Đề số 11 Bấm để xem Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới: Nếu luật giao thông giúp cho người lái xe được an toàn thì trên đường đương đời cũng cần phải có những quy luật bảo toàn hạnh phúc. Phạm luật, nghĩa là chúng ta đang bị tước mất quyền hạnh phúc. Giáo sư Sonja Luybomirsky, thuộc Đại học California, đã yêu cầu những người tham gia hãy ngẫu nhiên làm những việc tốt cho người khác trong vòng 10 tuần. Bà nhận thấy mức độ hạnh phúc của những người này tăng lên đáng kể mỗi khi họ làm được một điều tốt và họ vẫn giữ được trạng thái hạnh phúc sau một khoảng thời gian. Nghiên cứu chuyên sâu hơn cho thấy những người hay giúp đỡ người khác, hoặc có tham gia hoạt động thiện nguyện thường cảm thấy hạnh phúc hơn 30% so với những người chưa từng tham gia các hoạt động này. Điều đó phản ánh đúng 4 cấp độ hạnh phúc mà Aristotle, triết gia Hy Lạp đã nêu ra từ hai ngàn năm trước. Theo Aristatle, hạnh phúc ở cấp độ hai của loài người là chia sẻ, trao tặng - hay beautitudo, nghĩa là được chúc phúc. Khi ta làm cho người khác hạnh phúc họ sẽ chúc phúc ta bằng những ý nghĩa và cảm xúc tích cực. Năng lượng tích cực ấy đã hướng về phía ta và làm gia tăng mức độ hạnh phúc trong ta - hạnh phúc vì nhìn ra điểm tốt ở người khác và làm được điều tốt cho người khác. Đã bao giờ bạn tự hỏi, giữa người nhận quà và người trao quà, ai sẽ hạnh phúc hơn? Chính người cho đi sẽ nhận về hạnh phúc nhiều hơn. Từ một nghiên cứu với sự tham gia của 2.016 người cho thấy những ai tham gia các hoạt động thiện nguyện thì tinh thần họ phấn chấn hơn, khả năng miễn dịch mạnh, ít bị trầm cảm và ít mắc các bệnh mãn tính. Một nghiên cứu ở đại họ Hebrew, Isarel cũng phát hiện ra rằng lòng tốt sản sinh ra chất dopamine một chất dẫn truyền thần kinh làm cho người cảm thấy sảng khoái. Khi bước vào tình huống với suy nghĩ "mình có thể nhận được gì" thay vì là "mình có thể đóng góp được gì", ta sẽ cảm thấy căng thẳng và có thể gặt trái đắng. Còn khi ta chủ động trao đi thì chính năng lượng trao tặng thể hiện qua thái độ, lời nói và hành động sẽ quay trở về với ta. Điều tưởng như là nghịch lý ấy đang diễn ra trong cuộc sống-khi cho đi, ta cho đi sẽ nhận lại nhiều hơn cái ta có ban đầu. (Lăng kính tâm hồn, Trish summerfield) Câu 1. Theo đoạn trích, ai là người hạnh phúc hơn? Người cho hay người nhận? Câu 2. Các nghiên cứu cho thấy khi tham gia các hoạt động thiện nguyện, tinh thần chúng ta sẽ như thế nào? Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào là hạnh phúc? Câu 4. Chi sẻ bài học mà anh chị nhận được từ đoạn trích. II. LÀM VĂN Câu 1. Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ, trình bày suy nghĩ của anh chị về quan điểm được nêu trong đoạn trích đọc hiểu trên: Hạnh phúc là cho đi. Câu 2. Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhận vật ông lái đò trong thiên tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân). Từ đó liên hệ với truyện ngắn Chữ người tử tù và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người. GỢI Ý LÀM BÀI I. Đọc hiểu Câu 1. Theo đoạn trích người cho đi mới là người hạnh phúc hơn. Câu 2. Các nghiên cứu cho thấy khi tham gia các hoạt động thiện nguyện, tinh thần con người sẽ phấn chấn hơn, sảng khoái hơn, khả năng miễn dịch mạnh, ít bị trầm cảm và ít mắc các bệnh mãn tính. Câu 3. Hạnh phúc là trạng thái sung sướng khi đạt được ý nguyện. Câu 4. Đoạn trích hướng mỗi người đến bài học về sự yêu thương, sẻ chia, lòng nhân ái, vị tha. II. Làm văn Câu 1. Trên cơ sở những hiểu biết về đoạn trích ở phần đọc hiểu, anh chị có thể trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề cần nghị luận (Hạnh phúc là cho đi) theo nhiều cách nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Chẳng hạn: - Khi cho đi (dù là cho đi về vật chất hay tinh thần) tức là ta đã giàu có hơn người nhận. Đó là một hạnh phúc. - Khi cho đi, ta đã cho đi những điều mà họ thiếu hoặc cần, tức là ta đang làm một điều tốt đẹp. Khi làm được điều tốt đẹp, chắc chắn ta sẽ cảm thấy hạnh phúc. - Khi cho đi tức là ta đã coi trọng tình cảm, sự sẻ chia hơn bất kể những thứ gì trên đời, đặc biệt là vật chất. Và không bị lệ thuộc vào bất kể thứ gì trên đời, khi đó ta hạnh phúc.. Câu 2. Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Nguyễn Tuân và đoạn trích Người lái đò sông đà, anh chị có thể cảm nhận về hình tượng ông lái đò, từ đó liên hệ đến truyện ngắn Chữ người tử tù để chỉ ra sự nhất quán trong quan niệm của nhà văn về con người theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Dưới đây là một số gợi ý: * Giới thiệu vài nét về tác giả, đoạn trích, vấn đề cần nghị luận - Nguyễn Tuân là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại với phong cách nghệ thuật độc đáo. Ông được mệnh danh là "Một cái định nghĩa về người nghệ sĩ" (Nguyễn Đăng Mạnh) và là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. - Người lái đò sông đà là một trong những thiến tùy bút đẹp nhất của Nguyễn Tuân. Tác phẩm khắc họa thành công hình tượng người lái đò và thể hiện sự nhất quán của nhà văn trong quan niệm về con người ở giai đoạn trước và sau cách mạng tháng tám. *Cảm nhận về hình tượng nhân vật người lái đò - Nguyễn Tuân đã gọi người lái sông đàn là ông đò. Cách gọi tạo nên sự hòa quyện giữa người với nghề, một người lao động làm công việc bình dị, đời thường (chèo đò). - Trong đoạn trích hình tượng ông đò được tập trung khắc họa qua cuộc vượt thác trên sông Đà. Nguyễn Tuân đã khắc họa cuộc vượt thác của ông đò như một trận giao chiến giữa ông với sông đà hung bạo. Xét về tương quan lực lượng, ông đò cùng với bao nhiêu năm bơi chèo của mình chỉ có thứ vũ khí duy nhất là cán chèo trong tay, trong khi đó sông đà đã dàn thạch trận trên sông và bố trí đầu vào đó các lực lượng ở các vị tí sẵn sàng nghênh tiếp con thuyền đơn độc. +Trùng vi thạch trận thứ nhất: Sông Đà mở ra năm cửa trận gồm bốn cửa tử và một cửa sinh (phía tả ngạn) và liên tiếp ra những đòn tấn công ông đò cùng các boi chèo: Nước thác reo hò làm thanh viện cho đá. Những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt, hòn đá thì xấc xược hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi, hòn thì lùi lại, thách thức con thuyền. Mặt nước hò la vang dậy ùa vào bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay các bơi chèo. Sông nước đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền, đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra. Cuối cùng sông thác đánh đến đòn hiểm độc: Cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ của người lái đò. Ông đò: Giữa trận nước vang trời thanh la não bát, trước sự thách thức của đá và sóng trên sông, ông đò bình tĩnh, tập trung dồn hết tâm lực để giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình, tránh những đòn đá trái, thúc gối liều mạng của sóng nước. Bị sóng thác thác đến miếng đòn hiểm độc nhất, ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái không rời. Mặt ông đò méo bệch, biến dạng, biến sắc đi vì đau đớn nhưng trong cuộc hiến sinh tử với loài thủy quái khổng lồ, vị chiến tướng nhất định không chịu lùi bước (và cũng không thể lùi bước). Ông vẫn giữ chắc võ khí-lái mái chèo- trong tay mình để chiến đấu như một chiến sĩ kiên cường, anh dũng, không chịu khuất phục trước kẻ thù. Đối lập với tiếng hò la vang dậy, tiếng hỗn chiến của nước của thác đá là tiếng chỉ huy rõ ràng ngắn gọn tỉnh táo của ông đò. Chi tiết cho thấy thái độ chủ động, bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm của vị chiến tướng. Phải là một người từng trải, giàu kinh nghiệm, quen thuộc trên sóng nước Sông Đà, ông đò mới có thái độ bình tâm đáng phục như thế. - > Kết quả, ở trùng vi thạch trận thứ nhất, dù lực lượng, thanh thế của thác đá sông đà có phần áp đảo nhưng chiến thắng vẫn thuộc về vị chiến tướng tài ba, trí dũng: Ông đò. + Trùng vi thạch trận thứ hai: Sông Đà: Tăng thêm nhiều cửa tử, bố trí lệch cửa sinh qua bờ hữu ngạn. Sông đà lúc này như hổ báo, hùm beo đang hồng hộc tế mạnh của sông đá. Các loài thủy quái chỉ trực xô ra, níu lấy thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò: Không một phút nghỉ ngơi, ông đã phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật. Trước dòng thác hùm beo, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, để lại phía sau bọn đá tướng tui nghiu cái mặt xanh lè thất vọng. Ông đò hiện dũng mãnh như một Võ Tòng đả hổ với đường lái điêu luyện, điêu nghệ. +Trùng vi thạch trận thứ ba: Sông đà: Ít của hơn vòng đầu nhưg bên trái phải đều là luồng chết. Ông đò: Không xuất hiện trực tiếp mà lại gián tiếp hiện lên thông qua hình ảnh con thuyền. Con thuyền như một mũi tên tre, vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, cửa ngoài, cửa trong, lại của trong cùng, mũi tên tre đó quyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Đường đi vun vút của con thuyền-mũi tên tre tiếp tục cho thấy bản lĩnh kiên gan và sự tài hoa của người lái đò. - > Ông đò vừa trí dũng vừa tài hoa. - Sau một ngày giao tranh dữ dội với thác đá sông đà, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chèo, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng đã qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Rất ung dung thanh thản, ông lái đò nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng. Dường như ngày nào cũng thế, họ phải chiến đấu giành giật sự sống từ thác dữ nên họ cũng chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ. - > Vẻ đẹp bình dị, khiêm nhường của những con người bình dị vô danh, những người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng đã làm nên bao nhiêu điều kì diệu cho Tổ Quốc. *Liên hệ với truyện ngắn "chữ người tử tù" và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người. - Nhân vật chính trong chữ người tử tù là Huấn Cao. Huấn Cao được khắc họ với ba vẻ đẹp nổi bật: Tài hoa, nghệ sĩ, khí phách hiên ngang và thương trong sáng. - Người lái đò sông đà là tác phẩm được viết ở giai đoạn sau cách mạng tháng tám. Từ nhân vật Huấn Cao trong chữ người tử tù đến nhân vật ông đò trong người lái đò sông đà, có thể nhận thấy sự nhất quán của nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người: +Con người từ cuộc đời thực đi vào sáng tác của Nguyễn Tuân đều là những nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình. +Con người được tô đậm bởi những phẩm chất siêu phàm, phi thường xuất chúng. +Con người luôn được đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, những thử thách vô cùng khắc nghiệt để bộc lộ phẩm chất đáng quý. - > Quan niệm đề cao con người, đậm chất nhân văn. - Sự nhát quán trong quan niệm của nhà văn về con người của Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu, sự trân trọng của tác giả đối với các nhân vật, đồng thời tạo nên dấu ấn riêng biệt, phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn.
Đề số12: Bấm để xem I. Đọc hiểu Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Một ngày xuân, con chim nhả một hạt tung lên bức tường đá ở đền Ta Prohm. Gặp nước mưa, hạt tung nảy mầm thành một cây tung. Ngay lúc vừa sinh ra, cây tung đã nhận ra số phận trớ trêu của mình: Nó không mọc trên mảnh đất màu mỡ như những cây khác, mà lại mọc trên một bức tường đá! Đối với cây, làm gì có gì khô cằn hơn đá! Nó nhìn đám cây cối tươi tốt khoe sắc xung quanh mà thèm.. Nhưng nó biết nó không thể đua đòi với chúng. Nó có số phận khác. Nó buộc phải sống theo cách khác. Nó quyết định.. không vươn lên! Nó chỉ ra một ít là để hít khí trời, để không tiêu thụ quá nhiều dinh dưỡng. Nó tằn tiện từng tí dinh dưỡng hiếm hoi mà cái rễ của nó hút được từ bức tường đá và "đầu tư" số dinh dưỡng đó cho chính.. cái rễ. Nó kiên trì vươn cái rễ bé bỏng về phía đất, từng tí từng tí, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Nó vẫn không chịu vươn lên cao và chỉ duy trì vài ba cái lá nhỏ để hít khí trời. Nó biết đám cây tươi tốt xung quanh thường xuyên đàm tiếu với nhau về nó, nói xấu nó. Thậm chí có lúc nó còn nghe thấy chúng gọi nó là "Thằng còi" một cách miệt thị. Nó mặc kệ. Nó chỉ quan tâm đến một mục đích cụ thể: Vươn cái rễ tới đất. Nhiều ngày trôi qua Nhiều tháng trôi qua Nhiều mùa trôi qua Nhiều năm trôi qua Đến một ngày, cái rễ của nó đã chạm được đến đất. (Truyện cây tung ở đền Ta Prohm, Kẻ trăn trở, Lương Hoài Nam) Câu 1. Hạt cây tung đã nảy mầm ở đâu. Câu 2. Cây tung đã làm gì để chống chọi lại với số phận trớ trêu của nó? Câu 3. Vì sao cây tung lại quyết tâm vươn cái rễ tới đất? Câu 4. Nêu cảm nhận của anh chị về chi tiết: Nó kiên trì vươn cái rễ bé bỏng về phía đất, từng tí, từng tí, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. II Làm văn Câu 1. Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ, vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt nghị luận, tự sự, trình bày suy nghĩ của mình về bài học mà anh chị nhận được từ câu truyện về cây tung ở đền Ta Prohm trong đoạn trích thuộc phần đọc hiểu. Câu 2. Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ dưới đây để thấy được nét riêng của Nguyễn Khoa Điềm khi bộc bạch những suy tư về đất nước: Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng Em ơi em Đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời. (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12 tập 1) Gợi ý làm bài I. Đọc hiểu Câu 1. Hạt cây tung nảy mầm trên một bức tường đá. Câu 2. Để trống chọi lại với số phận trớ trêu, cây tung đã kiên trì tằn tiện từng chút dinh dưỡng hút được từ bức tường đá và đầu tư phần lớn nguồn dinh dưỡng ấy để nuôi chính bộ rễ của nó, với mục đích vươn cái rễ tới đất. Câu 3. Cây tung quyết tâm vươn cái rễ tới đất vì đất với chính là không gian có thể duy trì sự sống bền chặt của nó. Câu 4. Chi tiết cây tung vươn cái rễ bé bỏng về phía đất, từng tý, từng tý, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác mang đến cảm nhận sự cần mẫn, nhẫn nại bền bỉ - một phẩm chất tính cách cần có của con người ở bất cứ hoàn cảnh sống nào. II. Làm văn Câu 1. Trên cơ sở hiểu biết về đoạn trích ở phần đọc hiểu, anh chị có thể trình bày suy nghĩa của mình về vấn đề cần nghị luận (một bài học nhận được từ câu truyện) theo nhiều cách những phải hợp lý có sức thuyết phục. Chẳng hạn: - Bài học về sức sống mãnh liệt của loài sinh vật - Bài học khả năng thích nghi với môi trường và hoàn cảnh sống - Bài học về quá trình kiên nhẫn, bền bỉ đấu tranh sinh tồn - Bài học về lòng quyết tâm, sự kiên định với lập trường tư tưởng (mặc sự dèm pah của kẻ xấu) Câu 2. Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và trích đoạn Đất nước, anh chị có thể cảm nhận về đoạn thơ sau theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Dưới đây là một số gợi ý: * Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ. - Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trưởng thành từ phong trào thơ trẻ chống mĩ. - Đoạn trích tập trung thể hiện những suy tư của Nguyễn Khoa Điềm về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước. *Cảm nhận về đoạn thơ - Chín câu trước (trong anh và em.. tháng ngày mơ mộng) : Những suy tư, chiêm nghiệm về đất nước được thể hiện thông qua giọng thơ thủ thỉ, tâm tình như lời trò chuyện của đôi trai gái yêu nhau: +Các trạng ngữ trong anh và em hôm nay, khi hai đứa cầm tay, khi chúng ta cầm tay mọi người, mai này gợi đến vong tròn sức mạnh lan tỏa, sự lớn mạnh kỳ diệu của Đất nước từ hiện tại đến tương lai, từ cá nhân mỗi người đến đất nước lớn lao muôn đời. Đất nước có trong mỗi chúng ta hôm nay, nảy nở, sinh sôi và kết nối theo mỗi vòng tay nới rộng để rồi vĩnh viễn trường tồn trong tương lai bởi trách nhiệm gìn giữ và gieo truyền cho các thế hệ sau. + Trong suy tư, chiêm chiệm của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của con người. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ là riêng của cá nahan mà còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vậ t chất của dân tộc, của nhân dân (Trong anh và em hôm nay / Đều có một phần Đất nước), do đó mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo (Hai đứa cầm tay, chúng ta cầm tay mọi người, mai này con ta lớn lên - sẽ mang đất nước đi xa). +Các từ ngữ hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn, mơ mộn gắn liền lới chủ thể Đất Nước và luôn suất hiện trong các vế kết quả (Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm, Đất nước vẹn tròn to lớn. Đến những tháng ngày mơ mộng), đặt sau vế điều kiện (Khi hia đứa cầm tay, Khi chúng ta cầm tay mọi người, Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa). Chúng ta có tác dụng rất hớn trong việc thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm về vai trò của mỗi cá nhân đối với đất nước. Đất nước có bình yên, lớn mạnh, có tươi đẹp, sán lạn hay không là do anh và em, do sự đóng góp của mỗi cá nhân chúng ta. - Bốn câu sau (em ơi em.. muôn đời) : Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm với Đất Nước +Nói về trách nhiệm nhưng giọng thơ ngọt ngào, say đắm như lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết (em ơi em) chứ không phải những lời giáo huấn, hô hào, kêu gọi. + Đáp án cuối cùng cho câu hỏi Đất nước là gì được lý giải đầy thiêng liêng và trách nhiệm: Đất nước là máu xương của mình. Trong dân gian, người xưa thường dùng các hình ảnh "máu", "xương" - một phần của cơ thể, làm nên sức sống của con người -trong lời nói của mình, để thể hiện tình cảm gắn bó ruột thịt, thiêng liêng: "Tình cốt nhục" (một giọt máu đào hơn ao nước lã, Máu chảy ruột mềm, Anh em như thể chân tay - Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần) Nguyễn Khoa Điềm mượn hình ảnh "xương máu" để diễn tả một suy nghĩ lớn lao hơn: Đất nước là máu xương của mình. Bằng cách đồng nhất thông qua phép định nghĩa là, nhà thơ gắn chặt hai đối tượng tưởng chừng có sự chênh lệch lại với nhau, gắn Đất nước lớn lao, kỳ vỹ với sinh thể, sự sống còn, tồn vong của mỗi cá nhân (máu xương của mình), từ đó gắn trách nhiệm của mỗi con người đối với Đất Nước. Cách diễn tả của tác giả khiến lời thơ hoàn toàn mất đi dấu vết giáo huấn mà ngược lại, tăng sức nặng nề về sự trân trọng, thành kính, thiêng liêng trong nhận thức con người. +Điệp khúc phải biết cùng các động từ gắn bó, san sẻ và hóa thân khiến lời thơ như một mệnh lệnh phát ra từ trái tim, vừa thiết tha, chân thành vừa mạnh mẽ. Phải đặt trong hoàn cảnh ra đời của trường ca Mặt đường khát vọng (Ra đời tại nơi ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ) mới cảm nhận được các từ ngữ gắn bó, san sẻ và hóa thân là tiếng nói tâm huyết "mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ". *Nhận xét, đánh giá - Bằng chất liệu văn hóa dân gian, giọng thơ tâm tình, thủ thỉ lúc như lời độc thoại nội tâm, khi như lời đối thoại của lứa đôi trai gái, Nguyễn Khoa Điềm đã trả lời một cách tường tận và xúc động cho câu hỏi Đất nước là gì? - Chất chính luận, được thể hiện trong những suy tư, chiêm nghiệm của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước, ngay lập tức bị trữ tình hóa bởi giọng thơ ngọt ngào, say đắm như lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của lứa đôi trai gái yêu nhau. Sự kết hợp giữa chất chính luận và chất trữ tình thể hiện nhận thức vô cùng sâu sắc, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.