Sherlock Holmes (Quyển 1) - Arthur Conan Doyle

Discussion in 'Văn Học' started by Tống Tử Hân, Dec 2, 2021.

  1. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    19. Chương 3: John Ferrier nói chuyện với nhà tiên tri

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ba tuần đã trôi qua kể từ khi Jefferson Hope rời khỏi Salt Lake City. Trái tim John Ferrier đau nhói khi nghĩ tới ngày chàng trai trẻ trở về và khi nghĩ tới việc mất đi cô con nuôi yêu quý. Tuy vậy, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc của cô khiến cho ông chấp thuận sự sắp xếp này hơn bất cứ lời thuyết phục nào. Ông luôn luôn là một người quyết đoán vì vậy không gì có thể khiến ông đồng ý cho con gái lấy một người Mormon. Một cuộc hôn nhân như vậy đối với ông không phải là một cuộc hôn nhân mà là một nỗi sỉ nhục, một sự xấu xa. Dù cho ông có nghĩ về học thuyết của người Mormon như thế nào đi chăng nữa thì riêng về điểm này, ông là người cứng rắn đến độ không lay chuyển được. Tuy nhiên ông phải kín tiếng, không bàn tán gì về vấn đề này bởi vì việc phát biểu một ý kiến bất đồng trên vùng đất thánh trong những ngày này là một điều hết sức nguy hiểm.

    Phải, đó là một điều hết sức nguy hiểm – nguy hiểm tới mức mà ngay cả một người sùng kính nhất cũng chỉ dám thì thầm những chính kiến tôn giáo của riêng mình một cách bí mật vì sợ rằng điều gì đó phát ra từ miệng mình có thể sẽ bị hiểu nhầm và vì thế một hình phạt nặng nề, khủng khiếp sẽ giáng xuống đầu họ. Và cả cơ quan điều tra Seville, tòa án Vehmgericht của Đức hay những tổ chức xã hội đen nước Ý đều không thể nào có thể có được một bộ máy vận hành kinh hoàng như cái bộ máy đã phủ bóng đen chết chóc lên toàn bộ vùng Utah này.

    Sự vô hình cùng với những điều bí ẩn gắn liền với nó khiến cho tổ chức này càng đáng sợ. Nó trở thành một tổ chức có quyền lực tối cao và vô hạn định. Tuy vậy chưa ai từng được nhìn thấy hay nghe nói về nó. Người đàn ông từ chối chống lại Nhà thờ thiên chúa giáo đã biến mất. Không ai biết anh ta đi đâu hay điều gì đã xảy đến với anh ta. Vợ và con anh ta đang chờ ở nhà nhưng không có người cha nào trở về để nói cho chúng biết anh ta đã phải trả giá như thế nào dưới bàn tay của những vị quan tòa bí mật. Một lời nói bừa bãi hay một hành động thiếu cân nhắc cũng sẽ dẫn đến sự thủ tiêu. Thế nhưng không một ai biết cái thế lực kinh hoàng đang lơ lửng ngự trị trên đầu họ là gì. Thế nên, thật dễ hiểu tại sao người dân vùng này phải sống trong e ngại, run sợ và ngay giữa những nơi hoang dã nhất, vắng bóng người nhất họ cũng không dám thì thầm những nghi ngờ, lo lắng đang đè nặng trong lòng mình.

    Đầu tiên, thế lực kinh hoàng nhưng mơ hồ, vô hình này chỉ trừng phạt những kẻ chống đối, những người đã từng tin theo tôn giáo của người Mormon giờ đây muốn cải đạo hoặc muốn từ bỏ tín ngưỡng đã theo đuổi. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, phạm vi tác động của nó trở nên rộng rãi hơn. Nguồn cung cấp những thiếu nữ trưởng thành ngày càng trở nên khan hiếm và tục lệ một người đàn ông có thể lấy nhiều vợ trong khi phụ nữ khan hiếm khiến cho nó trở thành một học thuyết không mấy khả thi. Những tin đồn kỳ lạ bắt đầu lan rộng – tin đồn về những người di cư bị giết và những lều trại bị cướp bóc. Những người phụ nữ mới xuất hiện trong hậu cung của những người lãnh đạo cấp cao của vùng Utah, những người phụ nữ với gương mặt tiều tuỵ, đầy nước mắt và trên mặt họ còn hằn sâu dấu vết của nỗi kinh hoàng không thể nào xóa bỏ được. Những người lang thang trên núi thường kể về những người đàn ông có vũ trang, đeo mặt nạ, lén lút và di chuyển trong đêm tối. Những câu chuyện truyền miệng và những lời đồn đại này dần thành hình và rõ nét hơn, sau đó được chứng thực cho tới khi có được một tên gọi hẳn hoi. Cho tới ngày nay, trên những trại chăn nuôi súc vật ở miền Tây, cái tên Danite Band hay Những thiên thần báo thù vẫn luôn là một cái tên gây nên sự kinh hoàng và sợ hãi.

    Càng biết nhiều hơn về tổ chức đã gây ra biết bao nỗi kinh hoàng, nỗi lo sợ đè nặng trong tâm trí người dân nơi đây không những không giảm đi mà còn tăng lên gấp bội. Không ai biết cái tổ chức tàn nhẫn này bao gồm những ai. Tên tuổi của những kẻ tham gia vào những tội ác đẫm máu và bạo lực của tổ chức này được tuyệt đối giữ bí mật. Chính người bạn thân thiết mà bạn tâm sự những nghi ngờ đối với Nhà tiên tri cùng sứ mệnh của ông ta sẽ rất có thể là người tới nhà bạn trong đêm tối cùng lửa và kiếm để thực thi hình phạt. Vì vậy bất cứ ai cũng phải dè chừng ngay cả hàng xóm của mình và không ai dám nói thật những điều mình đang nghĩ trong lòng.

    Vào một buổi sáng đẹp trời, John Ferrier đang chuẩn bị ra thăm cánh đồng lúa mì thì nghe thấy tiếng vó ngựa lách cách và khi nhìn qua cửa sổ, ông thấy một người đàn ông dáng cao lớn, mái tóc muối tiêu trung tuổi đang bước lên nhà. Tim ông như nhảy ra khỏi lồng ngực vì sợ hãi bởi đó không phải ai khác ngoài Brigham Young. Lòng đầy bối rối vì biết chuyến viếng thăm này sẽ chẳng đem lại điều gì tốt đẹp, Ferrier chạy ra cửa để đón nhà lãnh đạo tối cao của người Mormon. Tuy vậy, Brigham Young đón nhận lời chào của Ferrier một cách lãnh đạm và bước vào phòng khách với gương mặt nghiêm nghị.

    – Người anh em Ferrier, – ông ta nói, ngồi xuống ghế và đôi mắt nhìn như xuyên thấu Ferrier qua hàng lông mày nhạt màu, – những tín đồ trung thành vẫn luôn luôn là những người bạn tốt của anh. Chúng tôi đã cưu mang anh khi anh đang chết đói trên sa mạc. Chúng tôi đã chia sẻ đồ ăn thức uống của mình với anh và đưa anh đến Thung lũng được lựa chọn này an toàn. Chúng tôi cho anh một phần đất đai màu mỡ và cho phép anh làm giàu dưới sự bảo trợ của chúng tôi. Đúng vậy không?

    – Đúng như vậy, – John Ferrier trả lời.

    – Để đổi lại tất cả những gì đã làm cho anh, chúng tôi chỉ đòi hỏi có một điều kiện duy nhất, đó là anh sẽ phải có một lòng trung thành với tín ngưỡng của chúng tôi và phải tuân thủ mọi quy định của nó. Anh đã hứa sẽ tuân thủ điều này và nếu như nói một cách công bằng, anh đã xao lãng không thực hiện lời hứa đó.

    – Tôi đã xao lãng như thế nào? – Ferrier hỏi lại, hai tay giơ lên trời khi nghe thấy lời phê bình này. – Tôi đã từ chối không nộp quỹ chung ư? Tôi đã không đến lễ trong điện thờ ư? Hay là tôi không?

    – Những người vợ của anh đâu? – Young hỏi và nhìn quanh. – Hãy gọi họ vào đây để tôi có thể chào họ một tiếng.

    – Đúng là tôi vẫn chưa lập gia đình, – Ferrier trả lời. – Nhưng phụ nữ đang rất hiếm và có nhiều người có tiềm năng hơn tôi rất nhiều. Tuy nhiên, tôi cũng không phải là người cô đơn, tôi có con gái và nó sẽ giúp tôi làm những gì mình muốn.

    – Chính vì con gái anh mà tôi đến đây nói chuyện với anh, – vị thủ lĩnh người Mormon nói. – Cô gái đã trưởng thành và trở thành đóa hoa của vùng Utah này. Cô đã lọt vào mắt xanh của rất nhiều người có địa vị cao trong chúng ta.

    Trong thâm tâm, trái tim John Ferrier rên lên vì lo lắng.

    – Có những lời đồn đại về con gái anh mà tôi không muốn tin – những lời đồn đại về việc con gái ông đang có quan hệ với một thằng Do thái. Chắc chắn đây chỉ là những lời đồn đại qua miệng lưỡi của bọn ngồi lê đôi mách, ăn không ngồi rồi. Điều răn thứ mười ba trong mà thánh Joseph Smith đã dạy là gì? – Hãy để tất cả những cô thiếu nữ có lòng tín ngưỡng thành kính được kết hôn với một trong số những người được Đấng tối cao lựa chọn; bởi vì nếu cô ấy cưới một người Do thái, cô ấy sẽ phạm phải một tội lỗi trầm trọng. – Vì vậy, anh, một người đã thuộc lòng tín ngưỡng thần thánh của tôn giáo chúng ta, sẽ không thể nào để mặc con gái mình vi phạm lời răn của Đấng chí tôn.

    John Ferrier không trả lời nhưng tay ông căng thẳng mân mê chiếc roi ngựa.

    – Sự trung thành tuyệt đối của anh sẽ được thử thách qua điểm này – và đó chính là điều mà Hội đồng bộ tứ đã quyết định. Cô gái còn rất trẻ và chúng tôi không hề muốn cô phải cưới một người có tuổi, cũng như không muốn tước đi của cô quyền được lựa chọn. Chúng tôi, những người lãnh đạo tối cao cũng có rất nhiều con gái và con gái của chúng tôi cũng phải thực hiện điều răn này. Stangerson có một con trai và Drebber cũng có một con trai. Cả hai đều rất sung sướng được đón chào con gái ông trở thành một thành viên trong gia đình họ. Hãy để cô gái được quyền lựa chọn một trong hai người bọn họ. Cả hai đều còn trẻ, giàu có và đều trung thành với tín ngưỡng. Anh nghĩ thế nào về điều đó?

    Ferrier yên lặng một lúc, hai hàng lông mày nhíu lại. Cuối cùng ông nói:

    – Xin hãy cho chúng tôi thời gian. Con gái tôi còn quá trẻ và nó vẫn chưa sẵn sàng để lập gia đình.

    – Con gái anh sẽ có một tháng để lựa chọn, – Young nói và đứng dậy. – Khi thời hạn đó kết thúc, con bé sẽ phải đưa ra câu trả lời.

    Young Brigham đã bước qua ngưỡng cửa, nhưng đột nhiên, ông ta quay lại với gương mặt đỏ phừng phừng và đôi mắt toé lửa. Ông ta đe dọa:

    – John Ferrier, nếu như anh và con gái anh có ý định chống lại ý chí của Hội đồng bộ tứ thì có lẽ tốt hơn hết là ngày trước anh và con gái mình nên phơi xương ở Sierra Blanco còn hơn.

    Với một bàn tay giơ lên trong một cử chỉ đe dọa, ông ta quay người bước đi, và Ferrier vẫn còn nghe thấy tiếng chân nặng nề nện trên lối đi rải đá cuội.

    Ông vẫn ngồi đó, hai khuỷu tay tỳ lên gối, cân nhắc xem mình phải thông báo vấn đề này với con gái như thế nào thì một bàn tay mềm mại nhẹ nhàng đặt lên người ông. Ngước nhìn lên, ông thấy con gái đã đứng bên cạnh từ lúc nào. Chỉ cần nhìn thoáng qua gương mặt tái xanh, thảng thốt của cô, ông cũng biết được rằng cô đã nghe được hết câu chuyện vừa diễn ra.

    – Con không thể không nghe thấy chuyện đó, – cô nói, như để đáp lại cái nhìn của ông. – Tiếng của ông ta vang khắp nhà. Ôi, cha, cha ơi, chúng ta phải làm gì bây giờ?

    – Con đừng lo, – ông trả lời và kéo cô vào lòng mình, bàn tay vạm vỡ, thô ráp của ông nhẹ nhàng vuốt ve bím tóc dài của cô. – Rồi chúng ta sẽ tìm cách này hay cách khác giải quyết chuyện đó thôi. Con sẽ không vì thế mà giảm bớt tình cảm với cậu ấy chứ?

    Tiếng nức nở của cô gái trong vòng tay ông là câu trả lời duy nhất.

    – Không, tất nhiên là không rồi. Cha chẳng cần nghe câu trả lời của con cũng biết. Cậu ấy là một chàng trai tốt và cậu ấy là một người Thiên chúa giáo. Vì thế cậu ấy tốt hơn gấp nhiều lần so với những kẻ ở đây dù cho họ có cầu nguyện và thuyết giáo như thế nào đi chăng nữa. Có một nhóm người đang chuẩn bị khởi hành tới Nevada vào ngày mai. Cha sẽ thu xếp để gửi cho cậu ấy một bức thư, báo cho cậu ấy biết tình huống mà chúng ta đang gặp phải. Với những gì cha biết về cậu ấy, cha tin rằng cậu ấy sẽ quay trở về nhanh như một bức điện tín thôi.

    Lucy bật cười trong nước mắt khi nghe cha cô ví von như vậy.

    – Khi nào anh ấy trở về, anh ấy sẽ khuyên chúng ta những lời khuyên tốt nhất. Nhưng chính cha là điều khiến con phải lo lắng, cha yêu quý ạ. Người ta đồn đại rất nhiều điều về những người dám chống lại Nhà tiên tri, rằng một điều gì đó hết sức kinh khủng sẽ xảy đến với người đó.

    – Nhưng chúng ta đâu đã chống đối lại ông ta, – cha cô trả lời. – Lúc này chúng ta phải thận trọng, đề phòng mọi nguy hiểm khi hành động. Chúng ta còn thời hạn một tháng trước mắt và khi thời hạn đó kết thúc, ta tin rằng chúng ta thoát khỏi Utah.

    – Rời khỏi Utah?

    – Chắc sẽ phải như thế.

    – Thế còn trang trại thì sao?

    – Chúng ta sẽ bán chúng đi để lấy tiền và sau đó cứ để mọi việc tự vận hành. Lucy, đây không phải là lần đầu tiên cha nghĩ tới việc này. Cha không muốn luồn cúi, khúm núm trước bất kỳ một người nào giống như thái độ mà những người dân ở thành phố này thể hiện đối với Nhà tiên tri đáng nguyền rủa của họ. Cha là một người Mỹ tự do và tất cả những điều này quả là lạ lẫm đối với cha. Hãy nhìn xem, cha đã quá già để học điều đó rồi. Nếu như ông ta xâm phạm vào lãnh địa của trang trại này, có thể ông ta sẽ gặp phải một băng đạn chì bay ra từ phía đối diện đấy.

    – Nhưng người ta sẽ không để cho chúng ta bỏ đi đâu, – con gái ông phản đối.

    – Hãy cứ đợi cho tới khi Jefferson trở về và rồi chúng ta sẽ nhanh chóng giải quyết được chuyện này. Trong khi chờ đợi, con không cần phải bận tâm làm gì, con gái yêu của ta và đừng có để cho mắt con phải sưng húp lên, nếu không thì khi nào trở về và nhìn thấy con, ta sẽ là người Jefferson muốn gặp đầu tiên đấy. Chẳng có gì phải lo lắng cả vì chắc chắn là chẳng có gì đe dọa chúng ta hết.

    John Ferrier thốt ra những lời an ủi đó bằng một giọng hết sức tự tin nhưng Lucy không thể không nhận thấy rằng đêm hôm đó, cha cô đã đặc biệt quan tâm tới việc cài chặt then cửa đồng thời ông cũng không quên lau chùi, tra dầu mỡ cẩn thận khẩu súng lục cũ trước đây vẫn treo trên tường đầu giường ngủ của ông.
     
  2. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    20. Chương 4: Cuộc chạy trốn vì sự sống (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Buổi sáng ngay sau hôm có cuộc nói chuyện với nhà tiên tri người Mormon, John Ferrier đã tới Salt Lake City và tìm tới một người quen biết cũ. Người này đang chuẩn bị lên đường tới Nevada. Ông tin tưởng nhờ người này chuyển tới Jefferson Hope một bức thư. Trong bức thư đó, ông thông báo cho chàng trai trẻ mối đe dọa đang treo lơ lửng trên đầu họ và rằng anh cần phải trở về ngay lập tức. Sau khi đã gửi bức thư đi, ông cảm thấy tâm trí mình đã thảnh thơi hơn rất nhiều và trở về nhà, trong lòng như cất đi được một gánh nặng.

    Khi vừa về tới trang trại, ông ngạc nhiên khi nhìn thấy ở mỗi cây cột trước cổng có cột một con ngựa. Ông thậm chí còn ngạc nhiên hơn nữa khi vừa bước vào nhà đã nhìn thấy hai người đàn ông trẻ đang án ngữ trong phòng khách. Một người với khuôn mặt dài ngoẵng, xanh xao đang tựa người trên chiếc ghế đu, hai chân gác lên lò sưởi. Người kia với cái cổ to như cổ bò, nét mặt béo núc ních, thô lỗ, kệch kỡm đang đứng bên cửa sổ, hai tay đút túi quần, miệng ngâm nga một điệu nhạc phổ biến. Cả hai đều gật đầu với Ferrier khi ông bước vào và người đang ngồi trên chiếc ghế xích đu mở đầu câu chuyện.

    – Có lẽ ông không biết chúng tôi, – anh ta nói. – Đây là con trai của ngài Drebber còn tôi là Joseph Stangerson, người đã cùng ông du hành qua sa mạc khi Đấng cứu thế vươn tay ra thu nạp ông vào hàng ngũ những con chiên được lựa chọn.

    John Ferrier lạnh lùng cúi chào. Thực ra ông đã đoán được từ trước hai vị khách này là ai rồi. Stangerson nói tiếp:

    – Theo lời khuyên của cha mình, chúng tôi đến để đề nghị con gái ông cho biết ai trong số hai chúng tôi sẽ là người hợp hơn với cô ấy và ông. Bởi vì tôi mới chỉ có bốn vợ trong khi anh bạn Drebber đây có tới bảy người, tôi cho rằng tôi sẽ là ứng cử viên tiềm năng hơn.

    – Này, này, người anh em Stangerson, – người kia kêu lên, – vấn đề không phải là chúng ta có bao nhiêu vợ mà vấn đề là chúng ta có thể nuôi được bao nhiêu người. Giờ đây, cha tôi đã chuyển giao cho tôi tất cả những nhà máy của ông ấy nên tôi giàu có hơn anh.

    – Nhưng tương lai của tôi xán lạn hơn, – người kia đáp lại. – Bao giờ Đấng tối cao đưa cha tôi đi, tôi sẽ là người thừa kế xưởng thuộc da cùng nhà máy da của ông ấy. Hơn nữa, tôi lớn hơn anh, và trong nhà thờ, tôi là người có chức sắc cao hơn anh.

    – Hãy để cô ấy quyết định, – Drebber đáp trả và cười một cách giả tạo với hình ảnh của mình phản chiếu trong gương. – Chúng ta hãy để cô ấy toàn quyền quyết định.

    Trong suốt thời gian diễn ra cuộc hội thoại, John Ferrier vẫn đứng yên trước ngưỡng cửa, phừng phừng giận dữ. Nhưng không thể nào chịu đựng được nữa, ông gần như muốn vung roi da lên quất quắn mông hai vị khách không mời. Cuối cùng, ông sải từng bước dài đến gần chỗ họ và nói:

    – Nghe đây, khi nào con gái tôi cho mời các cậu đến các cậu mới được đến. Còn không, tôi không bao giờ muốn nhìn thấy mặt các cậu một lần nữa.

    Cả hai gã trai trẻ người Mormon trừng trừng nhìn ông sững sờ. Trong con mắt của họ, việc cạnh tranh giữa hai người bọn họ như vậy là niềm vinh hạnh lớn lao nhất đối với cả hai cha con cô gái. Ferrier hét lên:

    – Có hai cách để ra khỏi ngôi nhà này, một là đi bằng lối cửa, hai là qua cửa sổ. Cả hai ngươi chọn cách nào?

    Gương mặt sạm nắng của ông trông quá hung dữ và đôi bàn tay gân guốc của ông trông quá đe dọa tới mức hai vị khách nhảy dựng dậy và vội vàng thoái lui. Người nông dân đứng tuổi bước theo họ tới cửa lớn.

    – Hãy cho ta biết khi nào các ngươi chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, – ông nhạo báng nói.

    – Rồi ông sẽ phải trả giá vì điều này! – Stangerson hét lên, mặt trắng bệch vì giận dữ. – Ông đã chống lại Nhà tiên tri và hội đồng bộ tứ. Rồi từ giờ đến cuối đời, ông sẽ còn phải hối hận vì điều đó.

    – Bàn tay của Đấng tối cao sẽ trừng phạt ông, – Drebber cũng hét lên. – Người sẽ phán quyết và trừng phạt ông.

    – Vậy thì chính ta sẽ bắt đầu sự trừng phạt, – Ferrier giận dữ đáp trả và đang định lao lên phòng lấy súng nếu như Lucy không kéo tay ông lại và ôm chặt lấy ông. Ông chưa kịp thoát khỏi cô gái thì tiếng vó ngựa của chúng đã cho ông biết rằng chúng đã cao chạy xa bay rồi.

    – Bọn ranh con láo toét! – ông kêu lên, lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán. – Con gái của cha, cha thà nhìn thấy con chết còn hơn là trở thành vợ của bất cứ ai trong số bọn chúng.

    – Con cũng thế cha ạ, – cô chân thành đáp lại, – nhưng chẳng bao lâu nữa Jefferson sẽ trở về thôi.

    – Phải, chắc chắn là cậu ấy sắp sửa trở về rồi. Càng sớm càng tốt bởi vì chúng ta không thể nào biết được bước tiếp theo chúng sẽ làm gì đâu.

    Thực vậy, lúc này người nông dân già và cô con gái nuôi của ông rất cần có được một người có thể đưa ra lời khuyên và giúp đỡ được họ. Kể từ khi thành phố này được thành lập, chưa từng có một ai dám bất tuân mệnh lệnh của những người lãnh đạo thành phố một cách táo tợn như vậy. Nếu như một lỗi lầm nhỏ cũng có thể bị trừng phạt nghiêm khắc thì số phận của một kẻ nổi loạn như thế này sẽ ra sao? Ferrier biết rằng sự giàu có và địa vị của ông cũng không giúp được gì trong trường hợp này. Từ trước tới nay, đã có rất nhiều người cũng giàu có và nổi tiếng ngang ông bị đàn áp bí mật và biến mất, tài sản của họ được sung vào công quỹ của nhà thờ. Ferrier là một người đàn ông dũng cảm, mạnh mẽ, nhưng ông vẫn run lên trước những nỗi kinh hoàng vô hình, mơ hồ, mờ nhạt đang treo lơ lửng trên đầu mình. Ông có thể đối mặt một cách kiên cường với bất cứ mối nguy hiểm, đe dọa hữu hình nào nhưng hình phạt này khiến cho ông cảm thấy lo sợ. Tuy nhiên ông cố gắng che giấu nỗi sợ hãi, lo ngại của mình với con gái và cố gắng khiến cho cô có suy nghĩ tích cực hơn về vấn đề này mặc dù cô gái, cùng sự yêu thương, trìu mến với cha mình, cô nhận thấy rõ ràng rằng ông đang hết sức bồn chồn lo lắng.

    Ông đã nghĩ rằng chắc hẳn mình sẽ phải nhận được thông điệp hay lời quở trách nào đó từ Young đối với hành vi xử sự của mình và sự thực là ông đã không hề nhầm lẫn mặc dù thông điệp đó được gửi đến theo một cách hết sức bất ngờ. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, ông ngạc nhiên khi thấy một mẩu giấy nhỏ được ghim vào tấm ga trải giường. Trên đó có in một dòng chữ đậm, nhưng chữ in lộn xộn:

    "Ông sẽ được gia hạn thêm hai mươi chín ngày nữa để sửa chữa lỗi lầm của mình và sau đó.."

    Dấu ba chấm còn đang sợ hơn bất kỳ mối nguy hiểm nào. Còn việc làm thế nào mà mẩu giấy đó vào được trong phòng ngủ thì ông hoàn toàn không biết bởi vì người hầu ngủ ở nhà ngoài và cửa chính và cửa sổ đề đã được đóng kỹ. Ông xé vụn mẩu giấy và không nói gì với con gái nhưng sự việc này đã lại một lần nữa khiến cho lòng ông nặng trĩu. Hai mươi chín ngày cũng chính bằng một tháng mà Young đã hứa. Ai có thể có đủ sức mạnh và lòng can đảm để chống lại một kẻ thù được trang bị bằng một thứ quyền lực bí ẩn đến như vậy? Người đã đính mẩu giấy này vào trong phòng ngủ của ông cũng có thể dễ dàng xuyên một nhát dao trúng tim ông mà ông không bao giờ có thể biết được người giết mình là ai.

    Đến sáng hôm sau ông thậm chí còn sợ hãi hơn nữa. Khi họ vừa mới ngồi vào bàn ăn sáng thì Lucy đã thảng thốt kêu lên một tiếng ngạc nhiên và chỉ tay lên trên. Ngay giữa trần nhà là một con số 28 được viết nguệch ngoạc nhưng rất dễ nhìn. Mặc dù cô gái hết sức ngạc nhiên và tò mò vì điều bí ẩn, khó hiểu vừa rồi nhưng ông vẫn không hề có ý định giải thích cho cô được biết. Đêm hôm đó, ông ngồi yên, súng trong tay quan sát và cảnh giác. Ông không nghe thấy cũng như không nhìn thấy gì cả. Tuy nhiên, đến sáng hôm sau con số 27 đã được in lên trước cửa nhà ông.

    Và cứ như vậy, vào sáng ngày hôm sau và mỗi sáng tiếp sau đó, ông nhận ra rằng những kẻ thù giấu mặt của mình vẫn đang tiếp tục đếm lùi từng ngày và bao giờ cũng đánh dấu số ngày còn lại của một tháng khoan hồng lên một vị trí nào đó rất dễ nhận thấy. Đôi khi những con số chết người trên tường, đôi khi chúng xuất hiện trên sàn nhà, thảng hoặc là qua một mẩu giấy nhỏ gắn trên cổng vườn hoặc hàng rào. Và dù có phục kích kiểu gì đi chăng nữa, John Ferrier vẫn không thể nào biết được những lời cảnh báo thường nhật đó xuất hiện như thế nào. Một nỗi kinh hoàng mơ hồ gần như là mê tín đã xảy đến với ông mỗi khi nhìn thấy những con số đó. Ông trở nên phờ phạc, hốc hác và bồn chồn không yên. Đôi mắt ông lúc nào cũng trở nên thảng thốt, hoảng sợ mỗi khi nhìn thấy người đi săn lạ mặt nào đi ngang qua nhà. Lúc này, cuộc sống của ông chỉ còn duy nhất một hy vọng, đó là sự trở về của người thợ săn trẻ tuổi từ Nevada.

    Hai mươi ngày đã giảm xuống còn mười lăm ngày, và mười lăm giảm xuống còn mười nhưng vẫn không hề có bất cứ tin tức gì từ người mà ông đang mong chờ. Từng bậc một, những con số cứ giảm dần, giảm dần nhưng Jefferson vẫn bặt vô âm tín. Bất cứ khi nào có tiếng vó ngựa vang lên trên con đường trước cửa nhà hoặc bất cứ khi nào nghe thấy tiếng kỵ sĩ thúc ngựa, John Ferrier đều vội vã chạy ra cổng với hy vọng rằng vậy là cuối cùng sự trợ giúp mà ông cầu cứu đã tới. Nhưng khi ông nhìn thấy thời hạn năm ngày còn lại giảm xuống bốn, rồi bốn giảm xuống ba thì ông hoàn toàn buông xuôi và từ bỏ mọi hy vọng trốn thoát. Đơn thương độc mã và chẳng hiểu biết mấy về vùng núi bao quanh thành phố này, ông nhận ra rằng mình hoàn toàn bất lực. Những con đường mọi người thường xuyên qua lại thì luôn được canh gác và trông chừng chặt chẽ và không một ai có thể đi qua đó nếu không được phép của Hội đồng bộ tứ. Dù có quay đi hướng nào đi chăng nữa, ông cũng không thể nào tránh được mối đe dọa đang treo lơ lửng trên đầu mình. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ nghĩ tới việc từ bỏ quyết tâm của mình và chấp nhận việc mà ông cho rằng đó là mối sỉ nhục đối với con gái mình.

    Một buổi tối, ông ngồi đơn độc một mình, tâm trí bấn loạn với những rắc rối đang gặp phải và tuyệt vọng tìm kiếm một giải pháp để thoát khỏi chúng. Sáng hôm đó, con số 2 đã được viết trên tường nhà ông để cảnh báo và ngày hôm sau đã là ngày cuối cùng trong thời gian hạn định. Và sau đó chuyện gì sẽ xảy ra đây? Tất cả những tưởng tượng mơ hồ nhưng hết sức khủng khiếp đang ngập tràn trong tam trí ông. Con gái ông – điều gì sẽ xảy ra cho cô sau khi ông chết? Chẳng lẽ không có một con đường thoát thân nào giữa cái mạng lưới vô hình đang chăng quanh họ sao? Ông gục đầu lên bàn và nấc lên trước ý nghĩ về sự bất lực của mình.

    Cái gì vậy? Giữa không gian tịch mịch của đêm tối, ông bỗng nghe thấy một tiếng cào nhẹ – nhỏ, nhưng rất rõ giữa sự tĩnh lặng buổi đêm. Tiếng động đó phát ra từ cửa chính của ngôi nhà. Ferrier rón rén bước xuống sảnh và lắng tai nghe. Tiếng động ngưng một vài giây và sau đó âm thanh rất nhỏ đó lại vang lên. Rõ ràng là có ai đó đang gõ rất nhẹ vào cánh cửa. Có phải đó là kẻ ám sát giữa đêm khuya, người đã tới đây để thực thi mệnh lệnh giết người của một tòa án bí mật nào đó? Hay đó là những kẻ đang bí mật đánh dấu lời cảnh báo về ngày cuối cùng còn lại của cha con ông? John Ferrier cảm thấy rằng cái chết lập tức còn dễ chịu hơn bản án treo lơ lửng trên đầu đang làm cho những dây thần kinh của ông căng ra, tim ông như ngừng đập. Nhảy một bước tới cánh cửa, ông rút phựt chốt và đẩy toang cửa ra.

    -Còn tiếp -​
     
  3. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    21. Chương 4: Cuộc chạy trốn vì sự sống (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bên ngoài, tất cả đều vẫn rất yên tĩnh và lặng lẽ. Trời đêm rất dễ chịu và những vì sao vẫn đang lấp lánh trên bầu trời quang đãng. Khu vườn trước nhà được bao quanh bởi một hàng rào và cánh cổng gỗ vẫn đứng đó, trước mắt ông. Nhưng cả ở trong vườn lẫn trên đường phố đều không hề có lấy một bóng người. Ferrier đảo mắt nhìn từ phải sang trái, cho tới khi ông tình cờ nhìn xuống chân mình và ngạc nhiên đến sửng sốt khi thấy một người đàn ông đang nằm úp mặt xuống đất, cả tay và chân đều bò rất nhanh.

    Quá bất ngờ và sợ hãi trước cảnh tượng trước mắt, John Ferrier tựa người vào tường, tay đưa lên chặn ngang họng để ngăn lại tiếng hét vừa chực vọt ra khỏi miệng. Đầu tiên ông nghĩ rằng cái hình người đang nằm sấp mặt kia là một người đàn ông bị thương hoặc đã chết nhưng khi nhìn kỹ, ông thấy rõ người đó đang im lặng trườn nhanh như một con rắn. Khi đã vào tới trong nhà, người đàn ông đứng thẳng dậy, đóng cửa lại và trước vẻ ngạc nhiên của Ferrier, người đó hóa ra chính là Jefferson Hope. John Ferrier hổn hển:

    – Ôi, lạy Chúa tôi! Cậu làm tôi sợ quá! Tại sao cậu lại phải vào nhà kiểu đó?

    – Cho tôi cái gì ăn đã, – người kia trả lời, giọng khàn khàn. – Tôi không hề ăn uống gì trong suốt tám tiếng bốn mươi phút rồi. – Anh ta lao tới bên chỗ bánh mì và thịt nguội vẫn còn để trên bàn sau bữa tối và ăn ngấu nghiến. – Lucy có chịu đựng được mọi chuyện xảy ra trong thời gian qua không? – anh hỏi sau khi đã thỏa mãn cơn đói cồn cào của mình.

    – Nó chịu được. Nó vẫn chưa biết gì về mối đe dọa này cả. – người cha trả lời.

    – Rất tốt. Ngôi nhà này đang bị theo dõi từ tứ phía. Đó là lý do tại sao tôi phải trườn vào nhà như vậy. Bọn chúng rất tinh quái, nhưng chúng cũng không đủ tinh quái để tóm được một người thợ săn Washoe.

    Lúc này John Ferrier cảm thấy mình trở thành một người hoàn toàn khác bởi vì ông đã có được một đồng minh tận tuỵ. Ông nắm lấy bàn tay thô ráp của người thanh niên và bắt thật chặt. Ông nói:

    – Cậu là người đàn ông đáng tự hào. Chẳng mấy người sẵn sàng tới đây chia sẻ mối hiểm nguy và rắc rối của chúng tôi đâu.

    – Cũng không hoàn toàn như vậy đâu – chàng thợ săn trẻ tuổi trả lời. Cháu rất quý trọng bác. Nhưng nếu như trong chuyện này chỉ có một mình bác thì chắc chắn cháu sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi dấn thân vào tổ ong bò vẽ như thế này. Chính Lucy là lý do khiến cháu tới đây, và trước khi mối đe dọa này xảy ra, cháu nghĩ rằng chúng ta chỉ có một hy vọng mong manh duy nhất mà thôi.

    – Chúng ta sẽ phải làm gì?

    – Mai đã là ngày cuối cùng trong thời hạn chết người và nếu như chúng ta không hành động ngay đêm nay, chúng ta chắc chắn sẽ thua cuộc. Cháu đã chuẩn bị sẵn một con la và hai con ngựa chờ ở hẻm núi Eagle Ravine. Hiện tại bác có bao nhiêu tiền? –

    – Hai nghìn đô la bằng vàng và năm nghìn giấy bạc.

    – Thế là ổn rồi. Cháu có nhiều hơn thế. Chúng ta sẽ băng qua những dãy núi kia để tới thành phố Carson. Bác nên đánh thức Lucy dậy. Thật may mắn là người hầu không ngủ trong nhà.

    Trong khi Ferrier đi đánh thức Lucy và chuẩn bị cho con gái bước vào cuộc hành trình sắp tới, Jefferson Hope đóng gói tất cả những gì ăn đuợc mà anh tìm thấy thành một gói nhỏ và chắt đầy một bình nước bởi vì qua kinh nghiệm, anh biết rằng những giếng nước trên núi là rất hiếm hoi và cách nhau rất xa. Anh cũng vừa mới chuẩn bị xong thì John Ferrier quay trở lại cùng với con gái. Cả hai đều đã ăn mặc chỉnh tề và sẵn sàng xuất phát. Màn chào hỏi của hai người yêu nhau rất nồng ấm nhưng ngắn gọn vì giờ đây, mỗi giây qua đi đều quý giá và họ còn rất nhiều việc cần phải làm. Jefferson Hope nói nhỏ nhưng rất quyết đoán như thể anh đã nhận thức được mối nguy hiểm chết người đang treo lơ lửng trên đầu họ nhưng anh đã quyết tâm đối mặt với nó:

    – Chúng ta cần phải đi ngay bây giờ. Cả lối vào đằng trước và đằng sau ngôi nhà đều bị theo dõi rất chặt chẽ nhưng nếu cẩn thận, chúng ta sẽ có thể thoát ra ngoài theo lối cửa sổ bên hông nhà và băng qua cánh đồng. Một khi tới được đường lớn, chúng ta chỉ còn cách Ravine, nơi ngựa và la đang chờ, khoảng hai dặm mà thôi. Đến khi mặt trời lên, chắc chúng ta đã đi được một nửa chặng đường xuyên qua núi rồi.

    – Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bị chặn lại dọc đường? – Ferrier hỏi.

    Jefferson vỗ vào báng súng nhô ra ngoài áo chẽn. Anh trả lời với một nụ cười u ám:

    – Nếu như chúng quá đông so với chúng ta, chúng ta có thể bắt làm tù binh hai hay ba đứa.

    Đèn đóm trong ngôi nhà đã được tắt hết, và từ khung cửa sổ tối om, Ferrier nhìn ra ngoài cánh đồng đã từng là tài sản của mình, những cánh đồng mà ông sắp sửa bỏ lại để trốn chạy. Tuy vậy ông không do dự lâu vì ông đã quyết định hy sinh và ý nghĩ về niềm hạnh phúc và tương lai của con gái đã đẩy lùi mọi hối hận về việc dấn thân vào một tương lai vô định. Mọi vật đều có vẻ thanh bình, hạnh phúc, những vòm lá cây xào xạc và những cánh đồng ngũ cốc ngút ngàn nằm im lìm đến nỗi thật khó có thể tưởng tượng rằng lẩn quất đâu đây là những kẻ sát nhân đang rình mò, theo dõi. Tuy nhiên, gương mặt trắng nhợt và nét nghiêm nghị của người thợ săn trẻ tuổi cho thấy rằng trên đường tiếp cận ngôi nhà, anh đã được chứng kiến đủ để có thể khẳng định rằng mối nguy hiểm kia có thể giáng xuống đầu họ bất cứ lúc nào nếu họ không thực sự cẩn trọng.

    Ferrier mang theo túi tiền vàng, Jefferson Hope mang theo túi đựng đồ ăn và nước uống, còn Lucy chỉ mang theo một bọc nhỏ trong đó có chứa những thứ đồ quý giá nhất của mình. Từ từ mở cửa sổ một cách hết sức thận trọng, họ đợi cho tới khi những đám mây che khuất mặt trăng mới dám lần lượt từng người một trèo qua cửa sổ xuống khu vườn nhỏ. Nín thở và cúi khom người hết cỡ, họ loạng choạng băng qua khu vườn và dừng lại bên bờ rào. Sau đó họ men theo bờ rào tới một nơi có lỗ hổng nhỏ thông với cánh đồng lúa mì. Họ vừa mới đến được đó thì người thợ săn trẻ tuổi kéo cả hai người lại và đẩy họ nép sát vào bóng tối. Họ nằm đó, im lặng và run rẩy.

    Rõ ràng là những năm tháng rèn luyện trên thảo nguyên đã đem lại cho Jefferson Hope đôi tai của một chú mèo rừng. Anh và những người bạn đồng hành của mình vừa mới nép sát người xuống đất thì tiếng kêu u ám của một con cú núi vang lên và đáp lại là một tiếng kêu tương tự ở một khoảng cách khá gần. Ngay sau đó, một dáng người xuất hiện ở ngay gần cái lỗ hổng họ vừa chui qua và lại tạo ra một tiếng kêu u ám, não nuột. Sau đó, một người đàn ông thứ hai cũng xuất hiện trong bóng tối. Người đầu tiên, có vẻ là người ra lệnh, nói:

    – Vào lúc nửa đêm mai, khi tiếng chim ăn đêm rúc lên ba lần.

    Người kia đáp lại:

    – Đồng ý. Tôi có phải thông báo lại với người anh em Drebber không?

    – Thông báo cho ông ấy, và từ ông ấy khẩu lệnh sẽ được thông báo cho những người khác. Chín đến bảy.

    – Bảy đến năm. – Người kia đáp lại và hai người đó bỏ đi theo hai hướng khác nhau. Rõ ràng là những từ cuối cùng trong đoạn hội thoại giữa hai người bọn họ là mật khẩu được trao đổi. Đúng lúc tiếng chân họ mờ dần, Jefferson Hope đứng bật dậy và giúp hai người bạn đồng hành của mình chui qua khe hở, dẫn đường cho họ băng qua cánh đồng thật nhanh, đỡ Lucy và gần như bế cô đi khi cô gần như kiệt sức. Mỗi lúc, anh một thúc giục họ:

    – Nhanh lên! Nhanh lên! Chúng ta đã đang đi qua hàng rào lính gác. Mọi thứ đều phụ thuộc vào tốc độ của chúng ta. Nhanh lên!

    Khi đã tới được đường lớn, cuộc hành trình của họ có vẻ được tăng tốc. Chỉ một lần duy nhất, họ gặp một người trên đường và họ lại cố gắng lẩn vào giữa cánh đồng để tránh bị phát hiện. Trước khi tới thị trấn, người thanh niên rẽ ngang vào một con đường hẹp, lởm chởm đá và tối om giữa hai vách núi. Hai đỉnh núi đá tối sẫm, lởm chởm phủ bóng đen u ám lên họ và con đường họ đang đi chính là rãnh núi Eagle mà những con ngựa đang đợi họ. Với một bản năng cực kỳ chính xác, Jefferson Hope dẫn đường cho họ đi giữa những tảng đá vĩ đại và băng qua lòng một nguồn nước đã khô cạn cho tới khi anh tới được một góc quen thuộc, bao quanh là vách đá, nơi những con ngựa được buộc chờ ở đó. Cô gái được đặt lên lưng con la, còn Ferrier ngồi lên lưng một trong hai con ngựa với túi tiền sau lưng trong khi Jefferson Hope dắt con ngựa còn lại chầm chậm băng qua con đường mòn chênh vênh, cheo leo, đầy nguy hiểm.

    Đó quả là một cuộc hành trình đáng sợ đối với bất cứ ai chưa từng quen với việc đối mặt với thiên nhiên trong trạng thái hoang dã nhất. Người ta sẽ nhanh chóng cảm thấy chóng mặt vì một bên là vách núi khổng lồ, dựng đứng, cao tới hàng nghìn feet hoặc hơn thế, đen sì, lạnh lùng, đầy đe dọa với những cột đá ba zan chìa ra trên bề mặt trông như bộ xương sườn hóa đá của một con quỷ. Mặt bên kia là những tảng đá và những mảnh đá dăm to nằm rải rác, lung tung khiến cho mọi nỗ lực tiến lên phía trước dường như là không thể. Giữa chúng có một con đường dường như chưa từng có người qua lại, hẹp đến nỗi họ phải đi thành hàng dọc từng người một, khó khăn đến nỗi chỉ có những kỵ sĩ lão luyện nhất mới có thể đi qua được nó. Tuy vậy, bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, trong lòng những kẻ đang trốn chạy kia cảm thấy một niềm sung sướng, hân hoan, nhẹ như lông hồng bởi vì mỗi bước tiến lên đồng nghĩa với việc khoảng cách giữa họ với những kẻ chuyên quyền kinh khủng mà họ đang chạy trốn ngày một xa.

    Tuy nhiên, họ nhanh chóng nhận ra rằng họ vẫn còn ở trong lãnh địa của Những vị thánh. Họ vừa tới được phần hoang sơ nhất, xa xôi nhất của con đường thì cô gái bỗng nhiên kêu lên một tiếng và chỉ tay về phía trước. Trên một tảng đá đối diện với con đường, bóng một tên lính canh đứng đó, in lên nền trời tối sẫm. Hắn nhìn thấy họ cùng lúc họ nhận ra hắn. Câu hỏi – Ai đang đi kia? – của hắn vang lên rõ mồn một giữa màn đêm tịch mịch và hoang vắng.

    – Những người lữ hành tới Nevada – Jefferson Hope trả lời nhưng một tay đã đặt vào báng súng.

    Họ cũng có thể nhìn thấy rằng người lính canh cô độc kia cũng đã giương súng lên và nhìn xuống như thể chẳng mấy hài lòng với câu trả lời của họ.

    – Ai cho phép các người đi? – Hắn ta hỏi.

    – Hội đồng bộ tứ – Ferrier trả lời. Những kinh nghiệm bao năm sống cùng với cộng đồng người Mormon đã dạy ông biết rằng đó là những cái tên cao cấp nhất mà ông có thể mượn tới.

    – Chín đến bảy – người lính canh hét to.

    – Bảy đến năm – Jefferson Hope lập tức đáp lại vì anh chợt nhớ ra rằng đó là mật hiệu đáp lại mà anh đã nghe được lúc ở trong vườn.

    – Các anh có thể đi, Đấng tối cao phù hộ các anh – Giọng nói từ trên đỉnh núi vang lên.

    Khi đi qua chốt canh gác này, con đường mở rộng ra và những con ngựa đã có thể chầm chậm phi nước kiệu. Ngoái lại, họ vẫn còn thấy người lính gác cô độc kia đang tựa mình lên báng súng và họ biết rằng họ đã vượt qua được chốt canh cuối cùng và rằng tự do đang ở trước mắt họ.

     
  4. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    22. Chương 5: Những thiên thần báo thù (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Suốt đêm hôm đó, con đường mà họ phải vượt qua nằm men theo những hẻm núi phức tạp như mê cung và vắt qua những con đường dày đá rêu hiếm có người đặt chân tới. Nhưng Jefferson Hope thông hiểu vùng núi này như lòng bàn tay nên anh có thể đảm bảo rằng dù có lạc đường họ cũng sẽ tìm lại được con đường cũ. Khi mặt trời lên, một cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, đẹp đến thần kỳ nhưng cũng hết sức hoang dã hiện lên trước mắt họ. Những đỉnh núi khổng lồ đầy tuyết phủ bao bọc quanh họ. Những bờ đá dựng đứng hai bên, cao tới nỗi họ có cảm tưởng như những cây thông mọc trên đỉnh núi như đang treo lơ lửng trên đầu và chỉ cần một gợn gió thôi cũng có thể đổ sập cả xuống đầu họ. Mỗi lo sợ đó không hoàn toàn là một ảo giác bởi vì thung lũng cằn cỗi họ đang đi cũng phủ kín cây cối và những tảng đá lớn. Tất cả cũng đang trong tư thế như muốn đổ cả xuống. Khi họ đã đi qua thung lũng đó, một tảng đá lớn bất chợt rơi xuống, tiếng lăn của nó rầm rầm tạo nên những âm thanh làm náo động cả vùng thung lũng vắng lặng và làm những con ngựa giật mình tăng tốc.

    Khi mặt trời dần mọc ở đường chân trời đằng đông, những đỉnh núi cao vút lần lượt được thắp sáng giống như những ngọn đèn trong ngày lễ hội cho tới khi tất cả cùng đỏ ửng và sáng rực. Vẻ đẹp kỳ vĩ của tự nhiên làm cho trái tim ba kẻ trốn chạy như vui vẻ hẳn lên và đem lại cho họ một nguồn năng lượng tươi mới. Khi tới một thác nước hoang dã chảy ra từ một khe núi, họ nghỉ chân và cho ngựa uống nước. Trong khi đó họ vội vàng dùng bữa sáng. Lucy và cha cô rất muốn nghỉ ngơi thêm chút nữa nhưng Jefferson Hope kiên quyết không đồng ý. Anh nói:

    – Lúc này chắc là chúng đang lần theo dấu vết của chúng ta rồi. Mọi chuyện chỉ còn phụ thuộc vào tốc độ mà thôi. Khi nào tới được Carson an toàn, chúng ta có thể nghỉ ngơi bao lâu cũng được.

    Cả ngày hôm đó, họ vật lộn để vượt qua những hẻm núi và tới tối họ ước chừng mình đã ở cách những kẻ thù của mình khoảng ba mươi dặm. Đêm xuống, họ chọn dừng chân ở một mỏm đá nhô ra tạo thành một nơi trú chân lý tưởng để tránh gió lạnh. Và ở đó, ôm chặt lấy nhau cho ấm, họ sung sướng chợp mắt vài giờ. Tuy nhiên, trước khi mặt trời lên, họ đã lại thức dậy và tiếp tục cuộc hành trình của mình. Họ không thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ kẻ thù có thể đuổi kịp mình và Jefferson Hope bắt đầu nghĩ rằng họ đã sắp thoát khỏi tầm với của cái tổ chức kinh khủng mà họ đã trót gây ra mối thù hận. Anh không hề biết bàn tay sắt của chúng có thể vươn xa tới đâu những như bàn tay đó có thể chộp lấy họ và trừng phạt họ nhanh như thế nào.

    Đến khoảng nửa ngày thứ hai, thức ăn dự trữ của họ bắt đầu cạn dần. Tuy nhiên, điều này cũng không khiến chàng thợ săn trẻ tuổi lo lắng nhiều bởi vì giữa vùng núi này, anh có thể kiếm được khối đồ ăn, và trước đây anh đã thường dựa vào khẩu súng của mình để duy trì sự sống ở những nơi thiên nhiên hoang dã như thế này. Chọn một góc ẩn náu an toàn, anh gom lại một ít cành khô và nhóm một đống lửa để những người bạn đồng hành của anh có thể sưởi ấm đôi chút bởi vì lúc này họ đã ở độ cao gần năm nghìn feet so với mực nước biển và không khí thì cực kỳ lạnh lẽo và khắc nghiệt. Sau khi đã buộc chặt những con ngựa lại và vẫy chào tạm biệt Lucy, anh khoác cây súng lên vai và bắt đầu đi tìm thức ăn. Ngoảnh lại anh thấy người đàn ông đứng tuổi và cô gái đang cúi mình bên đống lửa trong khi ba con vật đứng yên lặng. Sau đó, những tảng đá, những đỉnh núi che khuất tầm mắt của anh khỏi hình ảnh họ.

    Anh đi bộ khoảng hai dặm từ khe núi này qua khe núi khác mà không tìm được gì mặc dù qua dấu vết để lại trên những thân cây, anh có thể đoán được rằng có rất nhiều gấu ở quanh đây. Cuối cùng, sau hai ba giờ tìm kiếm không kết quả, anh thất vọng nghĩ tới việc quay trở lại thì mắt anh chợt nhìn thấy một cảnh tượng làm tim run lên vì sung sướng. Trên mỏm núi cách anh chừng ba đến bốn trăm feet bên trên, một con vật có vẻ bề ngoài giống như một con cừu nhưng lại được trang bị bằng cặp sừng nhọn. Loài vật này thường được mệnh danh là loài vô hình đối với những người thợ săn nhưng thật may mắn là lần này nó đứng quay đầu về hướng đối diện và vì vậy không phát hiện ra anh. Nằm sấp mặt xuống đất, anh tỳ khẩu súng lên một tảng đá và ngắm thật lâu, thật chắc chắn trước khi bóp cò. Con vật bật nảy lên không trung, lảo đảo một giây rồi rơi xuống thung lũng trước mặt.

    Con vật quá kềnh càng vì vậy người thợ săn đành phải cắt bởi đùi và một phần hông của nó đi cho dễ vác. Với chiến lợi phẩm trên vai, anh vội vã quay trở lại vì trời cũng đã bắt đầu tối rồi. Tuy nhiên, vừa mới bắt đầu cuộc hành trình trở về chỗ xuất phát thì anh đã nhận ra khó khăn mà mình phải đối mặt. Trong lúc nôn nóng kiếm thức ăn, anh đã đi quá xa khỏi những khe núi mà anh vẫn quen thuộc và thật không dễ để có thể nhận ra đâu là con đường mà anh vừa mới đi qua. Cái thung lũng lúc này anh đang đứng chia ra làm rất nhiều hẻm núi giống nhau đến nỗi anh khó có thể phân biệt được chúng. Anh đánh liều đi theo một hẻm núi chừng một dặm hoặc hơn cho tới khi anh gặp một thác nước mà anh chắc chắn rằng mình chưa từng nhìn thấy. Tin rằng mình đã đi nhầm đường, anh quay trở lại, thử đi theo đường khác nhưng cuối cùng kết quả vẫn vậy. Đêm xuống rất nhanh và khi cuối cùng anh cũng tìm được con đường quen thuộc thì trời gần như đã tối mịt. Vì thế cũng chẳng dễ dàng gì để đi được đúng đường vì trăng vẫn chưa lên và những vách đá dựng đứng, cao ngất hai bên khiến cho con đường càng tối tăm hơn. Đặt chiến lợi phẩm lúc này đã là một gánh nặng đối với anh xuống, kiệt sức vì nỗ lực tìm đường vừa rồi, anh cứ thế bước đi, cố gắng làm tăng thêm sức mạnh cho mình với ý nghĩ rằng mỗi bước chân sẽ đem anh tới gần Lucy hơn và anh chỉ mang theo một phần chiến lợi phẩn đủ để đảm bảo đồ ăn dự trữ cho họ trong phần còn lại của cuộc hành trình.

    Lúc này, anh đã tới được hẻm núi mà anh đã tạm biệt họ lúc chiều. Ngay cả trong bóng đêm, anh cũng có thể nhận ra hình dáng những vách đá bao quanh nó. Anh tưởng tượng rằng chắc hẳn họ đang rất lo lắng chờ anh quay trở về bởi vì anh đã đi gần năm giờ đồng hồ rồi. Trong tâm trạng phấn chấn, anh đưa tay lên miệng và hú lên một tiếng như là một dấu hiệu rằng anh dã trở về. Tiếng hú vang vọng cả vùng thung lũng hẹp vắng lặng. Anh ngừng lại một lát chờ tiếng hú đáp lại. Nhưng chẳng hề thấy gì ngoài tiếng vọng của chính anh đập vào những vách núi vẳng lại không ngớt trong sự tịch mịch của đêm tối vùng núi non hoang vắng. Một lần nữa, anh hét lên, thậm chí còn to hơn lần trước và lại một làn nữa anh thất vọng vì không hề nghe thấy tiếng đáp trả từ những người bạn đồng hành mà anh vừa từ biệt một thời gian rất ngắn trước đây. Một nỗi lo sợ không tên, mơ hồ trùm lên anh. Anh điên cuồng lao về phía trước, đánh rơi cả chỗ thức ăn quý giá.

    Khi tới được góc ẩn náu lúc trước đã chọn, anh có thể quan sát toàn cảnh nơi đống lửa đã được thắp lên. Những cục than và những thanh củi cháy dở vẫn còn ở đó, nhưng rõ ràng là đống lửa không hề được chăm lo kể từ lúc anh rời đi. Vẫn sự im lặng đáng sợ đó ngự trị quanh đây. Những nỗi lo sợ mơ hồ của anh trở thành chắc chắn. Anh vội vã lùng sục xung quanh. Nhưng không hề có một sinh vật sống nào gần phần còn lại của đống lửa, không thấy những con vật, không thấy người đàn ông, cũng không thấy cô thiếu nữ, tất cả đều đã biến mất. Rõ ràng là một tai họa quá bất ngờ và quá khủng khiếp nào đó đã xảy ra trong lúc anh vắng mặt – tai họa đã tóm lấy tất cả bọn họ và không để lại một dấu vết nào.

    Choáng váng và đau đớn trước cú sốc này, Jefferson Hope cảm thấy đầu óc mình quay cuồng và phải chống mạnh khẩu súng xuống đất làm chỗ tựa để khỏi bị ngã khuỵu. Nhưng về bản chất anh vẫn là con người của hành động và vì vậy anh nhanh chóng lấy lại được tinh thần. Thu lượm những thanh củi còn sót lại, anh nhóm lên một đống lửa nhỏ và nhờ đó anh bắt đầu đi kiểm tra xung quanh. Mặt đất bị giày xéo bởi móng sắt ngựa. Rõ ràng là đã có một đám người khá đông cưỡi ngựa tới đây và bắt được hai kẻ trốn chạy. Dấu chân ngựa rút lui theo hướng Salt Lake City. Bọn chúng có quay trở về với cả hai người bạn đồng hành của anh không? Jefferson Hope đã gần như tin rằng chắc hẳn chúng đã làm thế thì anh nhìn thấy một vật khiến cho mọi dây thần kinh trong anh như rung lên. Cách chỗ đống lửa một quãng có một đống đất màu đỏ tươi mà anh chắc chắn là lúc trước không có ở đó. Đó chỉ có thể là một ngôi mộ vừa mới đào. Khi tiến tới gần chỗ đó, người thợ săn trẻ tuổi nhận ra rằng còn có một cây gậy cắm trên đó và với một tờ giấy được kẹp vào kẽ nứt của cây gậy. Những gì viết trên mẩu giấy rất ngắn gọn nhưng rõ ràng:

    JOHN FERRIER

    Đã từng ở Salt Lake City.

    Chết ngày 4 tháng 8 năm 1860

    Vậy là nguời đàn ông cứng cỏi, vừng vàng mà anh vừa mới từ biệt chỉ một thời gian ngắn trước đây giờ đã không còn và đây là phần mộ của ông. Jefferson Hope điên cuồng nhìn quanh để tìm một ngôi mộ nữa nhưng không hề có dấu hiệu gì chứng tỏ rằng đây không phải là ngôi mộ duy nhất. Chắc chắn là Lucy đã bị kẻ thù bắt đi để hoàn thành số phận của cô, tức là trở thành một người trong hậu cung của một trong số những con trai của những người đứng đầu thành phố. Khi chàng trai trẻ nhận thức được số phận khó có thể thay đổi của cô gái và sự bất lực của anh trong việc ngăn chặn nó, anh đã ước rằng giá như anh cũng được nằm xuống với người đàn ông lúc này đang yên nghỉ dưới nấm mồ cô độc kia.

    Tuy nhiên, lại một lần nữa, lý trí lại đánh thức anh khỏi trạng thái yếu ớt, mụ mị và vực anh dậy trong cơn tuyệt vọng. Nếu như anh không còn lại gì thì ít nhất anh cũng có thể giành cả đời mình cho mục đích trả thù. Với sự kiên trì, bền gan và quyết tâm không ai có thể lay chuyển được, giờ đây Jefferson Hope còn mang trong mình sức mạnh của lòng thù hận không nguôi, điều mà có lẽ anh đã học được từ những người thổ dân Ấn Độ mà anh từng chung sống. Anh thề sẽ giành toàn tâm, toàn lực cho mục đích đó. Và với gương mặt trắng bệch, u ám, anh quay trở lại nơi anh đã đánh rơi phần lương thực vừa kiếm được, vun lại đống lửa và nướng đủ để ăn trong vài ngày. Xong việc, anh gói ghém mọi thứ còn lại thành một gói nhỏ và dù quá mệt mỏi, anh vẫn quyết định quay trở lại Salt Lake city theo dấu chân của những Thiên thần báo thù.

    -Còn tiếp-
     
  5. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    23. Chương 5: Những thiên thần báo thù (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong năm ngày liền, anh cuốc bộ qua những hẻm núi mà lúc trước anh đã đi qua trên lưng ngựa, người mệt lử, chân sưng tấy. Đêm xuống, anh quăng mình xuống giữa những tảng đá, chợp mắt lấy vài giờ và trước khi mặt trời mọc, anh đã lại thứuc dậy tiếp tục cuộc hành trình. Đến ngày thứ sáu, anh đã về tới Rãnh núi Eagle nơi mà họ đã bắt đầu cuộc chạy trốn định mệnh. Rách rưới, kiệt sức, anh tì người lên báng súng và giận dữ giơ bàn tay gân guốc của mình về phía thành phố lặng như tờ nằm dưới chân anh. Anh quan sát thấy những lá cờ được treo trên các đường phố chính cùng những dấu hiệu khác chứng tỏ một cuộc hội hè sắp diễn ra. Anh vẫn đang đoán xem điều đó có nghĩa là gì thì nghe thấy tiếng vó ngựa đến gần và nhìn thấy một người đàn ông đang cưỡi ngựa về phía anh. Khi ông ta tới gần, anh nhận ra đó là một người Mormon tên là Cowper, người mà đôi lần anh đã giúp đỡ. Vì vậy anh tiến lại bắt chuyện với hy vọng dò hỏi được chút ít tin tức về Lucy Ferrier. Anh nói:

    – Tôi là Jefferson Hope. Anh còn nhớ tôi chứ?

    Người Mormon nhìn anh với vẻ ngạc nhiên không che giấu vì thực sự thật khó có thể tin được rằng người đàn ông rách tả tơi, mệt mỏi, nhem nhuốc với khuôn mặt trắng bệch như xác chết và dữ dằn cùng đôi mắt hoang dã, sắc lẹm này lại có thể chính là chàng thợ săn trẻ tuổi, bảnh bao mấy hôm trước. Tuy nhiên, khi cuối cùng đã nhận ra đây đúng là Jefferson, sự ngạc nhiên của người Mormon chuyển thành lo sợ. Anh ta kêu lên:

    – Anh điên à mà trở về đây? Nếu người ta bắt gặp tôi nói chuyện với anh có khi chính tôi còn mất mạng đấy. Hội đồng Bộ tứ đã ra lệnh bắt anh vì anh đã giúp gia đình nhà Ferrier bỏ trốn.

    – Tôi cóc sợ họ cũng như cái lệnh bắt chết tiệt của họ – Hope cứng cỏi trả lời. Cowper, chắc hẳn anh có biết chút gì về việc này đúng không? Tôi cầu xin anh, hãy vì tất cả những gì anh yêu quý, chỉ cần trả lời vài câu hỏi của tôi thôi. Chúng ta vẫn luôn luôn là bạn đúng không? Vì Chúa, đừng từ chối tôi.

    – Anh muốn biết gì? Nhưng nhanh lên vì ở đây mỗi cành cây, mỗi tảng đá đều có tai đấy. – Người Mormon hỏi không mấy thoải mái.

    – Lucy Ferrier hiện giờ thế nào rồi?

    – Ngày hôm qua, cô ấy đã kết hôn với Drebber con. Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào chàng trai, anh dường như chẳng còn chút sức sống nào nữa.

    Hope hổn hển nói: – Đừng lo cho tôi! – Nhưng toàn thân anh trắng bệch và anh khuỵ xuống tảng đá mà anh đang tựa.

    – Anh nói là đã kết hôn ư?

    – Phải, đã kết hôn hôm qua. Đó là lý do tại sao trên nhà nguyện lại có treo những lá cờ lễ hội. Cũng có vài lời qua tiếng lại giữa Drebber con và Stangerson con về việc ai sẽ là người có được cô gái. Cả hai bọn họ đều tham gia vào đoàn người truy bắt hai cha con nhà Ferrier và Stangerson đã bắn cha cô gái và điều đó có vẻ như là một lợi thế cho anh ta. Nhưng khi họ công khai tranh luận trước hội đồng thì phe Drebber có vẻ mạnh hơn nên Nhà tiên tri đã ủng hộ phe nhà Drebber. Nhưng chắc chắn chẳng ai có thể có cô ấy được lâu dài đâu bởi vì tôi đã nhìn thấy vẻ chết chóc trên khuôn mặt cô ấy ngày hôm qua. Cô ấy trông giống như một bóng ma hơn là một người phụ nữ. Anh định đi đấy ư?

    Jefferson Hope lúc này đang chuẩn bị đứng dậy nói:

    – Phải, tôi sắp đi.

    Gương mặt anh như tạc trên đá, nét biểu cảm trên gương mặt đó quá cương quyết, quá cứng rắn trong khi ánh mắt anh ánh lên tia sáng hoang dã.

    – Anh định đi đâu?

    – Cũng chưa biết nữa.

    Anh trả lời và xốc lại vũ khí trên vai, anh bước xuống khe núi và biến mất giữa vùng núi non hiểm trở, nơi có những con thú hoang dã. Và trong số đó, không có gì có thể dữ dội và nguy hiểm hơn chính bản thân anh.

    Lời dự đoán của người Mormon chẳng mấy chốc đã thành sự thật. Không biết là vì cái chết kinh hoàng của cha hay vì tác động động của cuộc hôn nhân đáng ghê tởm mà cô bị buộc phải chấp nhận, Lucy tội nghiệp không bao giờ vực dậy được nữa, cô héo hon, tiều tuỵ dần và một tháng sau thì qua đời. Gã chồng nghiện rượu suốt ngày bí tỉ của cô, kẻ đã cưới cô chủ yếu là vì món gia sản của John Ferrier, đã không hề nhỏ một giọt lệ đau buồn vì sự mất mát này. Nhưng những người vợ của hắn thì khóc thương cho cô và ngồi bên cô suốt đêm trước khi an táng, đúng như tục lệ của người Mormon. Sáng sớm hôm đó, họ vừa vây quanh chiếc quan tài thì trước sự ngạc nhiên đến sững sờ và nỗi sợ hãi không thể cất lên thành lời của tất cả mọi người, cửa phòng bật mở, một người đàn ông với vẻ bề ngoài hoang dại, dãi dầu sương gió, mặc một bộ đồ tả tơi sải từng bước dài vào phòng. Không hề liếc nhìn cũng không hề nói một lời với những người phụ nữ đang co rúm lại vì sợ hãi, anh ta bước thẳng tới bên cái xác trắng bệch, bất động trước đây đã từng mang linh hồn trong trắng của Lucy Ferrier. Cúi xuống bên cô, anh cung kính đặt môi lên vầng trán lạnh ngắt rồi sau đó, cầm lấy bàn tay cô, anh rút chiếc nhẫn cưới ra. – Cô ấy sẽ không được chôn cùng với thứ này, – anh gầm gừ dữ tợn và trước khi có ai kịp báo động, anh đã lao xuống cầu thang và biến mất. Sự việc đó diễn ra quá lạ lùng và quá nhanh chóng đến nỗi những người chứng kiến không dám tin rằng đó là sự thật nếu như không có một sự thật hiển nhiên là chiếc nhẫn vàng trên bàn tay người chết đánh dấu việc cô trở thành cô dâu đã biến mất.

    Trong vài tháng trời, Jefferson Hope đã đi lang thang giữa những ngọn núi, sống một cuộc sống hoang dã và nuôi trong tim khao khát trả thù cháy bỏng. Trong thành phố, người ta truyền nhau những câu chuyện về một người bí ẩn vẫn lảng vảng quanh vùng ngoại ô và ám ảnh những khe núi cô độc. Có lần, một viên đạn bắn xuyên qua cửa sổ nhà Stangerson, cắm phập vào tường cách đầu hắn ta chừng một foot. Một lần khác, khi Drebber đi ngang qua một vách đá, một tảng đá lớn lăn từ trên đỉnh núi xuống và hắn ta chỉ thoát chết trong gang tấc nhờ nhanh chóng nằm úp mặt xuống đất. Hai gã trai Mormon trẻ tuổi không phải mất nhiều thời gian mới phát hiện ra nguyên nhân những lần hút chết của mình và đã tổ chức nhiều cuộc truy lùng liên tiếp trên núi nhằm bắt hoặc giết được kẻ thù của mình nhưng không bao giờ thành công. Vì thế, sau đó chúng quyết định thận trọng bằng cách không bao giờ ra ngoài một mình hoặc không bao giờ ra ngoài khi đêm xuống và cho canh gác cẩn mật nhà của mình. Sau một thời gian, chúng có nới lỏng hơn những biện pháp này vì trong một thời gian dài, chúng không hề nhìn thấy hay nghe được tin tức gì về kẻ thù của mình nữa và chúng hy vọng rằng thời gian đã làm cho lòng thù hận của anh nguội lạnh dần.

    Nhưng ngược lại, thời gian chỉ làm cho lòng thù hận đó thêm kiên quyết và nung nấu hơn mà thôi. Lý trí của người thợ săn trẻ tuổi luôn cứng rắn, kiên định, khó lay chuyển và cái quyết tâm trả thù cháy bỏng đã hoàn toàn ngự trị trong tâm trí anh khiến cho anh không còn chỗ cho bất cứ thứ tình cảm nào khác nữa. Tuy nhiên, trên tất cả anh vẫn là một người đàn ông thực tế. Anh nhanh chóng nhận ra rằng ngay cả cái thể trạng cứng cỏi, khoẻ mạnh của anh cũng không thể chịu đựng nổi nếu cứ liên tiếp căng mình ra chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Phơi mình dưới gió sương và thiếu thốn lương thực đang dần làm anh kiệt sức. Nếu như anh chết như một chú chó săn giữa những dãy núi khắc nghiệt này thì mối thù của anh ai sẽ trả? Hơn nữa, một cái chết như vậy chắc chắn sẽ xảy đến với anh nếu như anh cứ khăng khăng tiếp tục cuộc sống như vậy. Anh cảm thấy rằng như thế có nghĩa là anh đang chơi trò chơi mà kẻ thù bày ra vì vậy anh đành miễn cưỡng trở về khu mỏ ở Nevada. Ở đó, anh nghỉ ngơi để phục hồi sức khoẻ và tích luỹ tiền bạc đủ để theo đuổi mục tiêu của mình mà không lo bị thiếu thốn.

    Anh dự định sẽ biến mất nhiều nhất là khoảng một năm nhưng rất nhiều điều kiện khách quan không lường trước khiến cho anh không thể rời khỏi khu mỏ trong vòng gần năm năm. Tuy nhiên, dù khoảng thời gian đó có dài bao lâu đi chăng nữa thì ký ức về sự mất mát và lòng khát khao trả thù cháy bỏng vẫn luôn luôn tươi mới như cái đêm anh đứng bên nấm mộ của John Ferrier. Cải trang và đổi tên giả, anh trở về Salt Lake City, không quan tâm tới điều gì sẽ xảy ra đối với mình miễn là anh đạt được mục đích mà anh cho là công lý. Tại đây, những tin tức không hay đang chờ đón anh. Đã có một cuộc ly gián giữa cộng đồng những người được lựa chọn diễn ra vài tháng trước, một vài thành viên trẻ của Nhà thờ đã làm cuộc nổi loạn chống lại những Nhà lãnh đạo và kết quả là một số những người bất mãn đã ly khai, rời khỏi Utah và trở thành người Do thái. Trong số này có Drebber và Stangerson nhưng không ai biết họ đã đi đâu. Có những tin đồn cho biết rằng Drebber đã thu xếp để chuyển phần lớn tài sản của mình thành tiền mặt và rằng hắn ta đã ra đi với tư cách là người đàn ông giàu có trong khi Stangerson lại nghèo đói. Tuy nhiên, cũng không hề có một manh mối nào để có thể tìm được nơi ở của chúng.

    Nhiều người, dù lòng hận thù có sâu sắc đến đâu, gặp phải khó khăn như vậy chắc sẽ từ bỏ ý định trả thù nhưng Jefferson Hope thì không phút nào thối chí. Với số tiền nhỏ mà anh có nhờ vào bất cứ công việc nào anh có thể làm, anh đi từ thành phố này tới thành phố khác trên khắp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để truy tìm kẻ thù của mình. Năm nối tiếp năm qua đi, mái tóc đen nhánh của anh đã ngả hoa râm nhưng anh vẫn tiếp tục lang thang, như một chú chó săn, với một quyết tâm sắt đá phải đạt bằng được mục đích dù có phải mất cả đời đi chăng nữa. Cuối cùng, sự kiên nhẫn của anh cũng đã được đền đáp. Chỉ là một cái nhìn thoáng qua nơi một khung cửa sổ nhưng cái nhìn đó cũng đủ để anh nhận ra rằng ở Cleveland, bang Ohio, những kẻ mà anh đuổi đang trú ngụ. Anh quay trở về nơi ở tồi tàn của mình với kế hoạch trả thù được thu xếp cẩn thận. Tuy nhiên, thật tình cờ là Drebber lúc đó cũng nhìn qua cửa sổ và đã nhận ra kẻ đi lang thang trên đường phố kia là ai và đọc được trong mắt anh ta mối nguy hiểm chết người. Hắn ta vội vã tìm Stangerson, lúc này đã trở thành thư ký riêng của Drebber, đến đồn cảnh sát và tường trình rằng cuộc sống của chúng đang bị đe dọa vì một kẻ thù cũ, mang trong lòng sự ghen tỵ và căm thù, đang theo dõi chúng. Tối hôm đó, Jefferson Hope bị bắt giam nhưng vì không tìm được người bảo lãnh nên anh đã bị tạm giữ vài tuần. Khi cuối cùng anh được thả ra thì ngôi nhà của Drebber đã trống không và hai kẻ anh truy tìm đã lên đường sang châu Âu.

    Một lần nữa, mọi đầu mối bị cắt đứt và một lần nữa mối thù sâu sắc thúc đẩy anh tiếp tục tìm kiếm. Tuy nhiên, tiền đã cạn nên đôi khi anh phải dừng lại để làm việc và tiết kiệm từng đô la một cho chuyến đi sắp tới. Cuối cùng, sau khi đã kiếm đủ tiền, anh khởi hành đến Châu Âu và lần theo dấu vết kẻ thù từ thành phố này tới thành phố khác, vừa đi vừa làm việc để duy trì cuộc sống nhưng không lần nào anh tóm được hai kẻ trốn chạy. Khi anh tới St. Petersburg thì chúng đã rời khỏi đó đến Paris, khi anh theo chúng tới Paris thì chúng vừa mới tới Copenhaghen. Tại thủ đô của Thuỵ Điển, anh cũng chỉ chậm chân vài ngày vì chúng vừa lên đường tới London. Nhưng ở đây, cuối cùng anh cũng đã tóm được chúng sau một quãng thời gian rượt đuổi tưởng chừng vòng quanh trái đất. Còn về phần những gì xảy ra ở đây, chúng ta không thể làm gì tốt hơn là trích dẫn lại lời kể của chính người thợ săn này, như lời bác sĩ Watson viết trong cuốn nhật ký của mình.
     
  6. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    24. Chương 6: Tiếp tục những hồi tưởng của bác sĩ Watson (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sự chống cự điên cuồng của người tù không hề có chút gì gọi là hung tợn hay ác ý đối với chúng tôi bởi khi nhận thấy rằng mình hoàn toàn bất lực, anh ta mỉm cười với một vẻ hòa nhã và nói rằng anh ta hy vọng không làm ai trong số chúng tôi bị thương trong cuộc vật lộn vừa rồi. Anh ta nói với Sherlock Holmes:

    – Tôi đoán là các ngài sẽ đưa tôi tới sở cảnh sát. Xe của tôi vẫn đang đỗ ở dưới cửa. Nếu như ngài nới lỏng dây trói cho tôi, tôi sẽ tự mình đi xuống đó bởi vì khiêng tôi cũng không nhẹ đâu.

    Gregson và Lestrade trao đổi một cái nhìn như thể họ đang nghĩ rằng lời đề nghị này quả là táo bạo và kỳ cục. Nhưng ngay lập tức Holmes đáp ứng yêu cầu của người tù và cởi cái dây trói đang buộc quanh chân anh ta. Anh ta đứng lên và co duỗi chân như để chắc chắn rằng nó đã được tự do. Tôi còn nhớ lúc đó, khi nhìn thấy anh ta, tôi đã nghĩ tôi rất hiếm khi nhìn thấy một người đàn ông cao to và cường tráng như thế; mái tóc tối màu, khuôn mặt rám nắng thể hiện nét cương quyết và một nguồn năng lương, một nguồn sức mạnh cũng dữ dội không kém. Anh ta liếc nhìn người bạn trọ chung nhà với tôi với một vẻ ngưỡng mộ không che giấu và nói:

    – Nếu như cái ghế trưởng đồn cảnh sát còn trống, tôi cho rằng ngài chính là người hoàn toàn phù hợp với vị trí đó. Cái cách mà ngài lần theo dấu vết của tôi quả là hoàn hảo.

    – Tốt hơn là các ngài nên đi cùng với tôi – Holmes nói với hai vị thanh tra.

    – Tôi sẽ đánh xe – Lestrade nói.

    – Gregson có thể ngồi cùng tôi trong xe. Cả anh nữa, bác sĩ. Anh có vẻ rất hứng thú với vụ này và vì thế anh có thể tham gia cùng với chúng tôi.

    Tôi vui vẻ đồng ý và chúng tôi cùng bước xuống nhà. Tù nhân của chúng tôi không hề có ý định bỏ trốn mà bình tĩnh bước vào trong cỗ xe ngựa đã từng là của anh ta. Chúng tôi cũng theo chân anh ta bước vào trong. Lestrade trèo lên ghế trước, vung roi thúc ngựa và chẳng mấy chốc đã đưa chúng tôi tới nơi chúng tôi cần đến. Chúng tôi bước vào một căn phòng nhỏ nơi một viên cảnh sát viết tên của người tù và tên của những người đàn ông mà anh ta bị buộc tội giết họ. Viên cảnh sát đó là một người đàn ông có khuôn mặt trắng trẻo và không biểu cảm. Anh ta thực hiện nhiệm vụ mộc cách máy móc và tẻ nhạt. Anh ta nói:

    – Người tù sẽ bị đưa ra tòa xét xử trong vòng một tuần nữa. Trong thời gian chờ đợi, ông Jefferson Hope, ông có còn điều gì muốn nói không? Tôi báo trước với ông rằng những gì ông nói ra sẽ được ghi lại và có thể được sử dụng như là một bằng chứng chống lại ông.

    Người tù của chúng tôi chậm rãi nói:

    – Tôi có rất nhiều điều muốn nói. Tôi muốn kể cho các quý ông đây mọi chuyện.

    Viên thanh tra hỏi lại:

    – Ông không nghĩ rằng ông nên giữ những điều đó lại để nói khi xét xử sao?

    – Có thể tôi sẽ chẳng bao giờ bị xét xử cả – Anh ta trả lời. Các ngài không cần phải lo lắng như thế. Tôi không hề có ý định tự tử đâu. Ngài có phải là bác sĩ không?

    Anh ta quay đôi mắt sẫm màu sắc sảo về phía tôi khi hỏi câu cuối cùng.

    – Phải! – Tôi trả lời

    – Vậy thì hãy đặt tay vào đây – anh ta nói với một nụ cười và đưa bàn tay bị cùm chỉ vào ngực mình.

    Tôi làm như vậy và ngay lập tức nhận ra mạch đập chấn động, rối loạn đang diễn ra bên trong. Thành ngực anh ta dường như đang run rẩy và rung lên như như thể có một cỗ máy công suất cực mạnh đang làm việc bên trong một tòa nhà mỏng manh, dễ vỡ. Trong căn phòng tĩnh lặng, tôi có thể nghe thấy tiếng đập trầm trầm phát ra từ bên trong. Tôi kêu lên:

    – Anh bị chứng phình động mạch chủ.

    Anh ta bình tĩnh đáp:

    – Người ta cũng gọi chứng bệnh của tình thế. Tuần trước, tôi đến khám bác sĩ và ông ấy nói với tôi rằng nó có thể bị vỡ ngày một ngày hai thôi. Mỗi năm trôi qua, chứng bệnh này càng trở nên tồi tệ. Tôi mắc chứng bệnh này vì dãi dầu mưa gió quá nhiều và thiếu ăn liên miên khi sống giữa vùng núi ở Salt Lake. Nhưng bây giờ tôi đã hoàn thành được công việc của mình và tôi chẳng còn quan tâm xem bao lâu nữa tôi sẽ chết. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn kể lại câu chuyện này để sau khi tôi chết đi ai đó còn biết về nó. Tôi không muốn người ta nhớ tới tôi như nhớ tới những tên sát nhân khác.

    Giữa viên cảnh sát và hai viên thanh tra diễn ra một cuộc thảo luận chóng vánh xem có nên cho phép anh ta kể câu chuyện của mình không. Cuối cùng viên cảnh sát hỏi:

    – Bác sĩ, ông có cho rằng căn bệnh này có thể gây nguy hiểm tới tính mạng của anh ta bất cứ lúc nào không?

    – Hoàn toàn có khả năng – Tôi trả lời.

    Viên cảnh sát nói:

    – Trong trường hợp đó, vì công lý, trách nhiệm của chúng ta là phải ghi lại lời khai của anh ta. Thưa ông, ông có thể kể câu chuyện của mình, và tôi phải thông báo lại với ông một lần nữa là những gì ông nói sẽ được ghi lại.

    – Nếu các ngài cho phép, tôi xin được ngồi xuống – anh ta nói và làm cùng một lúc. Chứng bệnh này khiến tôi rất dễ cảm thấy mệt mỏi và cuộc vật lộn của chúng ta cách đây một tiếng cũng chẳng giúp cải thiện được tình hình. Tôi cũng sắp chết rồi và tôi không hề có ý định nói dối các ngài. Tất cả những lời tôi sắp nói ra đây hoàn toàn là sự thật và việc các ngài sử dụng chúng như thế nào cũng chẳng quan trọng gì đối với tôi.

    Với những lời đó, Jefferson Hope ngả người ra sau ghế và bắt đầu kể câu chuyện đặc biệt của mình. Anh ta nói với một vẻ bình tĩnh, có phương pháp, có tổ chức như thể những tình tiết mà anh ta đang thuật lại hết sức bình thường. Tôi có thể thêm vào một vài lời chú thích nhỏ để sự việc được chính xác hơn vì tôi vừa mới mượn được cuốn sổ của Lestrade, trong đó, từng lời của người tù kể được ghi lại chính xác không sai một từ.

    – Lý do tại sao tôi căm thù hai kẻ đó không mấy liên quan tới các vị – anh nói – chỉ cần biết rằng chúng đã phạm phải tội lỗi là giết chết hai con người trong một gia đình – cha và con gái – cũng đã đủ để chúng phải đền mạng rồi. Sau khi một khoảng thời gian khá dài đã trôi qua kể từ khi chúng phạm tội, tôi không thể nào thu thập đủ bằng chứng để buộc tội chúng trước bất kỳ một tòa án nào. Mặc dù vậy tôi biết rõ tội lỗi của chúng và tôi quyết định rằng mình sẽ vừa là thẩm phán, vừa là quan tòa và vừa là người thi hành công lý. Các ngài cũng sẽ làm như vậy thôi nếu như các ngài ở vào trường hợp của tôi và các ngài còn mang trong mình dòng máu của một con người.

    Người con gái mà tôi vừa nói lẽ ra đã làm lễ thành hôn với tôi hai mươi năm trước. Nhưng cô ấy đã bị buộc phải kết hôn với gã Drebber kia và tan vỡ trái tim vì điều đó. Tôi đã lấy chiếc nhẫn cưới từ bàn tay đã chết của cô ấy và tôi đã thề rằng khi chết mắt hắn ta sẽ phải được nhìn thấy chính chiếc nhẫn này và rằng những suy nghĩ cuối cùng của hắn ta phải là những suy nghĩ về tội lỗi mà vì nó hắn ta phải bị trừng phạt. Tôi đã mang nó theo mình khắp nơi và đã truy tìm hắn cùng kẻ tòng phạm của hắn qua hai lục địa cho tới khi tôi tóm được chúng. Chúng nghĩ rằng chúng đã giũ bỏ được tôi nhưng chúng không bao giờ có thể làm được điều đó. Nếu ngày mai tôi chết, và rất có thể là như vậy, thì tôi cũng sẽ ra đi khi biết rằng nhiệm vụ của tôi trên thế giới này đã được hoàn tất, và hoàn tất một cách tốt đẹp. Chúng đã bị trừng phạt và bị trừng phạt dưới bàn tay của tôi. Giờ chẳng còn gì khiến tôi phải hy vọng hay phải khao khát nữa.

    Chúng giàu có còn tôi nghèo khổ vì vậy thật chẳng dễ dàng gì để tôi có thể bám theo được dấu vết chúng. Khi tôi tới London, túi tiền của tôi gần như đã cạn sạch, và tôi nhận ra rằng tôi cần phải làm gì đó để kiếm sống. Đánh xe và cưỡi ngựa đối với tôi dường như cũng tự nhiên như là đi bộ, vì vậy tôi xin vào làm người đánh xe trong một văn phòng quản lý xe ngựa. Hàng tuần tôi phải mang về nộp cho ông chủ một khoản tiền số còn lại tôi được giữ hoàn toàn. Cũng chẳng mấy khi số tiền sau khi nộp cho ông chủ còn lại nhiều nhặn nhưng tôi cũng xoay sở đủ để sống được. Công việc khó khăn nhất là phải làm thế nào để biết được đường vì tôi cho rằng trong số tất cả những con đường rắc rối và phức tạp mà tôi đã từng đi qua thì đường phố ở thành phố này là rắc rối và khó nhớ nhất. Mặc dù tôi luôn có bản đồ trong mình nhưng tôi chỉ hoàn toàn thoải mái và yên tâm đi lại trong thành phố này khi tôi nhớ được tất cả những khách sạn và nhà ga chính.

    Tôi cũng đã phải mất một thời gian không ngắn trước khi phát hiện ra được nơi ở của hai quý ông mà tôi đang tìm kiếm, nhưng tôi đã dò hỏi và dò hỏi cho tới khi cuối cùng tôi đạt được mục đích của mình. Chúng đang ở tại một nhà trọ trên đường Camberwell bên bờ sông. Một khi đã tìm thấy chúng, tôi biết rằng chúng đã hoàn toàn nằm trong tay tôi. Tôi đã để râu và vì thế chúng sẽ khó có thể nhận ra được tôi. Tôi sẽ bám theo và theo dõi chúng cho tới khi nào cơ hội của tôi tới. Tôi đã quyết tâm không để chúng thoát khỏi tay tôi một lần nữa.

    Vậy mà chúng suýt nữa đã làm được điều đó thêm một lần nữa. Dù chúng có đi tới bất cứ nơi nào ở thành London đông đúc này, tôi cũng luôn luôn bám sát gót chúng. Đôi khi tôi bám theo chúng trên chiếc xe ngựa của mình, đôi khi đi bộ nhưng sử dụng xe ngựa vẫn là cách tốt nhất bởi vì chúng sẽ không thể thoát khỏi tôi một lần nữa. Thế nhưng chính vì vậy mà tôi chỉ có thể kiếm được chút gì đó vào lúc sáng sớm tinh mơ hoặc lúc trời tối muộn và tôi đã bắt đầu chậm nộp tiền hàng tuần cho ông chủ tôi. Tuy nhiên, tôi không mấy quan tâm tới điều đó. Điều quan trọng nhất đối với tôi lúc này là tôi có thể đặt được tay mình lên những kẻ mà tôi muốn trả thù.

    Tuy vậy chúng cũng rất xảo quyệt. Chắc hẳn chúng đã nghĩ rằng rất có thể chúng vẫn đang bị theo dõi bởi vì chúng không bao giờ ra ngoài một mình và cũng không bao giờ ra khỏi nhà sau khi đêm xuống. Trong vòng hai tuần liền, ngày nào tôi cũng đánh xe bám theo chúng nhưng không bao giờ thấy chúng rời nhau. Drebber thì gần như lúc nào cũng say xỉn nhưng Stangerson thì không lúc nào không tỉnh táo. Tôi theo dõi chúng từ sáng sớm tới tối mịt nhưng chưa một cơ hội nào tới. Tuy vậy, tôi không hề nản lòng bởi vì tôi tin rằng thời cơ rồi cũng sẽ đến. Nỗi lo sợ duy nhất đối với tôi lúc đó là cái thứ đang phập phồng trong ngực tôi có thể bùng phát hơi sớm một chút và tôi đành phải để lại công việc còn dang dở.

    Cuối cùng, một buổi tối, tôi đang đánh xe đi lại khu phố Torquay Terrace, nơi có căn nhà trọ mà chúng đang trú ngụ, thì tôi nhìn thấy một chiếc xe ngựa dừng lại trước cửa. Ngay lập tức, một số đồ đạc được mang ra và một lát sau Drebber cùng Stangerson cũng xuất hiện rồi chiếc xe phóng đi. Tôi thúc ngựa và cố gắng giữ cỗ xe đó trong tầm ngắm của mình. Tôi cảm thấy hết sức lo lắng vì tôi sợ rằng bọn chúng đang định thay đổi nơi trú chân. Tại ga Euston, chúng bước ra khỏi xe. Tôi gọi một cậu bé tới nhờ trông xe ngựa và bám theo chúng vào sân ga. Tôi nghe thấy bọn chúng hỏi chuyến tàu tới Liverpool và người bảo vệ trả lời rằng có một chuyến tàu đang chuẩn bị khởi hành, vài tiếng nữa mới có một chuyến khác. Stangerson có vẻ muốn đáp ngay chuyến tàu sắp khởi hành nhưng Drebber hình như có ý muốn ngược lại. Tôi đã đến gần chỗ chúng đứng tới nỗi đôi khi tôi còn có thể nghe rõ mồn một từng lời chúng nói với nhau. Drebber nói rằng hắn còn có một công việc nho nhỏ cần phải làm và nói rằng nếu Stangerson có thể chờ thì hắn sẽ quay trở lại ngay. Stangerson can ngăn Drebber và nhắc Drebber nhớ rằng hai đứa bọn chúng phải luôn đi cùng với nhau. Drebber trả lời rằng đây là vấn đề khá tế nhị và rằng hắn ta cần phải đi một mình. Tôi không thể nghe được Stangerson đã đáp lại như thế nào nhưng Drebber đã bật lên một tiếng chửi thề và nhắc cho Stangerson nhớ rằng hắn ta chỉ là một kẻ hầu được Drebber trả công mà thôi và rằng Stangerson là cái thá gì mà dám ra lệnh cho hắn ta. Vì vậy Stangerson từ bỏ việc can ngăn Drebber và chỉ nói lại rằng nếu Drebber để lỡ chuyến tàu cuối cùng thì hắn ta có thể tới gặp Stangerson ở Khách sạn Halliday's Private. Drebber nói rằng hắn ta sẽ quay trở lại nhà ga trước mười một giờ và sau đó ra khỏi sân ga.

    Cái thời khắc mà tôi chờ đợi quá lâu cuối cùng cũng đã tới. Vậy là kẻ thù đã nằm trong tay tôi. Khi đi cùng nhau chúng còn có thể bảo vệ lẫn nhau, nhưng một khi đã tách nhau ra, chúng sẽ không thể nào thoát khỏi tay tôi. Kế hoạch của tôi đã thành hình từ trước. Sự trả thù sẽ không thể được gọi là hoàn hảo nếu như kẻ có tội không biết được ai là người đã trừng phạt hắn và tại sao hắn phải hứng chịu sự trừng phạt đó. Tôi đã lập sẵn một kế hoạch, trong đó tôi sẽ có cơ hội để nói rõ cho kẻ đã làm tôi phải đau khổ biết rằng kẻ thù cũ của hắn giờ đã tóm được hắn. Thật tình cờ là vài ngày trước, một người đàn ông được thuê trông nom một vài ngôi nhà trên đường Brixton đã đánh rơi chiếc chìa khóa của một trong số những ngôi nhà đó trong xe tôi. Ngay tối hôm đó ông ta đã trở lại và tôi trả cho ông ta chiếc chìa khóa đó. Nhưng tôi đã kịp lấy mẫu chiếc chìa khóa đó và đi đánh một chiếc khác. Nhờ đó, ít nhất tôi đã có thể bước vào một nơi trong cái thành phố rộng lớn này mà hoàn toàn có thể yên tâm rằng mình không bị quấy rầy. Nhưng làm thế nào để dụ được Drebber vào ngôi nhà đó là một vấn đề hết sức khó khăn mà lúc này tôi đang phải vắt óc suy nghĩ.

    Hắn ta bước xuống phố và vào một hai cửa hàng rượu, và ở lại cửa hàng thứ hai khoảng nửa giờ. Khi ra khỏi quầy rượu, bước đi của hắn đã bắt đầu loạng choạng. Rõ ràng là hắn đã uống khá nhiều. Có một chiếc xe ngựa đỗ ngay trước mặt tôi và hắn ta đã vẫy chiếc xe đó. Tôi bám theo cỗ xe phía trước gần tới nỗi đôi khi mũi ngựa của tôi chỉ còn cách đuôi xe chừng một thước. Chúng tôi lòng vòng qua cầu Waterloo và đi hàng dặm qua nhiều con phố rồi cuối cùng, trước sự ngạc nhiên của tôi, chúng tôi đã dừng lại trước hiên nhà mà hắn ta đã ở trọ. Tôi không đoán ra được hắn ta trở lại đây là có ý định gì nhưng tôi vẫn tiếp tục theo dõi và dừng xe cách ngôi nhà chừng một trăm thước. Hắn ta bước vào trong nhà và cỗ xe ngựa kia bỏ đi. Cho tôi xin một cốc nước, nếu như ngài không phiền. Miệng tôi khô khốc vì nói hơi nhiều.

    -Còn tiếp-
     
  7. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    25. Chương 6: Tiếp tục những hồi tưởng của bác sĩ Watson (2)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi đưa cho anh ta một cốc nước. Anh ta uống cạn rồi đặt chiếc cốc không xuống bàn. Anh ta tiếp tục:

    – Thế lại hóa hay. Tôi đứng đợi khoảng mười lăm phút hoặc hơn thế một chút thì bỗng nghe thấy trong nhà có tiếng ồn ào như tiếng xô xát, đánh nhau. Một giây sau, cửa mở tung và hai người đàn ông xuất hiện. Một trong số đó là Drebber, còn người kia là một chàng trai trẻ tôi chưa từng gặp. Chàng trai đó tóm lấy cổ áo Drebber và khi họ ra tới hàng hiên, anh ta đá đít Drebber một cái thật mạnh và đẩy hắn ta ra giữa phố. – Thằng chó! – anh ta nói, dứ dứ cây gậy về phía hắn, – Đấy là tao dạy mày vì đã lăng nhục một cô gái con nhà lành! – Anh ta quá nóng tới nỗi tôi cứ tưởng rằng anh ta sẽ dùng cái dùi cui trên tay đánh hắn tới tấp cơ, nhưng tên vô lại đã lảo đảo bước xuống đường một cách nhanh nhất mà hắn có thể trong trạng thái say xỉn. Hắn ta chạy tới góc phố thì nhìn thấy xe của tôi. Hắn vẫy xe tôi lại và nhảy vào trong. – Đưa tôi tới khách sạn Halliday's Private, – hắn nói.

    Khi hắn ta đã ngồi trong chính chiếc xe ngựa của tôi, tim tôi như nhảy ra khỏi lồng ngực vì hân hoan, sung sướng đến nỗi tôi e rằng chứng phồng động mạch chủ của tôi có thể phát tác ngay lúc này. Tôi chầm chậm đánh xe đi, trong đầu cân nhắc xem nên hành động như thế nào là tốt nhất. Tôi có thể đánh xe đưa thẳng hắn ta tới vùng nông thôn và ở đó, giữa một con đường vắng người nào đó, tôi sẽ nói cho hắn biết tôi là ai và mục đích của tôi là gì. Tôi gần như đã quyết định theo hướng đó thì hắn ta lại gây ra cho tôi một rắc rối. Cơn nghiện rượu lại ập đến hắn và hắn yêu cầu tôi dừng xe bên ngoài một quán rượu gin. Hắn ta bước vào bên trong sau khi nói lại rằng tôi đứng đó chờ hắn ta. Hắn ta nán lại đó cho tới khi quán đóng cửa và khi hắn ta quay trở ra, hắn ta đã say khướt đến nỗi tôi biết rằng lúc này mọi sự đã nằm gọn trong tay tôi.

    Đừng nghĩ rằng tôi đã có ý định sẽ kết liễu đời hắn như một kẻ giết người máu lạnh. Nếu như tôi làm như vậy thì đó cũng sẽ chỉ là một lời phán quyết cứng rắn mà thôi. Tuy nhiên, tôi không thể làm như vậy được. Từ lâu tôi đã quyết định là tôi sẽ cho hắn một cơ hội sống sót nếu như hắn chấp nhận nắm lấy vận may đó. Trong số rất nhiều công việc mà tôi đã làm để kiếm sống trong suốt quãng thời gian lang bạt trên nước Mỹ, tôi đã từng làm người trông coi và quét dọn phòng thí nghiệm ở trường đại học York. Một hôm giáo sư có một bài giảng về độc dược và ông ấy đã cho sinh viên của mình xem một thứ thuốc độc mà ông gọi là alkaloid. Ông đã chiết xuất được thứ độc dược đó từ những mũi tên tẩm độc của thổ dân Nam Mỹ. Đó là chất kịch độc đến nỗi chỉ cần một chút móng tay thôi cũng đủ chết người ngay tức thì. Tôi đã ghi nhớ thật kỹ cái lọ có chứa chất độc đó và khi tất cả mọi người đã ra về, tôi xoay sở để lấy được một chút chất kịch độc này. Tôi là người bào chế khá khéo léo, vì vậy tôi đã cho một phần rất nhỏ alkaloid lấy được vào những viên thuốc có thể hòa tan trong nước. Mỗi viên thuốc đó được tôi cho vào trong một chiếc hộp cùng với một viên thuốc khác trông bề ngoài tương tự nhưng không có độc. Lúc đó tôi đã có dự định là khi tôi tóm được kẻ thù của mình, tôi sẽ đưa cho chúng mỗi người một chiếc hộp, chúng sẽ có cơ hội được chọn uống một viên và tôi sẽ uống viên còn lại. Phương pháp này hết sức hiệu quả và lại không hề gây ra tiếng động như dùng súng. Kể từ hôm đó, tôi luôn luôn mang theo những chiếc hộp này bên mình và lúc này, thời điểm tôi được sử dụng chúng đã đến.

    Lúc đó là khoảng gần một giờ, đêm lạnh lẽo, hoang vắng, ảm đạm, trời lạnh căm và mưa như trút nước. Nhưng dù cho ngoài trời có thê lương như thế nào đi chăng nữa, bên trong xe ngựa, tôi vẫn cảm thấy sung sướng – sung sướng tới nỗi tôi chỉ muốn hét lên thật to trong niềm hân hoan tột đỉnh. Nếu như trong số các ngài có ai đã từng theo đuổi một mục tiêu nào đó và khao khát cháy bỏng muốn hoàn thành mục tiêu đó trong suốt hai mươi năm trời và bỗng nhiên nhận ra rằng lúc này mục tiêu đó đã hoàn toàn nằm trong tầm tay của các ngài thì chắc chắn là các ngài sẽ hiểu được cảm giác của tôi lúc đó. Tôi châm một điếu xì gà và hít một hơi thật sâu để trấn tĩnh lại, thế nhưng hai bàn tay tôi vẫn run rẩy và hai bên thái dương tôi giần giật vì quá kích động. Khi đánh xe đi, tôi còn nhìn thấy cả John Ferrier và Lucy yêu dấu đang nhìn theo tôi trong bóng tối và mỉm cười với tôi, rõ mồn một như tôi đang nhìn thấy tất cả các ngài trong căn phòng này. Suốt dọc đường, lúc thì họ ở trước mặt tôi, lúc họ ở hai bên tôi cho tới khi tôi dừng xe trước cửa căn nhà trên phố Brixton.

    Không có một ai trên đường phố, cũng không có lấy một tiếng động ngoài tiếng mưa rơi. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy Drebber đang nằm cuộn tròn, chìm vào giấc ngủ say khướt. Tôi lay tay, đánh thức hắn ta dậy. Tôi nói:

    – Đến lúc phải ra rồi.

    – Được rồi, anh đánh xe. – Hắn ta trả lời.

    Tôi cho rằng hắn ta vẫn cứ nghĩ là chúng tôi đã đến khách sạn mà hắn ta yêu cầu bởi vì hắn ta bước ra khỏi xe mà không nói thêm một lời nào nữa, lặng lẽ bước theo tôi vào trong vườn. Tôi bước đi bên cạnh để đỡ hắn đứng cho vững vì lúc đó hắn ta vẫn còn quá say. Khi tới cửa, tôi mở khóa và dẫn hắn ta vào bên trong. Tôi thề với các ngài rằng trong suốt quãng thời gian đó, John Ferrier và con gái luôn luôn đi trước chúng tôi.

    – Trong này tối quá – hắn nói.

    – Chúng ta sẽ có đèn ngay thôi – tôi nói và đánh một que diêm để thắp ngọn nến mà tôi đã mang theo trong mình – Nào, Drebber, bây giờ thì có nhận ra tao là ai không? – Tôi tiếp tục và quay về phía hắn ta, giơ ngọn nến lên trước mặt.

    Hắn ta nhìn tôi với đôi mắt say khướt, u mê, đần độn một lát nhưng sau đó tôi đã nhận thấy một nỗi kinh hoàng ánh lên trong đôi mắt đó và toàn bộ khuôn mặt hắn ta méo mó vì một cơn chấn động. Tôi biết rằng hắn đã nhận ra tôi. Hắn ta lảo đảo lùi lại với gương mặt trắng bệch. Tôi nhìn thấy cả những giọt mồ hôi lấm tấm ứa ra trên trán hắn và nghe thấy tiếng răng hắn đánh vào nhau lập cập. Nhìn thấy cảnh đó, tôi tựa người vào cửa và cười thành tiếng. Một tràng cười to, dài. Tôi vẫn luôn biết rằng giây phút trả thù bao giờ cũng ngọt ngào nhưng tôi chưa bao giờ hy vọng rằng mình lại hài lòng được đến như vậy. Tôi nói:

    – Đồ chó! Tao đã truy tìm mày từ Salt Lake City tới St. Peterburg và mày luôn luôn thoát khỏi tay tao. Nhưng bây giờ cuộc chạy trốn của mày đã tới bước cuối cùng rồi bởi vì hoặc là mày, hoặc là tao sẽ không bao giờ còn có cơ hội nhìn thấy mặt trời mọc vào sáng ngày mai nữa.

    Hắn ta vẫn tiếp tục lùi xa thêm khi tôi nói và qua gương mặt hắn, tôi có thể nhận thấy hắn đang nghĩ tôi thật là điên rồ. Quả thật, lúc đó tôi đã thực sự điên rồ. Những mạch máu trên thái dương tôi đập liên hồi như búa tạ giáng xuống và tôi đã nghĩ rằng chắc hẳn tôi sẽ ngất xỉu nếu như lúc đó máu không túa ra từ mũi tôi và tôi cảm thấy nhẹ cả người.

    – Bây giờ mày nghĩ gì về Lucy Ferrier? – Tôi thét lên, khóa cửa và rung rung chiếc chìa khóa trước mặt hắn ta. – Sự trừng phạt có thể đến chậm chạp nhưng rút cục nó cũng sẽ đến.

    Tôi thấy đôi môi hèn nhát của hắn run lẩy bẩy trước từng lời tôi nói. Có lẽ hắn đã muốn cầu xin được sống nhưng hắn biết rõ ràng có cầu xin cũng vô ích.

    – Anh sẽ giết tôi chứ? – Hắn ta lắp bắp.

    – Sẽ không có việc ai giết ai cả! – Tôi trả lời – Ai nói tới việc giết một con chó bẩn thỉu? Mày có thương xót gì nguời yêu tội nghiệp của tao khi mày giằng cô ấy khỏi người cha vừa bị bọn mày giết hại và chôn vùi cô ấy trong cái hậu cung xấu xa, đáng nguyền rủa của mày?

    – Tôi không phải là người đã giết cha cô ấy! – Hắn kêu lên.

    – Nhưng chính mày là người đã làm tan vỡ trái tim trong trắng của cô ấy.

    Tôi thét lên và ném chiếc hộp ra trước mặt hắn ta:

    – Hãy để Đấng tối cao phán xét chúng ta. Chọn một viên và nuốt đi. Một viên sẽ mang lại cái chết và một viên sẽ là cơ hội sống sót. Tao sẽ dùng viên mày để lại. Để xem xem trên thế giới này có cái gì đáng gọi là công bằng không, hay là chúng ta chỉ được dẫn dắt bằng vận may mà thôi.

    Hắn ta co rúm lại với những tiếng rên rỉ hoang dại và những lời cầu xin tha thứ nhưng tôi đã rút con dao ra và gí sát vào cổ họng hắn cho tới khi hắn vâng lời. Sau đó, tôi nuốt nốt viên còn lại. Chúng tôi đứng đó, mặt đối mặt yên lặng nhìn nhau một phút hoặc hơn một chút, chờ đợi điều gì sẽ xảy ra, ai sẽ chết và ai được sống. Liệu tôi có bao giờ quên được cái cảnh tượng diễn ra trên gương mặt hắn, khi cơn co giật, đau đớn đầu tiên báo hiệu cho hắn biết rằng chất độc đã ngấm vào máu hắn? Tôi cười vang khi nhìn thấy cảnh tượng đó và giơ chiếc nhẫn cưới của Lucy ra trước mặt hắn. Nhưng cũng chỉ được một giây bởi vì tác động của chất độc alkaloid quá nhanh. Một cơn co thắt, đau đớn làm méo mó khuôn mặt hắn ta. Hắn giơ hai tay ra phía trước, lảo đảo và sau đó, với một tiếng hét trầm, khàn, hắn ta nặng nề đổ vật xuống nền nhà. Tôi lấy chân đẩy ngửa người hắn lại và đặt tay vào ngực hắn. Không thấy tim đập. Hắn đã chết!

    Máu vẫn đang ròng ròng chảy ra từ mũi tôi nhưng tôi chẳng quan tâm tới điều đó. Tôi không biết tại sao tôi lại quyết định viết lên tường một chữ bằng máu của mình. Có lẽ đó là một ý tưởng láu cá nhằm đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát bởi vì lúc đó tôi cảm thấy lòng nhẹ nhõm và tâm hồn vui phơi phới. Tôi nhớ đã từng có vụ xác một người Đức được phát hiện ở New York với chữ RACHE được viết trên người anh ta và lúc đó, trên các mặt báo, người ta đều cho rằng một tổ chức bí mật nào đó đã gây ra vụ việc này. Tôi cho rằng những gì khiến cho cảnh sát New York phải đau đầu chắc cũng sẽ không phải là vấn đề dễ dàng đối với cảnh sát London vì vậy tôi nhúng ngón tay vào máu mình và viết lên chỗ thuận tiện nhất trên tường. Tôi bước trở lại chỗ xe ngựa của mình và nhận thấy xung quanh không hề có ai; đêm vẫn rất tĩnh lặng và thinh vắng. Tôi đã đánh xe đi được một đoạn thì mới thò tay vào túi áo trước đây vẫn cất giữ chiếc nhẫn của Lucy. Tôi sững người như bị điện giật bởi vì đó là vật kỷ niệm duy nhất của cô ấy mà tôi còn giữ lại được. Cho rằng mình đã đánh rơi nó khi cúi xuống xác Drebber, tôi đánh xe quay trở lại, để xe lại bên đường và đánh bạo bước vào ngôi nhà vì tôi đã chuẩn bị sẵn sàng liều đánh đổi mọi thứ hơn là phải mất chiếc nhẫn. Khi tôi tới đó, tôi đã lập tức chạm trán với một viên cảnh sát vừa bước từ trong nhà ra và tôi chỉ còn biết đánh lừa anh ta bằng cách giả làm một gã đang say khướt.

    Đó là toàn bộ những chi tiết liên quan tới cái chết của Enoch Drebber. Tất cả những gì tôi cần phải làm sau đó là giải quyết nốt Stangerson để trả món nợ cho John Ferrier. Tôi biết rằng hắn ta đang ở khách sạn Halliday Private. Tôi đã rình ở đó cả ngày nhưng hắn ta không hề ra ngoài. Tôi đoán rằng hắn ta đã nghi ngờ điều gì đó khi không thấy Drebber tới. Stangerson rất xảo quyệt và luôn luôn thận trọng. Nhưng nếu hắn nghĩ rằng hắn có thể thoát khỏi tôi bằng cách cứ ở lỳ trong phòng thì hắn quá lầm. Tôi nhanh chóng phát hiện ra đâu là cửa sổ phòng hắn và sáng sớm ngày hôm sau tôi đã sử dụng chiếc thang vẫn đặt nằm ngoài sân đằng sau khách sạn và leo lên phòng hắn khi bình minh còn chưa rạng. Tôi đánh thức hắn dậy và cho hắn biết rằng đã đến lúc hắn phải trả giá cho những gì lẽ ra hắn phải nhận từ cách đây rất lâu rồi. Tôi cho hắn biết về cái chết của Drebber và tôi cũng cho hắn lựa chọn tương tự. Nhưng thay vì nắm lấy cơ hội được sống sót mà tôi đã cho hắn, hắn ta nhảy từ trên giường xuống và lao bổ về phía tôi. Để tự vệ, tôi đã đâm trúng tim hắn ta. Dù thế nào đi chăng nữa thì kết cục cũng sẽ vẫn là như vậy thôi bởi vì Thượng đế chắc chắn sẽ không bao giờ để hắn lựa chọn đúng viên thuốc không có thuốc độc đâu.

    Tôi cũng chẳng còn gì nhiều để nói nữa bởi vì tôi gần như đã hoàn thành công việc của mình rồi. Tôi vẫn tiếp tục đánh xe ngựa một vài ngày với hy vọng kiếm đủ tiền sẽ quay trở về Mỹ. Tôi đang đứng trong sân thì một gã trẻ tuổi ăn mặc rách rưới đến hỏi tôi có người đánh xe nào tên là Jefferson Hope ở đây không, và nói rằng một quý ông ở số 221B phố Baker muốn người đó đến chở ông ta. Tôi đi theo mà không hề nghi ngờ gì cả và điều tiếp theo tôi biết là quý ông trẻ tuổi đây đã sập được cái còng số 8 vào cổ tay tôi nhẹ nhàng và nhanh nhẹn tới mức tôi không thể ngờ được. Đó là toàn bộ câu chuyện của tôi thưa các quý ông. Các ngài có thể cho tôi là kẻ giết người nhưng tôi lại cho rằng tôi cũng chỉ là một người đang thi hành công lý giống như bất kỳ ai trong các ngài mà thôi.

    Câu chuyện của người đàn ông này quá cảm động và ly kỳ, phong thái của anh ta quá gây ấn tượng tới nỗi tất cả chúng tôi đều ngồi lặng như tờ chăm chú lắng nghe từng lời anh ta nói. Ngay cả những vị thanh tra chuyên nghiệp của sở cảnh sát đã quá quen thuộc với tình tiết ly kỳ của những vụ án, những vụ phạm tội cũng không hề che giấu sự hứng thú thực sự với câu chuyện của anh ta. Khi anh ngừng lời, chúng tôi còn ngồi bất động mất vài phút và chỉ bị phá vỡ bởi tiếng bút của Lestrade sột soạt trên giấy khi ông ta tốc ký lại những lời cuối cùng của tù nhân. Cuối cùng Sherlock Holmes nói;

    – Có một điểm duy nhất mà tôi muốn hỏi anh để được biết rõ hơn. Ai là kẻ đồng phạm đã tới nhà tôi lấy giúp anh chiếc nhẫn mà tôi đã đăng quảng cáo?

    Người tù nháy mắt với anh bạn tôi đầy tinh nghịch. Anh ta nói:

    – Tôi có thể kể cho ngài tất cả những bí mật của tôi, nhưng tôi không muốn đẩy người khác vào rắc rối. Tôi có đọc được mẩu quảng cáo của ngài và tôi nghĩ rằng có thể đó là một âm mưu nhưng cũng có thể đó là chiếc nhẫn mà tôi đang tìm kiếm. Bạn tôi tình nguyện thay tôi đến đó và lấy nó. Tôi nghĩ rằng ngài cũng công nhận anh ta đã thực hiện công việc đó khá tài tình.

    – Chắc chắn là như vậy rồi! – Holmes nói một cách nồng nhiệt.

    – Còn bây giờ, thưa các ngài, các mẫu biểu của sở cảnh sát cần phải được hoàn thiện. Vào thứ năm tới, tù nhân sẽ được đưa ra xét xử, và các ngài sẽ được yêu cầu phải có mặt. Từ bây giờ cho tới lúc đó, tôi sẽ chịu trách nhiệm canh giữ anh ta. – Viên cảnh sát nói và rung chuông. Jefferson Hope được hai nhân viên cảnh sát khác đưa đi trong khi anh bạn tôi và tôi ra khỏi sở cảnh sát và bắt một chiếc xe ngựa khác trở về phố Baker.
     
  8. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    26. Chương 7: Kết luận

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tất cả chúng tôi đều đã được thông báo là phải có mặt trước tòa vào thứ năm nhưng khi thứ năm tới, chúng tôi cũng không có cơ hội được đứng làm chứng trước tòa. Một vị thẩm phán đã tiếp nhận vụ việc này và Jefferson Hope đã được mời đến trước khi phiên tòa, nơi mà những phán quyết hà khắc sẽ được đưa ra cho anh, diễn ra. Nhưng ngay trong đêm sau ngày anh bị bắt, động mạch chủ của anh đã vỡ tung. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy anh nằm dưới sàn nhà lao, nụ cười thanh thản hiện lên trên nét mặt anh như thể anh đã qua đời trong lúc hồi tưởng lại những khoảnh khắc được sống hữu ích và nhớ về công việc đã hoàn thành.

    Tối hôm sau, khi chúng tôi ngồi nói chuyện về sự việc này, Holmes nhận xét:

    – Gregson và Lestrade chắc phải phát rồ lên vì cái chết của anh ta. Bây giờ làm sao họ có thể thông báo rộng rãi về thành công này nữa.

    – Tôi không cho rằng họ có nhiều điều để nói về việc bắt được thủ phạm vụ án này. – tôi trả lời.

    Anh bạn tôi đáp lại một cách chua chát:

    – Những gì anh làm trên thế giới này cũng chẳng có gì là quan trọng. Vấn đề là anh có thể khiến cho mọi người tin vào những gì anh đang làm hay không. Thôi đừng quan tâm tới vấn đề đó nữa.

    Anh nói tiếp, có vẻ vui vẻ hơn sau khi ngừng một lát:

    – Tôi sẽ không bỏ lỡ một cuộc điều tra vì bất cứ điều gì đâu. Theo như tôi nhớ thì đây là vụ tuyệt nhất mà tôi từng tham gia. Mặc dù rất đơn giản nhưng cũng có rất nhiều điều có thể rút ra làm bài học từ vụ án này.

    – Đơn giản ư? – Tôi buột miệng thốt lên.

    – Phải, thật khó có thể dùng từ nào khác để diễn tả vụ này, – Sherlock Holmes nói và mỉm cười trước sự ngạc nhiên của tôi. – Những bằng chứng trong vụ này về bản chất là rất đơn giản, đến nỗi mà chẳng cần phải có một sự trợ giúp nào ngoài vài suy luận thông thường, tôi đã có thể tóm được thủ phạm trong vòng ba ngày.

    – Điều này thì đúng – tôi nói.

    – Tôi đã từng giải thích với anh rằng những gì không bình thường thường lại là một sự gợi mở hơn là một sự cản trở. Trong việc giải quyết những vấn đề như thế này, điều quan trọng là phải biết suy luận ngược lại. Đó là một phương pháp rất hiệu quả và rất đơn giản nhưng mọi người thường không luyện tập phương pháp này. Trong những vấn đề thường ngày của cuộc sống, việc suy luận thuận chiều thường hữu dụng hơn và vì thế phương pháp suy luận ngược lại thường bị thờ ơ. Trong số năm mươi người có khả năng phân tích tổng hợp thì chỉ có một người có khả năng phân tích lôgíc.

    – Tôi phải thú thực là tôi vẫn chưa thể theo kịp những gì anh vừa nói.

    – Tôi cũng không hy vọng rằng anh có thể. Để xem tôi có thể giải thích rõ ràng hơn được không. Hầu hết mọi người, nếu như anh mô tả những tình tiết của sự việc cho họ thì đều có thể đoán được kết quả xảy ra sẽ ra sao. Họ đã biết cách tổng hợp những sự kiện này lại trong đầu mình và từ đó rút ra được điều gì sẽ phải xảy ra tiếp theo đó. Tuy nhiên, có rất ít người có khả năng vận dụng trí óc của mình để suy luận ra được những bước dẫn tới kết quả đó lần lượt là như thế nào. Khả năng đó chính là điều tôi muốn đề cập đến khi tôi nói về việc suy luận ngược trở lại hay là phép phân tích logic.

    – Tôi đã hiểu – tôi nói.

    – Còn đây là một trường hợp mà anh đã biết được kết quả và phải tìm ra mọi diễn tiến dẫn tới kết quả đó. Để tôi thử cố gắng giải thích cho anh những bước khác nhau trong phép suy luận của tôi nhé. Hãy bắt đầu từ đầu đi. Tôi đi bộ tiến đến gần ngôi nhà, như anh đã biết, và tâm trí tôi hoàn toàn thảnh thơi, không vướng bận vì bất cứ ấn tượng ban đầu nào. Chỉ đơn giản là tôi bắt đầu quan sát con đường mà chúng ta đang đi, và như tôi đã giải thích cho anh, ở đó, tôi phát hiện ra những dấu xe ngựa còn rất mới. Qua dò hỏi mọi người và biết là không có ai dùng xe ngựa tới đây, tôi đã có thể khẳng định chắc chắn rằng dấu xe đó chắc chắn đã xuất hiện ở đây từ đêm qua. Tôi hài lòng vì biết rằng đó là một chiếc xe ngựa thuê chứ không phải là một chiếc xe ngựa tư bởi vì kích cỡ của những chiếc bánh xe rất nhỏ. Những chiếc xe ngựa bốn bánh ở London thường có bánh xe nhỏ hơn khá nhiều so với những cỗ xe độc mã của các quý ông.

    Đó là điểm đầu tiên tôi thu thập được. Sau đó, tôi chậm rãi bước xuống lối đi trong vườn. Tình cờ, đất trong vườn lại là đất sét, loại đất rất dễ lưu lại dấu vết. Chắc chắn là đối với anh đó chỉ là một đống bùn nhão đã bị nhiều người đi qua đi lại làm cho lầy lội thêm nhưng trong con mắt đã được đào tạo của tôi thì bất cứ dấu vết nào lưu lại trên đó cũng đều có ý nghĩa. Trong ngành thám tử học, chưa có khoa nào quan trọng nhưng lại bị lơ là như nghệ thuật lần theo dấu chân. May mắn là tôi luôn luôn rất chú ý tới điểm này và việc luyện tập thường xuyên khiến cho nó trở thành một bản năng thứ hai của tôi. Tôi nhìn thấy những dấu chân nặng nề của cảnh sát nhưng tôi cũng nhìn thấy dấu vết của hai người đã bước qua con đường này trước cảnh sát. Rất dễ để có thể khẳng định được rằng họ đã đi qua lối mòn này trước những người khác bởi vì đôi chỗ dấu chân của họ đã bị xóa mờ đi bởi những dấu chân khác đè lên. Bằng cách này, đầu mối thứ hai của tôi đã được khẳng định và tôi có thể khẳng định được rằng số lượng những vị khách đến ngôi nhà đêm hôm trước là hai người, một người khá cao (điều này tôi tính toán được là nhờ độ dài của bước sải chân của anh ta) và người kia ăn mặc khá bảnh bao (điều này tôi đoán được là nhờ dấu giày nhỏ, thanh nhã anh ta để lại trên nền đất ẩm).

    Khi bước vào trong nhà, điều suy luận sau cùng đã được khẳng định lại. Người đàn ông đi đôi giày thanh nhã của chúng ta đang nằm sóng soài trước mặt tôi. Vậy là người đàn ông cao lớn đã giết người, nếu thực sự đây là một vụ giết người. Trên cơ thể người đàn ông đã chết kia không hề thấy có một vết thương, nhưng vẻ kích động trên gương mặt ông ta cho tôi biết rằng ông ta đã đoán trước được cái kết cục sẽ xảy đến với ông ta. Những người chết vì bệnh tim hay vì những nguyên nhân bất thường nào khác chắc chắn sẽ không bao giờ tình cờ thể hiện vẻ kích động như vậy trên nét mặt mình đâu. Sau khi đã ngửi môi người chết, tôi phát hiện ra một mùi chua nhẹ và tôi rút ra kết luận là ông ta đã bị đầu độc. Và một lần nữa, qua vẻ căm thù và sợ hãi hiện trên nét mặt người chết, tôi càng khẳng định chắc chắn hơn rằng ông ta đã bị ép phải uống thứ độc dược đó. Tôi đã đưa ra được kết luận này bởi vì chẳng còn giả thiết nào có thể khớp hơn với thực tế nữa. Đừng nghĩ rằng đây là một ý tưởng hoàn toàn mới. Trong lịch sử tội phạm học, việc sử dụng sức mạnh của chất độc làm phương tiện gây án không hề mới mẻ. Bất kỳ một nhà nghiên cứu chất độc học nào cũng sẽ nhớ ngay tới trường hợp của Dolsky ở Odessa và của Leturier ở Montpellier.

    Còn bây giờ chúng ta sẽ phải đối mặt với câu hỏi lớn nhất: Lý do tại sao thủ phạm lại thực hiện vụ phạm tội này? Lý do giết người cướp của rõ ràng là đã được loại trừ bởi vì thủ phạm không lấy bất kỳ thứ gì trên người nạn nhân. Vậy thì nguyên nhân của vụ giết người là lý do chính trị hay là một người phụ nữ? Đó chính là câu hỏi mà tôi phải giải quyết. Tôi đã nghiêng từ giả thuyết thứ nhất sang giả thuyết thứ hai. Những tên giết người vì mục đích chính trị chắc chắn đã quá hài lòng khi nhiệm vụ được hoàn thành và nhanh chóng tẩu thoát. Nhưng tên giết người này thì ngược lại, hắn ta đã cân nhắc hết sức kỹ lưỡng khi thực hiện công việc và thủ phạm đã để lại dấu vết của mình ở khắp nơi trong căn phòng. Những dấu vết đó cho thấy rằng hắn ta đã ở đó trong suốt thời gian sự việc diễn ra. Đó chắc hẳn phải là một mối thù cá nhân chứ không phải là một hành vi chính trị. Với mối thù đó, thủ phạm đã lập ra một cuộc trả thù hết sức có tổ chức và thận trọng. Khi từ RACHE viết trên tường được phát hiện, tôi càng tin tưởng hơn vào giả thuyết của mình. Chữ viết đó rõ ràng chỉ là một cách che mắt chúng ta mà thôi. Tuy nhiên, khi chiếc nhẫn rơi ra, tự nó đã giải đáp được cho câu hỏi ban đầu của chúng ta. Rõ ràng là kẻ giết người đã sử dụng nó để nhắc lại cho nạn nhân nhớ về một người phụ nữ, có thể đã chết hoặc không có mặt ở đó. Tôi cũng đã hỏi lại Gregson chính điểm này, rằng trong bức điện anh ta gửi đến Cleveland, anh ta có yêu cầu xác minh thông tin về cuộc đời trước đây của Drebber không. Và chắc anh vẫn còn nhớ, câu trả lời của anh ta là không.

    Sau đó, tôi tiếp tục kiểm tra kỹ lưỡng căn phòng. Qua cuộc kiểm tra đó, giả thuyết của tôi về chiều cao của thủ phạm đã được tái khẳng định đồng thời tôi cũng có thêm được một chút thông tin khác nữa như là điều xì gà hiệu Trichinopoly mà ai đó đã hút và việc anh ta để móng tay dài. Bởi vì tôi không nhận thấy có bất kỳ dấu hiệu nào của một cuộc vật lộn nên tôi đã đi tới một kết luận là máu vương trên sàn nhà là máu chảy ra từ mũi của chính thủ phạm trong cơn kích động. Tôi cũng đã nhận thấy rằng dấu máu rớt trên nền nhà trùng với dấu chân của anh ta. Có một thực tế là hiếm có một người đàn ông nào, trừ khi đó là một người hết sức mạnh khỏe, cường tráng, lại có thể bật máu ra như thế này vì một cơn kích động tình cảm. Vì vậy, tôi đã đánh liều đưa ra ý kiến rằng có lẽ thủ phạm phải là một người đàn ông to cao, khỏe mạnh và mặt mũi đỏ au. Những tình tiết tiếp theo đã chứng minh rằng tôi phán đoán không sai.

    Sau khi rời khỏi căn nhà đó, tôi đã tiến hành làm những gì mà Gregson đã bỏ qua. Tôi đánh điện đến cho đồn trưởng đồn cảnh sát ở Cleveland yêu cầu điều tra thêm về những vấn đề có liên quan đến việc kết hôn của Enoch Drebber. Bức điện trả lời chính là một lời kết luận. Nó cho tôi biết rằng Drebber đã yêu cầu cảnh sát bảo vệ chống lại một kẻ tình địch cũ tên là Jefferson Hope và rằng cũng chính người đàn ông tên Hope đó hiện giờ đang ở châu Âu. Lúc đó, tôi biết rằng tôi đã có chìa khóa của bí ẩn trong tay và tất cả những gì còn phải làm là tóm được tên giết người.

    Tôi cũng đã đi tới một kết luận là người đàn ông đi vào trong ngôi nhà với Drebber, không phải là ai khác ngoài người đã điều khiển chiếc xe ngựa. Dấu vết còn lưu lại trên đường cho thấy, trong suốt thời gian diễn ra vụ án mạng, con ngựa dậm chân liên hồi và bước lung tung quanh chỗ nó được dừng lại. Điều này khó có thể xảy ra nếu như vẫn còn có ai đó ở lại ghìm cương ngựa. Vậy thì lúc đó nếu không phải người đánh xe ngựa đã vào trong nhà thì anh ta ở đâu lúc đó? Và sự thực là thật ngớ ngẩn khi nghĩ rằng bất kỳ một người đàn ông nào thông minh, có đầu óc tỉnh táo và có khả năng vạch ra và thực hiện một kết hoạch tinh vi như thế lại có thể chấp nhận tiến hành vụ giết người trước mặt một người thứ ba. Cuối cùng, giả sử một người đàn ông muốn bám theo một kẻ khác trên khắp thành London này thì còn gì tiện lợi hơn là biến mình thành một người đánh xe ngựa? Tất cả những suy luận này đưa tôi tới một kết luận chắc chắn rằng tôi sẽ tìm được Jefferson Hope trong số những người đánh xe ngựa thuê ở thủ đô London.

    Nếu thực sự anh ta đã cải trang dưới danh nghĩa một người đánh xe ngựa thì chẳng có lý do gì phải lo lắng rằng giờ đây anh ta đã không còn là một người đánh xe ngựa nữa. Tôi chắc rằng anh ta sẽ nghĩ bất kỳ một sự thay đổi đột ngột nào cũng có thể khiến người ta để ý tới anh ta. Ít nhất là lúc này, có lẽ anh ta vẫn nên tiếp tục công việc của mình thì hơn. Cũng không có lý do gì để nghĩ rằng có thể anh ta đã thay tên đổi họ. Tại sao anh ta phải thay tên đổi họ ở cái thành phố, nơi mà không một ai biết được nguồn gốc, lai lịch trước kia của anh ta? Vì vậy, tôi đã thành lập đội thám tử đường phố người Arập của tôi và giao cho họ nhiệm vụ đến tìm ở từng văn phòng quản lý xe ngựa chạy thuê ở London cho tới khi nào họ phát hiện ra người đàn ông mà tôi đang tìm kiếm. Họ đã thành công như thế nào và tôi đã nhanh chóng nắm bắt lấy cơ hội này ra sao chắc anh vẫn còn chưa thể quên được. Việc Stangerson cũng bị giết là một điều khiến tôi hoàn toàn bất ngờ nhưng cũng là một việc không thể nào tránh khỏi. Nhưng qua đó, tôi đã có được những viên thuốc mà lúc đầu tôi nghi ngờ. Anh thấy đấy, toàn bộ sự việc này là một chuỗi lôgic, không hề có một lỗ hổng nào cả.

    – Thật tuyệt vời! – Tôi kêu lên. – Sự xuất sắc của anh cần phải được công chúng ghi nhận. Anh nên cho xuất bản câu chuyện về vụ án này. Nếu anh không làm, tôi sẽ làm giúp anh.

    Anh trả lời:

    – Anh có thể làm nếu anh muốn, bác sĩ ạ.

    Rồi anh đưa cho tôi một tờ báo và tiếp tục nói:

    – Anh nhìn này, xem phần này này.

    Đó là một tờ Tiếng vang đưa tin tức ngày hôm nay và chỗ mà anh chỉ cho tôi đọc là một bài báo viết về vụ án vừa mới diễn ra. Bài báo viết như sau:

    "Công chúng đã không được chứng kiến một phiên tòa xử một người đàn ông tên là Hope, người bị tình nghi là thủ phạm giết hai người đàn ông, ông Enoch Drebber và Ông Joseph Stangerson, vì người này đã bị đột tử trong nhà giam. Có lẽ cho tới giờ chi tiết của sự việc chưa thể được làm sáng tỏ nhưng các nhà chức trách đáng tin cậy đã cho chúng tôi biết rằng vụ án này là kết quả của một mối cừu hận từ lâu có liên quan tới vấn đề tình cảm trong đó tình yêu và đạo Mormon là một phần nguyên nhân không nhỏ. Cả hai nạn nhân trước đây đều là những người theo dòng Các thánh thời trước và Hope, người tù đã chết, cũng đến từ Salt Lake City. Nhưng dù cho vụ án này không thể được xét xử thì ít nhất nó cũng chứng tỏ cho chúng ta thấy năng lực xuất chúng của lực lượng cảnh sát thành phố chúng ta và đó sẽ là một bài học răn dạy tất cả những người nước ngoài rằng khôn ngoan hơn cả là hãy giải quyết những mỗi thù hận ở chính đất nước mình chứ đừng đem nó tới đất Anh. Giờ đây, hầu như mọi người đều đã biết rằng công lao lớn nhất trong việc điều tra ra vụ án mạng này thuộc về hai thanh tra nổi tiếng của sở cánh sát Scotland Yard, ngài Lestrade và Gregson. Hóa ra là thủ phạm đã xuất hiện trong nhà của một thám tử tư tên là Sherlock Holmes, người cũng đã từng có một chút thành tích trong sự nghiệp điều tra phá án, và cùng với sự giúp đỡ của hai thanh tra cảnh sát, vị thám tử này chắc cũng sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ hai thanh tra. Chúng ta hy vọng rằng hai vị thám tử tài ba của chúng ta sẽ nhận được bằng khen vì sự nỗ lực phục vụ cho an ninh của thành phố chúng ta."

    – Chẳng phải tôi đã nói với anh như vậy ngay từ đầu rồi sao? – Sherlock Holmes nói to và cười lớn. – Đó chính là kết quả cuối cùng của toàn bộ Vụ án màu đỏ này của chúng ta. Đó là đem lại cho họ một tấm bằng khen danh giá.

    – Đừng lo, – tôi trả lời – tôi đã ghi lại chi tiết vụ án này trong nhật ký của mình rồi, và công chúng sẽ được biết toàn bộ sự thật về nó. Trong khi chờ đợi anh đành phải tạm hài lòng với việc tự nhận thức được thành công của mình thôi.
     
  9. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    PHẦN III: VỤ ÁN DẤU BỘ TỨ

    27. Chương 1: Suy luận là một môn khoa học

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Shelock Holmes lấy một chiếc lọ ở góc bệ lò sưởi và một ống tiêm ra khỏi bao da dê sạch sẽ. Bằng những ngón tay dài, xanh và gân guốc, anh chuẩn bị cây kim một cách nhẹ nhàng và xắn tay áo bên trái lên. Trong một thoáng, ánh nhìn tư lự của anh dừng trên mạng tĩnh mạch ở cẳng tay lỗ chỗ vô số vết tiêm. Anh nhấn kim một cách chính xác, đẩy chất nước, rồi ngồi gọn gàng vào chiếc ghế bành bọc nhung, thở một hơi dài sảng khoái.

    Từ nhiều tháng nay, tôi đã chứng kiến cảnh này tái diễn mỗi ngày ba lần, nhưng tôi vẫn không làm quen được với nó. Ngược lại càng ngày tôi càng thấy khó chịu thêm, và cả trong giấc ngủ, đêm đêm, lương tâm trách tôi sao không có can đảm để phản đối chuyện này. Đã bao nhiêu bận rồi tôi tự nguyện phải làm sao cho tâm hồn mình được thanh thản và nói ra những gì cần nói. Nhưng thái độ uể oải và dè dặt của bạn tôi không cho phép tôi tọc mạch như thế được. Những thiên tư đặc biệt và những phẩm chất khác thường của anh mà tôi đã biết rõ khiến tôi phải kiêng nể. Làm trái ý anh, tôi cảm thấy thật rụt rè và vụng về biết bao.

    Ấy thế mà, chiều hôm đó, tôi không thể dằn được nữa. Phải chăng đó là do chất men của món rượu chúng tôi đã uống vào bữa ăn trưa? Hay là vì cái cung cách khiêu khích của anh làm tôi cũng giận anh hơn? Dẫu sao, tôi cũng phải lên tiếng.

    - Hôm nay là morphine hay cocaine đấy, anh bạn? Tôi hỏi.

    Cặp mắt đờ đẫn của anh rời khỏi cuốn sách in bằng chữ kiểu gotise anh đang cầm trong tay.

    - Cocaine - Anh đáp - dung dịch 7%. Anh muốn dùng thử chút chăng?

    - Không, chắc chắn là không rồi! - Tôi đáp, giọng hơi cộc cằn - Sau chiến tranh ở Afghanistan, tôi vẫn chưa bình phục hẳn. Tôi không thể tự cho phép mình hoang phí sức lực được.

    Giọng điệu sôi nổi của tôi khiến anh mỉm cười.

    - Có lẽ anh nói có lý đấy, Watson ạ. - Anh đáp. - Có thể loại độc dược này gây ảnh hưởng tác hại trên thân thể tôi. Nhưng tôi lại thấy nó có tác dụng kích thích làm cho đầu óc tôi sáng suốt, nên tôi nghĩ là những tác dụng phụ của nó chỉ có một mức độ quan trọng không đáng kể.

    - Nhưng anh hãy xét vấn đề trong toàn bộ của nó chứ? - Tôi nói lớn bằng một giọng hăng hái - Đúng thế, đầu óc anh có thể minh mẫn khác thường, song anh hãy nghĩ đến cái giá mà anh phải trả chứ? Đó là một quá trình bệnh hoạn khiến các tổ chức tế bào não bộ hồi sinh nhanh chóng, và do đó có thể đưa đến một sự suy nhược thường xuyên. Anh cũng từng biết đến tình trạng suy nhược tinh thần thảm hại theo sau đó: Thế thì cuộc chơi này đâu có bổ? Sao lại đành chịu để tiêu tan những tài năng to lớn trong anh để chỉ kiếm lấy một khoái cảm thoáng qua thôi? Xin anh nhớ cho rằng lúc này kẻ nói với anh chẳng những là người bạn chí tình mà còn là một bác sỹ chịu trách nhiệm một phần nào đó về sức khỏe của anh.

    Anh chẳng tỏ vẻ gì là bị xúc phạm. Trái lại anh đan mười đầu ngón tay lại với nhau và đặt khuỷu tay lên tay ghế bành trong tư thế của một người sắp sửa được thưởng thức một buổi nói chuyện lý thú.

    - Trí óc tôi không chịu nổi tình trạng đình đốn. - Anh đáp - hãy đặt cho tôi những bài toán, hãy cho tôi việc làm! Anh cứ giao cho tôi bản mật tự bí hiểm nhất hoặc một công trình phân tích phức tạp nhất đi, ấy thế là tôi được sống trong bầu không khí thích hợp với tôi rồi đó. Lúc bấy giờ tôi chẳng màng đến thứ kích thích tố nhân tạo này nữa đâu. Nhưng tôi quá chán ghét cái lề lối đơn điệu và cuộc sống lắm rồi. Tôi cần có một liều kích thích về tinh thần. Vả chăng, đó cũng là lý do tại sao tôi lại chọn cái nghề kỳ cục này, hay nói đúng hơn, lý dó tại sao tôi đã tạo ra nó, bởi lẽ trong loài người như tôi, tôi là kẻ độc nhất trên cõi đời này.

    - Tay thám tử tư độc nhất à? Tôi ngước mắt nói.

    - Nhà thám tử duy nhất mà người ta đến hỏi ý kiến – Anh nói rõ thêm - Về việc điều tra, sưu tầm, thì chính tôi là tòa án phúc thẩm khi mà những anh chàng thám tử như Gregson, Lestrade hay Athelney Jones bỏ cuộc thôi không mò ra được nữa. -Một điều đã trở thành lề thói ở họ, xin nhắc qua thế thôi – thì những người ấy đến tìm tôi. Tôi xem xét các dữ kiện với tư cách một giám định viên và phát biểu ý kiến với tư cách là một chuyên gia. Trong những trường hợp như vậy, tôi chẳng đòi hỏi rằng vai trò của tôi phải được thừa nhận chính thức. Tên tuổi của tôi không xuất hiện trên báo chí. Công việc tôi làm, tự bản thân nó, và niềm sảng khoái tìm được môi trường hoạt động cho những tài năng thiên phú của tôi cũng đã là phần thưởng cao quý nhất cho tôi rồi. Vả lại, anh cũng đã có dịp trông thấy tôi làm việc trong vụ Jefferson Hope[1] rồi mà.

    - Quả có vậy thật. Và chưa bao giờ tôi lại kinh ngạc đến như thế. Kinh ngạc đến độ từ đó tôi lấy ra tư liệu để viết thành một tập sách nhỏ dưới một cái tên kể ra cũng khá kỳ quặc "Chiếc nhẫn tình cờ" [2] .

    Anh buồn bã gật đầu.

    - Vâng, tôi có xem qua. Anh nói - Thẳng thắn mà nói thì tôi không thể khen ngợi anh được. Việc điều tra là, hoặc phải là, một khoa học chính xác; như vậy lúc nào nó cũng phải được tiến hành một cách lạnh lùng và không xúc động. Vậy mà anh lại tìm cách sơn phết cho nó một màu sắc lãng mạn, thì cũng chẳng khác nào anh đưa một chuyện tình hoặc một vụ bắt cóc vào mệnh đề thứ năm của Euclid[3] vậy.

    - Nhưng yếu tố lãng mạn tự nó đã có sẵn một cách khách quan rồi kia mà - Tôi nói lớn - Tôi đâu có quyền nhào nặn, sửa đổi các sự kiện một cách tùy tiện được.

    - Trong những trường hợp như thế ta phải gạt ra ngoài một số sự kiện, hoặc nếu có thuật lại, thì phải thuật lại theo một ý nghĩa đúng đắn, hợp với tầm vóc của nội dung chuyện kể. Điều đáng lẽ phải được ghi nhận trong vụ này là lối lập luận lạ lùng có tính phân tích đi ngược từ quả lên nhân, nhờ đó mà tôi mới có thể phăng nó ra được.

    Lời phê bình này khiến tôi đâm bực mình, giận anh ta. Tôi đã chẳng động não chủ yếu là để làm anh ta được vừa lòng đó sao. Lòng kiêu hãnh của anh đã khiến anh ân hận rằng mỗi dòng tôi viết ra trong tập sách nhỏ của tôi đã không nhằm độc nhất vào những công việc anh tiến hành. Đã nhiều lần, trong những năm tháng sống chung với anh ở phố Baker, tôi nhận ra một thoáng kiêu căng qua cái thái độ điềm tĩnh và có tính chất lý thuyết của anh, nên tôi chẳng buồn cãi lại, chỉ chăm chú săn sóc vết thương ở chân mình. Cách đây khá lâu, một viên đạn đã

    Xuyên thủng qua đó, và tuy vậy tôi vẫn còn đi được, nhưng hễ cứ thời tiết thay đổi thì viết thương lại đau nhức.

    - Vừa rồi mạng lưới thân chủ của tôi đã lan đến các nước lục địa - Holmes vừa nhồi thuốc vào ống điếu bằng gỗ cây thạch thảo vừa nói tiếp - Mới tuần trước đây thôi, Francois le Villard có đến nhờ tôi giúp ý kiến. Đó là một người cũng cố đôi chút tiếng tăm trong ngành cảnh sát tư pháp của Pháp. Anh ta có sẵn cái

    Trực giác tinh tế của dân Celtic[4], nhưng lại thiếu hẳn những kiến thức rộng rãi có thể giúp anh ta vươn lên những đỉnh cao nghệ thuật của mình. Nội vụ liên quan đến một bản chúc thư và nêu lên một số điểm lý thú tôi đã gợi ý với anh ta là nên xem lại hai vụ tương tự, một ở Riga năm 1857, một ở St. Louis năm 1871; nhờ đó anh ta đã tìm ra lời giải đáp chính xác. Và đây là bức thư cảm ơn tôi vừa nhận được sáng nay.

    Vừa nói, anh đưa cho tôi một tờ giấy vò nhàu, trông đến kỳ quặc. Tôi đọc lướt qua: Bức thư rặt những từ to tát, như là "rực rỡ", "một sự thành công tuyệt vời", "một chuyện phi thường ít ai làm nổi" toàn là những từ tỏ lòng ngưỡng mộ nồng nhiệt của anh chàng người Pháp này.

    - Thư anh ấy viết như đệ tử viết cho thầy - Tôi nói.

    - Ồ! Việc tôi giúp đỡ anh ấy không xứng với lời khen tặng như thế đâu. - Shelock Holmes nói bằng giọng bông đùa - Bản thân anh ta cũng rất có tài; anh ta đã có được hai trong ba phẩm chất thiết yếu đối với một người thảm tử toàn diện, đó là

    Khả năng quan sát và khả năng suy diễn. Anh ta chỉ còn hiếu sự hiểu biết, nhưng điều này có thể đến với thời gian. Anh ta đang dịch những tập tiểu luận nhỏ của tôi sang tiếng Pháp.

    - Những tiểu luận của anh à?

    - Ồ, anh không biết gì sao? - Anh vừa cười vừa nói lớn - Vâng, đúng vậy, tôi có tội là đã viết ra nhiều tập tiểu luận, nhưng tất cả đều thuộc về các vấn đề kỹ thuật. Chẳng hạn như tập tiểu luận này đây: "Về sự phân biệt các loại thuốc lá khác nhau". Một trăm bốn mươi loại xì gà, thuốc điếu và thuốc rời được kê ra trong đó, lại còn có những bản ảnh chụp màu để minh họa các dạng tro tàn thuốc lá khác nhau nữa cơ đấy. Đây là một vấn đề ta thường gặp phải trong những vụ án hình sự. Tàn thuốc có thể là dẫn chứng vô cùng quan trọng. Chẳng hạn khi anh có thể quả quyết rằng một án mạng nào đó là do một người đàn ông hút xì gà Ấn Độ, thì điều này tất nhiên đã giới hạn tầm truy cứu của anh rồi. Đối với con mắt nhà nghề, thì sự khác nhau giữa tro đen của điếu thuốc hiệu "Trichinopoly" và tro màu trắng mịn của loại thuốc lá "Bird's Eye" cũng rõ nét như giữa quả su su và củ khoai tây vậy.

    - Anh quả thật là có tài siêu đẳng trong những chi tiết nhỏ nhặt nhất!

    - Tôi biết đánh giá tầm quan trọng của chúng. Đây, anh xem đi, tập tiểu luận của tôi về việc dò tìm dấu chân, có bổ sung thêm một số nhận xét về cách dùng thạch cao Paris để giữ lại dấu chân.. cũng là một cuốn sách kỳ lạ đấy. Nó bàn về ảnh hưởng nghề nghiệp trên hình dạng bàn tay, có ấn bản minh họa, cho thấy dạng bàn tay của thợ nề, của thủy thủ, tiều phu, thợ sắp chữ, thợ dệt, và thợ mài hột xoàn. Tập sách này có một tầm lợi ích thiết thực đối với nhà thám tử khoa học, nhất là để tìm ra tiền sử của một tên tội phạm nào đó hoặc trong trường hợp gặp những xác chết vô thừa nhận. À, mà không khéo tôi lại làm cho anh đến phát bực mình vì những câu chuyện nhảm của tôi.

    - Không đâu! Tôi rất thích là đằng khác, nhất là từ khi tôi có dịp ứng dụng những câu chuyện nhảm ấy vào thực tế. À, mà có phải vừa lúc nãy anh có đề cập đến vấn đề quan sát, và diễn dịch phải không? Theo tôi thì hình như cái nọ phải bao hàm cái kia, ít ra trong một phần nào đó, phải thế không?

    - Chậc, chỉ ít thôi! - Anh vừa nói vừa ngả lưng dựa thoải mái vào ghế bành, trong khi từng cuộn khói xanh đặc tỏa lên từ chiếc ông điếu của anh - Này nhé, do quan sát, tôi biết rằng sáng nay anh có đi đến bưu điện phố Wigmore; nhưng chính nhờ

    Diễn dịch mà tôi biết rằng anh đã gởi một bức điện tín.

    - Đúng thế! Tôi nói lớn - Đúng ở cả hai mặt! Nhưng thú thật tôi không rõ bằng cách nào mà đạt đến kết luận như vậy. Bởi vì việc ấy, tôi quyết định một cách đột ngột và chẳng nói với một ai cả.

    - Thật là đơn giản thôi, anh ạ - Anh vừa lưu ý tôi, vừa cười nhẹ về nỗi ngạc nhiên của tôi - Đơn giản một cách thật vô lý đến nỗi một lời giải thích nào cũng có vẻ là thừa. Thế nhưng, ví dụ này có thể dùng để xác định ranh giới giữa quan sát và diễn dịch. Này nhé, tôi để ý thấy những vết bùn đỏ trên giày của anh. Mà ngay trước mắt nhà bưu điện phố Wigmore, lòng đường vừa mới sụp xuống, và đất bùn vung vãi tứ phía thành thử khó lòng vào được nhà bưu điện mà không phải đi qua đấy. Sau cùng, thứ đất ấy có màu đo đỏ đặc biệt mà theo chỗ tôi biết, thì không nơi nào có ngoài nơi ấy. Tất cả những điều này là do quan sát. Và phần còn lại là diễn dịch.

    - Thế thì làm sao anh có thể diễn dịch ra bức điện tín kia?

    - Kìa, tôi biết chắc chắn rằng anh đã không viết một lá thư nào cả, bởi lẽ suốt cả buổi sáng nay tôi vẫn ngồi đối diện với anh mà. Tôi lại còn trông thấy trên bàn của anh một lô tem và một chồng bưu thiếp dày cộp. Thế thì tại sao anh lại ra bưu điện, nếu không phải là để đánh điện tín? Anh cứ bỏ đi tất cả những động cơ khác, thì cái động cơ còn lại là động cơ đúng.

    - Lần này thì đúng thôi - Tôi đáp sau một hồi suy nghĩ - Sự việc như anh vừa nói, thật là vô cùng đơn giản.. Tuy nhiên cũng mong anh chớ cho tôi là một kẻ khiếm nhã nếu tôi đem những lý thuyết của anh ra kiểm tra lại một cách nghiêm khắc nữa.

    - Ồ, không sao đâu - Anh đáp - Có thể tôi khỏi phải dùng thêm một liều cocaine thứ hai đấy. Tôi rất hân hoan mà chú tâm vào bài toán anh đặt ra cho tôi.

    - Tôi thường nghe anh bảo rằng thật khó lòng mà sử dụng một đồ vật nào đó hàng ngày mà ta lại không lưu lại dấu vết trên đó cá tính của ta, những dấu vết mà một người quan sát lành nghề thế nào cũng tìm thấy. Thì đây nhé, vừa mới đây thôi, tôi có được một cái đồng hồ bỏ túi. Xin anh vui lòng cho biết ý kiến về những thói quen hoặc cá tính của người chủ cũ của nó.

    Tôi đưa anh chiếc đồng hồ với đôi chút ác ý, vì tôi vốn biết trước rằng việc khảo sát chắc chắn sẽ không tài nào tiến hành được, và anh sẽ tịt ngòi ngay, hết lắm lời khoa trương nữa. Anh nhấc đồng hồ lên xem nặng nhẹ thế nào, quan sát kỹ mặt đồng hồ, mở vỏ ra và xem xét một cách cẩn thận cách vận hành của nó, trước bằng mắt, sau dùng kính lúp. Tôi không thể nào dằn được nụ cười mỉm trước vẻ mặt chưng hửng của anh khi anh đẩy chiếc đồng hồ trả lại tôi.

    - Có rất ít dấu vết - Anh ghi nhận - Nó vừa được chùi dầu, nên tôi thiếu những dấu vết có ý nghĩa nhất.

    - Đúng thế đấy - Tôi đáp - Nó đã được lau chùi trước khi giao cho tôi.

    Tự thâm tâm, tôi trách anh bạn tôi đã đưa ra một lời bào chữa khá là khập khiễng để khuất lấp thất bại của mình. Tôi tự hỏi ở một chiếc đồng hồ không lau chùi thì anh có thể rút ra những dấu vết gì?

    - Tuy không được mỹ mãn lắm nhưng việc điều tra của tôi không phải là hoàn toàn vô bổ - Anh vừa nói vừa nhìn lên trần nhà bằng cái nhìn mờ nhạt và xa xôi - nếu tôi không lầm thì chiếc đồng hồ này trước kia thuộc về người anh cả của anh mà anh ấy đã thừa hưởng lại của cha anh.

    - Có lẽ những mẫu tự đầu H. W khắc vào mặt sau vỏ đồng hồ đã gợi cho anh lối giải thích như thế phải không?

    - Hoàn toàn đúng như vậy. Mẫu tự W. Chỉ họ gia đình anh. Đồng hồ này có từ gần 50 năm nay. Những mẫu tự cũng xưa như chính nó, như thế nó đã được chế tạo ra cho thế hệ trước nữa kia. Vật trang sức thường được giao cho con trai trưởng, người này thường mang tên người cha. Mà ông cụ, nếu tôi còn nhớ rõ, đã qua đời từ nhiều năm nay. Do đó tôi suy ra đây có lúc nó thuộc quyền sở hữu của anh cả anh.

    - Cho đến đây, thì đúng đấy - Tôi nói - Nhưng anh còn tìm ra điều gì khác nữa không?

    - Đó là một người bất cẩn và thiếu ngăn nắp. Thoạt đầu, anh ta gặp nhiều vận hội tốt đẹp, nhưng anh ta lại để phung phí mất đi. Anh ta sống trong cảnh nghèo nàn túng bấn xen kẽ những thời thịnh vượng ngắn ngủi và anh ấy chết đi sau khi đâm ra nghiện ngập. Đấy, tất cả những gì tôi đã có thể tìm ra được.

    Lòng tôi ngập tràn cay đắng. Tôi nhảy ra khỏi ghế bành và sải từng bước giận dữ trong gian phòng mặc dầu chân đang bị đau.

    - Thật là không xứng đáng với anh chút nào cả, anh Holmes ạ! - Tôi hét lớn - Tôi thật không bao giờ nghĩ rằng anh lại có thể cam tâm làm một điều thấp hèn như vậy. Anh đã dò hỏi về cuộc đời người anh khốn khổ của tôi, rồi anh lại kiếm cách làm cho tôi tin rằng do một phương pháp ngông cuồng nào đó anh đã diễn dịch ra những chuyện như vậy. Đừng mong rằng tôi tin là anh đã tìm ra tất cả những điều này trong một chiếc đồng hồ cũ kỹ. Quả thật là một cung cách thiếu nhân ái, và để nói cho hết ý, nó chẳng khác nào cái trò quảng cáo bịp bợm đâu.

    - Ông bác sỹ thân mến của tôi ơi, tôi xin anh vui lòng thứ lỗi vậy - Anh nói từ tốn - Lúc xét sự việc như một vấn đề trừu tượng, tôi đã quên khuấy đi mất là nó đụng chạm trực tiếp đến anh và có thể làm cho anh đau khổ như thế. Tôi xin cam đoan

    Với anh, Watson ạ, rằng trước khi xem xét cái đồng hồ kia, tôi thật tình chẳng biết một tí gì về người anh của anh. Tôi cũng không biết là anh có một người anh nữa kia mà.

    - Trời ơi, thế thì làm sao anh có thể phát hiện được những điều đó? Tất cả đều đúng sự thật, cho đến cả chi tiết nhỏ nhặt nhất.

    - Thì cũng là nhờ chút ít may mắn thôi! Tôi chỉ có thể nói ra những gì theo tôi có khả năng là đúng nhất mà thôi. Thật tôi cũng không ngờ là nó lại đúng đến như vậy.

    - Đấy không phải là trò đoán mò chứ?

    - Không, không đâu; tôi không bao giờ đoán mò cả. Đó là một thói quen đáng ghét, nó giết chết khả năng lý luận. Điều anh cho là lạ lùng chỉ lạ lùng vì anh không theo dõi lối lập luận của tôi và anh không chịu chú ý đến những sự kiện nhỏ nhặt, từ đó suy diễn ra những kết luận to lớn. Chẳng hạn, lúc bắt đầu câu chuyện, tôi có nói là người anh của anh có tính cẩu thả. Thì anh hãy quan sát thật kỹ phần dưới vỏ đồng hồ rồi anh sẽ thấy nó chẳng những nổi u ở hai chỗ mà lại còn đầy những vết trầy xước, do va chạm với những vật khác. Đó là xâu chìa khóa hoặc những đồng tiền lẻ mà anh ấy cho vào trong cùng một túi. Thế

    Thì chắc chắn không phải là một trò quỷ thuật nếu ta suy ra tính cẩu thả của một người từng xem thường một chiếc đồng hồ trị giá 50 guinea[5] như vậy. Mà cũng chẳng phải nhờ một lối lập luận thiên tài nào đó mà tôi nói được là một di sản gồm một đồ vật giá trị đến như vậy chắc phải là quan trọng lắm.

    Tôi gật đầu, tỏ vẻ đã hiểu ý anh.

    - Mặt khác, những người làm nghề cầm đồ ở Anh thường có thói quen dùng đầu mũi kim khắc vào mặt sau đồng hồ số biên nhận cấp khi đồ vật được đem cầm thế. Như thế thì tiện lợi hơn nhãn dán có thể thất lạc hoặc dán nhầm trên một vật khác. Thế mà, có không dưới bốn con số như vậy được khắc vào mặt trong vỏ đồng hồ. Từ đó, điều suy diễn thứ nhất: Anh của anh thường lâm vào cảnh túng thiếu. Suy diễn thứ hai: Anh ấy cũng đã từng sống qua những thời sung túc, nếu không phải thế thì đâu anh ấy có thể chuộc lại chiếc đồng hồ kia được? Sau cùng, đề nghị anh nhìn kỹ vào nắm bên trong có lỗ nhỏ nơi khóa núm vặn xuyên qua. Một người điều độ đã không thể làm trầy trụa nó như vậy. Ngược lại, đồng hồ của những người nghiện rượu thường mang dấu vết bàn tay run rẩy khi lên dây cót đồng hồ. Như vậy thì còn gì là bí ẩn trong lối giải thích của tôi đâu?

    - Tất cả đều rõ như ban ngày - Tôi đáp - Tôi rất ân hận đã bất công đối với anh. Lẽ ra, tôi phải biểu lộ lòng tin to lớn hơn nữa vào những năng lực của anh mới phải. Cho tôi xin phép được hỏi là hiện nay anh có phải giải quyết vụ nào không?

    - Không. Bởi thế nên tôi mới phải dùng đến cocaine. Tôi không tài nào sống mà không bắt óc tôi phải làm việc. Ở đời còn có hoạt động nào khác đáng giá hơn đâu? Này, anh hãy đến gần cửa sổ đây này. Có bao giờ mà thế giới lại ảm đạm, tầm thường và buồn chán như thế này đâu? Anh cứ nhìn vào đám sương mù vàng bệch đang giải rộng dọc theo con phố rồi vỡ vụn một cách thật là vô ích vào những cái nhà buồn tẻ kia đi! Còn có gì chán ngán và tầm thường hơn không? Này, ông bác sỹ của tôi ơi, anh hãy nói cho tôi biết đi, những năng lực của ta liệu có ích gì nếu ta không mang ra sử dụng? Tội phạm thì tầm thường, cuộc sống

    Cũng tầm thường, chỉ có những phẩm chất tầm thường mới có cơ thao luyện ở cõi đời này thôi.

    Tôi định trả lời cho những câu nói tràng giang này thì có tiếng gõ cửa. Bà chủ nhà trọ bước vào mang theo một tấm thiếp đặt trên chiếc mâm đồng.

    - Có một cô mong được gặp ông - Bà nói với bạn tôi.

    - Cô Mary Morstan - Anh đọc. - uhm! Tôi chẳng còn nhớ gì về cái tên này cả. Phiền bà mời người ấy vào hộ tôi, bà Hudson nhé. Ấy, bác sỹ đừng đi! Tôi sẽ rất vui lòng nếu anh ở lại với tôi.
     
  10. Tống Tử Hân

    Messages:
    255
    28. Chương 2: Trình bày nội vụ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cô Morstan bước vào phòng với dáng đi quả quyết. Đó là một thiếu nữ tóc hoe vàng, nhỏ nhắn và mảnh mai, y phục đơn giản và tầm thường, tuy rất thanh nhã khiến ta liên tưởng đến những điều kiện sinh hoạt hạn chế của cô. Chiếc áo, không đồ trang sức cũng chẳng nữ trang, màu gạch non ngả sang màu xám. Cổ quấn một dải khăn choàng đầu nhỏ, cũng một màu xám xịt ấy, may là có điểm thêm một chiếc lông vũ màu trắng ở một bên. Vẻ đẹp của cô không ở trong đường nét thanh tú, không ở trong nước da trong sáng, mà phảng phất trong nét tinh anh linh động, cởi mở và dịu dàng, trong đôi mắt xanh lớn, đa cảm và thăm thẳm. Kinh nghiệm của tôi về phụ nữ, vốn bao trùm nhiều nước ở ba lục địa, chưa bao giờ cho tôi được chiêm ngưỡng một khuôn mặt nào biểu lộ một tâm hồn tế nhị một cách tuyệt vời như thế.

    Shelock Holmes đẩy ghế tới mời cô ngồi. Tôi nhận thấy ngay miệng cô run run và đôi tay cô co quắp lại, toàn là những dấu hiệu của một sự xúc động nội tâm mãnh liệt.

    - Tôi đến gặp ông, thưa ông Holmes! - Nàng nói - bởi vì ông đã giúp bà Cecil Forrester vốn là người mà tôi phục vụ, gỡ được một vụ rắc rối trong gia đình bà ấy. Tài năng và nhiệt tình của ông đã làm bà ấy cảm kích vô cùng.

    - Bà Cecil Forrester à? - Anh nhắc lại, ra chiều nghĩ ngợi - À vâng, tôi nhớ đã giúp bà ấy một việc nho nhỏ. Tuy nhiên, nếu tôi còn nhớ rõ, thì đó chỉ là một vụ rất đơn giản thôi.

    - Vâng, nhưng đó không phải là ý kiến của bà ta. Dầu sao chăng nữa, chắc là ông sẽ không nghĩ như vậy về câu chuyện của tôi đâu. Tôi thật khó lòng mà tưởng tượng ra một câu chuyện lạ lùng hơn, và hoàn toàn không thể giải thích gì được.

    Holmes xoa tay vào nhau. Đôi mắt sáng ngời lên. Trong chiếc ghế bành, anh chồm tới trước với cái dáng nhìn nghiêng của loài chim săn mồi, và nét mặt đột nhiên biểu lộ một sự tập trung tư tưởng đến là lạ lùng.

    - Mời cô trình bày trường hợp của cô đi - Anh nói.

    Anh lấy giọng của một nhà doanh nghiệp. Địa vị của tôi lúc bấy giờ đâm ra khó xử, nên tôi đứng dậy cáo từ:

    - Mong quý vị miễn thứ cho tôi.

    Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi người phụ nữ khoát bàn tay đeo găng giữ tôi lại.

    - Nếu bạn ông vui lòng ngồi lại - Nàng nói - thì ông ấy có thể giúp đỡ tôi rất nhiều.

    Tôi đành phải ngồi xuống.

    - Sau đây là vắn tắt các sự kiện đã xảy ra - Nàng nói tiếp - Cha tôi là sĩ quan phục vụ tại Ấn Độ. Ông gởi tôi qua Anh thuở tôi hãy còn bé. Mẹ tôi mất sớm và ở đây tôi chẳng có người bà con nào. Vì vậy tôi được gởi vào một ký túc xá, nói đúng ra rất là đàng hoàng, ở Edinburgh, và tôi lưu lại tại đó mãi đến năm 17 tuổi. Đến năm 1878, cha tôi, với quân hàm đại úy cấp trung đoàn được nghỉ phép 12 tháng và trở về đây.

    Ông gởi cho tôi một điện tín từ London báo cho tôi biết là ông đã trở về bình an, và đợi gặp tôi ngay tại khách sạn Langham. Bức điện viết một cách đầy lòng yêu thương. Vừa đến London, tôi đi ngay tới khách sạn Langham. Tôi được người ta cho biết rằng đúng là đại úy Morstan có đăng ký phòng trọ tại đây, nhưng tối hôm qua ông ấy đã đi đâu đó mà chưa thấy trở về. Tôi chờ đợi trọn ngày hôm đó, nhưng bặt vô âm tín. Đến tối, theo lời khuyên của giám đốc khách sạn, tôi đi báo với cảnh sát sáng ngày hôm sau, mục rao vặt về việc này được đăng trên tất cả các báo. Công việc tìm kiếm của chúng tôi không kết quả, và cũng kể từ ngày đó tôi chẳng nhận được tin tức gì về người cha bất hạnh của tôi. Ông trở về quê hương lòng chứa chan hy vọng tìm được chút bình yên và an ủi, ấy thế mà..

    Nàng đưa tay lên cổ, câu nói nghẹn ngào qua tiếng khóc.

    - Xin cô cho biết rõ ngày, tháng xảy ra sự việc – Holmes vừa nói vừa mở sổ tay ghi chép ra.

    - Cha tôi mất tích ngày 3 tháng Chạp năm 1878, tính đến nay là đã gần 10 năm.

    - Còn hành lý thì sao?

    - Vẫn còn ở khách sạn đây. Nhưng cũng chẳng có dấu tích gì. Toàn là quần áo, sách vở, và rất nhiều vật hiếm, lạ mang từ đảo Andaman[1] về. Tưởng cũng cần nói rõ thêm rằng cha tôi là sĩ quan đồn trú, chịu trách nhiệm về những tên tội phạm bị đày biệt xứ đến đó.

    - Ở thành phố ông ấy có bạn bè nào không?

    - Theo chỗ tôi biết, cha tôi chỉ có một người bạn duy nhất: Đó là thiếu tá Sholto, cùng đơn vị, trung đoàn bộ binh thứ 35 Bombay. Viên thiếu tá nay đã nghỉ hưu, trước đó một thời gian về sống ở Thượng Norwood. Chúng tôi có tìm cách liên lạc với ông ấy; nhưng ông ấy lại không ngờ rằng bạn ông ấy lại có mặt tại Anh.

    - Một vụ khá lạ lùng đây - Holmes nhận xét.

    - À xin lỗi, tôi quên không thuật lại với quý ông giai đoạn rối rắm nhất của câu chuyện. Cách đây 6 năm, ngày 4 tháng 5 năm 1882, nếu muốn chính xác hơn, trên nhật báo "Times", có đăng mục rao vặt hỏi thăm địa chỉ của cô Morstan, và còn nói rõ là cô nên cho biết tin tức về cô vì có lợi cho chính bản thân cô. Trong mục rao vặt đó, chẳng có tên, mà cũng không có địa chỉ. Lúc bấy giờ, tôi vừa mới được thâu nhận làm quản gia trong gia đình bà Cecil Forrester. Theo lời khuyên của bà này, tôi cũng nhờ đăng báo địa chỉ của tôi. Cùng ngày, tôi nhận được qua bưu điện một hộp nữ trang bằng giấy bồi, trong đựng duy nhất một viên ngọc trai cực lớn nước sáng rất đẹp. Kể từ ngày hôm ấy, năm nào cũng vậy, vào cùng ngày, tôi lại nhận được một bưu phẩm đựng một viên ngọc trai như thế, mà chẳng có tên tuổi, địa chỉ gì của người gởi. Tôi đã hỏi ý kiến một chuyên gia: Những viên ngọc trai này thuộc một chủng loại hiếm có và có một giá trị to lớn. Mời ông cứ tự xem lấy mới thấy là đẹp biết nhường nào.

    - Nàng mở một chiếc hộp đẹp, đưa chúng tôi xem 6 viên ngọc: Những viên ngọc tinh thuần nhất mà tôi chưa từng thấy.

    - Câu chuyện của cô rất là kỳ thú - Shelock Holmes nói - Có còn gì nữa không?

    - Vâng, còn ạ. Mới hôm nay thôi ấy chính vì vậy mà tôi đến gặp ông đấy. Sáng nay tôi có nhận được một bức thư. Thưa ông, đây.

    - Cám ơn, Holmes nói - Xin cho tôi xem cả phong bì. Dấu nhật ấn bưu điện London, khu vực Tây Nam. Ngày 7 tháng 7. Hừm! Ở phía góc, có dấu tay trái, có lẽ là của bưu tá. Loại phong bì 6 pence một tập. Giấy viết thư thuộc loại sang.

    Không địa chỉ.

    Bức thư như sau:

    "Bảy giờ tối nay xin có mặt tại Nhà hát Lyceum, cạnh cột thứ ba lối đi ra tỉnh từ bên trái. Nếu cô không tin tưởng, cô có thể mời hai người bạn đi theo. Cô là nạn nhân của một sự bất công và sự bất công này sẽ được đền bù. Xin đừng đem cảnh sát theo. Nếu không, tất cả sẽ thất bại. Người bạn vô danh của cố."

    - Thế đấy, quả là một bí ẩn nho nhỏ, ngồ ngộ. Cô có dự tính gì không, cô Morstan?

    - Đó lại chính là câu hỏi tôi muốn đặt ra với ông đấy.

    - Nếu thế thì, chắc chắn chúng ta sẽ đến điểm hẹn, cô, tôi và.. dĩ nhiên, cả bác sỹ Watson nữa. Người viết thư cho cô chấp thuận cho cô mang theo hai người bạn: Bác sỹ đây đúng là người mà ta cần. Chúng tôi đã từng làm việc chung với nhau.

    - Nhưng liệu ông ấy có muốn đến không? - Nàng hỏi bằng giọng thúc bách.

    - Tôi sẽ rất hãnh diện và sung sướng - Tôi sốt sắng nói - Nếu tôi có thể giúp cô phần nào đó.

    - Cả hai ông đều thật là tử tế quá - Nàng đáp - Tôi vốn sống một cuộc sống thầm lặng, và tôi chẳng có ai là bạn bè để nhờ cậy cả. Tôi nghĩ là ta sẽ có đủ thời giờ nếu tôi trở lại đây lúc 6 giờ.

    - Nhớ đừng đến trễ nhé - Holmes nói - Cho tôi hỏi thêm một câu. Tuồng chữ trên phong bì này có giống với tuồng chữ cô đã trông thấy trên mấy chiếc hộp đựng ngọc trai không?

    - Đây, tôi có sẵn đây - Nàng đáp và đưa ra 6 mẫu giấy.

    - Cô quả thật là một thân chủ gương mẫu, trực giác đã cho cô biết điều gì quan trọng trong nội vụ này. Nào, giờ ta hãy xem nào.

    Trải rộng mấy mẫu giấy lên bàn, anh so sánh bằng cái nhìn linh hoạt và sâu sắc.

    - Nét chữ thì giả mạo, trừ bức thư, song tác giả chắc chắn chỉ là một - Anh nói - Các bạn cứ xem kỹ chữ "e" kiểu Hy Lạp cứ xuất hiện mỗi lúc tác giả thiếu chú ý và nét cong đặc biệt ở chữ "s" cuối từ[2] ! Tôi chẳng muốn gây cho cô niềm hy vọng giả tạo, cô

    Miorxtan ạ, nhưng cô thấy có gì giống nhau giữa nét chữ này và

    Nét chữ của cha cô không?

    - Hoàn toàn không ạ. Hai tuồng chữ khác hẳn nhau.

    - Tôi cũng đoán trước câu trả lời ấy rồi. Thế thì xin hẹn đến sáu giờ chiều nay. Cho phép tôi giữ mấy tờ giấy này. Bây giờ chỉ mới ba giờ rưỡi và có thể tôi sẽ cần đến khoảng thời gian còn lại trước khi cô trở lại đây. Xin tạm biệt[3] !

    - Vâng, xin tạm biệt[4] - Thiếu nữ đáp lại.

    Cầm lại hộp ngọc trai, nàng mỉm cười duyên dáng và nhanh nhẹn ra về.

    Qua cửa sổ, tôi nhìn theo dáng đi thoăn thoắt của nàng trên đường phố, mãi đến khi chiếc khăn choàng đầu màu xám và chiếc lông vũ trắng tan biến đi giữa đám đông.

    - Chà! Cô gái mới quyến rũ làm sao! - Tôi vừa nói lớn vừa quay lại với bạn tôi.

    Anh đã đốt lại ống điếu và ngồi gọn sâu vào chiếc ghế bành, mắt nhắm lại.

    - Thật à? - Anh nói bằng giọng uể oải - Thế mà tôi không để ý đấy.

    - Anh đích thực là một người máy? - Tôi nói - Một cái máy biết lý luận. Đôi khi tôi thấy anh hoàn toàn mất hẳn nhân tính.

    Anh mỉm cười, đáp lại:

    - Có một điều tối quan trọng là tôi không được để bị ảnh hưởng bởi những tính chất riêng của từng người. Một thân chủ đối với tôi chỉ là một yếu tố trong một bài toán mà thôi. Tính cảm xúc cảm trở sức lập luận trong sáng và óc phán đoán lành mạnh. Người đàn bà quyến rũ nhất mà tôi đã từng biết đã bị treo cổ chỉ vì bà đã đầu độc 3 đứa con mình để lãnh món tiền bảo hiểm nhân mạng ký kết trên đầu chúng nó. Mặt khác, gã đàn ông đáng ghét nhất trong chỗ quen biết của tôi lại là một người đầy lòng nhân ái, dám bỏ ra gần nửa triệu bảng cho kẻ nghèo khó.

    - Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt này..

    - Tôi không bao giờ đặt ngoại lệ. Với tôi ngoại lệ phủ nhận quy tắc. Anh có bao giờ gặp dịp tìm hiểu tính tình của một người qua nét chữ của họ không? Và anh nghĩ gì về tuồng chữ như thế này?

    - Nó trông dễ đọc và đều đặn - Tôi đáp - Tuồng chữ của một người từng quen với công việc làm ăn, và có một cá tính khá mạnh mẽ.

    Holmes lắc đầu, không đồng ý.

    - Anh hãy nhìn những chữ có vòng gút: Chúng chẳng khác gì nhau lắm. Chữ "d" cũng có thể là chữ "a", và chữ "l" có thể là chữ "e". Những người có cá tính luôn luôn viết rõ ràng những chữ có vòng gút, dầu cho họ có viết xấu đến đâu chăng nữa. Chữ "k" hơi run, và những chữ hoa chứng tỏ chút ít tự phụ.. Thôi được. Giờ

    Tôi phải đi. Tôi cần thêm vài tin tức. Để tôi giới thiệu với anh cuốn sách này trong khi chờ tôi; Watson ạ. Hay tuyệt đấy. Đó là cuốn "Kiếp đọa đày của con người" [5], của Winwood Reade. Trong vòng 1 tiếng nữa tôi sẽ trở về thôi.

    Tôi cầm lấy cuốn sách ngồi lại gần cửa sổ, song chẳng mấy chốc dòng suy nghĩ của tôi tách rời khỏi những thuyết lý táo bạo của nhà văn. Tôi hình dung lại cô thiếu nữ với nụ cười của nàng; tôi lại nghe thấy giọng nói uyển chuyển và êm ái khi nàng thuật lại điều bí ẩn lạ lùng đang bao trùm lên cuộc đời nàng.

    Nếu nàng vừa 17 tuổi lúc cha nàng mất tích, thì nay chắc nàng phải ở vào độ 27. Ôi, cái tuổi đẹp biết nhường nào? Cái tuổi thanh xuân, đang còn ở độ rực rỡ, tâm hồn không vướng bụi vị kỷ và lại được kinh nghiệm đời lắng dịu xuống.. Tôi ngồi trong ghế bành, mải mơ màng như vậy cho đến khi những ý nghĩ độc hại ùa đến trí óc tôi. Thế là tôi đâm nhào đến bàn giấy và đọc ngấu nghiến đến quên mình tập thảo luận sau cùng về bệnh lý học. Nhưng, tôi là cái gì kia chứ? Một bác sĩ phẫu thuật trong quân đội, khổ sở vì cái chân yếu đuối và một trương mục ngân hàng lại càng yếu kém hơn nữa. Thế thì sao tôi lại có thể thả hồn theo dòng suy nghĩ ngông cuồng đến thế? Người thiếu nữ kia chẳng qua cũng chỉ là một thành phần, một yếu tố trong bài toán mà thôi. Nếu tương lai tôi có đen tối đi nữa, tốt hơn là cứ nhìn thẳng vào nó, mặt đối mặt, như một con người còn hơn là che đậy nó sau những hình ảnh ngông cuồng huyễn hoặc do óc tưởng tượng thêu dệt nên.
     
Tags:
Trả lời qua Facebook
Loading...