Mỹ. Cũng như những người khác, tôi rất buồn khi nghe tin có người Trung Quốc bị tố cáo đã đánh cắp các bí mật hạt nhân của Mỹ hồi năm 1999. Không thể dung tha được điều đó. Nhưng tôi cũng cảm thấy nếu quả thực họ đã làm điều đó thì cũng vô ích. Vì bí mật lớn nhất của chúng tôi – nguồn sức mạnh của người Mỹ – là điều mà không ai có thể đánh cắp. Đó là lối sống Mỹ. Nhưng nếu họ bắt đầu bắt chước lối sống đó, thì tôi sẽ bắt đầu lo lắng. Nếu họ chỉ đánh cắp các bí mật quân sự thì họ phải hiểu rằng, ngay sau khi bị mất cắp, thì hệ thống chúng ta sẽ cho ra đời một phát kiến tốt hơn. Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có lòng bao dung với những người có lối sống khác thường, ví dụ những anh chàng để tóc kiểu đuôi ngựa, hay những cô nàng gắn vòng lên cánh mũi, chính họ cũng có thể là những người giỏi toán và giỏi thiết kế phần mềm vi tính. Hoa Kỳ là đất nước mà phút trước có người đứng lên bỏ cuộc:" Điều đó không thể làm được, "thì sẽ có ngay một người khác bước vào tuyên bố:" Tôi vừa thực hiện thành công điều đó. "Avram Miller, Phó chủ tịch của hãng Intel, nói:" Người Nhật không hiểu được điều đó, vì họ chú trọng vào sự đồng bộ. Nếu phải sản xuất hàng tỷ mặt hàng giống hệt nhau, thì người Nhật là chuyên gia hàng đầu trên thế giới, và chúng tôi vì thế cứ nghĩ họ là thần đồng. Nhưng ngày nay, thế giới không muốn có nhiều mặt hàng giống hệt nhau, đồng bộ. Và trong thế giới ngày nay, nơi có người này thích thứ này, người kia thèm thứ khác – và công nghệ cho phép có thể sửa đổi điều chỉnh [cho thị hiếu riêng của từng khách hàng] – thì Hoa Kỳ quả là có lợi thế. " Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó các tập đoàn công ty, không như loại ở châu Âu và Nhật Bản giữa những năm 90, sẵn sàng giảm biên chế, rút gọn sản xuất, tư hữu hóa, mở rộng quan hệ đối tác, thay đổi cấu trúc quản lý.. để tận dụng các trào lưu dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ, và tránh được chứng suy giảm hệ miễn nhiễm đối với microchip. Nước Mỹ xưa kia đã thắng trong cuộc chạy đua trong không gian, ngày nay nước Mỹ đang thắng thế trong cuộc cạnh tranh điện toán. Tính bình quân đầu người, các công ty Hoa Kỳ tiêu tiền vào công nghệ thông tin cao hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước làm ăn hăng say và một hệ thống thuế cho phép các nhà đầu tư và nhà cải tiến thành công có thể giữ lại những phần doanh thu của họ do được ưu đãi thuế, và như thế khuyến khích người ta ngày càng làm giàu thêm. Trong một đất nước lý tưởng, Horatio Alger sẽ không phải là một nhân vật tưởng tượng, mà có thể là người hàng xóm của chúng ta – một người bình Thường, kỹ sư của Intel hay America Online khi mới khởi nghiệp, và được trả quyền tùy chọn cổ phiếu nay có giá trị khoảng 10 triệu đô-la. Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước vẫn bảo tồn được những khu vực môi trường hấp dẫn, mở rộng, những thị trấn nhỏ và xinh để hấp dẫn các nhân lực tri thức. Vì ngày nay, nhờ có Internet, máy fax và dịch vụ chuyển phát nhanh, các hãng công nghệ cao và nhân lực tri thức của họ có thể chạy trốn khỏi những trung tâm thành phố đến đóng ở bất cứ nơi nào họ muốn. Có được những thung lũng xanh tươi, gần biển và gần núi là điều lý tưởng. Chính vì thế những bang Idaho, Washington, Oregon, Minnesota và Bắc Carolina đang trở thành các trung tâm công nghệ cao ngày nay. Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước coi trọng sự lưu thông thông tin đến mức nó bảo vệ quyền của cả những người hoạt động trong ngành tranh ảnh khiêu dâm và những kẻ phân biệt chủng tộc tồi tệ nhất. Đó cũng là một lợi thế. Vì trong một thế giới mà thông tin, tri thức, hàng hóa và dịch vụ trôi nổi qua lại nhanh chóng, kể cả trên mạng điện toán, những đất nước duy trì được sự cởi mở, ứng phó được với những hỗn loạn thỉnh thoảng vẫn xảy ra, những đất nước cạnh tranh trên cơ sở tri thức, không lẩn tránh – sẽ có lợi thế. Hoa Kỳ, với Bộ luật Tự do Thông tin, không cho phép chính phủ giữ bí mật được lâu, đã xây dựng được một nền móng văn hóa của sự cởi mở và minh bạch. Và, quan trọng nhất, kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có những công ty đa quốc gia cùng những doanh nghiệp nhỏ tiếp tục nhìn xa trông rộng, nhìn toàn cầu và phát triển trong một môi trường tốc độ nhanh, nhẹ, kết nối, và giàu tri thức. Hoa Kỳ hiện đạt được mức hoàn hảo trong các ngành thiết kế phần mềm, vi tính, thiết kế, tiếp thị qua Internet, ngân hàng thương mại, email, bảo hiểm, cải biến gene, tri thức nhân tạo, ngân hàng đầu tư, y tế, đại học, chuyển phát nhanh, thức ăn nhanh, quảng cáo, công nghệ sinh học, truyền thông, giải trí, khách sạn, xử lý rác, dịch vụ tài chính, viễn thông và công nghệ cho môi trường. Đó là thế giới hậu công nghiệp, và Hoa Kỳ ngày nay đang đi đầu trong tất cả các ngành hậu công nghiệp. Trong một thế giới được-thì-ăn-cả, Hoa Kỳ giờ đây đã hình thành ít nhất là một hệ thống được-thì-ănnhiều. Điều đó khiến Hoa Kỳ trở thành một siêu cường độc đáo. Sức mạnh của nó đã vượt khỏi mức thông thường. Nó có một đội quân thường trực lớn mạnh, có hàng không mẫu hạm, phản lực, máy bay vận tải và vũ khí hạt nhân nhiều hơn trước, vì thế, hơn những nước khác, nó có thể chuyển quân đi xa và đi sâu vào thế giới. Việc Hoa Kỳ có máy bay ném bom tàng hình tầm xa B-2 và đang phát triển máy bay tầm gần F-22 có nghĩa là Hoa Kỳ có thể bay vào không phận của bất cứ quốc gia nào mà vẫn không bị phát hiện. Đồng thời, như nói chi tiết ở trên, Hoa Kỳ đã đi đầu trong tất cả những lĩnh vực thuộc thời toàn cầu hóa. Nhưng xin nhớ cho: Mới một thập kỷ trước, người Á và người Âu dường như Chiếm thượng phong, lúc đó ai ai cũng tin rằng Hoa Kỳ đang vào thời suy vong. Giờ đây, như John Neuffer, một nhà phân tích người Mỹ ở Viện Nghiên cứu Tokyo nói với báo The New York Times, mọi sự đã xoay chiều:" Nhật Bản chưa thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm, và Hoa Kỳ chưa thấy được bờ vực để rơi. " Điều đó không có nghĩa là sẽ không có cái bờ vực đó. Bao giờ cũng sẽ có loại bờ vực đó. Với bất cứ lợi thế mà Hoa Kỳ tự có, nước này vẫn phải tự sắp xếp những điều kiện và khả năng đúng đắn để có thể cạnh tranh. Hoa Kỳ vẫn phải đảm bảo rằng năng suất - khả năng cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá thấp và chi phí thấp, để tiền lương có thể tăng nhưng lạm phát vẫn bị kiểm soát – tiếp tục tăng. Mức tăng năng suất nhanh chóng ở Mỹ trong những năm 90 là một hiện tượng do tiến bộ kỹ thuật tác động, nhưng giờ đây chưa ai có thể đoán được mức tăng trưởng của Hoa Kỳ sẽ nhanh hay chậm trong thời gian tới. Nhật Bản, hiện nay vẫn còn nhiều thế yếu, nhưng họ vẫn là chủ của nhiều ngành sản xuất rất hiệu quả, với mức tích lũy cao và một đội ngũ nhân lực rất cần mẫn. Nhật Bản vẫn là đầu tàu sáng tạo trong những lĩnh vực như sản xuất dùng kỹ thuật cao, quản lý sản xuất và hàng điện tử. Có rất nhiều thương gia giỏi người Nhật đang bị cơ chế của Nhật khiến cho khó phát huy tài năng. Những sự bấp bênh trong kinh tế vĩ mô của người Nhật trong những năm 90 đã không kích thích tăng trưởng ở nước này – ngược lại chúng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Khi mà người Nhật và Tây Âu vẫn bám giữ những cơ chế cứng nhắc và bao cấp của họ – khiến cho tư bản không năng động, sáng kiến bị thui chột, thì họ chưa thể là đối thủ của người Mỹ. Nhưng trong toàn cầu hóa, khi nước Mỹ càng tiến xa hơn, thì tôi dự kiến, những nước đó sẽ bắt chước. Những sự điều chỉnh không tránh được này có thể gây đau thương, nhưng là điều bắt buộc đối với họ, nếu họ muốn duy trì mức sống như ngày nay. Không phải vì trong những xã hội đó không có những bộ óc doanh nghiệp phù hợp với thời đại. Óc của Pháp cũng giống óc của Mỹ. Câu hỏi duy nhất là: Bối cảnh kinh tế và xã hội ra sao để phát huy tài năng từ những bộ óc đó? Lý do vì sao nhiều kỹ sư phần mềm người Pháp theo nhau sang Thung lũng Silicon là vì họ cảm thấy không thể làm ăn được trong hệ thống của nước Pháp ngày nay. Ngày 21/3/1998, tờ Washington Post đăng bài về nạn chảy máu chất xám từ Pháp sang Thung lũng Silicon, chỉ ra nguyên nhân nằm ở chỗ khả năng linh hoạt của hệ thống Hoa Kỳ: Reza Malekzadeh, một sinh viên 24 tuổi, tốt nghiệp từ một trong những đại học về thương mại tốt nhất của Pháp đã chuyển sang Hoa Kỳ, đổi việc làm ba lần trong ba năm và đã trở thành giám đốc điều hành cho hãng Softway International, Inc, tại San Francisco." Ở Pháp tôi không thể làm được những điều như tôi đang làm ở đây, "anh này nói." Ở Pháp, đến lúc bạn 50 tuổi mà người ta vẫn nói về bạn như là một [sản phẩm] của cái trường mà bạn đi học. Ở đây người ta chỉ quan tâm tới những gì bạn làm được, không quan tâm đến bạn bao nhiêu tuổi hay đi học trường nào 15 năm trước đây. "Anh ta Nay là một trong số 40.000 công dân Pháp đang sống ở vùng Bắc California. Nếu hoàn cảnh ở Pháp thay đổi thì chắc chắn những người Pháp đó sẽ lại theo nhau hồi hương, và những người Pháp khác sẽ ít sang Thung lũng Silicon hơn. Đó là lợi thế mà Hoa Kỳ lúc này cần tận dụng, để đối phó với những khó khăn thực sự: Nạn tội phạm trong các thành phố, sự thiếu thốn luật pháp trong việc kiểm soát vũ khí, hố ngăn cách giàu nghèo, trường công lập thiếu vốn, nền văn hóa thích khiếu kiện khiến nản lòng những doanh nghiệp lớn nhỏ, một hệ thống an sinh xã hội không đủ tài chính, một hệ thống thẻ tín dụng khiến cho dân chúng chi nhiều hơn thu rồi lâm vào nợ nần, và cả một hệ thống chính trị ngày càng bị tham nhũng và gây hại khiến các luật lệ về thương mại không còn chặt chẽ. Giải quyết những khó khăn đó sẽ làm cho việc hội nhập toàn cầu hóa sẽ thuận tiện hơn. Tôi rất hy vọng là Hoa Kỳ sẽ tận dụng một cách thông minh những nguồn tài sản của mình, và tôi không nghĩ chỉ có mình tôi là người có tư tưởng lạc quan đến thế. Nhưng nếu Hoa Kỳ chủ quan thì phát triển sẽ trở thành trì trệ – mặt trời lên thì sẽ có lúc mặt trời lặn. Chính vì thế bao giờ tôi cũng tin vào câu nói của Bộ trưởng Tài chính Larry Summers, nói về Hoa Kỳ trong những năm 90:" Điều duy nhất khiến chúng ta lo sợ chính là khi nghĩ rằng chúng ta không sợ một điều gì cả."