HỒI THỨ 99 Võ An Quân có công bị chết oan Lã Bất Vi lập kế buôn ngôi báu Bấm để xem Download: [-REPLY] [/HIDE-REP Lại nói vua Triệu lúc đầu tiếp được tin Triệu Quát báo tiệp, trong lòng cả mừng, rồi sau nghe tin quân Triệu bị khốn ở Trường Bình, đang tính việc phái binh đến cứu, bỗng lại được tin Triệu Quát đã chết, hơn 40 vạn quân Triệu đều đầu hàng nước Tần, bị Võ An Quân một đêm giết hết, chỉ còn 240 người được tha về. Vua Triệu cả sợ, quần thần đều thất đảm kinh hồn, trong nước kẻ khóc cha, người khóc con, anh khóc em, em khóc anh, ông khóc cháu, vợ khóc chồng, khắp chợ đầy đường chỗ nào cũng có tiếng người kêu khóc. Chỉ có bà mẹ Triệu Quát không khóc, nói rằng: - Từ lúc Quát được làm tướng, lão thiếp đã coi mình không phải là người sống nữa. Vua Triệu nghĩ bà mẹ Quát đã có lời nói từ trước, không bắt tội, lại cho thóc lụa để an ủi, và sai người tạ Liêm Pha. Đang lúc kinh hoàng, lại có tin báo rằng quân Tần đánh hạ được 17 thành Thượng Đảng, đều đã hàng Tần, nay Võ An Quân lại thân suất đại quân tiến lên, nói là muốn vây Hàm Đan. Vua Triệu hỏi quần thần có ai ngăn được quân Tần, quần thần không ai đáp, Bình Nguyên về nhà hỏi khắp tân khách, tân khách cũng chẳng ai đáp lại làm sao, bỗng có Tô Đại ở đó, nói nếu Đại đến được Hàm Dương, chắc ngăn được quân Tần không đánh Triệu. Bình Nguyên Quân nói với vua Triệu, vua Triệu bèn cấp cho Tô Đại nhiều tiền đi sang Tần. Tô Đại vào yết kiến Ứng Hầu Phạm Chuy. Chuy mời ngồi lên trên, hỏi rằng: - Tiên sinh vì cớ gì mà lại đây? Tô Đại nói: - Tôi vì ngài mà lại đây. Chuy hỏi: - Tiên sinh có điều gì chỉ giáo? Tô Đại hỏi: - Võ An Quân đã giết Triệu Quát rồi phải không? Chuy đáp: - Phải. Đại lại hỏi: - Nay lại vây Hàm Đan phải không? Chuy lại đáp: - Phải. Tô Đại nói: - Võ An Quân dụng binh như thần, thân làm tướng Tần, đánh lấy được hơn 70 thành, chém đầu gần trăm vạn, dẫu công của Y Doãn, Lã Vọng ngày xưa, chẳng hơn được thế. Nay lại đem quân mà vây Hàm Đan, Triệu tất phải mất thì Tần thành đế nghiệp. Tần thành đế nghiệp thì Võ An Quân sẽ là nguyên thần tá mệnh, như Y Doãn với nhà Thương, Lã Vọng với nhà Chu, ngài dẫu sang thế nào cũng phải ở dưới. Phạm Chuy kinh ngạc hỏi rằng: - Như vậy biết làm thế nào? Tô Đại nói: - Chi bằng ngài cho Hàn, Triệu cắt đất để cầu hòa với Tần, như vậy thì cắt đất là công của ngài mà lại giải binh quyền của Võ An Quân, địa vị của ngài sẽ được yên như Thái Sơn vậy. Phạm Chuy cả mừng, hôm sau liền nói với vua Tần rằng: - Quân Tần ở ngoài lâu ngày đã khó nhọc lắm, nên cho nghỉ ngơi, chi bằng sai người dụ Hàn, Triệu bắt cắt đất để cầu hòa. Vua Tần nói: - Tùy thừa tướng liệu định. Phạm Chuy lại đem vàng lụa tặng Tô Đại, sai đi bảo Hàn, Triệu. Hai vua Hàn, Triệu sợ Tần đều phải nghe kế của Đại. Hàn cắt một thành Viên Ung, Triệu cắt sáu thành đều sai sứ đến Tần cầu hòa. Vua Tần thấy Hàn chỉ dâng một thành hiềm ít quá, sứ Hàn nói 17 huyện Thượng Đảng mà Tần đã lấy được đều là đất của Hàn, vua Tần mới cười mà nhận cho, rồi triệu Võ An Quân rút quân về. Bạch Khởi đánh luôn đều được, đang muốn tiến vây Hàm Đan, bỗng nghe có chiếu ban sư, biết là mưu của Phạm Chuy, nên giận lắm. Từ đó Bạch Khởi cùng Phạm Chuy sinh ra thù khích. Bạch Khởi tuyên ngôn với mọi người rằng: - Từ trận thua ở Trường Bình, trong thành Hàm Đan, một đêm mười lần sợ, nếu thừa thắng tiến đánh, không đầy một tháng có thể lấy được, tiếc thay Ứng Hầu không biết thời thế, chủ trương việc rút quân về, làm mất cơ hội ấy. Vua Tần nghe nói, lấy làm hối lắm nói rằng: - Bạch Khởi đã biết Hàm Đan có thể lấy được, sao không tâu sớm. Bèn lại dùng Khởi làm tướng, muốn sai đánh Triệu nhưng gặp lúc Khởi có bệnh không đi được, bèn sai đại tướng Vương Lăng mang 10 vạn quân đi đánh Triệu, vây thành Hàm Đan. Vua Triệu sai Liêm Pha chống đánh, Pha đặt quân phòng giữ rất nghiêm lại đem gia tài mộ quân sĩ, thường thường đêm trèo ra thành, đánh phá dinh Tần. Quân Vương Lăng bị thua luôn, bấy giờ Võ An Quân bệnh đã khỏi, vua Tần muốn sai Võ An Quân, Võ An Quân tâu rằng: - Thành Hàm Đan thực khó đánh lắm, trước kia sau khi đại bại, trăm họ sợ hãi không yên, nhân đó mà đánh, họ vì giữ không được, đánh không đủ sức, thì có thể đánh lấy ngay được. Nay đã hơn hai năm rồi, việc phòng bị đã vững chắc, lại được Liêm Pha là tay lão tướng, không như Triệu Quát, chư hầu thấy Tần đang hòa với Triệu mà lại đánh, đều cho Tần là không thể tin được, tất sẽ hợp tung mà đến cứu, tôi chắc là Tần không thể được vậy. Vua Tần cưỡng bách đi, Bạch Khởi cố từ. Vua Tần lại sai Phạm Chuy đến bảo, Bạch Khởi căm giận Phạm Chuy trước ngăn trở công của mình, bèn xưng bệnh. Vua Tần bảo Phạm Chuy rằng: - Võ An Quân thực có bệnh ư? Phạm Chuy nói: - Đau thực hay không thì chưa biết, nhưng không chịu làm tướng, chí đã kiên quyết rồi. Vua Tần giận nói rằng: - Bạch Khởi cho là nước Tần không có viên tướng nào khác, cứ phải cầu đến hắn chăng? Trận chiến thắng ở Trường Bình ngày trước, lúc đầu là Vương Hạt cầm quân, vậy Hạt có kém gì Khởi. Bèn thêm quân 10 vạn, sai Vương Hạt đi thay Vương Lăng. Vương Lăng về nước bị bãi quan. Vương Hạt vây thành Hàm Đan trong năm tháng không thể đánh phá được, Võ An Quân nghe chuyện nói với khách rằng: - Tôi đã nói là Hàm Đan đánh không dễ mà, vua không nghe lời tôi, nay thế nào đấy? Trong bọn khách có người quen Ứng Hầu Phạm Chuy, tiết lộ lời nói ấy. Chuy nói với vua Tần, muốn cử Võ An Quân làm tướng. Võ An Quân lại nói dối bị bệnh, vua Tần cả giận, thu hết tước quan và đất ăn lộc của Võ An Quân, giáng xuống làm lính, đày ra Âm Mật, bắt phải lập tức ra khỏi thành Hàm Dương, không cho ở lại một phút. Võ An Quân than rằng: - Phạm Lãi có nói: "Con thỏ khôn đã chết, con chó săn tất bị mổ", vì Tần đánh hạ được hơn 70 thành của chư hầu, cái thế tất là bị mổ. Rồi đi ra cửa tây Hàm Dương, đến Đỗ Bưu tạm nghỉ để đợi hành lý. Phạm Chuy nói với Vua Tần rằng: - Bạch Khởi ra đi, trong lòng tấm tức không phục, nói nhiều câu oán đại vương, nói là có bệnh, nhưng là giả đó, e sẽ đi sang nước khác để làm hại Tần. Vua Tần bèn sai sứ đưa cho Bạch Khởi một thanh gươm sắc, bắt phải tự tử. Bạch Khởi cầm thanh gươm ở tay, than rằng: - Ta có tội gì với trời mà đến nông nỗi này! Hồi lâu nói rằng: - À, ta thực đáng chết, trận đánh ở Trường Bình, hơn 40 vạn quân Triệu đến đầu hàng, ta đánh lừa chúng nó, trong một đêm giết chết hết cả, chúng nó có tội gì, vậy nay ta chết là phải lắm. Bèn tự đâm cổ chết. Người Tần nghĩ Bạch Khởi không có tội mà phải chết, đều đem lòng thương, có lập đền thờ. Về sau một năm vào cuối đời nhà Đường, có tiếng sét đánh chết một con trâu, dưới bụng trâu có hai chữ "Bạch Khởi", người ta nói Bạch Khởi vì giết người nhiều quá, nên mấy trăm năm sau vẫn còn phải chịu cái quả báo làm kiếp trâu bị sét đánh. Vua Tần đã giết Bạch Khởi, lại phái năm vạn tinh binh, sai Trịnh An Bình làm tướng đi giúp Vương Hạt, tất phải đánh hạ được Hàm Đan mới thôi. Vua Triệu nghe Tần đem thêm quân đến đánh, sợ quá, sai sứ chia đường đi cầu cứu chư hầu. Bình Nguyên Quân nói: - Ngụy là chỗ thông gia với tôi, thế nào cũng có quân cứu đến, còn Sở là nước to mà xa, cần phải đem thuyết hợp tung mà dụ mới được, vậy tự tôi phải đi. Rồi ước với những khách ăn trong nhà, muốn được lấy 20 người đủ tài văn võ cùng đi. Trong hơn ba nghìn người có văn thì không võ, có võ thì không văn, chọn đi chọn lại chỉ được 19 người, không đủ được số hai chục. Bình Nguyên Quân than rằng: - Thắng này dưỡng sĩ đã mấy năm nay, ngờ đâu cầu lấy người đủ tài khó như thế! Trong đám hạ khách có một người chạy ra nói rằng: - Như tôi đây không biết có thể đủ số được không? Bình Nguyên Quân hỏi họ tên là gì, người ấy thưa rằng: - Tôi họ Mao, tên Toại, người ở Đại Lương làm khách ở nhà ngài đã ba năm nay. Bình Nguyên Quân cười nói rằng: - Hiền sĩ ở đời như cái dùi ở trong túi, mũi nhọn lộ ngay, nay tiên sinh ở nhà Thắng đã ba năm, mà Thắng chưa nghe được có điều gì, thế là tiên sinh cả văn lẫn võ chẳng có cái gì giỏi cả. Mao Toại nói rằng: - Tôi ngày nay mới xin ở vào trong túi, nếu được sớm ở trong túi, thì sẽ đột nhiên đâm hết ra, há chỉ lộ mũi nhọn mà thôi ư? Bình Nguyên Quân nghe lời nói lấy làm lạ, bèn lấy vào cho đủ số 20 người, rồi từ biệt vua Triệu đi sang Sở. Đến nơi, vào yết kiến Xuân Thân Quân Hoàng Yết. Hoàng Yết vốn có chơi với Bình Nguyên Quân bèn chuyển tâu vua Sở. Sáng hôm sau vào triều, vua Sở cùng Bình Nguyên Quân ngồi trên điện, Mao Toại cùng 19 người đều đứng ở dưới. Bình Nguyên Quân thong thả nói việc hợp tung chống Tần, vua Sở nói: - Xướng ra ước hợp tung đầu tiên là Triệu, sau nghe lời Trương Nghi du thuyết tung ước bèn giải. Trước kia Hoài Vương làm tung ước trưởng, đánh Tần không được; Tề Mân Vương lại làm tung ước trưởng, chư hầu đều bỏ; đến nay các nước đều lấy việc hợp tung làm kiêng, việc ấy như đống cát, dễ hợp dễ tan. Bình Nguyên Quân nói: - Từ Tô Tần xướng ra nghị tung, sáu nước kết làm anh em trong 15 năm quân Tần không dám ra khỏi cửa Hàm Cốc. Về sau Tề, Ngụy bị Công tôn Diễn lừa muốn cùng đánh Triệu; Hoài Vương bị Trương Nghi lừa muốn cùng đánh Tề, cho nên tung ước mới tan dần. Nếu ba nước ấy cứ giữ chặt lời thề ở Hằng Thủy không bị Tần lừa, thì Tần làm gì được. Tề Mân Vương tiếng là hợp tung, thực muốn kiêm tính, cho nên chư hầu mới bỏ, chứ có phải là hợp tung không hay đâu. Vua Sở nói: - Cái thế ngày nay, Tần mạnh mà các nước đều yếu, chỉ có thể nước nào lo giữ nước ấy, còn giúp nhau sao được. Bình Nguyên Quân nói: - Tần dẫu mạnh chia sức mà đánh sáu nước thì không đủ, sáu nước dẫu yếu hợp sức lại mà chống Tần thì có thừa. Nếu nước nào giữ nước ấy, không nghĩ cứu nhau, thì một mạnh một yếu, được thua đã rành, e rằng quân Tần sẽ cứ lần lượt đánh dần vậy. Vua Sở nói: - Quân Tần mới đánh một trận mà đã lấy được 17 thành Thượng Đảng, chôn hơn 40 vạn quân Triệu. Hợp cả hai nước Hàn- Triệu, không thể địch được một Võ An Quân. Nay lại tiến bức Hàm Đan, nước Sở ở xa thì làm thế nào được. Bình Nguyên Quân nói: - Quả quân dùng làm phải viên tướng bất tài, nên mới có trận thua ở Trường Bình. Nay 20 vạn quân Tần đóng ở dưới thành Hàm Đan, trước sau đã hơn một năm mà không làm gì được Triệu, nếu có quân cứu đến, thì quân Tần phải tan ngay. Vua Sở nói: - Tần mới thông hiếu với Sở, ngài muốn quả nhân hợp tung cứu Triệu, Tần tất giận lây đến Sở, như vậy là thay Triệu mà chịu oán. Bình Nguyên Quân nói: - Tần mà thông hiếu với Sở, là muốn chuyên đánh Hàn, Triệu, Ngụy; ba nước ấy đã mất thì Sở còn được sao? Vua Sở vẫn có lòng sợ Tần, trì nghi chưa quyết. Mao Toại đứng dưới thềm trông xem mặt trời đã đứng trưa, bèn cắp gươm theo bậc đi lên, bảo Bình Nguyên Quân rằng: - Việc hợp tung lợi hay hại, chỉ nói hai điều là quyết định, hôm nay vào triều từ sáng sớm, nói đi nói lại đã nửa ngày mà chưa quyết định là cớ làm sao? Vua Sở giận hỏi rằng: - Kẻ kia là người nào? Bình Nguyên Quân nói: - Đó là người khách của tôi, tên là Mao Toại. Vua Sở nói: - Quả nhân cùng chủ ngươi bàn việc, sao ngươi lại nói chen vào? Nói rồi thét bảo xuống. Mao Toại lại đi lên mấy bước nữa, vỗ gươm mà nói rằng: - Hợp tung là việc lớn thiên hạ, ai nấy đều được bàn, chủ tôi ngồi đấy, sao lại mắng tôi? Vua Sở sắc mặt hơi dịu lại nói rằng: - Khách nói điều gì muốn nói! Mao Toại nói: - Đất Sở hơn năm nghìn dặm, từ Vũ, Văn xưng vương, đến nay hùng thị thiên hạ, gọi làm minh chủ. Người Tần bỗng đâu quật khởi, năng đánh được quân Sở, Hoài Vương bị tù mà chết, Bạch Khởi là thằng trẻ con, chỉ đánh một vài trận, mà chiếm được hai thành Yên, Dĩnh, Sở bị bức phải thiên đô. Đó là cái thù trăm đời, đến đứa trẻ cũng còn biết xấu hổ, vậy mà đại vương lại không nghĩ đến ru? Cái nghị hợp tung ngày nay, là vì Sở chứ không phải vì Triệu. Vua Sở dạ dạ mấy tiếng, Mao Toại nói: - Đại vương đã quyết định chưa? Vua Sở nói: - Ý quả nhân đã quyết rồi. Mao Toại bèn gọi tả hữu bưng chậu huyết đến, quì dâng ở trước mặt vua Sở, nói rằng: - Đại vương làm tung ước trưởng, nên uống trước, thứ đến chủ tôi, rồi thứ nữa đến Mao Toại này. Tung ước định xong, Mao Toại tay tả cầm chậu máu, tay hữu vẫy 19 người đến bảo rằng: - Các ông nên cùng uống máu ở dưới thềm, các ông chỉ là nhân người ta mà làm nên việc. Vua Sở đã bằng lòng hợp tung, liền sai Xuân Thân Quân mang tám vạn người cứu Triệu. Bình Nguyên Quân trở về nước nói rằng: - Ba tấc lưỡi của Mao tiên sinh mạnh hơn trăm vạn quân. Thắng này xem xét người đã nhiều, riêng có Mao tiên sinh suýt nữa thì lỡ mất. Thắng này từ nay không dám xem xét kẻ sĩ trong thiên hạ nữa. Từ đó lấy Mao Toại lên làm thượng khách. Bấy giờ vua Ngụy sai đại tướng là Tấn Bỉ mang 10 vạn quân đi cứu Triệu. Vua Tần nghe chư hầu đều mang quân cứu đến, thân đến Hàm Đan đốc chiến, sai người bảo vua Ngụy rằng: - Tần đánh Hàm Đan sắp hạ đến nơi, chư hầu có nước nào dám cứu, sẽ dời quân đến đánh nước ấy trước. Vua Ngụy cả sợ, sai sứ đuổi theo kịp quân Tấn Bỉ, bảo chớ tiến nữa. Tấn Bỉ bèn đóng quân ở Nghiệp Hạ, Xuân Thân Quân cũng đóng quân lại ở Vũ Quan, trông ngóng không tiến. Lại nói Vương tôn nước Tần tên là Dị Nhân, từ sau khi Tần, Triệu hội ở Mãnh Trì, sang làm con tin ở Triệu. Dị Nhân là con thứ An Quốc Quân. An Quốc Quân tên là Lâm, tên tự là Tử Hề, thái tử của Chiêu Tương Vương. An Quốc Quân có hơn 20 người con trai, đều là con các nàng hầu, không phải là con cả, người được yêu nhất là Sở Phi, gọi là Hoa Dương phu nhân thì lại chưa có con trai. Mẹ Dị Nhân là Hạ Cơ may được yêu lại chết sớm, cho nên Dị Nhân làm con tin ở Triệu, đã lâu chẳng có ai thăm hỏi đến. Khi Vương Tiễn đánh Triệu, vua Triệu giận lây đến con tin, muốn giết Dị Nhân. Bình Nguyên Quân can ngăn, vua Triệu bèn an trí Dị Nhân ở Tùng Đài, ra vào canh giữ, lại bớt lương cấp. Dị Nhân suốt ngày uất ức không biết làm thế nào. Bấy giờ có người ở Dương Địch, họ Lã tên là Bất Vi, cha con đều làm lái buôn, vẫn đi lại các nước, mua rẻ bán đắt, nên có vốn to. Khi Bất Vi đến Hàm Đan, gặp Dị Nhân ở giữa đường, thấy mặt trắng môi đỏ, dẫu ở trong lúc phong trần mà vẫn có vẻ quí phái, lấy làm lạ, liền hỏi người bên cạnh đó là người nào, người kia đáp đó là con trai An Quốc Quân nước Tần sang Triệu làm con tin, vì quân Tần, nay dù khỏi chết, nhưng bị đày ở Tùng Đài, cấp dụng không đủ nên càng khổ lắm. Bất Vi nghe nói nghĩ thầm đó là một món hàng hóa buôn có lợi to, bèn về hỏi người cha rằng: - Cày ruộng lợi gấp mấy? Người cha nói: - Lợi gấp mười. Lại hỏi: - Buôn châu ngọc lợi gấp mấy? Người cha nói: - Lợi gấp trăm. Lại hỏi: - Nếu giúp lập một người lên làm vua, thống trị sơn hà, được lợi gấp mấy? Người cha cười nói rằng: - Lấy đâu có được người làm vua mà lập nên, nếu có thì lợi đến gấp nghìn gấp muôn biết thế nào mà tính được. Lã Bất Vi liền đem trăm nén vàng kết giao với Công tôn Kiền là người được vua Triệu sai giám sát Dị Nhân. Bất Vi đi lại dần dần rồi được tiếp kiến Dị Nhân, giả cách không biết là ai, hỏi lai lịch, Công tôn Kiền nói thực cho biết. Một hôm Công tôn Kiền đặt tiệc rượu mời Bất Vi. Bất Vi nói: - Trong tiệc chẳng có người khách nào khác, có Vương tôn nước Tần ở đây sao chẳng mời đến cùng uống rượu cho vui. Công tôn Kiền nghe lời, liền cho mời Dị Nhân đến tiếp Bất Vi, cùng ngồi uống rượu. Tiệc đến nửa chừng, Công tôn Kiền đứng dậy đi ra nhà xí, Bất Vi hỏi thầm Dị Nhân rằng: - Vua Tần nay đã già, thái tử yêu nhất là Hoa Dương phu nhân mà phu nhân lại không con, anh em điện hạ có hơn 20 người mà chưa có ai được yêu lắm, điện hạ sao không nhân lúc này cầu về nước Tần thờ Hoa Dương phu nhân xin làm con, mai sau sẽ có hy vọng được làm thái tử. Dị Nhân ứa nước mắt nói rằng: - Tôi khi nào dám mong điều đó, nhưng mỗi khi nói đến nước cũ, lòng đau như dao cắt, chỉ giận chưa có kế gì thoát thân được mà thôi. Bất Vi nói: - Nhà tôi dẫu nghèo, xin đem nghìn vàng vì điện hạ sang Tần nói với thái tử và phu nhân để cứu điện hạ về triều, ý điện hạ nghĩ thế nào? Dị Nhân nói: - Nếu được như lời ngài nói, mai sau phú quí xin cùng ngài hưởng. Nói vừa xong thì Công tôn Kiền vào đến nơi hỏi rằng: - Lã Quân nói chuyện gì thế? Bất Vi nói: - Tôi hỏi thăm Vương tôn về cái giá ngọc ở nước Tần, Vương tôn từ chối là không biết. Công tôn Kiền quả không ngờ, lại sai rót rượu uống, đến lúc thật vui say mới tan. Từ đó Bất Vi cùng Dị Nhân thường đi lại với nhau, mật đưa cho Dị Nhân 500 nén vàng, dặn nên mua chuộc những người tả hữu và tiếp đãi tân khách. Người nhà Công tôn Kiền đã được Dị Nhân cho tiền, nên đều coi Dị Nhân như người một nhà, không còn nghi kỵ gì nữa. Lã Bất Vi lại đem năm trăm nén vàng mua các đồ quí, từ biệt Công tôn Kiền đi sang Hàm Dương. Dò biết Hoa Dương phu nhân có người chị gái cũng lấy chồng ở Tần, trước hết tìm người đưa vào yết kiến bà chị ấy, nói Vương tôn Dị Nhân ở Triệu lúc nào cũng tưởng nhớ thái tử và phu nhân, có lễ đưa về kính biếu nhờ bà chuyển giúp, còn chút lễ mọn này riêng để kính dâng bà. Bà chị mừng quá, bảo Bất Vi: - Đó dẫu là Vương tôn có lòng tốt, nhưng làm cho tôn khách phải đi xa, ngày nay Vương tôn ở Triệu, có còn nhớ đến nước cũ không? Bất Vi nói: - Nhà tôi ở đối diện với công quán của Vương tôn, có việc gì Vương tôn vẫn nói chuyện với tôi, nên tôi biết rõ tâm sự. Ngày đêm Vương tôn lúc nào cũng tưởng nhớ thái tử và phu nhân, nói từ bé mồ côi mẹ, phu nhân tức là đích mẫu, muốn về nước phụng dưỡng để hết đạo hiếu. Bà chị hỏi: - Vương tôn bấy lâu có được bình yên không? Bất Vi nói: - Vì Tần cứ đến đánh Triệu luôn, nên vua Triệu thường muốn đem Vương tôn ra chém, may được thần dân hợp sức bảo tấu nên mới còn sống, nên càng nóng nảy mong về. Bà chị hỏi: - Thần dân Triệu vì cớ gì lại chịu bảo tấu cho Vương tôn? Bất Vi nói: - Vương tôn là người hiền hiếu, mỗi khi gặp sinh nhật của vua Tần, thái tử và phu nhân, và các ngày nguyên đán sóc vọng đều tắm gội chay sạch, đốt hương trông về phía Tây mà bái chúc, người Triệu không ai là không biết, vả lại hiếu học, trọng hiền, giao kết khắp bực hiền sĩ các nước, nên thiên hạ đều khen là người hiền hiếu vì thế thần dân nước Triệu mới bảo tấu cho. Bất Vi nói xong, đem các đồ quí ra, giá đáng chừng năm trăm nén vàng, dâng lên nói rằng: - Vương tôn vì không thể về chầu hầu thái tử, phu nhân được, có lễ mọn này để tỏ lòng hiếu thuận, dám phiền vương thân chuyển đệ cho. Bà chị sai người nhà làm cơm rượu đãi Lã Bất Vi, rồi đi ngay vào nói chuyện với Hoa Dương phu nhân. Phu nhân thấy các đồ quí, cho là Vương tôn thực có lòng yêu mình, trong lòng mừng quá. Bà chị về nói chuyện cho Bất Vi biết, Bất Vi giả cách không biết hỏi rằng: - Phu nhân có mấy người con trai? Bà chị nói là chẳng được người nào. Bất Vi nói: - Tôi nghe đem sắc đẹp thờ người, hễ sắc kém thì lòng yêu hết, nay phu nhân được thái tử rất yêu mà không có con, nên nhân lúc này chọn trong các con chồng, người nào hiền hiếu lấy làm con mình, mai sau người con ấy được lên làm vua, thế lực phu nhân há chẳng càng được vững vàng lắm ru. Nếu không thì sau này sắc đẹp sẽ kém, lòng yêu chẳng còn, có hối cũng không kịp nữa. Nay Dị Nhân là người hiền hiếu, lại yêu mến phu nhân, nếu phu nhân cất nhắc lên làm đích tử, như vậy phu nhân sẽ được tôn quí đời đời ở nước Tần này vậy. Bà chị lại đem lời nói ấy vào nói với Hoa Dương phu nhân. Phu nhân cho lời Bất Vi nói là phải, một đêm cùng An Quốc Quân uống rượu đang vui, bỗng ứa nước mắt khóc, thái tử lấy làm lạ hỏi cớ gì, phu nhân nói: - Thiếp nay được sung vào hậu cung, chẳng may không con. Thiếp xem trong các con của thái tử chỉ có Dị Nhân là người rất hiền, tân khách chư hầu đi lại, ai nấy đều khen. Nếu được Dị Nhân làm con nối, thân thiếp sau này có chỗ cậy nhờ. Thái tử bằng lòng cho, phu nhân nói: - Thái tử hôm nay cho thiếp, ngày mai lại nghe lời vợ khác, rồi quên đi. Thái tử nói: - Phu nhân nếu không tin, xin khắc thẻ để làm chứng. Nói rồi bèn lấy một cái thẻ khắc bốn chữ "Đích tử Dị Nhân" chẻ đôi mỗi người giữ một nửa làm tin. Phu nhân hỏi: - Dị Nhân ở Triệu, làm thế nào mà đem về được? Thái tử nói: - Sẽ nhân dịp nói với vua. Bấy giờ vua Tần đang giận Triệu, thái tử có nói, nhưng vua không nghe. Bất Vi biết em trai vương hậu là Dương Toàn Quân đang được vua yêu, lại đút lót các môn hạ cầu vào yết kiến Dương Toàn Quân, nói rằng: - Tội ngài đến chết, ngài có biết không? Dương Toàn Quân cả sợ nói rằng: - Tôi có tội gì? Bất Vi nói: - Những môn hạ của ngài đều ở ngôi cao, ai nấy đều bổng hậu lộc nhiều, hầu non vợ đẹp, mà những người môn hạ của thái tử không ai có quyền thế cả, mà đại vương ngày nay tuổi đã già, một sớm mất đi, thái tử nối ngôi, các người môn hạ oán ngài lắm, cái nguy cơ của ngài đã đến sau lưng rồi. Dương Toàn Quân nói: - Bây giờ biết làm thế nào? Bất Vi nói: - Tôi có kế này, có thể khiến cho ngài thọ được trăm tuổi, vững vàng như Thái Sơn, ngài có muốn nghe không? Dương Toàn Quân quì xuống hỏi kế. Bất Vi nói: - Đại vương tuổi đã già mà thái tử lại không có con trai cả. Nay Vương tôn Dị Nhân có tiếng là người hiền hiếu mà lại bị bỏ ở nước Triệu, ngày đêm mong mỏi được về. Nếu ngài xin được vương hậu nói với vua Tần cho đón Dị Nhân về, khiến thái tử lập làm đích tử, như vậy Dị Nhân không nước mà có nước, Hoa Dương phu nhân không con mà có con, thái tử và Vương tôn đều cám ơn vương hậu đời đời, tước vị của ngài có thể giữ vững được. Dương Toàn Quân sụp lạy xin theo, rồi đem lời Bất Vi nói với vương hậu. Vương hậu nói với vua Tần, vua Tần nói: - Đợi người Triệu xin hòa, ta sẽ đón Dị Nhân về nước. Thái tử cho triệu Bất Vi vào hỏi rằng: - Ta muốn đón Dị Nhân về nước, phụ vương chưa chuẩn cho, tiên sinh có diệu sách gì không? Bất Vi dập đầu nói rằng: - Thái tử quả lập Vương tôn làm con nối, tiểu nhân chẳng dám tiếc cái gia sản nghìn vàng, đút lót các nhà quyền thế nước Triệu, tất có thể cứu về được. Thái tử và phu nhân đều cả mừng đem hai trăm lạng vàng giao cho Lã Bất Vi, chuyển giao cho Dị Nhân để chi về việc kết khách. Vương hậu cũng lấy một trăm lạng vàng giao cho Bất Vi, phu nhân lại sắm cho Dị Nhân một hòm quần áo và tặng riêng Bất Vi một trăm lạng vàng, phong sẵn cho Bất Vi làm thái phó của Dị Nhân, dặn nói cho Dị Nhân chẳng mấy ngày nữa sẽ gặp nhau, chớ nên lo nghĩ. Bất Vi từ biệt, khi vào đến Hàm Đan, trước hết nói cho người cha biết, người cha cả mừng. Hôm sau liền mang lễ vào yết kiến Công tôn Kiền, rồi chào Dị Nhân, đem lời nói của vương hậu, thái tử và phu nhân nói hết cho nghe, lại đem năm trăm lạng vàng và hòm quần áo đưa cho. Dị Nhân cả mừng nói rằng: - Hòm quần áo tôi xin nhận, còn số vàng tiên sinh cứ cầm lấy, nếu có việc dùng đến xin tùy ý tiên sinh, cứ cốt làm sao cứu được tôi về nước, tôi xin cám ơn vô cùng. Lại nói Lã Bất Vi có lấy một người con gái đẹp ở Hàm Đan tên là Triệu Cơ, giỏi nghề hát múa, biết là ả có mang được hai tháng, liền nghĩ ra một kế: "Dị Nhân về nước tất có phận được nối ngôi vua, nếu đem ả này dâng cho hắn, may mà sinh được con trai, đó tức là hòn máu của ta. Đứa con trai ấy mà lên làm vua, thì thiên hạ của nhà họ Doanh, sẽ về họ Lã ta tiếp thay, như vậy cái việc ta phá của nhà đi để làm đây mới không uổng". Kế đã định rồi, bèn mời Dị Nhân và Công tôn Kiền đến nhà uống rượu, bàn tiệc có đủ các đồ ngon vật lạ và có đàn hát làm vui. Uống rượu đến nửa chừng, Bất Vi nói: - Bỉ nhân mới lấy được đứa hầu non, hơi biết hát múa, muốn cho nó ra mời rượu, xin các ngài chớ hiềm là đường đột. Nói xong, sai hai con hầu vào gọi Triệu Cơ ra. Bất Vi nói: - Nàng nên vái chào hai vị quí nhân đây. Triệu Cơ thoăn thoắt gót sen, đứng trên thảm, khấu đầu hai cái, Dị Nhân và Công tôn Kiền vội vàng đáp lễ lại. Bất Vi sai Triệu Cơ tay nâng chén vàng mời Dị Nhân. Dị Nhân ngửa mặt nhìn Triệu Cơ thấy rõ ràng là một vị giai nhân mày ngài mắt phượng, da tuyết tóc mây, cái vẻ mỹ lệ yêu kiều không bút mực nào tả cho hết được. Triệu Cơ mời rượu xong liền sóng tay áo đứng trên cái thảm trải đất mà múa, chân tay mềm mại, điệu bộ dịu dàng, làm cho Công tôn Kiền và Dị Nhân hoa mắt mê lòng, thần hồn điên đảo, cùng nhau khen ngợi mãi không thôi. Triệu Cơ múa xong, Bất Vi lại sai rót chén lớn dâng mời, hai người đều uống một hơi hết ngay. Triệu Cơ mời rượu xong trở vào trong nhà, tân khách lại cùng nhau thù tạc rất vui, Công tôn Kiền say quá nằm lăn ra. Dị Nhân trong lòng nghĩ đến Triệu Cơ, mượn rượu giả say nói với Bất Vi rằng: - Nghĩ như tôi một mình chơi vơi ở đất khách, quạnh hiu vắng vẻ chẳng biết bầu bạn cùng ai, vậy muốn xin ngài cho tôi nàng hầu ấy làm vợ, để được thỏa lòng ước ao, nhưng chưa rõ thân giá bao nhiêu, xin ngài dạy cho, tôi xin kính nộp. Bất Vi giả cách giận nói rằng: - Tôi lấy lòng tốt mời điện hạ đến dự tiệc, đem thê thiếp ra mời để tỏ ý kính mến, nay điện hạ lại muốn cướp người yêu của tôi thì còn ra nghĩa lý gì. Dị Nhân hổ thẹn quá liền quì xuống nói rằng: - Tôi vì ở nơi đất khách buồn bã nghĩ lầm ra thế, đó cũng là lời nói rồ dại sau khi say rượu, xin ngài rộng lòng tha tội cho. Lã Bất Vi vội vàng đỡ dậy nói rằng: - Tôi vì điện hạ mưu tính đường về, cái gia sản nghìn vàng phá hết còn không tiếc, lẽ nào tôi lại tiếc một đứa con gái làm gì. Nhưng con bé ấy còn ít tuổi lại hay thẹn, sợ nó không nghe, nếu nó bằng lòng tôi xin kính dâng điện hạ để làm kẻ sửa túi nâng khăn. Dị Nhân hai lạy dập đầu, đợi Công tôn Kiền tỉnh rượu, rồi cùng lên xe trở về. Đêm ấy Bất Vi bảo Triệu Cơ rằng: - Vương tôn nước Tần lòng yêu nàng lắm, xin lấy nàng làm vợ, ý nàng thế nào? Triệu cơ nói: - Thiếp đã đem thân thờ chàng, và đã có mang thai, nỡ nào lại bỏ, bắt tôi phải thờ người khác. Bất Vi mật bảo rằng: - Nàng thờ tôi suốt đời, chẳng qua chỉ là vợ một anh lái buôn, vị Vương tôn ấy sau này sẽ có phận được làm vua Tần, nàng mà được yêu, tất làm vương hậu, may ra mà khối thịt trong bụng lúc sinh ra là con trai, tức là thái tử, thì tôi với nàng sẽ là cha mẹ vua Tần, đều được phú quí vô cùng, vậy nàng nên nghĩ tình vợ chồng, nén lòng theo như kế tôi, chớ nên tiết lậu. Triệu Cơ nói: - Việc của chàng mưu tính là việc lớn, thiếp cũng xin theo, nhưng mối tình ân ái vợ chồng, lòng nào mà nỡ dứt cho đang. Nói xong ứa nước mắt khóc. Bất Vi an ủi rằng: - Nếu nàng không quên chút tình cũ, mai sau chiếm được thiên hạ nhà Tần, vẫn làm vợ chồng không bao giờ rời nhau, há chẳng hay lắm ru. Hai người bèn đối trời cùng thề, rồi cùng đi ngủ, mối tình ân ái lại mặn nồng hơn những đêm xưa. Hôm sau Bất Vi đi đến công quán bảo Dị Nhân rằng: - Đội ơn điện hạ không hiềm đứa tiểu thiếp quê mùa, dùng làm kẻ hầu khăn lược, tôi phải dỗ mãi nó mới nghe, hôm nay tốt ngày, xin đưa đến ngụ sở để hầu hạ. Dị Nhân nói: - Tấm lòng cao nghĩa của tiên sinh, tôi dù nát xương cũng không thể báo đền. Công tôn Kiền nói: - Đã có cái lương duyên ấy, tôi xin đứng ra làm mối. Bèn sai người nhà làm tiệc mừng. Bất Vi cáo từ về, đến chiều dùng xe đưa Triệu Cơ đến cùng Dị Nhân thành thân. Dị Nhân lấy được Triệu Cơ như cá gặp nước, yêu mến lạ thường. Được hơn một tháng, Triệu Cơ bèn nói với Dị Nhân rằng: - Thiếp được hầu điện hạ, Trời cho nay đã có thai rồi. Dị Nhân không biết lai lịch, ngỡ là giọt máu của mình, nên vui sướng quá. Triệu Cơ đã có mang hai tháng rồi mới lấy Dị Nhân, sau đó 8 tháng thì vừa được mười tháng, đáng lẽ đến kỳ sinh nở thì phải, vậy mà vẫn không thấy chuyển động. Có lẽ Trời sinh ra một vị chân mệnh đế vương, nên khác thường, mãi đến lúc đúng 12 tháng mới sinh ra một đứa con trai, khi sinh có ánh sáng đỏ rực nhà, trăm thứ chim đều bay lượn múa. Đứa bé mũi to, mắt dài, trán rộng, mỗi mắt có hai con ngươi, trong miệng đã có vài cái răng, khóc rất to, ngoài đường cũng nghe tiếng. Dị Nhân cả mừng nói rằng: - Ta nghe các chân chúa sinh ra, tất có điềm lạ, thằng bé này cốt tướng khác thường, lại đẻ vào ngày mùng một tháng giêng, ngày sau tất cầm quyền chính cả thiên hạ. Bèn dùng họ Triệu Cơ gọi là Triệu Chính, về sau Chính nối ngôi làm vua Tần, kiêm tính sáu nước, tức là Tần Thủy Hoàng. Lã Bất Vi nghe tin Triệu Cơ sinh con trai, trong lòng mừng thầm cái kế của mình đã có kết quả. Năm Triệu Chính lên ba tuổi, quân Tần lại vây đánh thành Hàm Đan rất gấp. Bất Vi bảo Dị Nhân rằng: - Vua Triệu nếu lại giận lây đến điện hạ thì làm thế nào, chi bằng trốn về nước Tần có thể thoát được. Dị Nhân nói: - Việc này nhờ tiên sinh trù tính giúp. Lã Bất Vi bèn bỏ ra cả sáu trăm cân vàng, lấy ba trăm cân đút lót các quân tướng giữ thành cửa Nam nói rằng: - Tôi từ Dương Địch đem cả nhà đến đây buôn bán, không may gặp quân Tần kéo đến vây thành lâu ngày quá, tôi nhớ nhà lắm, nên đem hết tiền vốn chia cả cho các ngài, chỉ xin rộng lòng thả cho cả nhà ra khỏi thành để về Dương Địch, cả nhà tôi được đội ơn vô cùng. Các viên tướng bằng lòng cho, lại đem trăm cân vàng dâng Công tôn Kiền tỏ ý muốn trở về Dương Địch, nhờ Công tôn Kiền nói hộ với tướng giữ thành cho. Nói lót đã êm cả rồi, Bất Vi bảo Dị Nhân đem mẹ con Triệu Cơ mật gửi ở nhà người mẹ, hôm ấy làm rượu mời Công tôn Kiền, nói rằng: - Tôi chỉ trong ba ngày ra khỏi thành, gọi là có chén rượu để từ biệt. Khi uống rượu, Bất Vi cố ép để cho Công tôn Kiền uống thật say, các người tả hữu và quân lính đều được đãi nhiều rượu thịt, ăn uống tha hồ, no say rồi ai nấy đều đi nghỉ. Đến nửa đêm, Dị Nhân đổi lốt người thường lẩn vào trong đám đầy tớ, theo cha con Bất Vi đi ra cửa Nam, thủ tướng không biết thực giả, mở cửa cho ra khỏi cửa thành. Đại doanh Vương Hạt ở ngoài cửa Tây, vì cửa Nam là đường lớn đi về Dương Địch, Bất Vi nguyên nói là đi về làng, cho nên phải đi ra cửa Nam, ba người cùng bọn đầy tớ luôn ban đêm ra đi muốn tiến thẳng dinh quân Tần, đến lúc trời sáng, bị quân Tần đi tuần bắt được. Bất Vi chỉ vào Dị Nhân nói rằng: - Đây là Vương tôn nước Tần, bấy lâu làm con tin ở Triệu, nay trốn ra khỏi Hàm Đan chạy về bản quốc, các ngươi nên mau mau dẫn đường. Bọn lính tuần nhường ngựa cho ba người cưỡi, dẫn đến đại binh Vương Hạt. Vương Hạt hỏi rõ lý lịch rồi cho mời vào, lấy mũ áo cho Dị Nhân thay, đặt tiệc khoản đãi. Vương Hạt nói: - Đại vương thân đến đây đốc chiến, hành cung cách đây không đầy mười dặm. Tiệc xong, sai lấy xe ngựa đưa Dị Nhân đến hành cung. Vua Tần thấy Dị Nhân mừng quá, nói rằng: - Thái tử ngày đêm nhớ cháu, nay trời xui cháu ta được thoát khỏi miệng hùm, vậy cháu nên về Hàm Dương trước, để cho cha mẹ cháu mừng. Dị Nhân từ biệt vua Tần, cùng cha con Bất Vi lên xe đi về Hàm Dương. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 100 Lỗ Trọng Liên quyết không chịu tôn Tần Tín Lăng Quân trộm binh phù cứu Triệu Bấm để xem Lã Bất Vi cùng Dị Nhân về đến Hàm Dương, đã có người báo trước cho thái tử An Quốc Quân biết. An Quốc Quân bảo Hoa Dương phu nhân rằng: - Con ta đã về đến nơi. Rồi cùng phu nhân ngồi ở trong trung đường để đợi. Bất Vi bảo Dị Nhân rằng: - Hoa Dương phu nhân là con gái nước Sở, điện hạ đã làm con, nên dùng y phục người Sở vào chầu để tỏ lòng quyến luyến. Dị Nhân theo lời thay áo xong, đi vào Đông cung, trước lạy An Quốc Quân, rồi lạy phu nhân, khóc mà nói rằng: - Đứa con bất hiếu này, lâu cách hai thân, không được chầu hầu, cúi xin hai thân tha cho con cái tội bất hiếu ấy. Phu nhân thấy Dị Nhân đầu đội mũ phương Nam, chân đi giày da báo, áo ngắn đai da, lấy làm lạ hỏi: - Con ở Hàm Đan, sao lại bắt chước cách ăn mặc người Sở? Dị Nhân lạy nói rằng: - Đứa con bất hiếu này ngày đêm tưởng nhớ mẹ hiền, cho nên chế quần áo nước Sở mà mặc để tỏ lòng nhớ thương. Phu nhân cả mừng nói rằng: - Thiếp là người Sở, xin lấy nó làm con. An Quốc Quân nói: - Từ nay con nên đổi tên gọi là Tử Sở. Dị Nhân lạy tạ. An Quốc Quân hỏi Tử Sở làm sao trốn về được. Tử Sở đem việc vua Triệu muốn giết chết và việc Bất Vi phá của nhà để đút lót, kể hết một lượt. An Quốc Quân liền cho mời Bất Vi vào, an ủi rằng: - Không được tiên sinh, thì tôi mất đứa con hiền hiếu. Rồi lấy hai trăm mẫu ruộng bổng ở Đông cung và một tòa nhà, 50 cân vàng, tạm để chi tiêu về sự yên ở, đợi phụ vương về nước, gia tặng quan chức sau. Bất Vi tạ ơn lui ra, còn Tử Sở ở lại trong cung Hoa Dương phu nhân. Lại nói Công tôn Kiền đêm ấy mãi đến lúc gần sáng mới tỉnh rượu, các người tả hữu đến báo là cả nhà Vương tôn nước Tần không biết đi đâu, sai người đi hỏi Lã Bất Vi thì Bất Vi cũng đi rồi. Công tôn Kiền cả sợ nói rằng: - Bất Vi nói trong ba ngày mới đi, làm sao nửa đêm đã đi ngay! Rồi đi đến cửa Nam tra hỏi, thủ tướng đáp rằng gia quyến Bất Vi ra khỏi thành đã lâu, đó là họ vâng theo mệnh Công tôn Kiền. Công tôn Kiền nói: - Có thấy Vương tôn Dị Nhân không? Thủ tướng nói: - Chỉ thấy cha con họ Lã và mấy người đầy tớ, chứ không thấy có Dị Nhân. Công tôn Kiền dậm chân than rằng: - Trong bọn đầy tớ ấy tất có Dị Nhân, thôi ta mắc mưu thằng lái buôn rồi! Lập tức dâng biểu lên vua Triệu, thú tội là canh giữ không cẩn thận, để cho con tin nước Tần là Dị Nhân trốn mất, tội thực khôn tránh, rồi cầm gươm đâm cổ mà chết. Vua Tần từ khi Vương tôn Dị Nhân trốn về được, lại càng ra sức đánh Triệu. Vua Triệu lại sai sứ cầu Ngụy tiến binh, khách tướng quân là Tân Viên Diễn hiến kế rằng: - Tần sở dĩ gấp vây Triệu là có cớ, trước đây cùng Mân Vương nước Tề tranh nhau xưng đế rồi lại thôi; nay Mân Vương đã chết, Tề càng yếu, chỉ còn một mình Tần là hùng cường, mà chưa xưng đế, chắc lòng chưa hả. Ngày nay cứ đem quân lấn đánh mãi không thôi, ý riêng vua Tần là chỉ muốn cầu được làm đế mà thôi. Nay có thể khiến nước Triệu sai sứ đến xin tôn vua Tần làm đế, vua Tần tất mừng mà bãi binh, đó là lấy hư danh mà tránh khỏi thực họa vậy. Vua Ngụy vốn sợ việc cứu Triệu, nên cho kế ấy là rất phải, sai ngay Tân Viên Diễn theo sứ Triệu đi sang Hàm Đan, đem kế ấy nói với vua Triệu. Vua Triệu cùng quần thần bàn xem nên chăng thế nào, mỗi người mỗi ý, mãi không quyết định, Bình Nguyên Quân trong lòng bối rối, cũng không quyết định ra thế nào. Bấy giờ có người nước Tề là Lỗ Trọng Liên, năm 12 tuổi đã khuất phục được tay biện sĩ Điền Ba, người bấy giờ khen là "con ngựa non đi được nghìn dặm". Điền Ba nói: - Người ấy là con thỏ bay, há chỉ là con ngựa đi được nghìn dặm mà thôi ư? Khi lớn lên, không thích làm quan, chỉ thích đi chơi xa, vì người ta giải quyết những sự khó khăn bối rối. Bấy giờ Lỗ Trọng Liên cũng đang ở trong thành Hàm Đan nước Triệu, nghe sứ Ngụy đến xin tôn Tần làm đế, giận lắm, bèn đến yết kiến Bình Nguyên Quân nói rằng: - Người ngoài đường nói ngài sắp mưu tôn Tần làm đế, việc ấy có không? Bình Nguyên Quân nói: - Thắng này như con chim sợ cung, hồn phách đã lạc rồi, còn dám nói gì nữa, việc ấy là do vua Ngụy sai tướng quân Tân Viên Diễn sang nói đó thôi. Lỗ Trọng Liên nói: - Ngài là một vị hiền Công tử trong thiên hạ mà lại ủy thác sinh mệnh cho người khách nước Ngụy ấy ư? Bây giờ Tân Viên Diễn ở đâu, tôi xin vì ngài trách mà bắt hắn về. Bình Nguyên Quân bèn nói với Tân Viên Diễn, Diễn cũng vốn nghe tiếng Lỗ Trọng Liên, nhưng biết là người hùng biện, sợ làm rối mất cái kế ấy, từ chối tiếp kiến. Bình Nguyên Quân cố ép, bèn mời Lỗ Trọng Liên cùng đến công quán, cùng Diễn hội kiến. Diễn nhìn xem Lỗ Trọng Liên, thần thanh cốt sảng, có cái phong độ thần tiên, đem lòng kính trọng, nói rằng: - Tôi xem cái vẻ thanh cao của tiên sinh, chắc không phải cầu Bình Nguyên Quân điều gì, làm sao lại cứ ở mãi trong cái thành bị vây này mà không đi? Lỗ Trọng Liên nói: - Liên này không có cầu gì Bình Nguyên Quân, nhưng có điều muốn xin nói với tướng quân. Diễn nói: - Tiên sinh xin điều gì? Liên nói: - Xin giúp Triệu mà chớ tôn nước Tần làm đế. Diễn nói: - Tiên sinh lấy gì giúp Triệu? Liên nói: - Tôi sẽ khiến nước Ngụy cùng nước Yên giúp sức, còn Tề, Sở thì vẫn đã giúp rồi. Diễn cười nói rằng: - Yên thì không biết, còn Ngụy thì tôi đây là người Đại lương, tiên sinh làm gì mà có thể bắt tôi giúp Triệu? Liên nói: - Ngụy chưa thấy cái hại Tần xưng đế thế nào, nếu thấy rõ cái hại, thì tất là phải giúp Triệu. Diễn nói: - Tần xưng đế cái hại thế nào? Trọng Liên nói: - Tần là một nước bỏ lễ nghĩa mà chuộng công lợi, cậy sức mạnh, quen lừa dối, tàn hại sinh linh, nay nó cùng làm chư hầu mà còn như thế nếu nó lại xưng đế thì tất lại càng tàn nhẫn, Liên này thà nhảy xuống bể Đông mà chết, chứ không chịu làm dân nước ấy, vậy mà Ngụy lại cam làm kẻ dưới ư? Diễn nói: - Ngụy khi nào lại làm dưới, ví như mười tên đầy tớ mà theo một người, há phải trí lực không bằng chủ nhân đâu, chỉ là sợ đó thôi. Liên nói: - Ngụy lại coi mình như kẻ đầy tớ ư? Tôi sẽ khiến vua Tần mổ và làm mắm vua Ngụy! Diễn ra ý giận nói: - Tiên sinh lại có cách gì mà khiến được vua Tần mổ và làm mắm vua Ngụy? Liên nói: - Xưa kia, Quí Hầu, Ngạc Hầu, Văn Vương là ba vị đại thần của vua Trụ. Quí Hầu có người con gái đẹp đem dâng vua Trụ, người con gái không hiếu dâm nên bị vua Trụ giận, giết người con gái ấy và làm mắm Quí Hầu. Ngạc Hầu can, Trụ lại mổ luôn cả Ngạc Hầu. Văn Vương nghe tin chỉ than thở ngầm mà cũng bị Trụ giam vào Dữu Lý, suýt nữa bị giết. Nào phải hai vị đại thần ấy trí lực không bằng vua Trụ đâu, thiên tử đối với chư hầu, tất phải như thế. Tần đã xưng đế tất bắt Ngụy phải về triều, nếu lỡ ra mà Tần cũng tàn sát Ngụy như Trụ giết Quí Hầu, Ngạc Hầu, thì ai có thể cấm được. Tân Viên Diễn nghĩ ngợi chưa đáp. Liên lại nói: - Không những thế, Tần mà xưng đế, tất lại thay đổi các đại thần của chư hầu, đuổi người ghét đi mà dựng người yêu lên, lại sẽ đem con gái và thiếp làm vợ các vua chư hầu, vua Ngụy chắc có được yên ổn mà ở ngôi không? Ngay như tướng quân có thể còn giữ được tước lộc không? Tân Viên Diễn bèn đứng dậy, vái hai vái nói rằng: - Tiên sinh thực là bậc thiên hạ sĩ vậy, Diễn xin về tâu với quả quân, từ nay không dám lại nói đến việc tôn Tần làm đế nữa. Vua Tần nghe tin sứ Ngụy đến bàn việc tôn Tần làm đế mừng lắm, hoãn việc đánh thành để đợi xem, đến khi nghe nghị ấy không thành, sứ Ngụy đã đi, than rằng: - Trong cái thành bị vây này còn có người giỏi, không nên khinh thường. Bèn lui quân đóng ở Phần Thủy, dặn Vương Hạt phải lưu tâm phòng giữ. Lại nói sau khi Tân Viên Diễn đi rồi, Bình Nguyên Quân lại sai người đến Nghiệp Hạ cầu cứu với Tấn Bỉ. Bỉ lấy mệnh vua mà từ chối, Bình Nguyên Quân bèn gửi thư cho Tín Lăng Quân Vô Kỵ, nói rằng: "Thắng này sở dĩ kết nghĩa hôn nhân với Công tử, là nghĩ Công tử có lòng cao nghĩa hay cứu giúp sự khốn ách cho người. Nay thành Hàm Đan sắp phải hàng Tần, mà quân cứu Ngụy không đến, như vậy Thắng này còn trông cậy người thân về nỗi gì. Lệnh tỉ lo thành phá, ngày đêm thương khóc, Công tử dù chẳng nghĩ đến Thắng thì chớ, nhưng lại không nghĩ đến chị ư?" Tín Lăng Quân sau khi được bức thư ấy, nói luôn với vua Ngụy xin bảo Tấn Bỉ tiến binh, vua Ngụy nói: - Nước Triệu không chịu tôn Tần làm đế, lại muốn nhờ sức người khác để lui quân Tần ư? Nói rồi, quyết ý không cho, Tín Lăng Quân lại sai tân khách biện sĩ, dùng trăm cách nói khéo, vua Ngụy vẫn khăng khăng không nghe. Tín Lăng Quân nói: - Cái nghĩa ta không thể phụ Bình Nguyên Quân được, ta thà một mình sang Triệu cùng Bình Nguyên Quân chết. Rồi sắp sửa hơn trăm cỗ xe, ước với các tân khách, muốn thẳng phạm quân Tần, để chết theo Bình Nguyên Quân. Tân khách xin đi theo hơn nghìn người. Đi qua Di Môn cùng Hầu Sinh từ biệt, Hầu Sinh nói: - Công tử cố lên, tôi già rồi không thể đi theo được, xin chớ trách. Tín Lăng Quân luôn luôn nhìn Hầu Sinh, Hầu Sinh không nói gì cả. Tín Lăng Quân buồn bực mà đi, chừng được hơn mười dặm, nghĩ thầm: "Ta đãi Hầu Sinh có thể nói là hết lễ, nay ta đi sang quân Tần là đi vào chỗ chết, mà Hầu Sinh tuyệt không nói được một câu hay nửa lời để vì ta mưu tính, lại không ngăn trở ta đi, đáng lấy làm lạ quá". Nghĩ vậy rồi bảo tân khách hãy dừng lại, một mình quay xe trở về yết kiến Hầu Sinh. Tân khách đều nói: - Cái lão già gần chết ấy đã tỏ ra là đồ vô dụng, Công tử còn đến làm gì nữa. Tín Lăng Quân không nghe. Đến nơi đã thấy Hầu Sinh đứng ở ngoài cửa cười nói rằng: - Doanh này chắc là thế nào Công tử cũng trở lại mà. Tín Lăng Quân hỏi: - Sao tiên sinh lại biết là tôi trở lại? Hầu Sinh nói: - Công tử đãi tôi hậu, nay Công tử đi vào nơi nguy hiểm, mà tôi không đi tiễn, tất là giận tôi, cho nên tôi biết là Công tử tất trở lại. Tín Lăng Quân vái hai vái nói rằng: - Lúc đầu Vô Kỵ ngỡ là có điều gì lỗi với tiên sinh, nên bị ghét bỏ, cho nên phải trở lại để xin cho biết là vì cớ gì. Hầu Sinh nói: - Công tử nuôi khách vài mươi năm nay, chưa nghe một người khách nào nghĩ ra một cái kỳ kế gì, mà chỉ biết cùng Công tử đi vào quân Tần, khác gì đem thịt cho hổ đói, có ích gì không? Tín Lăng Quân nói: - Vô Kỵ này vẫn biết là vô ích, nhưng nghĩ cùng Bình Nguyên Quân là chỗ thân, nghĩa không thể sống một mình, nay tiên sinh có kế gì giúp cho được không? Hầu Sinh nói: - Mời Công tử hãy vào ngồi, để lão thần nghĩ kế. Bèn đuổi các người theo hầu ra ngoài, hỏi nhỏ rằng: - Nghe nói nàng Như Cơ được vua Ngụy yêu lắm phải không? Tín Lăng Quân nói: - Phải. Hầu Sinh nói: - Doanh này lại nghe người cha nàng Như Cơ năm xưa bị người giết, Như Cơ nói với vua muốn báo thù cha, cầu người thù ba năm không được, sau Công tử có sai khách chém đầu người thù ấy để dâng Như Cơ, việc ấy có quả thế không? Tín Lăng Quân nói: - Quả có việc ấy. Hầu Sinh nói: - Như Cơ cảm ơn Công tử, muốn vì Công tử mà chết kể đã từ bao nhiêu ngày rồi. Nay cái binh phù của Tấn Bỉ ở trong chỗ vua nằm, chỉ có Như Cơ có thể lấy trộm được. Công tử nếu chịu khó nói xin với Như Cơ, Như Cơ tất nghe theo. Công tử được cái binh phù ấy, có thể được binh quyền của Tấn Bỉ để cứu Triệu mà lui quân Tần, đó là cái công của năm tước bá ngày xưa vậy. Tín Lăng Quân nghe nói như người ngủ mê mới tỉnh, hai lạy tạ ơn, rồi sai tân khách hãy đợi cả ở ngoài thành, một mình quay xe về nhà, sai một tên nội thị là Nhan Ân đem việc lấy trộm binh phù xin riêng với Như Cơ, Như Cơ nói: - Công tử đã xin đến, dù nguy hiểm thế nào thiếp cũng không dám từ. Đêm ấy vua Ngụy uống rượu ngủ say. Như Cơ liền lấy trộm cái hổ phù giao cho Nhan Ân, chuyển đưa cho Tín Lăng Quân. Tín Lăng Quân đã được cái binh phù, lại đến hỏi Hầu Sinh, Hầu Sinh nói: - Làm đại tướng ở bên ngoài, dù là mệnh vua không nghe cũng được. Công tử khi đã hợp phù rồi mà Tấn Bỉ không tin, chực tâu lại với vua Ngụy thì việc hỏng mất. Tôi có người khách tên Chu Hợi là tay lực sĩ, Công tử nên đem hắn cùng đi. Tấn Bỉ nghe thì hay lắm, nếu không nghe thì sai Chu Hợi đánh chết đi. Tín Lăng Quân bỗng chảy nước mắt khóc. Hầu Sinh nói: - Công tử sợ chăng? Tín Lăng Quân nói: - Tấn Bỉ là lão tướng không có tội gì, nếu không nghe mà phải chết thì tôi nghĩ thương, chứ không có sợ gì cả. Nói rồi cùng Hầu Sinh đi đến nhà Chu Hợi, nói rõ sự tình. Chu Hợi nói: - Tôi là một đứa hàng thịt hèn mạt, đội ơn Công tử thời thường hạ cố, sở dĩ không báo ơn lại, là cho rằng cái lễ nhỏ chẳng làm gì, nay Công tử có việc khẩn cấp, chính là cái ngày Hợi này phải hiến thân. Hầu Sinh nói: - Đáng lẽ tôi phải theo đi, nhưng vì tuổi già không thể đi xa được, xin lấy hồn tiễn Công tử. Dứt lời liền đâm cổ chết ở trước xe. Tín Lăng Quân thương xót quá, hậu cấp cho nhà Hầu Sinh, để chi về việc chôn cất, rồi lập tức cùng Chu Hợi lên xe đi. Lại nói vua Ngụy mất cái binh phù ở trong phòng ngủ, sau ba ngày mới biết, lấy làm lạ quá, hỏi Như Cơ, Như Cơ chỉ nói là không biết. Sai tìm khắp trong cung chẳng thấy đâu cả, sai Nhan Ân đem những cung nga nội thị xem những đứa nào hầu ở nội tẩm, đánh tra từng đứa, Nhan Ân chỉ giả vờ tra hỏi qua loa. Lại qua một ngày nữa, vua Ngụy mới sực nhớ ra Công tử Vô Kỵ thường hết lời khuyên hạ lệnh cho Tấn Bỉ tiến binh, những khách ở nhà hắn, có nhiều kẻ giỏi nghề trộm cắp, vậy việc này tất là hắn làm, chứ không còn ai nữa. Rồi lập tức cho triệu Tín Lăng Quân, người về báo là bốn năm ngày trước, đã cùng hơn nghìn tân khách và trăm cỗ xe đi ra ngoài thành, nghe nói là đi cứu Triệu. Vua Ngụy giận quá, lập tức sai tướng quân Vệ Khánh mang ba nghìn quân luôn ban đêm đuổi theo Tín Lăng Quân. Lại nói trong thành Hàm Đan mong mỏi quân cứu, chẳng thấy nước nào đến cứu cả, nhân dân sức đã kiệt rồi, lao nhao bàn muốn ra hàng, vua Triệu lo quá, có con người truyền xá lại tên là Lý Đồng bảo Bình Nguyên Quân rằng: - Nhân dân ngày ngày phải ở trên mặt thành canh giữ, mà ngài yên hưởng giàu sang, thì ai còn chịu vì ngài ra sức nữa. Nếu ngài có thể bắt từ phu nhân trở xuống, đem ghép vào hàng ngũ, chia việc mà làm, trong nhà có bao nhiêu tiền lụa, đem hết cho các tướng sĩ, tướng sĩ đang ở trong cơn nguy khổ, dễ biết cám ơn, tất lại càng ra sức chống cự quân Tần. Bình Nguyên Quân nghe theo như lời, lại mộ được hơn ba nghìn cảm tử, sai Lý Đồng thống suất dòng dây qua thành mà ra, nhân lúc đêm đến cướp dinh, giết được hơn nghìn quân Tần. Vương Hạt sợ quá, phải lui ra ngoài 30 dặm hạ trại, bấy giờ người trong thành mới hơi được yên tâm, Lý Đồng mình bị trọng thương, về đến trong thành thì chết, Bình Nguyên Quân thương khóc sai chôn cất tử tế. Lại nói Tín Lăng Quân đi đến Nghiệp Hạ, vào yết kiến Tấn Bỉ, nói rằng: - Đại vương nghĩ tướng quân dầu dãi ở bên ngoài đã lâu ngày nên sai Vô Kỵ đến để thay chịu sự khó nhọc. Rồi sai Chu Hợi đem cái binh phù đưa Tấn Bỉ cùng nghiệm. Tấn Bỉ cầm binh phù ở tay nghĩ thầm: "Vua Ngụy đem mười vạn quân giao cho ta, ta dù hèn, nhưng chưa có tội phải thua trận, nay vua Ngụy chẳng có thư từ gì, mà Công tử chỉ tay không mang cái binh phù đến đòi thay ta, việc này không thể vội tin được". Nghĩ vậy bèn bảo Tín Lăng Quân rằng: - Công tử hãy tạm dừng lại đây vài ngày, đợi tôi đem quân ngũ lập thành sổ sách, bàn giao rõ ràng có được không? Tín Lăng Quân nói: - Thành Hàm Đan tình thế rất nguy, phải lập tức phò cứu, lẽ nào lại còn dừng lại được. Tấn Bỉ nói: - Thực không dám nói dối, vì việc này là quân cơ đại sự để tôi còn phải tâu xin đại vương, rồi mới dám ra quân. Nói chưa dứt lời, Chu Hợi thét nói rằng: - Nguyên súy không vâng mệnh vua, là có ý làm phản. Tấn Bỉ vừa hỏi được một câu "Mày là đứa nào?" thì Chu Hợi đã lấy trong tay áo ra một cái dùi sắt nặng 40 cân, nhằm đánh một cái vào đầu Tấn Bỉ, sọ vỡ, óc lòi ra, chết ngay lập tức. Tín Lăng Quân cầm binh phù bảo chư tướng rằng: - Vua Ngụy có mệnh, sai tôi thay Tấn Bỉ đem quân cứu Triệu. Tấn Bỉ không vâng mệnh, nay đã bị giết chết, ba quân yên lòng nghe lệnh không được vọng động. Trong dinh im lặng, tới khi Vệ Khánh theo đến Nghiệp Hạ, Tín Lăng Quân đã giết Tấn Bỉ giữ lấy binh quyền rồi. Vệ Khánh biết là Tín Lăng Quân đã quyết chí cứu Triệu, muốn cáo từ ra về. Tín Lăng Quân nói: - Nhà ngươi đã đến đây, chờ sau khi ta phá được quân Tần, hãy trở về tâu với đại vương. Vệ Khánh phải nghe lời, sai người về trước mật báo với vua Ngụy, còn mình ở lại trong quân. Tín Lăng Quân đại khao ba quân, lại hạ lệnh rằng cha con cùng ở trong quân thì cha về, anh em cùng ở trong quân thì anh về, con một không có anh em thì cho về nuôi cha mẹ, có tật bệnh thì được ở lại trong dinh chữa thuốc. Theo như lệnh ấy, số người cáo về chừng hai phần mười, còn được tám vạn tinh binh, chỉnh tề bộ ngũ, định rõ quân pháp. Tín Lăng Quân thân suất các tân khách đi trước sĩ tốt, tiến đánh dinh quân Tần. Vương Hạt không ngờ quân Ngụy chợt tiến đến, thảng thốt chống đánh. Quân Ngụy hăng hái tiến lên, Bình Nguyên Quân cũng mở cửa thành tiếp ứng, một trường đại chiến, dậy đất vang trời. Vương Hạt tổn hại quân lính đến một nửa, chạy đến đại doanh Phần Thủy, vua Tần truyền lệnh giải vây mà đi. Trịnh An Bình đốc suất hai vạn quân dàn đóng ở cửa Đông, bị quân Ngụy ngăn lối không về được, nghĩ mình vốn là người Ngụy, bèn đầu hàng quân Ngụy. Xuân Thân Quân nghe quân Tần đã giải vây cũng rút quân về. Vua Hàn thừa cơ lấy lại thành Thượng Đảng. Vua Triệu thân mang trâu rượu để khao quân, lạy tạ Tín Lăng Quân và nói rằng: - Nước Triệu mất mà lại còn là nhờ ở sức Công tử. Bình Nguyên Quân cắp nỏ làm quân tiền khu cho Tín Lăng Quân, Tín Lăng Quân hơi có dáng cậy công. Chu Hợi nói: - Người có ơn với Công tử, Công tử chớ nên quên, Công tử có ơn với người, Công tử phải nên quên vậy. Công tử kiểu mệnh vua, cướp quân của Tấn Bỉ để đi cứu Triệu, đối với Triệu dẫu có công mà đối với Ngụy lại là có tội, Công tử lại còn tự lấy làm công ư? Tín Lăng Quân cả thẹn nói rằng: - Vô Kỵ này xin kính vâng lời dạy. Khi vào đến trong thành Hàm Đan, vua Triệu thân quét dọn cung thất để đón Tín Lăng Quân, giữ lễ chủ nhân rất cung kính, rót rượu chúc mừng, ca tụng cái công giữ còn nước Triệu, rồi đem đất Hoắc phong cho Vô Kỵ làm đất ăn lộc. Vô Kỵ nghĩ mình mắc tội với vua Ngụy, không dám về nước, đem binh phù giao cho Vệ Khánh đốc quân về Ngụy, còn mình ở lại nước Triệu. Vua Triệu lại phong cho Lỗ Trọng Liên lấy ấp lớn. Trọng Liên cố từ, cho nghìn cân vàng cũng không nhận, nói rằng: - Nếu được giàu sang mà phải khuất với người, thà cam bần tiện lại còn được tự do. Tín Lăng Quân và Bình Nguyên Quân cùng lưu lại, Trọng Liên không nghe rồi bỏ đi. Bấy giờ nước Triệu có hai người xử sĩ. Mao Công ẩn thân trong bọn đánh bạc, Tiết Công ẩn thân trong nhà bán rượu. Tín Lăng Quân vốn nghe tiếng hiền, sai Chu Hợi đến hỏi thăm, hai người tránh mặt không tiếp. Bỗng một hôm Tín Lăng Quân dò theo hai người biết Mao Công ở nhà Tiết Công, không dùng xe ngựa, chỉ đem một mình Chu Hợi đi theo, ăn mặc như người thường đi, bộ giả làm người bán rượu đi thẳng đến nơi cùng hai người giáp mặt. Hai người đang cùng ngồi uống rượu, Tín Lăng Quân đi thẳng vào nói họ tên và tỏ ý hâm mộ bấy lâu. Hai người chạy tránh không kịp, đành phải tiếp kiến, rồi bốn người cùng uống rượu, hết sức vui say mới tan. Từ đó Tín Lăng Quân thời thường cùng chơi với Tiết Công, Mao Công. Bình Nguyên Quân nghe nói bảo phu nhân rằng: - Tôi nghe lệnh đệ là bậc hào kiệt, trong đám Công tử không ai bằng, ngày nay lại chơi bời với thằng đánh bạc và thằng bán rượu, chơi không phải bậc với mình, e có hại cho danh dự. Phu nhân đem lời ấy bảo Tín Lăng Quân. Tín Lăng Quân nói: - Tôi vốn cho Bình Nguyên Quân là người hiền, nên cam phụ vua Ngụy, mang quân đến cứu, nay xem ra Bình Nguyên Quân giao tiếp những tân khách chỉ chuộng những người hào hoa, không cần hiền sĩ. Vô Kỵ này khi ở Ngụy, vẫn nghe Triệu có Mao Công, Tiết Công, tiếc không được cùng chơi. Ngày nay được gặp mặt dù nhún mình chưa chắc người ta đã thèm chơi với mình, mà Bình Nguyên Quân lấy làm xấu hổ, sao gọi là biết yêu kẻ sĩ được. Bình Nguyên Quân không phải là người hiền, ta không nên ở nữa. Ngay ngày hôm ấy, bảo các tân khách sắp sửa hành trang đi sang nước khác. Bình Nguyên Quân nghe tin và hỏi rõ nguyên cớ, tự trách mình là nước Triệu có hai người hiền, Tín Lăng Quân biết mà mình không biết, thực kém Tín Lăng Quân. Rồi tự đi đến quí xá xin lỗi, Tín Lăng Quân lại ở lại nước Triệu. Lại nói vua Ngụy tiếp được mật báo của Vệ Khánh, nói Công tử Vô Kỵ lấy trộm binh phù, giết chết Tấn Bỉ, tự cầm quân đi cứu Triệu và giữ Vệ Khánh ở trong quân không cho về nước. Vua Ngụy giận quá, muốn bắt hết cả gia quyến Tín Lăng Quân và giết hết những tân khách của Tín Lăng Quân hiện còn ở trong nước. Như Cơ bèn quì xin rằng: - Đó không phải là tội Công tử, chính là tội tiện thiếp này, tội thiếp thực đáng chết. Vua Ngụy gầm thét cả giận hỏi rằng: - Kẻ lấy trộm binh phù lại chính là mày ư? Như Cơ nói: - Cha thiếp bị người giết chết, đại vương làm vua một nước, không thể vì thiếp báo thù mà Công tử báo cho được, thiếp cảm cái ân sâu ấy, giận không có dịp gì để báo đền. Nay thấy Công tử vì cớ thương chị, ngày đêm lo buồn, tiện thiếp không nỡ, cho nên cả gan lấy trộm binh phù giao cho Công tử để được thay Tấn Bỉ cầm quân đi cứu Triệu. Ngụy với Triệu cũng như người trong một nhà, hoạn nạn nên cứu giúp cho. Đại vương quên cái nghĩa ngày xưa, mà Công tử biết cứu nạn cho người cùng nhà, nếu may mà đánh được quân Tần, giữ được nước Triệu, uy danh của đại vương lừng lẫu khắp mọi nơi, thiếp đây dù phải phân thây làm muôn đoạn cũng được vui lòng. Nay nếu bắt hết gia quyến và giết hết tân khách của Tín Lăng Quân, Tín Lăng mà thua thì cam chịu tội, may mà thắng trận thì đại vương xử trí thế nào? Vua Ngụy ngẫm nghĩ hồi lâu, hơi nguôi cơn giận, hỏi rằng: - Mày dù lấy trộm binh phù, nhưng tất có kẻ đem đi? Như Cơ nói: - Kẻ đem đi là Nhan Ân. Vua Ngụy sai tả hữu trói Nhan Ân giải đến, hỏi rằng: - Sao mày dám đem binh phù đưa cho Tín Lăng Quân? Nhan Ân nói: - Kẻ nô tỳ này chẳng biết cái gì là binh phù cả. Như Cơ nhìn Nhan Ân nói rằng: - Hôm trước ta sai mày đem hộp hoa thêu ra cho Tín Lăng Quân phu nhân, trong hộp đựng có cái binh phù đấy. Nhan Ân hiểu ý, liền khóc òa lên, nói rằng: - Phu nhân sai bảo gì, khi nào tôi dám không tuân, tôi thấy cái hộp gói bọc mấy lần rất kỹ, vẫn tưởng là hộp hoa, ai ngờ ở trong lại đựng cái của ấy, thực là phu nhân làm cho tôi phải chết oan. Như Cơ cũng khóc nói rằng: - Thiếp có tội xin một mình cam chịu, xin chớ làm lụy đến người khác. Vua Ngụy thét cởi trói cho Nhan Ân, bắt giam vào ngục, còn Như Cơ đày vào hậu cung, một mặt sai người dò tin tức Tín Lăng Quân, được thua, sẽ lại định đoạt. Được hơn hai tháng, Vệ Khánh đem quân về triều, dâng nộp binh phù tâu rằng: - Tín Lăng Quân đại thắng quân Tần, không dám về nước, ở lại nước Triệu, gửi lời về tâu đại vương, ngày khác sẽ về nhận tội. Vua Ngụy hỏi tình hình giao binh. Vệ Khánh thuật hết một lượt, quần thần đều la bái hô vạn tuế, vua Ngụy cả mừng, liền truyền tha Như Cơ ra khỏi lãnh cung, tha Nhan Ân ra khỏi ngục, đều tha tội cho. Như Cơ tạ ân xong, tâu rằng: - Cứu Triệu thành công, khiến nước Tần phải sợ oai đại vương, vua Triệu phải mang ân đại vương, đều là công của Tín Lăng Quân. Tín Lăng Quân là trường thành của nước, là tôn khí của nhà, há nên bỏ để ở nước ngoài, xin đại vương sai sứ triệu về bản quốc, một là để tỏ tình yêu người thân, hai là tỏ nghĩa tôn người hiền. Vua Ngụy nói: - Hắn được miễn tội đã là đủ, lại còn dám kể công ư? Rồi phân phó những bổng lộc ở ấp phong của Tín Lăng Quân, lại giao trả cho gia quyến chi dùng, chứ không cho đón về nước. Lại nói vua Tần thua trận về nước, thái tử An Quốc Quân đem Vương tôn Tử Sở ra đón ở ngoài thành, đều tâu Lã Bất Vi là người hiền, vua Tần phong làm khách khanh, cấp cho ăn lộc nghìn nóc nhà. Vua Tần nghe Trịnh An Bình hàng Ngụy, cả giận, bắt giết cả họ. Trịnh An Bình là người của thừa tướng Phạm Chuy tiến cử. Phép nước Tần hễ ai tiến người không ra gì, thì cũng phải chịu tội như người được tiến cử, nay Trịnh An Bình phản Tần hàng Ngụy, đã phải giết cả họ rồi, theo như phép nước, Phạm Chuy tất phải đồng tội. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 101 Tần Vương diệt Chu dời chín đỉnh Liêm Pha bại Yên chém hai tướng Bấm để xem Lại nói Trịnh An Bình đã đem quân hàng Ngụy, thừa tướng Phạm Chuy là người tiến cử, theo phép tất phải cùng tội. Không đợi hỏi đến, Phạm Chuy liền ra xin chịu trước. Vua Tần nói: - Dùng An Bình là do ý quả nhân, không can hệ gì đến thừa tướng. Rồi lại an ủi Phạm Chuy hai ba lần, vẫn cho được làm thừa tướng như cũ. Quần thần bàn nói lao nhao. Vua Tần sợ Phạm Chuy áy náy không yên, bèn hạ lệnh cho người trong nước rằng: - Trịnh An Bình có tội nên cả họ đã bị giết rồi, nếu ai còn nói đến việc ấy lập tức chém đầu. Người trong nước không ai còn dám nói đến việc ấy nữa. Vua Tần ban cho Phạm Chuy các thức ăn, lại hậu hơn trước. Phạm Chuy lấy làm ngượng lắm, muốn lấy lòng vua Tần, bèn xui vua Tần diệt Chu xưng đế. Vua Tần bèn sai Trương Đường làm đại tướng đi đánh Hàn, muốn trước lấy Dương Thành để thông đường Tam Xuyên. Lúc ấy vua Sở nghe Tín Lăng Quân đại phá được quân Tần, Xuân Thân Quân Hoàng Yết kéo quân trở về không, than rằng: - Cái mưu hợp tung của Bình Nguyên Quân không phải là nói bậy, quả nhân nếu được Tín Lăng Quân làm tướng thì còn lo gì Tần. Xuân Thân Quân có dáng thẹn, bèn nói rằng: - Cái nghị hợp tung, trước kia, đại vương làm trưởng, nay quân Tần mới thua, khí thế tất nhục, đại vương nếu sai sứ đi ước hội các nước hợp lực đánh Tần, lại tôn vua nhà Chu là chủ, đem thiên tử để sai khiến chư hầu, đó tức là cái cơ nghiệp của năm đời bá vậy. Vua Sở cả mừng, bèn sai sứ đến nhà Chu, đem việc đánh Tần bảo Noãn Vương. Noãn Vương nghe tin vua Tần có ý đánh Chu, nay nếu lại đánh Tần trước, thì còn gì hay bằng, nên nghe theo ngay. Vua Sở bèn cùng năm nước định tung ước, định kỳ cùng cất quân. Bấy giờ các vua nhà Chu đã hèn yếu, dẫu ở ngôi thiên tử, mà chỉ có cái tiếng không, chẳng thể sai bảo được chư hầu; lại từ khi Hàn, Triệu chia đất Chu làm Tây Chu và Đông Chu, sai hai Chu Công cai trị. Noãn Vương lúc ấy ở nhà Tây Chu Công, chẳng có quyền thế gì, muốn cất quân đánh Tần, sai Tây Chu Công ghép dân đinh vào hàng ngũ, chỉ được có năm sáu nghìn người, lại không có xe ngựa, bèn đi hỏi những dân giàu có tiền ở trong nước cho vay để làm quân phí, lập khoán hẹn đến ngày ban sư sẽ trả lại. Tây Chu Công tự làm tướng, đóng quân ở Y Khuyết để đợi quân chư hầu. Bấy giờ nước Hàn đang bị Tần đánh, tự lo không rỗi; Triệu mới giải vây, cơn sợ trước chưa hết; còn Tề cùng Tần thông hiếu, không muốn cộng sự; chỉ có tướng Yên là Nhạc Gian, tướng Sở là Cảnh Dương đều dẫn một đạo quân đến trước, đóng dinh trại một chỗ để trông ngóng các nước kia. Vua Tần nghe các nước không đồng tâm với nhau, không có ý tiến thủ, lại thêm quân giúp cho Trương Đường đánh hạ Dương Thành, lại sai đại tướng Doanh Cù đem mười vạn quân ra dương oai ở ngoài cửa Hàm Cốc. Quân Yên, Sở đóng lại chừng ba tháng, thấy quân các nước kia không đến, đều chán nản rồi cùng rút về, Tây Chu Công cũng kéo quân về. Noãn Vương một phen ra quân, chỉ phí tổn không mà chẳng được lợi gì, các dân giàu đều mang khoán đến đòi nợ, ngày ngày kéo đến chật ních cả cửa cung, tiếng nói ồn ào lọt vào tận nội tẩm. Noãn Vương thẹn quá không biết làm thế nào, bèn tránh lên trên đài cao, người sau nhân thế đặt tên đài ấy gọi là "Tị Trái Đài", nghĩa là đài trốn nợ. Lại nói vua Tần nghe quân Sở, Yên tan về, liền sai Doanh Cù và Trương Đường hợp binh lại tiến đánh Tây Chu. Noãn Vương quân lương đều thiếu, không thể chống giữ được, muốn chạy sang Tam Tấn. Tây Chu Công nói: - Xưa kia thái sử Thiềm nói Chu, Tần năm trăm năm thì hợp, sẽ có vị bá vương ra, nay đã đến lúc rồi, Tần có cái thế thống nhất được thiên hạ, Tam Tấn chẳng bao lâu cũng về tay Tần, vua chớ nên lại mua thêm cái nhục nữa, chi bằng dâng đất tự về với Tần, lại còn được đất phong để giữ sự cúng tế. Noãn Vương không biết làm thế nào, bèn đem quần thần và con cháu đến khóc ở miếu hai vua Văn Võ. Sau ba ngày, mang địa đồ thân đến dinh quân Tần lạy dâng, xin bó mình về Hàm Dương. Doanh Cù nhận đất cộng 36 thành, ba vạn nhà. Thế là đất Tây Chu thuộc về Tần cả, chỉ còn có Đông Chu. Doanh Cù sai Trương Đường hộ tống vua tôi con cháu Noãn Vương về Tần để tấu tiệp, rồi dẫn quân vào thành Lạc Dương, kinh lược địa giới. Noãn Vương yết kiến vua Tần, dập đầu tạ tội, vua Tần có ý thương, phong cho đất Lương Thành, giáng làm Chu Công, nhưng Noãn Vương vì tuổi già sức yếu, phải thường đi lại triều yết vua Tần, không chịu nổi khó nhọc, đến Lương Thành được hơn một tháng thì chết. Vua Tần liền lấy lại đất phong ấy, lại sai Doanh Cù đem đinh tráng ở Lạc Dương phá hủy tôn miếu nhà Chu, chở các tế khí, lại vận chín cái bảo đỉnh đem về Hàm Dương. Dân nhà Chu không muốn theo Tần, đều chạy đến Củng Thành, nương nhờ Đông Chu công ở lại đó, tỏ ra lòng người không quên nhà Chu vậy. Trước khi dời đỉnh một ngày, cư dân nghe trong đỉnh có tiếng khóc, khi chở về đến sông Tứ Thủy, một cái đỉnh từ trong thuyền nhảy ra chìm xuống đáy nước. Doanh Cù sai người lặn xuống mò tìm không thấy cái đỉnh ấy đâu cả, chỉ thấy con rồng xanh nổi lên, một lát sau sóng gió ầm ầm, người trong thuyền sợ quá, không dám xúc phạm. Đêm ấy Doanh Cù mộng thấy vua Vũ Vương nhà Chu ngồi ở nhà thái miếu, đòi Cù đến mắng rằng: - Làm sao mày lại dám dời trọng khí của ta, hủy tôn miếu của ta? Rồi sai tả hữu đánh vào lưng ba trăm roi. Doanh tỉnh dậy, liền thấy mọc cái nhọt ở lưng, mang bệnh về Tần, đem tám cái đỉnh nộp vua Tần và tâu rõ sự tình. Vua Tần xét xem cái đỉnh mất ấy lại là cái đỉnh thuộc về Dự Châu, than rằng: - Đất đều đã thuộc Tần, riêng cái đỉnh ấy lại không theo quả nhân ư? Nói rồi toan phái nhiều lính và phu đến chỗ đỉnh chìm để mò tìm. Doanh Cù can rằng: - Thần vật ấy có thiêng chớ nên tìm nữa. Vua Tần bèn thôi. Doanh Cù bị đau nhọt rồi chết. Vua Tần đem tám cái đỉnh và các tế khí bày ở trong thái miếu nhà Tần, rồi bố cáo cho các nước biết, đều bắt phải đến triều cống, nước nào không đến thì đem quân đánh. Vua nước Hàn bắt đầu vào chầu trước, dập đầu xưng thần. Tề, Sở, Yên, Triệu đều sai tướng quốc đến làm con tin, duy sứ giả nước Ngụy chưa thấy đến, vua Tần bèn sai Vương Kê mang quân đánh Ngụy. Vương Kê tiết lộ việc ấy cho Ngụy biết. Vua Ngụy nghe tin sợ quá, vội sai sứ đến tạ tội, rồi cũng sai thái tử Tăng sang làm con tin ở Tần xin theo mệnh lệnh. Từ đó sáu nước đều thần phục Tần. Vua Tần xét đến việc tư thông với nước Ngụy, đòi Vương Kê đến giết chết, thừa tướng Phạm Chuy thấy thế lại càng áy náy không yên. Một hôm vua Tần đang coi chầu, bỗng thở dài. Phạm Chuy nói: - Người xưa nói: "Vua lo thì tôi phải nhục, vua nhục thì tôi phải chết". Nay đại vương coi chầu mà thở dài, đó là vì chúng tôi không làm hết chức trách, không thể vì đại vương chia lo, vậy tôi xin chịu tội! Vua Tần nói: - Các việc không dự bị sẵn sàng, thì không thể ứng phó kịp trong lúc phải dùng đến, nay Võ An Quân đã bị giết, Trịnh An Bình lại làm phản, ngoài nhiều cường địch mà trong không có lương tướng vì thế quả nhân lấy làm lo. Phạm Chuy vừa sợ vừa thẹn, không dám nói gì rồi lui ra. Bấy giờ có người nước Yên tên là Thái Trạch, học rộng nói giỏi, tự phụ tài cao, cưỡi cái xe nát đi du thuyết chư hầu mà chẳng nước nào dùng, đi đến Đại Lương gặp một người thầy tướng giỏi là Đường Cử, hỏi rằng: - Tôi nghe nói tiên sinh từng xem tướng cho Lý Đoái nước Triệu, nói trong hạn trăm ngày cầm được quyền chính, có không? Đường Cử nói: - Có. Thái Trạch lại hỏi: - Như tôi đây, tiên sinh cho là thế nào? Đường Cử nhìn kỹ rồi mỉm cười nói rằng: - Tiên sinh mũi như con rết, vai cao hơn đầu, trán nhăn mày cao, hai chân khuỳnh khuỳnh, tôi nghe thánh nhân không cần xem tướng nữa, là tiên sinh! Thái Trạch biết là Đường Cử chế nhạo mình, nói rằng: - Phú quí tự tôi sẵn có, tôi chỉ còn không biết tuổi thọ mà thôi. Đường Cử nói: - Tuổi thọ của tiên sinh, kể từ nay còn 43 năm nữa. Thái Trạch cười nói rằng: - Tôi ăn ngon mặc đẹp, lên xe xuống ngựa, mang quả ấn vàng, đeo dây thao tía, vái nhường trước mặt vị nhân quân, 43 năm đã đủ lắm rồi, còn cầu gì nữa. Rồi đó Thái Trạch lại đi sang Hàn, Triệu, nhưng vẫn không gặp, lại trở về Ngụy, không may gặp kẻ cướp, nồi niêu bị mất cả, không có gì thổi cơm, ngồi nghỉ ở gốc cây, lại gặp Đường Cử, Cử hỏi đùa rằng: - Tiên sinh chưa phú quí ư? Thái Trạch nói: - Tiên sinh tướng cốt kim thủy, sẽ phát ở phương Tây, nay thừa tướng Tần là Phạm Chuy dùng Trịnh An Bình, Vương Kê đều bị trọng tội, Phạm Chuy lo sợ lắm, tất nóng muốn từ chức, tiên sinh sao chẳng sang đó mà cứ chịu khốn ở mãi đây. Thái Trạch nói: - Đường xa khó đi đến được, biết làm thế nào? Đường Cử bèn móc túi lấy mấy lạng vàng ra cho. Thái Trạch được có tiền ăn đường, liền đi đến Hàm Dương, vào nhà trọ, bảo chủ trọ rằng: - Dọn cơm cho ta, gạo phải trắng, thịt phải béo, đợi khi ta làm thừa tướng, ta sẽ đền lại rất hậu. Chủ trọ nói: - Khách là người thế nào mà lại dám mong làm thừa tướng? Trạch nói: - Ta đây họ Thái tên Trạch, là người có tài hùng biện và nhiều mưu trí, đến đây để cầu yết kiến vua Tần, vua Tần hễ thấy ta, tất bằng lòng lời nói của ta, đuổi Ứng Hầu mà lấy ta thay, quả ấn thừa tướng sẽ lập tức về tay ta cầm. Chủ trọ cười là người cuồng, rồi gặp ai cũng nói cho biết. Môn khách của Phạm Chuy nghe chuyện ấy nói lại cho Chuy. Phạm Chuy nói: - Sự nghiệp ngũ đế tam vương, học thuyết bách gia chư tử, không điều gì là ta không biết, bao nhiêu tay hùng biện, gặp ta đều phải thua, vậy thằng Thái Trạch ấy tài gì lại nói lọt được vua Tần mà cướp tướng ấn của ta. Rồi sai người ra nhà trọ đòi Thái Trạch vào. Chủ trọ bảo Thái Trạch rằng: - Tai vạ của khách đến nơi rồi! Khách tuyên ngôn là muốn thay Ứng Hầu làm tướng, nay tướng phủ cho triệu, nếu tiên sinh vào tất bị nhục to. Thái Trạch cười nói rằng: - Ta gặp Ứng Hầu, hắn tất đem tướng ấn nhường ta, không đợi phải yết kiến vua Tần vậy. Chủ nhân nói: - Khách ngông cuồng quá, chớ làm lụy tôi. Thái Trạch mặc áo vải đi dép vào yết kiến Phạm Chuy. Chuy ngồi xổm để đợi, Thái Trạch chỉ vái dài không lạy, Phạm Chuy cũng không mời ngồi, cất tiếng dữ dội hỏi rằng: - Nói rêu rao bên ngoài là muốn thay ta làm thừa tướng, có phải là mày đó không? Thái Trạch đứng ngay ở bên cạnh nói: - Chính tôi đây! Chuy hỏi: - Mày có từ thuyết gì có thể cướp được tước vị của ta? Thái Trạch nói: - Ôi! Sao ngài lại hiểu chậm như thế? Đã thành công rồi thì nên lui về để nhường bước cho người sau, ngày nay ngài nên lui về là phải. Chuy nói: - Ta không tự lui, ai có thể lui được ta. Thái Trạch nói: - Người ta thân thể còn khỏe mạnh, chân tay lanh lẹ, thông minh thánh trí, làm đạo ra ơn cho thiên hạ, khiến cho đời phải kính mến là bậc hiền hào đó ru? Phạm Chuy nói: - Phải. Thái Trạch lại nói: - Đã đắc chí rồi, mà yên vui cõi thọ, hưởng hết tuổi trời, lộc nước ơn vua, truyền cho con cháu đời đời, há chẳng phải là việc tốt lành ở trên đời này ru? Phạm Chuy nói: - Phải. Thái Trạch hỏi: - Tần có Thương Quân, Sở có Ngô Khởi, Việt có Văn Chủng, công thành mà đều bị giết hại, ngài cũng muốn như những người ấy ư? Phạm Chuy nghĩ thầm: "Người này nói các điều lợi hại, chực xoi mói ta, nếu nói là không muốn thì mắc vào cái thuật của hắn", bèn giả cách đáp rằng: - Có gì là chẳng nên muốn. Thương Quân thờ Hiến công, đem công tâm định pháp lệnh để trị nước, mở mang nghìn dặm đất cho Tần; Ngô Khởi thờ vua Sở, bỏ quí thích để nuôi chiến sĩ, Nam bình Ngô, Việt, Bắc lui Tam Tấn. Văn Chủng thờ vua Việt, đổi yếu làm mạnh, thôn tính được nước Ngô, vì vua Việt báo được cái thù ở Cối Kê, dẫu đều bị giết, nhưng đại trượng phu giết mình thành nhân, coi chết như về, công ở đương thời, tiếng để về sau, như thế há lại chẳng nên muốn ư? Phạm Chuy dẫu nói cứng, nhưng ngồi không yên, bèn đứng dậy mà nghe. Thái Trạch nói: - Vua thánh tôi hiền là phúc của nước, cha hiền con hiếu là phúc của nhà, làm con hiếu ai chẳng muốn được cha hiền, làm tôi hiền ai chẳng muốn được vua sáng. Tỉ Can trung mà nhà Ân mất, Thân Sinh hiếu mà nước Tấn loạn, thân dẫu chết mà không ích gì cho vua, cho cha, là cớ làm sao, là vì vua không sáng mà cha không hiền vậy. Thương Quân, Ngô Khởi, Văn Chủng đều là không may mà bị chết, há phải cầu chết để lấy cái tiếng để lại đời sau đâu. Đại trượng phu ở đời, thân danh đều toàn là bậc nhất, danh truyền mà thân chết là thứ nhì, còn như danh nhục mà thân toàn, đó là kẻ hèn kém. Mấy câu đó khiến cho Phạm Chuy trong lòng vui sướng, vừa bước xuống thềm, vừa khen nói phải. Thái Trạch lại nói: - Ngài thử xem vua Tần ngày nay đối với bày tôi, có tin dùng và hậu đãi như Hiến công đối với Thương Quân, Sở Vương đối với Ngô Khởi, Việt Vương đối với Văn Chủng không? Phạm Chuy nói: - Điều đó tôi chưa xét biết ra thế nào. Thái Trạch lại nói: - Ngài tự nghĩ cơ nghiệp của ngài, so với Thương Quân, Ngô Khởi, Văn Chủng, ai hơn? Phạm Chuy nói: - Tôi không bằng. Thái Trạch nói: - Vua Tần ngày nay tin dùng công thần đã không hơn ba vua kia, mà cơ nghiệp của ngài lại không hơn ba người kia, vậy mà lộc vị và tài sản của ngài lại gấp mấy ba người ấy, thế mà không sớm liệu lui về, làm kế tự toàn, ba người ấy còn không khỏi vạ, nữa chi là ngài. Tô Tần, Trí Bá xưa kia, không phải là không đủ trí khôn để tự giữ mình, vậy mà đều bị hại, chỉ vì quá tham lợi không thôi. Ngài lấy là kẻ thất phu, tri ngộ vua Tần, làm đến chức thừa tướng, giàu sang đã nhất mực, thù đã báo và ơn đã đền rồi, vậy mà còn tham luyến thế lợi, tôi e cái vạ Tô Tần, Trí Bá ngài khó tránh qua. Tục ngữ nói: "Mặt trời đến lúc giữa thì bóng xế, mặt trăng đến lúc đầy thì vành khuyết", ngài sao không nhân lúc này nộp trả tướng ấn, chọn người hiền mà tiến lên, tiếng là từ bỏ vinh hoa, thật là cất được gánh nặng, rồi sẽ tìm nơi cao ẩn, hưởng hết tuổi trời, con cháu đời đời nối làm Ứng Hầu, chẳng hơn là cứ giữ lấy cái địa vị bấp bênh không vững mà còn lo cái họa vô hình không khéo sẽ xảy ra chăng? Phạm Chuy nghe nói, phục là người hùng biện và có mưu trí, xin vâng theo như lời, rồi mời ngồi lên trên, đãi theo lễ khách, lưu ở tân quán, sai làm rượu cơm khoản đãi. Hôm sau vào chầu tâu vua Tần rằng: - Có một người mới ở Sơn Đông đến, tên là Thái Trạch, có tài vương bá thông hiểu thời biến, có thể giao phó quyên chính cho được. Tôi biết người nhiều, mà không thấy ai được như người ấy, tôi thực kém xa. Có người giỏi như thế, tôi không dám giấu, xin kính tiến lên đại vương. Vua Tần cho đòi Thái Trạch vào điện, hỏi kế kiêm tính sáu nước. Thái Trạch tâu bày hợp ý vua Tần, lập tức vua cho làm khách khanh. Phạm Chuy xưng bệnh nộp trả tướng ấn, vua Tần không cho. Chuy bèn cáo đau nặng không dậy được, vua Tần bèn cử Thái Trạch làm thừa tướng để thay Phạm Chuy, phong làm Cương Thành Quân, Phạm Chuy về dưỡng lão ở Ứng Thành. Lại nói Bình Nguyên Quân nước Triệu là Triệu Thắng mất, vua Triệu cử Liêm Pha làm tướng quốc, phong là Tín Bình Quân. Vua nước Yên là Hỉ nghĩ Triệu là nước láng giềng, sai tướng quốc là Lật Phúc sang viếng tang Bình Nguyên Quân và đem 500 lạng vàng mừng thọ vua Triệu, ước làm anh em. Lật Phúc muốn vua Triệu sẽ đút lót cho mình rất hậu, nhưng vua Triệu đãi theo lễ thường. Lật Phúc không bằng lòng, về tâu vua Yên rằng: - Triệu từ trận thua ở Trường Bình, những kẻ trai tráng đều chết cả, những con mồ côi thì còn bé. Vả tướng quốc mới mất, Liêm Pha đã già, nếu lừa lúc không ngờ, chia quân đi đánh, có thể diệt được Triệu. Vua Yên không suy xét liền theo lời Lật Phúc. Xương Quốc Quân là Nhạc Gian và đại phu là Tương Cừ đều đem các lẽ lợi hại phải trái can ngăn không được. Vua Yên cử ngay Lật Phúc làm đại tướng, Nhạc Thừa làm phó, mang 10 vạn quân đi đánh Cao Thành; sai Khánh Tần làm đại tướng, Nhạc Gian làm phó, mang 10 vạn quân đánh đất Đại, vua Yên thân suất 10 vạn quân ở hậu phương tiếp ứng. Khi vua Yên lên xe, Tương Cứ nắm lấy dây thao, nhỏ nước mắt nói rằng: - Muốn đánh Triệu tôi không dám can nữa, chỉ xin đại vương chớ đi. Vua Yên giơ chân đạp Cừ. Cừ liền ôm lấy chân vua mà khóc rằng: - Tôi giữ đại vương lại là vì lòng trung, vua nếu không nghe, thì nước Yên sẽ bị tai vạ ngay. Vua Yên lại càng giận, sai đem Tương Cừ giam vào ngục, đợi khi thắng trận về sẽ giết, rồi cả ba đạo cùng cất quân đi. Lại nói vua Triệu được tin quân Yên kéo đến đánh, họp quần thần để bàn kế, rồi cử Liêm Pha làm đại tướng, đem năm vạn quân đón đánh Lật Phúc ở Cao Thành; dùng Lý Mục làm phó tướng, đón đánh Khánh Tần ở đất Đại. Lật Phúc nguyên là kẻ vô tài không biết tướng lược, địch sao được tay lão tướng Liêm Pha. Khi hai quân vừa giao chiến, quân Triệu giả cách thua bỏ chạy, Lật Phúc không biết là kế, chỉ huy quân lính đuổi theo, chừng năm, sáu dặm, quân phục xông ra, Lật Phúc luống cuống không chống lại kịp, bị Liêm Pha bắt sống, Nhạc Thừa bèn đầu hàng quân Triệu. Còn đạo quân của Lý Mục ở đất Đại, cũng phá tan được quân Yên, chém chết được Khánh Tần, phó tướng là Nhạc Gian cũng đầu hàng quân Triệu. Vua Yên nghe tin hai đạo quân đều bị thua liền luôn ban đêm chạy về Trung Đô. Liêm Pha thẳng đường kéo quân vào bổ vây bốn mặt. Vua Yên sai sứ xin hòa, Liêm Pha nghe theo như lời Nhạc Gian bắt vua Yên phải tha Tương Cừ ra dùng làm tướng quốc và sai Tương Cừ đem lễ vật đến nghị hòa. Vua Yên không biết làm thế nào, phải tha Tương Cừ và trao cho ấn tướng, Tương Cừ từ chối, nói rằng: - Tôi không may mà nói trúng, há lại may được lúc nước nhà bị thua để làm lợi ư? Vua Yên nói: - Quả nhân không nghe lời nói nhà ngươi, tự mua lấy cái nhục, nay phải cầu hòa với Triệu, việc ấy tất phải nhà ngươi đi mới xong. Tương Cừ phải nhận lấy tướng ấn, rồi đi sang quân Triệu, thay vua Yên tạ tội và đưa trả gia quyến Nhạc Gian và Nhạc Thừa. Liêm Pha bằng lòng cho hòa, rồi chém đầu Lật Phúc và đem thi thể Khánh Tần giao trả nước Yên. Lại nói Chiêu Tương Vương nước Tần ở ngôi năm, sáu năm, tuổi gần 70 bị bệnh mất, thái tử An Quốc Quân nối ngôi tức là Hiếu Văn Vương, lập Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm thái tử. Vua Hàn nghe tin vua Tần mất, đầu tiên mặc áo xô gai vào thăm, coi việc tang như lễ thần tử, chư hầu đều sai các đại thần đến hội táng. Hiếu Văn Vương sau ba ngày làm lễ trừ tang, đại yến quần thần, tiệc tan trở về cung thì chết. Người trong nước đều ngờ là Lã Bất Vi muốn cho Tử Sở chóng được lập lên làm vua, đã đút nhiều tiền cho các người tả hữu, sai bỏ thuốc độc vào trong rượu, nên vua Tần bị độc mà chết, nhưng ai nấy đều sợ Lã Bất Vi không dám nói. Rồi đó Lã Bất Vi cùng quần thần tôn Tử Sở lên nối ngôi, đó là Trang Tương Vương, tôn Hoa Dương phu nhân làm thái hậu, lập Triệu Cơ làm hoàng hậu, con là Triệu Chính làm thái tử, rồi bỏ họ Triệu đi, chỉ dùng một chữ tên là "Chính". Thái Trạch biết Trang Tương Vương cảm cái ơn sâu của Lã Bất Vi muốn cử Vi làm thừa tướng, bèn cáo bệnh đem tướng ấn nhường nộp trả. Bất Vi bèn làm thừa tướng, được phong làm Văn Tín Hầu, ăn lộc 10 vạn nóc nhà ở Lạc Dương, Hà Nam. Bất Vi mến tiếng Mạnh Thường, Tín Lăng, Bình Nguyên, Xuân Thân mà xấu hổ không bằng, bèn cũng đặt ra tân quán, chiêu dụ tân khách có hơn ba nghìn người. Lại nói Đông Chu Quân thấy nước Tần mất liền hai vua, trong nước nhiều việc, bèn sai tân khách đi nói với các nước muốn hợp tung để đánh Tần. Lã Bất Vi nói với vua Tần rằng: - Tây Chu đã mất, mà Đông Chu chỉ còn như một cái dây, tự cho mình là con cháu Văn, Võ, muốn cổ động thiên hạ, chi bằng diệt nốt đi, để dứt hẳn lòng trông mong của thiên hạ. Vua Tần bèn dùng Lã Bất Vi làm đại tướng mang 10 vạn quân đánh Đông Chu, bắt được vua đem về, lấy hết được cả bảy ấp ở Củng Thành. Nhà Chu kể từ Vũ Vương làm vua năm Kỷ Dậu, đến Đông Chu Quân năm Nhâm Tý, trải 37 vua, cộng 873 năm, bị nước Tần diệt mất. Vua Tần đã diệt được nhà Chu, lại sai Mông Vụ đánh Hàn, lấy được Thành Cao, Huỳnh Dương đặt ra quận Tam Xuyên. Lại nghĩ khi làm con tin ở Triệu, suýt bị vua Triệu giết, thù ấy tất phải báo, bèn sai Mông Vụ đánh Triệu, lấy được 37 thành, đặt ra quận Thái Nguyên. Rồi lại đem quân đánh Ngụy, quân Ngụy bị thua luôn. Như Cơ nói với vua Ngụy là chỉ có Tín Lăng Quân mới đánh được quân Tần, nên viết thư mời về. Vua Ngụy trong cơn nguy cấp, bất đắc dĩ phải sai Nhan Ân mang thư và vàng lụa sang Triệu đón Tín Lăng Quân về. Tín Lăng Quân xem thư xong, nghĩ vua Ngụy bỏ mình ở Triệu đã 10 năm, nay có việc nguy cấp mới đón về, không phải là thực lòng nhớ mình, bèn treo lá thư ở dưới cửa, nói hễ ai đưa sứ giả của vua Ngụy vào thì giết chết, tân khách đều bảo nhau, không ai dám khuyên Tín Lăng Quân về Ngụy nữa. Nhan Ân ngóng chờ mãi không biết làm thế nào. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 102 Đạo Hoa Âm, Mông Ngao bị thua Sông Hồ Lê, Kịch Tân tự tử Bấm để xem Lại nói Nhan Ân muốn vào yết kiến Tín Lăng Quân mà không được vào, các tân khách không ai nói giúp, đang vẩn vơ không biết làm thế nào, bỗng gặp Mao Công và Tiết Công đến thăm Tín Lăng. Nhan Ân biết hai người là thượng khách của Tín Lăng, liền khóc lóc kể sự tình, hai người hứa xin hết sức khuyên giúp, khi vào đến nơi trông thấy Tín Lăng liền nói rằng: - Nghe nói Công tử sắp về nước tổ, chúng tôi đến tiễn đây. Tín Lăng Quân nói: - Khi nào có việc ấy! Hai người nói: - Quân Tần vây nước Ngụy gấp quá, Công tử không nghe tin ư? Tín Lăng Quân nói: - Tôi có nghe nói, nhưng tôi từ nước Ngụy 10 năm rồi, nay đã thành người Triệu, không muốn dự nghe đến việc nước Ngụy nữa. Hai người đều nói rằng: - Công tử sao lại nói thế. Công tử được trọng đãi ở Triệu, tiếng khen khắp chư hầu, là nhờ có nước Ngụy, ngay như Công tử mà nuôi được kẻ sĩ, chiêu nạp được tân khách thiên hạ, cũng là nhờ sức nước Ngụy. Nay Tần đánh Ngụy gấp quá mà Công tử không thương, nếu quân Tần phá được Đại Lương, phá hủy tôn miếu của tiên vương thì sao? Công tử dù chẳng nghĩ đến nhà, há lại chẳng nghĩ đến sự cúng tế của tổ tôn ru? Công tử còn mặt mũi nào mà cứ ở ăn nhờ nước Triệu này mãi.. Nói chưa xong, Tín Lăng đổ toát mồ hôi, đứng phắt dậy tạ rằng: - Hai tiên sinh trách Vô Kỵ này đáng lắm, Vô Kỵ suýt thành người có tội trong thiên hạ vậy. Lập tức sai tân khách sửa hành trang, tự vào triều từ biệt vua Triệu. Vua Triệu không muốn cho Vô Kỵ về, cầm lấy cánh tay khóc mà nói rằng: - Quả nhân từ khi mất Bình Nguyên Quân, cậy có Công tử như bức trường thành, nay bỗng bỏ quả nhân mà đi, quả nhân biết cùng ai lo việc xã tắc. Tín Lăng Quân nói: - Vô Kỵ này không nỡ để tôn miếu tiên vương bị phá hủy về tay quân Tần, nên thế tất phải về, nếu nhờ phúc đại vương mà xã tắc không mất, thì còn có ngày lại được thấy nhau. Vua Triệu nói: - Công tử khi trước lấy quân Ngụy giữ được nước Triệu, nay Công tử về cứu nạn nước, quả nhân dám xin hết sức giúp lại. Vua Triệu bèn đem ấn thượng tướng trao cho Tín Lăng, sai Nhan Ân về Ngụy báo tin trước, rồi sai tân khách mang thư đi đến các nước cầu cứu. Ba nước Yên, Hàn, Sở đều vốn trọng nhân phẩm của Tín Lăng, nghe Tín Lăng làm tướng, đều tỏ ý vui mừng, sai đại tướng mang quân đến Ngụy, chịu quyền tiết chế, tướng Yên là Tương Cừ, tướng Hàn là Công tôn Anh, tướng Sở là Cảnh Dương, chỉ có nước Tề là không chịu phát binh. Lại nói vua Ngụy đang cơn nguy cấp, được Nhan Ân về báo là Tín Lăng đem quân bốn nước về cứu, vua mừng khôn xiết, sai Vệ Khanh đem hết quân trong nước ra tiếp ứng. Bấy giờ Mông Vụ vây Giáp Châu, Vương Hạt vây Hoa Châu. Tín Lăng Quân cùng chư tướng bàn định, sai Vệ Khanh đem quân Ngụy hợp với quân Sở, đắp lũy để chống quân Mông Vụ, dựng hiệu cờ Tín Lăng Quân, giữ vững chớ ra đánh; còn mình mang 10 vạn quân Triệu hợp với quân Yên, Hàn đến cứu Hoa Châu, một mặt sai tướng Triệu là Bàng Noãn đem một đạo quân đến sông Vị chẹn cướp thuyền lương của quân Tần. Vương Hạt được tin, sợ tuyệt mất quân lương, bèn lưu một nửa quân lại vây Hoa Châu, còn một nửa tự mình đốc suất đi cứu thuyền lương ở sông Vị. Đi gần đến núi Thiếu Hoa, một đội đại quân Yên do Tương Cừ thống suất xông ra đánh. Vương Hạt cùng Tương Cừ đánh nhau được vài hiệp lại có một đội đại quân Hàn do Công tôn Anh thống suất kéo đến. Vương Hạt phải chia quân ra đối địch, bỗng có tin báo là thuyền lương ở sông Vị bị tướng Triệu cướp mất rồi, biết sự thế đã nguy. Vương Hạt chỉ còn liều mạng chống đánh, từ giờ Ngọ đến giờ Dậu vẫn chưa thu quân. Tín Lăng Quân liệu chừng quân Tần đã mỏi mệt, liền đem phục binh xông ra đánh. Vương Hạt dẫu là tướng quen đánh trận, nhưng không có ba đầu sáu tay thì đối địch sao cho kịp, nên bị thua to, thiệt hại hơn năm vạn quân, chỉ còn dẫn được toán tàn quân bại tướng chạy về Đông Quan. Tín Lăng thừa thắng lại chia ba đội đến cứu Giáp Châu. Mông Vụ ở đó vừa chia quân, để toán già yếu ở lại chống giữ với hai quân Sở, Ngụy, còn bao nhiêu quân tinh nhuệ tự mình đốc suất định đến Hoa Châu để cùng Vương Hạt hợp quân, không ngờ Vương Hạt đã thua chạy, đi đến Hoa Âm thì gặp quân Tín Lăng. Tín Lăng đi trước xông pha, tả có Công tôn Anh, hữu có Tương Cừ, hai bên đại sát một trận. Mông Vụ hại hơn vạn quân, đành phải thu quân, lập dinh trại để chỉnh đốn quân mã, đợi ngày lại quyết chiến, còn đạo quân già yếu đóng ở Giáp Châu, vì không đủ sức chống với hai quân Ngụy, Sở đều tan vỡ cả. Hai đạo quân Sở, Ngụy đã giải được vòng vây Giáp Châu, liền kéo luôn đến Hoa Âm, thì gặp lúc Mông Vụ đang bày trận sắp đánh, hai bên liền giao chiến. Mông Vụ dẫu khỏe, nhưng địch sao được cả năm đạo quân nên lại bị đại bại một trận nữa, vội vàng nhằm phía Tây chạy trốn. Tín Lăng đem quân đuổi theo mãi đến bên dưới cửa Hàm Cốc. Quân năm nước chia đóng năm dinh lớn ở trước cửa quan, dương oai diễu võ đến hơn một tháng. Quân Tần đóng chặt cửa không dám ra, Tín Lăng mới kéo quân về, quân các nước cũng ở đâu về đấy. Vua Ngụy nghe Tín Lăng đại phá quân Tần trở về xiết bao mừng rỡ, ra đón tiếp ở tận ngoài 30 dặm, anh em cách biệt trong 10 năm trời, ngày nay lại gặp nửa mừng nửa thương, bèn cùng xe về triều, luận công hành thưởng, bái làm thượng tướng phong thêm cho năm thành nữa, việc chính trong nước bất cứ lớn nhỏ, đều do Tín Lăng Quân quyết định. Lại tha cho Chu Hợi cái tội giết Tấn Bỉ, dùng làm thiên tướng. Từ đó uy danh Tín Lăng Quân vang động cả thiên hạ, các nước đều đem hậu lễ cầu binh pháp của Tín Lăng. Tín Lăng đem các thư sách của tân khách dâng cho bấy lâu, xếp làm 21 thiên, 7 quyển trận đồ, gọi là Ngụy Công tử binh pháp. Lại nói chuyện Mông Vụ, Vương Hạt trở về triều kiến vua Tần xin chịu tội. Vua Tần nghĩ đến công cũ và biết lần ấy hai người vì ít quân không địch nổi quân năm nước, cho nên đều tha tội. Thái Trạch tâu rằng: - Các nước sở dĩ hợp tung là vì Công tử Vô Kỵ, nay đại vương sai sứ sang thông hiếu với Ngụy, mời Vô Kỵ sang Tần họp mặt, đợi lúc vào trong cửa quan bắt mà giết đi, trừ tuyệt cái lo về sau, há chẳng hay lắm ru? Vua Tần liền dùng mưu ấy, sai sứ sang Ngụy thông hiếu, và mời Tín Lăng Quân. Phùng Hoan can ngăn Tín Lăng chớ lại theo như Mạnh Thường và Bình Nguyên, khinh thân vào Tần, suýt bị Tần bắt giữ. Tín Lăng Quân cũng không muốn đi, nói với vua Ngụy sai Chu Hợi đem đôi ngọc bích sang tạ Tần. Vua Tần thấy Tín Lăng không đến, trong lòng cả giận. Mông Vụ mật tâu vua Tần rằng: - Chu Hợi là người đánh chết Tấn Bỉ dũng sĩ nước Ngụy, nên giữ lại để dùng. Vua Tần muốn phong quan chức cho Chu Hợi, Chu Hợi nhất định không nhận. Vua Tần càng giận, sai người bỏ Chu Hợi vào trong chuồng hổ, trong chuồng hổ có con hổ đốm, thấy người đến nhảy chồm chực bắt. Chu Hợi hét lên một tiếng, mắng rằng: - Con vật này sao dám vô lễ! Hợi mắt trợn ngược lên, đỏ ngầu như hai chén máu, con hổ sợ nằm bẹp xuống không dám động. Mọi người lại dắt Chu Hợi ra. Vua Tần than rằng: - Ô Hoạch, Nhâm Bỉ ngày xưa, chẳng hơn được người này, nếu lại thả về Ngụy, tức là thêm vây cánh cho Tín Lăng Quân. Rồi lại sai người cố ép Chu Hợi phải đầu hàng, nhưng Chu Hợi vẫn một lòng không nghe, bèn giam ở trong nhà trạm, không cho ăn uống. Chu Hợi nói: - Ta chịu ơn tri ngộ của Tín Lăng Quân, nên đem cái chết để báo lại. Bèn đập đầu vào cột, cột gãy mà đầu không vỡ, liền lấy tay móc cuống họng, họng đứt chết ngay. Vua Tần đã giết Chu Hợi muốn cho Tín Lăng Quân không còn được cầm quyền ở Ngụy, cùng quần thần bàn kế ly gián vua tôi Ngụy, bèn theo kế Thái Trạch đem vạn cân vàng sai người sang Ngụy đút cho đảng Tấn Bỉ, xin nói truyền đi rằng chư hầu sợ uy Tín Lăng Quân đều muốn tôn lên làm vua Ngụy, Tín Lăng Quân chẳng bao lâu nữa sẽ cướp ngôi, cốt làm cho vua Ngụy phải xa bỏ Tín Lăng. Vua Tần lại muốn báo cái thù thua trận, định giết thái tử Tăng nước Ngụy, sang làm con tin ở Tần. Thái Trạch can rằng: - Giết thái tử này, Ngụy lập thái tử khác, chẳng hại gì cho Ngụy, chi bằng dùng ngay thái tử để làm phản gián ở Ngụy. Vua Tần khen phải, lại càng hậu đãi thái tử Tăng, sai tân khách đi lại kết thân và mật báo thái tử rằng: - Tín Lăng Quân ở ngoài 10 năm giao kết với chư hầu, tướng văn tướng võ chư hầu đều kinh sợ cả, nay làm đại tướng Ngụy, quân lính chư hầu đều thuộc quyền. Thiên hạ chỉ biết Tín Lăng Quân, không biết vua Ngụy, ngay như Tần cũng sợ oai Tín Lăng lắm, muốn lập làm vua để cầu hòa. Nếu Tín Lăng làm vua thì tất bảo Tần giết thái tử, chẳng thế thì thái tử cũng chết già ở Tần. Thái tử Tăng khóc lóc hỏi kế, khách nói: - Tần đang muốn cùng Ngụy thông hiếu, thái tử sao chẳng viết một phong thư đưa cho vua Ngụy, xin cho đón thái tử về nước. Thái tử Tăng nói: - Dù xin đón về nhưng khi nào vua Tần chịu thả tôi ra. Khách nói: - Vua Tần muốn tôn Tín Lăng lên làm vua, chỉ vì sợ oai đó thôi, chứ không phải bản tâm, nếu thái tử xin đem nước thờ Tần, chắc Tần phải bằng lòng, chứ lo gì chẳng cho đón về. Thái tử bèn viết một bức thư, nói rõ chư hầu đều qui phục Tín Lăng, nước Tần lại muốn lập lên làm vua, cuối cùng tỏ ý xin về, niêm phong cẩn mật, nhờ khách mật đưa cho vua Ngụy. Rồi đó vua Tần cũng viết hai phong thư: Một phong đưa cho vua Ngụy, nói Chu Hợi bị bệnh mà chết; một phong mừng Tín Lăng Quân, lại có lễ vật kính biếu nữa. Lại nói vua Ngụy nghe lời nói phao của những người về đảng Tấn Bỉ đã sinh nghi rồi, đến khi sứ Tần mang quốc thư đến xin bãi chiến cầu hòa, nói rõ ý muốn chỉ vì kính mến Tín Lăng, lại tiếp được thư riêng của thái tử Tăng, lại càng nghi hoặc. Sứ Tần lại đem thư và lễ vật đến phủ Tín Lăng, cố ý nói hở ra, để cho vua Ngụy nghe tiếng. Lại nói Tín Lăng Quân nghe sứ Tần đến xin hòa, bảo tân khách rằng: - Tần không có việc binh nhung, phải cầu gì Ngụy, tất là nó lại có dùng kế gì đây. Nói chưa dứt lời, thì đã có người vào báo là sứ Tần ở ngoài cửa, nói là vua Tần có đưa thư mừng. Tín Lăng Quân nói: - Kẻ làm tôi không có phép giao thiệp riêng, thư và lễ vật của vua Tần, tôi không dám nhận. Sứ giả hai ba lần nói ý vua Tần, Tín Lăng Quân nhất định cự tuyệt, thì vừa lúc vua Ngụy cũng sai sứ đến đòi bức thư của vua Tần để xem. Tín Lăng Quân nói: - Vua Ngụy đã biết có thư, nếu nói không nhận tất không tin. Nói rồi sai sắp xe, đem cả phong thư và lễ vật của vua Tần để nguyên không động, đưa trình vua Ngụy, nói là đã hai ba lần từ chối, không dám mở ra, nay đại vương đã đòi xem, xin cứ để nguyên dâng trình, nhờ lượng trên xét nghĩ. Vua Ngụy nói: - Trong thư tất có tình tiết, không mở xem không rõ. Bèn mở ra xem, đại lược nói: "Oai danh của Công tử lừng lẫy khắp thiên hạ, các vua chư hầu đều đem lòng mến phục, nên định ngày lên ngôi làm lãnh tụ chư hầu, nhưng không biết ngày nào vua Ngụy nhường ngôi, lấy làm mong mỏi lắm. Có chút lễ mọn để tỏ lòng mừng, xin Công tử nhận cho". Vua Ngụy xem xong, giao cho Tín Lăng Quân xem, Tín Lăng tâu rằng: - Người Tần hay lừa dối, bức thư này để ly gián vua tôi ta, hạ thần sở dĩ không nhận, chính là lo không biết ở trong họ nói gì, e bị mắc phải cái thuật của họ chăng. Vua Ngụy nói: - Công tử đã không có cái lòng như thế, thì nên ở ngay trước mặt quả nhân, viết thư trả lời. Lập tức sai tả hữu lấy giấy bút đưa cho Tín Lăng Quân viết thư, đại lược nói: "Vô kỵ này chịu cái ơn to của quả quân, dù chết cũng chưa báo đáp được. Câu nói lên ngôi vua ấy, không phải là câu dạy kẻ làm tôi. Lễ vật của vua cho, tôi thề chết không dám nhận". Viết xong giao cho sứ Tần và cả lễ vật đem về. Vua Ngụy cũng sai sứ tạ Tần và nói tuổi già muốn đón thái tử Tăng về nước. Vua Tần bằng lòng cho. Thái tử Tăng đã về Ngụy, nói không nên chuyên dùng Tín Lăng. Tín Lăng dẫu không áy náy gì nhưng nghĩ vua Ngụy đã có ý nghi, bèn xưng bệnh không vào triều, đem ấn tướng binh phù nộp trả vua Ngụy, ngày ngày cùng tân khách uống rượu suốt đêm, và thường có đàn bà ở cạnh mình để làm vui. Lại nói Chiêu Tương vương nước Tần ở ngôi ba năm bị bệnh, thừa tướng Lã Bất Vi vào hỏi thăm, sai nội thị cầm phong thư kín mật đưa cho vương hậu, nhắc lại lời thề ngày trước. Vương hậu chưa quên tình cũ, bèn triệu Bất Vi vào cùng tư thông. Bất Vi dem thuốc dâng vua, vua đau một tháng thì mất. Bất Vi rước thái tử Chính lên ngôi, bấy giờ mới có 13 tuổi, tôn Trang Tương Hậu làm thái hậu, phong em là Thành Kiệu làm Trường An Quân, việc nước đều do Lã Bất Vi quyết định, ví như Thái Công, phong làm Thượng Phụ. Người cha Bất Vi chết, tân khách các nước đến thăm đông như chợ, xe ngựa chật đường, to hơn đám ma vua Tần. Năm đầu Lã Bất Vi biết Tín Lăng Quân đã bị bỏ, sai đại tướng Mông Vụ cùng Trương Đường đánh Triệu, hạ được thành Tấn Dương. Năm thứ ba lại sai Mông Vụ cùng Vương Hạt đánh Hàn, lấy được 12 thành. Từ khi Tín Lăng Quân bị bỏ, tình giao hiếu của Triệu, Ngụy cũng tuyệt. Hiếu Thành Vương nước Triệu sai Liêm Pha đánh Ngụy, vây Hàm Dương. Sau vua Triệu nghe lời gièm pha bỏ Liêm Pha, Pha chạy sang Ngụy, vua Ngụy dẫu tôn làm khách tướng, nhưng không trọng dụng. Năm Tần Vương Chính thứ tư, Tín Lăng Quân nước Ngụy vì vui tửu sắc quá độ, bị bệnh mà chết. Phùng Hoan thương khóc quá cũng chết, tân khách tự đâm cổ chết theo có hơn trăm người, coi đó đủ rõ Tín Lăng Quân được sĩ phu tin yêu biết chừng nào. Năm sau, vua Ngụy mất, thái tử Tăng nối ngôi, đó là Cảnh Mân Vương. Tần biết Ngụy mới mất vua, Tín Lăng Quân cũng chết rồi, định báo cái thù thua trận năm trước, sai đại tướng Mông Ngao đánh Ngụy lấy được hai thành Toan Tảo, đặt ra Đông Quận, không bao lâu đánh lấy được Triều Ca và Bộc Dương. Cảnh Mân Vương than rằng: - Nếu Tín Lăng Quân còn sống, chắc không để cho quân Tần tung hoành như thế! Rồi sai sứ đi dụ các nước lại kết ước hợp tung để chống Tần, thì được tin nước Yên cử Kịch Tân làm đại tướng mang 10 vạn quân đến đánh Triệu. Kịch Tân là người Triệu, khi còn ở Triệu có chơi thân với Bàng Noãn. Về sau Bàng Noãn làm quan ở Triệu, Kịch Tân sang theo Chiêu Vương nước Yên, Chiêu Vương dùng làm thái thú Kế Quận, đến đời vua Yên là Hỉ, bị tướng Triệu là Liêm Pha vây khốn đô thành, nhờ Tương Cừ đi giảng hòa mới giải được vây, lấy làm xấu hổ. Tương Cừ dẫu làm tướng Yên nhưng vua Yên vẫn không bằng lòng, nên được hơn năm, liền thác bệnh giao trả tướng ấn. Vua Yên bèn cử Kịch Tân làm tướng quốc, cùng mưu việc báo thù Triệu, nhưng vẫn sợ Liêm Pha không dám động binh. Bấy giờ thấy Liêm Pha đã chạy sang Ngụy, Bàng Noãn làm tướng, Kịch Tân có ý khinh, bèn xin vua Yên đem quân đi đánh Triệu, nói quyết xin bắt sống được Bàng Noãn. Vua Yên cả mừng cho đi. Vua Triệu được tin, triệu Bàng Noãn bàn kế. Noãn nói: - Kịch Tân tự cậy là tay túc tướng tất có lòng khinh địch, xin sai Lý Mục ở đất Đại, dẫn quân đi về phía Nam chẹn giữ lối sau, hạ thần đem một đạo quân đón đánh, làm cho Kịch Tân trước sau đều bị địch, thì có thể bắt sống được. Vua Triệu nghe theo như kế ấy mà làm. Lại nói Kịch Tân kéo quân thẳng đến địa giới Thường Sơn, Bàng Noãn đóng quân ở Đông Viên. Kịch Tân nghĩ đã kéo quân vào sâu, nếu Bàng Noãn cứ giữ vững không ra đánh thì không bao giờ thành công, liền hỏi các tướng bộ hạ xem có ai dám ra khiêu chiến không. Lật Nguyên là con Lật Phúc muốn báo thù cha, hớn hở xin đi. Kịch Tân lại cử Vũ Dương Tĩnh đi giúp sức, và cấp cho mười vạn tinh binh đến dinh quân Triệu. Bàng Noãn sai Nhạc Thừa, Nhạc Gian chia hai toán tả hữu quân Triệu cùng tiến, đều dùng cung nỏ cứng bắn tua tủa vào quân Yên, Vũ Dương Tĩnh bị mũi tên chết ngay. Lật Nguyên không địch nổi bỏ chạy. Bàng Noãn cùng hai tướng đuổi theo chém giết, một vạn quân Yên bị chết hơn ba nghìn. Kịch Tân giận quá, vội mang đại quân đi tiếp ứng, Bàng Noãn đã trở về trong dinh rồi. Kịch Tân đánh lũy không thể vào được, bèn sai người đưa thư, hẹn Bàng Noãn ngày hôm sau sẽ cùng đi xe không ra trận tiền chào nhau. Bàng Noãn bằng lòng, hai bên đều dự bị, đến hôm sau hai bên cùng bày thành trận thế, giao hẹn không được bắn mũi tên ngầm. Bàng Noãn đi xe ra đứng ở trận tiền trước, mời Kịch tướng quân ra hội diện. Kịch Tân cũng đi xe ra, Bàng Noãn ở trong xe cúi chào nói rằng: - Xin mừng tướng quân răng tóc vẫn không việc gì. Kịch Tân nói: - Nhớ khi xưa tôi từ biệt ngài bỏ nước Triệu mà đi, thấm thoát đến nay đã hơn 40 năm rồi, tôi đã già yếu mà ngài cũng đã có tuổi, người ta ở đời thực ngắn ngủi chẳng được là bao. Bàng Noãn nói: - Tướng quân thấy Chiêu Vương biết kính trọng kẻ sĩ, bỏ Triệu sang Yên, nhất thời các tay hào kiệt theo về rất đông. Nay đền Hoàng Kim cỏ mọc đã dày, mộ Chiêu Vương cây đã vừa ôm, Tô Đại, Trâu Diễn cũng nối gót qua đời, Xương Quốc Quân cùng về với nước tôi, khí vận nước Yên, coi đó cũng đủ biết. Lão tướng quân tuổi ngoại 70, cô lập ở trong triều đình vị vua đã gần suy, còn tham luyến binh quyền, cầm hung khí mà làm việc nguy hiểm, ý muốn làm gì? Kịch Tân nói: - Tôi chịu hậu ân của ba đời vua Yên, dù nát xương cũng không báo đền, nhân cái tuổi thừa này, muốn vì nước nhà mà rửa cái thù Lật Phúc. Bàng Noãn nói: - Lật Phúc vô cớ, đánh ấp Cảo của nước tôi, tự mua lấy cái thua, đó là tự Yên phạm Triệu chứ không phải Triệu phạm Yên. Hai bên cùng ngồi ở trong xe, kẻ nói đi người nói lại, Bàng Noãn bỗng nói to lên rằng: - Ai lấy được đầu Kịch Tân, thưởng ba trăm lạng vàng! Kịch Tân nói: - Túc hạ sao khinh tôi quá thế, tôi há lại không lấy được đầu túc hạ hay sao? Rồi cầm lệnh tiễn vẫy một cái, Lật Nguyên dẫn quân xông ra đánh, tức thì hai bên cùng ra sức đánh nhau, quân Yên bị hại nhiều hơn quân Triệu, trời tối hai bên cùng thu quân. Kịch Tân về dinh buồn bã không vui, đang lo tính phân vân, bỗng thấy quân báo là Bàng Noãn sai người đến đưa thư. Kịch Tân sai ra cầm vào, thấy bức thư phong kín hai ba lần, mở ra xem, đại lược nói: "Tướng giữ Đại Châu là Lý Mục đem quân đánh úp Đốc Cương chẹn sau lưng ngài, ngài nên về ngay, nếu không thì không kịp, tôi nghĩ đến chút tình tương giao ngày trước, xin bảo thật để ngài biết". Kịch Tân nói: - Bàng Noãn chỉ muốn làm nao lòng quân ta mà thôi, cho dù quân Lý Mục đến thật, ta có sợ gì. Rồi viết thư trả lời, nói đến ngày hôm sau lại quyết chiến. Sứ Triệu đã về rồi, Lật Nguyên nói: - Lời nói Bàng Noãn không nên không tin, vạn nhất Lý Mục quả đánh úp sau lưng, quân ta trước sau đều bị đánh thì biết làm thế nào? Kịch Tân cười nói rằng: - Ta cũng nghĩ điều đó, câu nói lúc nãy là để cho vững lòng quân. Rồi bảo Lật Nguyên mật truyền quân lệnh, luôn ban đêm rút lui về, còn mình đi đoạn hậu để chống quân đuổi theo. Không ngờ Bàng Noãn dò biết việc ấy, cùng Nhạc Thừa, Nhạc Gian chia ba đường đuổi theo. Kịch Tân vừa đánh vừa chạy, đi đến sông Long Toàn, bỗng có thám tử báo là mặt trước có quân Đại Châu kéo đến. Kịch Tân sợ quá, cho là Bàng Noãn quả không nói dối, bèn không dám đi về phía Bắc, dẫn quân đi về phía Đông, muốn theo đường Phụ Thành, chạy về Liêu Dương. Bàng Noãn đuổi kịp, hai bên lại đại chiến ở sông Hồ Lô. Kịch Tân bị thua, than rằng: - Ta có mặt nào làm tù nước Triệu nữa! Rồi tự đâm cổ chết. Lật Nguyên bị Nhạc Gian chém chết, hơn ba vạn quân bị giết, còn đều tan chạy hoặc đầu hàng. Quân Triệu đại thắng, Bàng Noãn lại cùng Lý Mục họp quân đánh lấy Vũ Trại và Phương Thành. Vua Yên phải thân đến cửa nhà Tương Cừ, cầu đứng làm sứ đi sang quân Triệu nhận tội xin hòa. Bàng Noãn nể Tương Cừ cho hòa, rồi kéo quân về, còn Lý Mục vẫn ở lại giữ Đại Châu. Vua Triệu thân ra tận ngoài thành đón Bàng Noãn, khen rằng: - Tướng quân vũ dũng như thế, cũng như Liêm Pha, Lạn Tương Như còn ở nước Triệu vậy. Bàng Noãn nói: - Người Yên đã phục, nhân lúc này hợp tung các nước để cùng chống Tần mới giữ được vô sự. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 103 Lý Quốc Cữu tranh quyền giết Hoàng Yết Phàn Ô Kỳ truyền lệnh đánh vua Tần Bấm để xem Bàng Noãn muốn nhân cái oai vừa đánh được nước Yên, hợp tung các nước để cùng cự Tần. Trừ nước Tề đã theo Tần, còn Hàn, Ngụy, Sở, Yên đều phát tinh binh, nhiều đến bốn vạn, ít cũng hai ba vạn, cùng cử tướng quốc nước Sở là Xuân Thân Quân làm thượng tướng. Hoàng Yết không theo như các quân đánh Tần bấy lâu chỉ tiến đánh cửa Hàm Cốc, cùng chư tướng chia quân làm năm đạo tiến đánh Đông Quan, muốn rình chỗ quân Tần không để ý, không có phòng bị mà đánh vào. Thừa tướng Tần là Lã Bất Vi sai các tướng Mông Ngao, Vương Tiễn, Hoàn Xỉ, Lý Tín, Nội Sử Đằng đều đem năm vạn quân ra đối địch. Bất Vi theo như kế của Vương Tiễn, cho rằng quân Sở đã hơn 30 năm nay không có đánh nhau với nước nào, không quen chiến trận, nếu hợp cả quân năm dinh lại đánh một mình quân Sở, Sở tất thua, Sở thua thì quân bốn nước kia cũng phải rút. Bấy giờ Lý Tín vì cớ lương thảo chở đến chậm muốn chém viên tướng đốc lương là Cam Hồi, chư tướng hết sức xin mới tha chém, phạt đánh hơn trăm roi. Cam Hồi căm giận, đêm chạy sang quân Sở, đem kế bảo cho. Hoàng Yết sợ quá, không kịp báo các dinh, chỉ truyền lệnh riêng cho quân Sở rút lui. Vương Tiễn biết quân Sở trốn, liền đem quân đánh dinh Triệu, các quân Yên, Hàn, Ngụy đều đến cứu, chỉ có quân Sở là không thấy. Bàng Noãn cho dò xét biết là đã trốn rồi, than rằng: - Việc hợp tung từ nay thế là thôi! Rồi cùng các nước rút quân về, Hoàng Yết về Dĩnh Thành, bốn nước đều sai người đến trách rằng Sở làm tung ước trưởng, làm sao không bảo lại bỏ về trước. Vua Sở trách Hoàng Yết, Hoàng Yết vừa thẹn vừa sợ không biết đáp lại thế nào. Lại nói vua Sở ở ngôi đã lâu không có con, Hoàng Yết cho tìm lấy những người đàn bà có tướng nhiều con để tiến, mà cũng không thấy người nào có chửa cả. Có người nước Triệu là Lý Viên cũng ở trong nhà Hoàng Yết làm xá nhân, có người em gái là Lý Yên nhan sắc xinh đẹp muốn tiến vua Sở, lại sợ lâu ngày không có con thì không được vua yêu nữa, trong lòng trù trừ, muốn trước hãy đem em gái dâng Hoàng Yết đợi có mang rồi sẽ dâng lên vua Sở, may mà sinh được con trai, về sau tất làm được vua Sở, tức là cháu ta. Lại nghĩ nếu mình tự đem em gái dâng, thì không được quí trọng, phải nghĩ ra một kế để Hoàng Yết tự phải cầu mình. Nghĩ vậy rồi xin phép năm ngày về nhà, có ý trễ hẹn, đợi mười ngày rồi mới đến. Hoàng Yết hỏi sao đến trễ, Lý Viên nói: - Tôi có đứa em gái tên là Yên có chút nhan sắc, vua Tề nghe tiếng sai sứ đến tìm, tôi cùng sứ giả uống rượu vài ngày cho nên sai hẹn. Hoàng Yết nghĩ thầm người con gái ấy, tiếng nghe đến tận nước Tề, chắc là đẹp lắm, bèn hỏi rằng: - Đã nhận lễ chưa? Lý Viên nói: - Còn đương bàn, chưa có lễ đem đến. Hoàng Yết nói: - Có thể cho ta xem mặt được không? Viên nói: - Tôi ở hầu hạ ngài, dù em gái tôi cũng là hạng tì thiếp của nhà ngài, tôi xin vâng theo như lời. Sau đó Viên về nhà bảo em gái trang sức rất lịch sự rồi đưa vào tướng phủ. Hoàng Yết trông thấy cả mừng, ngay đêm ấy cho Lý Viên hai đôi bạch bích, ba trăm cân vàng, bảo để em gái ở lại để đấm bóp. Chưa được ba tháng nàng Lý Yên đã thụ thai. Viên hỏi riêng em gái rằng: - Làm thiếp với làm phu nhân đằng nào sang hơn? Yên cười nói: - Thiếp bằng thế nào được phu nhân. Viên lại hỏi: - Vậy thế làm phu nhân với làm vương hậu đằng nào sang hơn? Yên lại cười nói: - Vương hậu sang trọng hơn chứ. Viên nói: - Mày ở trong tướng phủ chẳng qua chỉ làm một người thiếp yêu, nay vua Sở không có con trai, may mày có thai, nếu tiến vào vua Sở, ngày sau sinh con trai tất được làm vua, mày được làm thái hậu há chẳng hơn làm thiếp ư? Bèn dậy bảo những câu nói, dặn khi chung chăn gối, cứ nói như thế, tất Hoàng Yết phải nghe theo. Lý Yên vâng theo như lời, đến đêm trong lúc nằm chung, bèn nói với Hoàng Yết rằng: - Vua Sở yêu mến tướng quốc, dẫu anh em ruột cũng không bằng, nay tướng quốc cầm quyền nước Sở hơn 20 năm, mà vua Sở chưa có con, một mai vua mất đi, tất dựng anh em lên, anh em vua đối với tướng quốc không có ân, tất sẽ lập cái người thân yêu lên làm tướng, bấy giờ tướng quốc hẳn chẳng có quyền thế gì. Hoàng Yết nghe nói ngẫm nghĩ chưa đáp, nàng Yên lại nói: - Thiếp không những chỉ lo thế mà thôi đâu, tướng quốc cầm quyền lâu ngày, nhiều lúc thất lễ với các anh em vua, anh em vua mà được lên, thì họa sẽ đến thân ngay, há phải chỉ mất cái ấp phong ở Giang Đông mà thôi ư? Hoàng Yết ngạc nhiên nói: - Ta không nghĩ đến điều đó, vậy biết tính thế nào? Lý Yên nói: - Thiếp có một kế không những tránh họa mà lại nhiều phúc, nhưng nghĩ xấu hổ, không dám nói ra, và nói ra chưa chắc tướng quốc đã nghe cho, nên thiếp lại không dám nói. Hoàng Yết nói: - Nàng vì ta nghĩ kế, khi nào ta lại không nghe. Lý Yên nói: - Thiếp ngày nay mới có mang, còn chưa ai biết, lại may thiếp hầu tướng quốc chưa lâu, nếu tướng quốc đem dâng thiếp lên vua Sở, vua tất yêu thiếp, thiếp nhờ Trời sinh được con trai, ngày sau được làm con nối, thế là con trai tướng quốc được lên làm vua, như vậy là chiếm được cả nước Sở, chẳng hơn là chịu không mà rồi còn e bị cái họa tày trời nữa ư? Hoàng Yết nghe nói như người ngủ mê mới tỉnh, cả mừng nói rằng: - Thiên hạ có người đàn bà khôn ngoan như thế, thực hơn bọn đàn ông nhiều. Hôm sau, cho đòi ngay Lý Viên vào, bảo lấy ý ấy, mật đem Lý Yên ra ở nhà riêng, Hoàng Yết vào nói với vua Sở rằng: - Tôi nghe em gái Lý Viên tên là Yên, có sắc đẹp, có tướng nhiều con, vua Tề đang sai người đến tìm, vua nên cho người đến trước đòi ngay vào cung. Vua Sở liền sai nội thị ra đòi Lý Yên vào cung, Yên lại khéo chiều nịnh, vua Sở rất là yêu mến. Đến kỳ ở cữ, sinh đôi được hai con trai, trưởng là Hãn, thứ là Do. Vua Sở mừng quá, bèn lập Lý Yên làm vương hậu, con trưởng là Hãn làm thái tử, Lý Viên làm quốc cữu, được tin dùng làm việc ngang nhau với Hoàng Yết. Lý Viên là người có nhiều trá thuật, ngoài mặt thờ Hoàng Yết rất kính cẩn mà trong lòng thực ghen ghét. Kịp khi vua Sở ốm nặng mãi không khỏi, Lý Viên nghĩ đến việc em gái có mang sẵn, chỉ có Hoàng Yết biết, ngày sau thái tử làm vua, ở với nhau không tiện, chi bằng giết đi cho kín chuyện, bèn sai người đi tìm các tay dũng sĩ, đem về nuôi ở trong nhà, cho ăn mặc rất hậu để lấy lòng. Người khách là Chu Anh dò biết mưu ấy bèn đến yết kiến Hoàng Yết nói rõ cho biết và xin vì Hoàng Yết giết chết Lý Viên để khỏi di hại về sau. Hoàng Yết vuốt râu cười khà khà nói rằng: - Lý Viên là người hèn yếu, vả lại thờ ta rất kính cẩn, khi nào lại có việc ấy. Chu Anh nói: - Bây giờ ngài không nghe tôi, đến lúc hối thì đã muộn rồi. Hoàng Yết bảo Chu Anh hãy lui về, để xét xem sao đã, nếu có cần dùng sẽ cho mời đến. Chu Anh lui ra, cách ba ngày vẫn không thấy Hoàng Yết làm gì, biết là không nghe lời mình, sợ ở lại sẽ bị vạ lây, liền chẳng từ biệt, bỏ đi đến ẩn ở Ngũ Hồ. Chu Anh đi được 17 ngày thì vua Sở chết. Lý Viên đã dặn sẵn nội thị ở trong cung nếu có sự biến thì trước hết báo cho mình biết. Lúc ấy được tin, liền đi ngay vào cung, bí mật không phát tang, sai tử sĩ phục ở trong, đợi đến lúc mặt trời lặn mới sai người ra báo Hoàng Yết. Hoàng Yết cả sợ, không bàn với tân khách, liền sai sắp xe đi ngay đến cửa môn, tử sĩ hai bên xông ra, miệng nói vâng theo mật chỉ của vương hậu, Hoàng Yết mưu phản nên giết. Hoàng Yết biết việc biến, vội muốn quay xe ra, các thủ hạ đã bị giết hết. Lý Viên bèn chém đầu Hoàng Yết quăng ra ngoài thành, đóng chặt cửa thành lại rồi mới phát tang, lập thái tử Hãn lên nối ngôi, đó là U Vương, bấy giờ mới lên sáu tuổi. Lý Viên tự làm tướng quốc, một mình chuyên chính, tôn Lý Yên làm vương thái hậu, truyền lệnh giết hết cả họ Hoàng Yết, thu lại ấp ăn lộc. Từ khi Lý Viên cầm quyền, các tân khách của Hoàng Yết đều tan đi hết, các Công tử cũng đều bị xa bỏ, không được làm việc gì, vua thì còn bé, vương hậu thì góa, chính sự ngày thêm rối loạn, nước Sở càng ngày càng suy. Lại nói Lã Bất Vi giận việc năm nước hợp binh đánh Tần, người chủ mưu là Bàng Noãn tướng nước Triệu, bèn sai Mông Ngao cùng Trương Đường đốc năm vạn quân đi đánh Triệu, lại sai Trường An Quân là Thành Kiệu cùng Phàn Ô Kỳ đem năm vạn quân đi sau tiếp ứng. Có người khách hỏi Bất Vi rằng: - Trường An Quân còn bé, e không thể làm được đại tướng. Bất Vi mỉm cười nói rằng: - Điều đó không phải nhà ngươi có thể biết được. Vua Triệu được tin quân Tần đến đánh, lại cử Bàng Noãn làm đại tướng đem 10 vạn quân cự địch. Bàng Noãn vốn là tay kiện tướng có nhiều mưu trí, lại được quân Triệu đều một lòng quyết chết, bổ vây được tướng Tần là Trương Đường ở Đô Sơn. Mông Ngao đem quân đến cứu và đánh thành, nhưng quân Triệu gặp được quân cứu lại càng ra sức phòng giữ, bọn Mông Ngao không sao đánh được, phải sai sứ giả trở lại Đồn Lưu giục Trường An Quân kíp đem quân đến. Trường An Quân Thành Kiệu mới có 17 tuổi, không hiểu việc quân, triệu Phàn Ô Kỳ vào bàn. Ô Kỳ vốn biết việc Bất Vi đem người thiếp chửa sẵn dâng vua Tần để mưu chiếm nước, bèn xin đuổi các người tả hữu ra ngoài rồi kể rõ đầu đuôi việc ấy cho Thành Kiệu nghe và nói: - Vua nay không phải là cốt huyết của tiên vương, chính ngài mới là đích tử. Văn Tín Hầu ngày nay đem binh quyền giao cho ngài không phải là ý tốt đâu, sợ lỡ ra mà việc ấy tiết lộ, thì tất ngài sẽ làm khó khăn cho vua bây giờ, cho nên giả ý làm ơn, thực là muốn đuổi ngài ra bên ngoài. Văn Tín Hầu ra vào cung cấm cùng thái hậu thông dâm, không còn ai ngăn cấm, vợ chồng cha con họp ở một nơi, chỉ ghen ghét một mình ngài mà thôi. Nếu Mông Ngao bị thua, tất sẽ mượn cớ để bắt tội ngài, nhẹ thì tước tịch, nặng thì giết chết, cơ đồ họ Doanh, hóa làm họ Lã, người trong nước ai nấy đều biết là một việc càn rỡ, về phần ngài cũng nên mưu tính đi. Thành Kiệu nói: - Nếu túc hạ không nói ra, thì tôi không biết đấy, ngày nay nên làm thế nào? Phàn Ô Kỳ nói: - Nay Mông Ngao bị khốn ở Triệu, chưa thể về được, mà ngài tay cầm trọng binh, nếu truyền hịch kể tội gian dâm của chúng, và nói rõ việc gian trá ở trong cung đình, thần dân tất sẽ vui theo mà tôn ngài lên ngôi để chủ xã tắc. Thành Kiệu hăng hái vỗ gươm nói rằng: - Đại trượng phu chết thì chết, khi nào lại chịu khuất tất làm tôi tớ cho thằng lái buôn! Việc ấy xin tùy ý tướng quân mưu tính. Phàn Ô Kỳ bèn nói dối sứ giả về báo Mông Ngao là đại quân sắp đến, nên phòng giữ cho cẩn mật. Sứ giả đi rồi, Phàn Ô Kỳ liền thảo tờ hịch phát đi các nơi, trong tờ hịch dùng lời Thành Kiệu kể tội Bất Vi, và nói rõ vua Tần ngày nay là con Lã Bất Vi, xin cùng thần dân cùng trừ kẻ gian tặc, lời lẽ hùng hồn và thống thiết lắm. Hịch văn đã phát đi, Phàn Ô Kỳ liền đánh lấy hai thành Trường Tử và Hồ Quan để được mạnh thêm thế lực. Người nước Tần vẫn nghe việc Lã Bất Vi dâng thiếp, lúc ấy lại nghe những lời kể trong tờ hịch đều tin làm thực, nhưng đều sợ oai Lã Bất Vi, không nơi nào dám hưởng ứng cả. Trương Đường được tin Thành Kiệu làm phản, vội chạy về Hàm Dương cáo cấp. Vua Tần thấy tờ hịch cả giận, đòi Lã Bất Vi vào bàn kế. Bất Vi nói: - Thành Kiệu tuổi bé không biết gì, chắc là Phàn Ô Kỳ xui xiểm. Ô Kỳ hữu dũng vô mưu, hễ đem quân đến là bắt được ngay, không can chi phải quá lo. Bèn cử Vương Tiễn làm đại tướng, Hàm Xỉ, Vương Bí làm tả hữu tiên phong, đem một vạn quân đi đánh Trường An Quân. Lại nói Mông Ngao chống nhau với Bàng Noãn, chờ mãi không thấy Trường An Quân đem quân đến tiếp ứng. Còn đang nghi hoặc bỗng tiếp được hịch văn, cả sợ nói rằng: - Ta cùng Trường An Quân đồng sự, nay đánh Triệu không công mà Trường An Quân lại làm phản tất ta cũng bị tội lây, chi bằng quay lại đánh kẻ nghịch tặc ấy để gỡ tội mình. Bèn truyền lệnh rút quân, chia quân làm ba đội, tự mình đi đoạn hậu, không ngờ đi đến nửa chừng bị quân Triệu phục ở hai bên đường xông ra đánh. Mông Ngao mình bị trọng thương, còn ra sức giết vài mươi người, tự tay bắn đại tướng Triệu là Bàng Noãn tin bên phải sườn. Quân Triệu vây đến mấy vòng, tên bắn tủa vào như lông nhím, Mông Ngao bị thương nặng chết ở dưới núi Thái Hàng. Bàng Noãn đắc thắng, đem quân về Triệu, vì vết thương bị bắn không khỏi, nên chẳng bao lâu cũng chết. Lại nói bọn Trương Đường, Vương Tiễn mang quân đến Đồn Lưu, Thành Kiệu sợ quá. Phàn Ô Kỳ nói: - Vương tử ngày nay đã thành ra cái thế cưỡi hổ, không xuống được nữa, phương chi còn có 15 vạn quân, liều đánh một trận, chưa biết ai được ai thua, can chi mà sợ. Bèn bày trận ở dưới thành để đợi, Vương Tiễn cũng bày trận đợi đánh, bảo Phàn Ô Kỳ rằng: - Nước nhà có phụ gì mày, mà mày lại dụ Trường An Quân làm phản. Phàn Ô Kỳ đáp rằng: - Tần Chính tức là con gian sinh của Lã Bất Vi, ai cũng biết thế, chúng ta đời chịu ơn nước, nỡ nào nhìn hương hỏa họ Doanh vào tay họ Lã. Trường An Quân mới thật là con của tiên vương, nên tôi mới tôn lên, nếu tướng quân còn nhớ tiên vương nên cùng kéo quân thẳng vào Hàm Dương, trừ đứa dâm, giết vua ngụy, tôn lập Trường An Quân làm vua, tướng quân không mất vị phong hầu, cùng hưởng phú quí há chẳng hay lắm ru? Vương Tiễn nói: - Thái hậu có mang 10 tháng mới sinh, nay vua tức là con tiên quân đẻ ra, mày dám đặt điều ô miệt đại vương, làm nên cái việc nguy hiểm ấy, lại còn nói khéo làm rối lòng quân, hễ ta bắt được sẽ chặt thây làm mười đoạn. Phàn Ô Kỳ cả giận hầm hầm múa đao xông vào, quân Tần thấy dữ tợn lắm, đều tan chạy cả. Vương Tiễn thấy Ô Kỳ kiêu dũng như thế, khó đánh được, phải dùng kế bắt sống. Rồi một mặt sai Dương Đoan Hòa là khách cũ của Trường An Quân đem phong thư đến thành Lưu Đồn lẻn giao cho Trường An Quân, khuyên mau mau qui thuận: Một mặt sai Hoàn Xử dẫn một toán quân đánh thành Trường Tử, Vương Bí dẫn một toán quân đánh thành Hồ Quan. Vương Tiễn tự đánh thành Đồn Lưu; ba nơi cùng đánh, khiến Phàn Ô Kỳ không thể ứng phó kịp. Phàn Ô Kỳ bảo Thành Kiệu rằng: - Nay nhân lúc nó chia quân, quyết một trận được thua, nếu Trường Tử và Hồ Quan không giữ được, quân Tần thế to lại càng khó địch lắm. Thành Kiệu tuổi bé rất sợ, khóc lóc nói rằng: - Việc này tự tướng quân xướng ra, chỉ nhờ ở tướng quân liệu định, chớ làm lỡ việc tôi. Phàn Ô Kỳ liền kén hơn một vạn tinh binh, mở cửa ra đánh, Vương Tiễn giả cách thua một trận, lui quân đóng ở đồn Phúc Long. Ô Kỳ đắc thắng vào thành, Dương Đoan Hòa đổi lốt giả làm quân của Ô Kỳ nhập bọn lẻn vào trong thành. Thành Kiệu hỏi Phàn Ô Kỳ rằng: - Binh mã của Vương Tiễn không lui biết làm thế nào? Phàn Ô Kỳ đáp rằng: - Ngày nay đánh nhau, quân nó thua đã nhục lắm, ngày mai đem hết quân ra đánh quyết bắt sống Vương Tiễn, thẳng vào Hàm Dương, dựng Vương tử lên làm vua mới thỏa chí tôi. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 104 Cam La còn bé làm quan lớn Lao Ái gian dâm loạn cung Tần Bấm để xem Lại nói Vương Tiễn đóng quân ở núi Phục Long. Phàn Ô Kỳ luôn mấy ngày đều đem hết quân tinh nhuệ đến khiêu chiến, nhưng Vương Tiễn bền giữ không ra. Ô Kỳ cho là Vương Tiễn hèn nhát, toan chia quân đi cứu Trường Tử, Hồ Quan, thì đã được tin hai thành ấy thất thủ, sợ quá, bèn lập đồn ở ngoài thành để cho Trường An Quân được yên lòng. Vương Tiễn đã lấy được hai thành Trường Tử, Hồ Quan, chắc là thành Đồn Lưu cô thế, định kéo đại binh đến đánh, thì vua Tần sai sứ đến, một là để khao thưởng quân lính, hai là bảo cho Vương Tiễn biết vua Tần rất căm giận Ô Kỳ, cần phải bắt sống giải về để tự tay vua Tần chém giết mới hả lòng. Vương Tiễn liền dẫn đại quân đến đánh Đồn Lưu. Lại nói Thành Kiệu nghe tin mất hai thành, sai người kíp đòi Phàn Ô Kỳ vào bàn. Ô Kỳ nói: - Sớm chiều hôm nay quyết đánh một trận, nếu đánh không được, xin cùng Vương tử chạy sang Yên, Triệu liên hợp chư hầu cùng giết ngụy vương để yên xã tắc. Nói xong Ô Kỳ lại trở về bản dinh, được tin tướng Tần là Tân Thắng đến khiêu chiến, Ô Kỳ liền mang quân ra đón đánh, chừng vài hiệp Tân Thắng bỏ chạy. Ô Kỳ cậy sức khỏe đuổi theo, được chừng năm dặm, gặp hai toán phục binh xông ra đánh. Ô Kỳ thua to, vội thu quân về, thì quân Vương Tiễn đã dàn khắp dưới thành. Ô Kỳ hăng hái ra oai, đánh lấy lối đi để vào trong thành. Vương Tiễn hợp quân lại bổ vây bốn mặt đánh phá rất gấp. Ô Kỳ thân tự đi tuần thành, mỗi ngày đêm không biết mỏi mệt. Dương Đoan Hòa ở trong thành thấy sự thế đã nguy lắm rồi nhân ban đêm liền xin vào yết kiến Thành Kiệu, nói rõ lẽ lợi hại, thế mạnh yếu của Thành Kiệu đối với vua Tần và nói Thành Kiệu nghe Phàn Ô Kỳ mà đánh lại vua Tần là việc rất nguy hiểm. Thành Kiệu tỏ ý hối hận và hỏi nên làm thế nào. Đoan Hòa liền đưa ra bức mật thư của Vương Tiễn. Thành Kiệu mở ra xem, đại ý nói: "Như ngài, kể thân thì là em vua, kể quí thì là phong hầu, cớ sao lại nghe lời nói không đâu, làm việc rất nguy hiểm, tự cầu lấy cái chết, há chẳng đáng tiếc lắm ru. Kẻ thủ xướng là Phàn Ô Kỳ, nếu ngài chém lấy đầu nó đem nộp, rồi bó tay chịu tội, tôi xin bảo tấu vua tha ngài, nếu chậm không quyết, tất hối không kịp". Thành Kiệu xem xong chảy nước mắt nói rằng: - Phàn tướng quân là người trung nghĩa, khi nào tôi lại nỡ lòng giết chết cho được. Đoan Hòa thấy Thành Kiệu không nghe lời toan bỏ đi, Thành Kiệu cố lưu lại. Hôm sau, Phàn Ô Kỳ vào yết kiến. Phàn Ô Kỳ nói rằng: - Quân Tần thế mạnh, lòng người sợ hãi, thành này sẽ mất đến nơi rồi, xin cùng Vương tử chạy sang Yên, Triệu, để lại tính cuộc sau. Thành Kiệu nói: - Họ hàng tôi đều ở Hàm Dương, nay đi sang nước khác, biết người ta có nhận không? Phàn Ô Kỳ nói: - Các nước đều khổ về nước Tần hung bạo, lo gì người ta chẳng nhận. Đang nói, có tin báo là quân Tần khiêu chiến ở phía Nam, Phàn Ô Kỳ thúc giục mấy lần bảo rằng: - Bây giờ Vương tử không đi, sau này không thể ra được nữa. Thành Kiệu do dự không quyết, Phàn Ô Kỳ lại phải cầm đao lên xe đi ra cửa Nam đánh nhau với quân Tần. Dương Đoan Hòa bảo Thành Kiệu lên thành xem đánh nhau, thấy Ô Kỳ cố đánh hồi lâu. Quân Tần càng tiến. Ô Kỳ không chống nổi phải chạy về dưới thành gọi to bảo mở cửa. Dương Đoan Hòa cầm kiếm đứng bên Thành Kiệu, thét to rằng: - Trường An Quân đã đem cả thành đầu hàng rồi, Phàn Ô Kỳ đi đâu thì đi, đứa nào dám mở cửa phải chém đầu. Nói rồi lấy ở trong tay áo ra một lá cờ trên có chữ "hàng". Các người chung quanh đều là thân thích với Đoan Hòa, bèn dựng cờ hàng lên không kể gì đến Thành Kiệu. Thành Kiệu chỉ chảy nước mắt khóc mà thôi. Ô Kỳ thở dài nói rằng: - Thằng nhãi con này không bõ giúp! Quân Tần vây Ô Kỳ mấy vòng, vì có mệnh vua Tần muốn bắt sống Ô Kỳ, nên không dám bắn tên ngầm. Ô Kỳ lại liều chết đánh lấy lối ra, chạy sang Yên, Sở; Vương Tiễn đuổi theo không kịp. Dương Đoan Hòa bảo Thành Kiệu mở cửa để đón quân vào thành. Vương Tiễn sai đem giam Thành Kiệu vào công quán, khiến người về Hàm Dương báo tiệp và xin nghị xử Thành Kiệu như thế nào. Tần thái hậu xõa tóc xin tha chết cho Thành Kiệu, và xin Lã Bất Vi nói hộ. Tần Vương Chính giận nói rằng: - Quân phản tặc không giết đi, trong chỗ cốt nhục chúng nó sẽ làm phản hết. Rồi sai sứ truyền lệnh cho Vương Tiễn chém Thành Kiệu bêu đầu ngay ở Đồn Lưu, phàm quân lại theo Thành Kiệu lại bị chém cả, nhân dân ở trong thành ấy đều dời đến Lâm Thao, một mặt treo thưởng mua Phàn Ô Kỳ, ai bắt được đem nộp, thưởng cho năm thành. Sứ giả đến Đồn Lưu truyền lệnh vua Tần, Thành Kiệu nghe không được tha, tự thắt cổ chết ở quán xá. Vương Tiễn sai chặt đầu đem bêu ở cửa thành, quân lại bị giết đến vài vạn người, nhân dân bị dời đi hết, trong thành sạch không. Lại nói Tần Vương Chính tuổi đã trưởng thành, mình dài 8 thước 5 tấc, anh vĩ lạ thường, tư chất thông minh, chí khí cao việt, việc gì cũng tự chủ trương lấy, không để cả cho thái hậu và Lã Bất Vi quyết định nữa. Đã định việc loạn Trường An Quân, lại muốn báo cái thù cho Mông Ngao, họp quần thần bàn việc đánh Triệu, theo kế của Thái Trạch, sang dụ Yên bỏ Triệu theo Tần để cho Triệu phải cô thế, rồi sẽ cùng Yên đánh Triệu. Kế ấy được thành, vua Yên bèn sai thái tử Đan sang làm con tin ở Tần và xin Tần cho một viên đại thần sang làm tướng nước Yên. Lã Bất Vi muốn sai Trương Đường đi, Trương Đường nghĩ mình mấy lần đi đánh Triệu, người Triệu thù oán lắm, nay sang Yên, tất phải đi qua Triệu, vậy không thể đi được. Bất Vi hai ba lần nài ép. Trương Đường vẫn một mực không nghe. Bất Vi trở về phủ, có ý buồn bã không vui. Môn hạ khách có Cam La, tức là cháu Cam Mậu, mới 12 tuổi, hỏi rằng: - Trong lòng thừa tướng có nghi sự gì? Bất Vi nói: - Trẻ con biết gì mà dám hỏi ta! Cam La nói: - Đã là khách ở nhà ngài đây, là phải cùng ngài chia lo sẻ buồn, ngài có việc mà không cho tôi biết, dù tôi có muốn hết lòng cũng không làm sao được. Bất Vi nói: - Nay Yên đã theo Tần, và đã sai thái tử Yên sang làm con tin rồi, ta muốn sai Trương Đường sang làm tướng nước Yên, mà hắn không chịu đi, nên ta lấy làm buồn lắm. Cam La nói: - Đó là việc nhỏ, sao không nói trước, để tôi bảo cho. Bất Vi giận mắng rằng: - Bước! Bước! Ta tự đến nhà bảo mà hắn còn chẳng nghe, nữa là thằng trẻ con mà lại bảo được à? Cam La nói: - Xưa kia Hạng Thác lên bảy tuổi đã làm thầy Khổng Tử, nay tôi 12 tuổi, còn lớn hơn Thác năm tuổi, hãy cứ để tôi đi, nếu không được việc, bấy giờ sẽ mắng, sao ngài lại quá khinh người mà làm mặt giận dữ vậy? Bất Vi nghe lời nói lấy làm lạ, bèn đổi sắc mặt tạ rằng: - Nếu cậu có thể khiến Trương Khanh đi được, việc thành tôi sẽ cho cậu làm quan khanh. Cam La hớn hở ra đi, đến yết kiến Trương Đường. Đường dẫu biết là môn khách nhà Văn Tín Hầu, nhưng khinh còn bé, hỏi rằng: - Cậu đến đây có việc gì? - Tôi đến viếng ngài đây! Trương Đường nói: - Tôi có việc gì mà viếng? Cam La nói: - Công ngài ví với Vũ An Quân thế nào? Đường nói: - Công Vũ An Quân to lắm, tôi đây không bằng một phần mười. Cam La nói: - Vậy thì Ứng Hầu làm tướng ở Tần so với Văn Tín Hầu, ai được chuyên quyền hơn? Trương Đường nói: - Ứng Hầu không được chuyên quyền bằng Văn Tín Hầu. Cam La nói: - Ngài biết rõ quyền của Văn Tín Hầu trọng hơn Ứng Hầu đấy chứ? Đường nói: - Làm sao không biết. Cam La nói: - Xưa Ứng Hầu muốn sai Võ An Quân đi đánh Triệu, Võ An Quân không chịu đi. Ứng Hầu nổi giận, mà Võ An Quân phải bỏ Hàm Dương đi, chết ở Đỗ Bưu. Nay Văn Tín Hầu tự mời ngài sang làm tướng nước Yên, mà ngài không chịu đi, cái điều mà Ứng Hầu không thể dung được Võ An Quân, thì Văn Tín Hầu lại dung được ư? Vậy ngài sắp phải chết đến nơi. Trương Đường run rẩy ra ý sợ hãi nói rằng: - Cậu cứu tôi! Bèn nhờ Cam La xin lỗi Bất Vi, lập tức sai sắp sửa hành trang. Cam La vào yết kiến Bất Vi nói rằng: - Trương Đường nghe lời tôi bất đắc dĩ mà phải đi đến Yên, nhưng trong lòng vẫn sợ Triệu, xin cho tôi mượn năm cỗ xe vì Trương Đường sang báo Triệu trước. Bất Vi đã biết tài của Cam La, vào nói với vua Tần rằng: - Có người cháu Cam Mậu tên là Cam La, tuổi dẫu còn bé, nhưng con cháu danh gia rất có trí mưu và tài hùng biện, nay Trương Đường xưng bệnh không chịu đi làm tướng nước Yên. Cam La đến nói là đi ngay. Cam La lại xin đi báo vua Triệu trước, xin đại vương truyền lệnh cho đi. Vua Tần cho đòi Cam La vào triều kiến, thấy mình cao chỉ năm thước, mày mắt xinh đẹp như vẽ, vua Tần mừng lắm, nói rằng: -Bé con sang yết kiến vua Triệu thì nói thế nào? Cam La nói: - Xét xem cái vẻ mừng rỡ, liệu chiều mà nói, như sóng nổi theo gió mà chuyển, không thể dự định được. Vua Tần cấp cho mười cỗ xe, trăm người hầu đi theo sang Triệu. Vua Triệu đã nghe tin hai nước Yên, Tần thông hiếu, đang sợ hai nước hợp sức đánh Triệu, bỗng có tin báo sứ Tần đến, mừng quá, bèn ra khỏi ngoài thành 20 dặm, đón tiếp Cam La, đến khi thấy người còn bé, trong lòng lấy làm lạ lắm, hỏi rằng: - Xưa kia vì Tần thông đường Tam Xuyên, cũng người họ Cam, đối với tiên sinh là người thế nào? Cam La nói: - Đó là ông nội tôi. Vua Triệu nói: - Tiên sinh năm nay bao nhiêu tuổi? Cam La nói: - Tôi 12 tuổi. Vua Triệu nói: - Tại triều đình Tần, những người lớn không đáng làm sứ giả hay sao, mà lại cử đến tiên sinh? Cam La nói: - Vua Tần dùng người đều tùy sức làm việc, người lớn thì dùng làm việc lớn, người bé thì dùng làm việc bé, tuổi tôi bé nhất, cho nên sai sang sứ Triệu. Vua Triệu thấy Cam La nói năng lỗi lạc, lại càng lấy làm lạ, hỏi rằng: - Tiên sinh hạ cố đến đây, có điều gì dạy bảo? Cam La nói: - Đại vương có nghe thái tử Đan nước Yên vào làm con tin ở Tần không? Vua Triệu nói: - Tôi có nghe tin. Cam La nói: - Đại vương có nghe Trương Đường sang làm tướng nước Yên không? Vua Triệu nói: - Tôi cũng có nghe tin. Cam La nói: - Thái Tử Đan vào làm con tin ở Tần, thế là Yên không lừa Tần; Trương Đường sang làm tướng Yên, đó là Tần không lừa Yên; Yên, Tần không lừa dối nhau thì Triệu nguy mất. Vua Triệu nói: - Tần vì ý gì lại thân Yên? Cam La nói: - Tần mà thân Yên, là muốn sang đánh Triệu, để cho rộng đất Hà Gian. Đại vương chi bằng cắt năm thành dâng Tần để rộng đất Hà Gian, tôi xin nói với vua Tần, không cho Trương Đường đi nữa, tuyệt nước Yên mà kết hiếu với Triệu, rồi lấy nước Triệu mạnh đánh nước Yên yếu, mà Tần không cứu, thì cái lợi chiếm được, há chỉ năm thành mà thôi ru? Vua Triệu bằng lòng lắm, cho Cam La trăm cân hoàng kim, hai đôi bạch bích, đem địa đồ năm thành giao cho, sai về báo vua Tần. Vua Tần nói rằng: - Đất Hà Gian nhờ bé con mà rộng thêm ra được, trí khôn của bé con thực to hơn người. Rồi không cho Trương Đường đi nữa, Trương Đường cũng cám ơn Cam La lắm. Triệu nghe Trương Đường không đi, biết Tần không giúp Yên nữa, bèn sai Bàng Noãn, Lý Mục hợp quân đánh Yên, lấy được 30 thành Thượng Cốc, Triệu được 19 thành mà đem 11 thành nộp Tần. Vua Tần phong Cam La làm thượng khanh, lại lấy những ruộng nhà phong cho Cam Mậu trước ban cho, tục truyền Cam La 12 tuổi làm thừa tướng là gốc ở truyện ấy. Thái tử Đan nước Yên ở Tần, nghe Tần đã bỏ Yên mà thân Triệu, áy náy lo sợ, muốn trốn về, lại sợ không ra lọt cửa quan được, bèn cầu làm bạn với Cam La, muốn nhờ mưu hộ cái kế trở về Yên. Bỗng một đêm, Cam La nằm mộng thấy người mặc áo tía cầm thẻ nhà trời đi đến nói là vâng mệnh Thượng Đế, đòi về trên trời, rồi không ốm đau gì mà mất, tài cao không sống lâu, tiếc thay! Thái tử Đan đành chịu ở lại nước Tần. Lại nói Lã Bất Vi vì sức khỏe, được Trang Tương Hậu yêu lắm, ra vào cung cấm, vốn không kiêng sợ gì, đến khi thấy vua Tần tuổi đã lớn, thông minh hơn người, mới có ý sợ, nhưng thái hậu càng ngày càng đa dâm, thường đòi vào cung Cam Toàn. Bất Vi sợ lỡ ra việc phát, thì họa đến mình, muốn tiến một người để thay, nghĩ cho được vừa lòng Thái hậu, mà khó tìm người lắm. Nghe nói có người tên là Lao Ái, dương vật to có tiếng, những kẻ dâm phụ ở trong xóm tranh nhau thờ, tiếng nước Tần gọi kẻ vô hạnh là "Ái", nên gọi là Lao Ái. Lao Ái bỗng phạm tội dâm, Bất Vi cố ý tha cho, để làm xá nhân ở trong phủ. Tục nước Tần khi làm ruộng xong, trong nước mở cuộc vui chơi ba ngày, để bỏ công khó nhọc, các trò chơi ai muốn bày trò gì mặc ý, ai có cái hay cái khéo, hôm ấy đều đem ra phô bày. Lã Bất Vi lấy thứ gỗ vồng làm bánh xe, sai Lao Ái xỏ dương vật vào giữa bánh xe, bánh xe quay tít mà dương vật không việc gì, người trong chợ đều cười ầm. Thái Hậu nghe việc ấy, riêng hỏi Lã Bất Vi, dường như có ý mến. Bất Vi nói: - Thái hậu muốn thấy người ấy không? Tôi xin chờ dịp tiến vào. Thái hậu cười mà không đáp, hồi lâu nói rằng: - Nhà ngươi nói đùa đấy ư? Người ngoài khi nào lại được vào nội cung. Bất Vi nói: - Tôi có một kế, sai người phát giác tội cũ của nó, bắt đem thiến đi, thái hậu sẽ đút nhiều tiền cho kẻ hành hình bảo thiến dối, rồi cho nó làm hoạn quan vào hầu trong cung, mới được lâu dài. Thái hậu mừng quá nói rằng: - Kế ấy rất diệu. Bèn lấy trăm nén vàng giao cho Lã Bất Vi. Bất Vi mật gọi Lao Ái vào bảo cho biết, Ái tính dâm, hớn hở cho là một sự kỳ ngộ. Bất Vi quả sai người phát giác cái dâm tội của nó, bắt phải đem thiến, rồi đem trăm nén vàng đút cho viên quan hành hình, lấy dương vật con lừa và thứ máu khác giả làm thiến Lao Ái, cạo râu đi. Kẻ hành hình lại cố ý đem dương vật con lừa giơ cho các người chung quanh xem, ai nấy đều cho quả là dương vật của Lao Ái. Lao Ái đã thiến giả làm như hình hoạn quan, đi lẫn vào trong bọn nội thị, dâng vào thái hậu, để ở hầu trong cung, đêm đến phải hầu ngủ, để thái hậu thử dùng, thấy thỏa thích quá, cho là gấp mười Lã Bất Vi, hôm sau hậu thưởng Bất Vi để đền lại công lao, từ đó Bất Vi mới được thoát. Thái Hậu cùng Lao Ái ở với nhau như vợ chồng, không bao lâu có mang. Thái hậu khi sinh nở không thể giấu được, nói dối là có bệnh, sai Lao Ái đem tiền đút cho thầy bói, bảo là dối là ở trong cung có ma, nên tránh ra ngoài 200 dặm ở phương Tây. Vua Tần hơi nghi về việc Lã Bất Vi, nay thái hậu đi ở xa, tuyệt đường lại, nhân Ung Châu cách Hàm Dương 200 dặm có cung điện sẵn, bèn mời thái hậu ra ở đó. Thái hậu liền đi ra Ung Thành, ở vào một tòa cung điện cũ, gọi là Đại Trịnh cung. Lao Ái và thái hậu lại càng thân mật nhau, không còn kiêng nể gì, trong hai năm đẻ luôn hai đứa con trai, làm một cái nhà kín để nuôi, thái hậu lại ước riêng với Lao Ái là mai sau vua mất đi sẽ lấy một đứa con trai làm con nối, người ngoài hơi có biết, nhưng không ai dám nói. Thái hậu tâu nói Lao Ái thay vua nuôi hầu có công, xin phong đất cho. Vua Tần vâng mệnh thái hậu; phong Lao Ái làm Trường Tín Hầu, cho đất Sơn Dương. Ái bỗng được quí hiển, lại càng hung hăng, thái hậu mỗi ngày lại ban thưởng cho rất nhiều, cửa nhà xe ngựa, săn bắn chơi bời, muốn làm gì mặc ý, bất cứ việc lớn nhỏ, đều do Lao Ái quyết định. Ái lại nuôi vài nghìn tên gia đồng, các tân khách cầu được tiến đạt, đến xin làm xá nhân, cũng hơn nghìn người, lại đút tiền giao kết những người có thế lực ở trong triều làm bè đảng, những kẻ xu phụ quyền thế thi nhau đến theo, thanh thế lại to hơn Văn Tín Hầu Lã Bất Vi. Mùa xuân năm thứ 9, có sao chổi mọc, đuôi dài khắp trời, thái sử xem ra trong nước sẽ có binh biến. Thái hậu ở Ung Thành, vua Tần mỗi năm đến kỳ tế giao đến đó triều kiến và làm lễ tế giao nhân thể, tại đó đã có cung Kỳ Niên để vua ở. Năm ấy vừa đến kỳ tế giao, lại có biến sao chổi, khi ra đi, sai đại tướng Vương Tiễn diễu binh ở Hàm Dương ba ngày cùng Lã Bất Vi giữ nước, Hoàn Xỉ dẫn ba vạn quân đóng ở Kỳ Sơn, rồi mới đi. Bấy giờ vua Tần đã 26 tuổi, còn chưa làm lễ đội mũ, thái hậu sai làm lễ đội mũ đeo gươm ở miếu Đức Công, cho trăm quan uống rượu luôn năm ngày, thái hậu cũng cùng vua Tần ăn yến ở cung Đại Trịnh. Lao Ái cùng các tả hữu quí thần đánh bạc uống rượu, đến ngày thứ tư, Lao Ái cùng quan trung đại phu Nhan Tiết đánh bạc bị thua luôn, khi uống say, lại cầu đánh nữa. Tiết say rượu không chịu đánh. Lao Ái chạy đến nắm lấy Nhan Tiết tát vào má, Tiết không chịu, cũng giật lấy giải mũ của Lao Ái. Ái giận lắm, trợn mắt mắng rằng: - Ta đây là giả phụ của vua, mày là con nhà hèn mạt, lại dám chống nhau với ta à? Nhan Tiết sợ chạy ra, thì vừa gặp vua Tần, uống rượu ở trong cung thái hậu đi ra. Nhan Tiết phục xuống đất dập đầu kêu khóc xin chết. Vua Tần là người có tâm cơ, không nói gì, sai tả hữu dắt Tiết đến cung Kỳ Niên rồi mới hỏi. Nhan Tiết đem việc Lao Ái tát mình và tự xưng là giả phụ kể hết một lượt, lại tâu Lao Ái thực không phải là hoạn quan, giả làm bị tội thiến, vào chầu riêng thái hậu, hiện đẻ hai con đều nuôi ở trong cung, không bao lâu sẽ mưu cướp nước. Vua Tần nghe nói giận lắm, mật lấy binh phù, sai đi triệu Hoàn Xỉ lập tức đem quân đến. Có tên nội sứ Tứ và tá qua Kiệt vốn lấy tiền của thái hậu và Lao Ái cùng làm đảng sống chết có nhau, biết việc nguy cấp, chạy vào mách Lao Ái. Bấy giờ Lao Ái đã tỉnh rượu, sợ quá, đêm vào cửa cung Đại Trịnh, cầu yết kiến thái hậu kể rõ sự tình và nói cái kế: "Ngày nay, nên nhân lúc Hoàn Xỉ chưa đem quân đến, đem hết quân cung kỵ vệ tốt, và tân khách xá nhân, đánh cung Kỳ Niên, may mà đánh phá được thì vợ chồng mình còn có thể giữ được nhau". Thái hậu nói: - Quân cung kỵ khi nào chịu nghe lệnh ta. Lao Ái nói: - Xin mượn ấn ngọc của thái hậu giả làm ngự bảo đem dùng nói dối là cung Kỳ Niên có giặc, vua có lệnh đòi tất cả quân cung kỵ đến cứu giá, chắc chúng nó phải nghe. Thái hậu bấy giờ tâm thần bối rối, nói: - Mặc chàng làm sao thì làm. Bèn lấy ấn giao cho Lao Ái. Ái làm giả ngự thư của vua Tần lại thêm tỉ văn của thái hậu, đòi tất cả cung vệ kỵ tốt và các tân khách xá nhân, đến giờ Ngọ hôm sau mới họp được đủ. Lao Ái cùng nội sử Tứ, tá qua Kiệt chia nhau thống suất kéo đến vây cung Kỳ Niên. Vua Tần trèo lên đài hỏi các quân vì ý gì lại vây cung. Các quân đều nói: - Trường Tín Hầu truyền nói là hành cung có giặc nên đến cứu giá. Vua Tần nói: - Trường Tín Hầu là giặc đó, chứ trong cung làm gì có giặc. Cung kỵ, vệ tốt nghe nói, một nửa tan đi, còn một nửa ở lại giở giáo cùng bọn tân khách xá nhân đánh nhau. Vua Tần hạ lệnh: Ai bắt sống được Lao Ái, thưởng tiền trăm vạn; giết chết chém đầu đến nộp, thưởng tiền 50 vạn; chém được đầu một đứa nghịch đảng; cho tước một bậc. Được lệnh, bọn hoạn quan và bọn mục nhân ngữ nhân đều liều chết ra đánh. Nhân dân nghe tin Lao Ái làm phản cũng cầm gậy đến giúp sức, bọn tân khách xá nhân bị giết đến vài trăm người. Lao Ái bị thua, đánh tháo ra cửa Đông chạy trốn, thì vừa gặp đại binh Hoàn Xỉ kéo đến bắt trói lại, cả bọn nội sử Tứ, tá qua Kiệt bị bắt giao cho ngục lại tra hỏi, đều thú thực cả. Vua Tần bèn tự đi đến cung Đại Trịnh sục tìm, bắt được hai đứa con gian sinh của Lao Ái ở trong nhà kín, sai tả hữu tra vào cái túi vải đem quật chết. Thái hậu đau xót ngấm ngầm không dám ra cứu, chỉ đóng cửa khóc lóc mà thôi. Vua Tần không vào triều yết mẹ, trở về cung Kỳ Niên, cho là lời quan thái sử nói nghiệm, ban cho 10 vạn tiền. Ngục lại dâng lời cung của Lao Ái, nói việc giả thiến vào cung, đều là cái kế của Văn Tín Hầu Lã Bất Vi, đồng đảng như bọn nội sử Tứ, tá qua Kiệt tất cả hơn 20 người. Vua Tần sai dùng xe xé xác Lao Ái ở ngoài cửa Đông, giết cả ba họ Tứ, Kiệt đều bêu đầu, bọn tân khách xá nhân của Lao Ái theo làm phản đánh nhau với quan quân đều bị giết, dù không dự vào việc làm loạn cũng bị rời xa ra khỏi đất Thục, tất cả hơn bốn nghìn nhà. Thái hậu đưa ấn ngọc cho đảng nghịch không đáng làm quốc mẫu, giảm bớt lộc nuôi, rời ra ở cung Hoắc Dương, đó là một cái ly cung rất nhỏ, sai ba trăm quân canh giữ, phàm có người ra vào đều phải xét hỏi cẩn thận. Thái hậu bấy giờ không khác gì một người tù vậy. Vua Tần dẹp yên loạn Lao Ái, trở về Hàm Dương. Lã Bất Vi sợ tội, giả cách xưng bệnh, không dám ra yết. Vua Tần muốn giết nốt, hỏi ý quần thần nhiều người cùng đảng với Bất Vi, đều nói Bất Vi phù lập tiên vương, có công lớn với xã tắc, phương chi Lao Ái chưa từng có tra hỏi đối điện, hư thực không bằng cớ, không nên bắt tội lây. Vua Tần bèn tha Bất Vi không giết, chỉ bãi chức thừa tướng. Hoàn Xỉ đánh giặc có công, được gia phong thêm cấp. Năm ấy tháng tư mùa hạ trời phát đại hạn, giáng sương tuyết, nhân dân nhiều người bị chết rét. Dân gian đều cho là vì vua Tần đày thái hậu, con không nhận mẹ, nên có điều lạ ấy. Quan đại phu là Trần Trung can rằng: - Thiên hạ không có người con nào không mẹ, nên đón thái hậu về Hàm Dương để hết đạo hiếu, may ra có thể chuyển được lòng trời. Vua Tần giận quá, sai lột quần áo Trần Trung ra đặt nằm trên đống gai móc mà đánh chết, phơi thây ở dưới cửa khuyết, yết thị rằng: - Còn ai đem việc thái hậu đến can, thì trông đây. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 105 Mao Tiêu cởi áo can vua Tần Lý Mục dùng kế lui Hoàn Xỉ Bấm để xem Lại nói sau khi Trần Trung bị giết, quần thần có nhiều người không sợ, lại càng cố can, ai can là vua Tần lại giết chết, bày thây ở dưới cửa khuyết, trước sau bị giết đến 27 người, thây chất thành đống. Bấy giờ vua Tề, vua Triệu cũng đến chầu, trông thấy đống thây, hỏi biết đều than thở chê thầm là người bất hiếu. Có người Thường Châu tên là Mao Tiêu, nhân đến chơi Hàm Dương, ở trong nhà trọ, người cùng trọ có nói đến việc ấy, Mao Tiêu căm tức nói rằng: - Con mà giam mẹ, thì còn trời đất nào nữa. Rồi bảo chủ trọ cho nước nóng để tắm gội, sớm hôm sau sẽ vào can vua Tần, người cùng trọ can rằng: - Hai mươi bảy người kia đều là bày tôi thân tín của vua, còn can không được mà bị giết, nữa chi nhà ngươi là một kẻ tầm thường. Mao Tiêu nói: - Chỉ có 27 người can thì vua Tần không nghe, nếu có người nữa can thì vua Tần nghe cũng không biết chừng. Người cùng trọ đều cười là người ngu. Sáng hôm sau vào trống canh năm, Mao Tiêu gọi chủ trọ lấy cơm ăn no, chủ trọ nắm áo giữ lại, Mao Tiêu dứt áo ra đi, các người cùng trọ chắc là tất chết, cùng nhau đem hành nang ra chia. Mao Tiêu đi đến dưới cửa khuyết, phục vào đống thây kêu to lên rằng: - Tôi là khách nước Tề tên là Mao Tiêu, xin dâng lời can đại vương. Vua Tần sai nội thị ra hỏi là can việc gì, có can thiệp đến việc thái hậu không. Mao Tiêu nói: - Tôi chính vì việc ấy mà đến. Nội thị vào tâu, vua Tần nói: - Mày nên chỉ vào đống thây ở dưới cửa cho nó biết. Nội thị ra bảo Mao Tiêu rằng: - Khách không thấy đống thây người chết đấy ư? Sao không sợ chết như thế? Mao Tiêu nói: - Tôi nghe trên trời có 28 ngôi sao giáng sinh xuống đất thì làm chính nhân, nay số chết đã 27 người rồi, còn thiếu một, nên tôi đến đây, muốn cho được đủ vào số ấy. Thánh hiền ngày xưa ai là không chết, tôi đây lại sợ chết ư? Nội thị vào tâu, vua Tần cả giận nói rằng: - Thằng cuồng dám phạm lệnh cấm của ta. Rồi sai đặt chảo nước ở sân, nói rằng: - Ta sẽ luộc sống thằng này, để nó không được cùng chất vào đống thây ấy cho đủ số 28. Nói xong vua Tần chống gươm mà ngồi, lông mày trợn ngược, bọt miệng phì ra, sắc mặt hầm hầm, gọi luôn mấy tiếng cho đòi thằng cuồng vào để luộc. Nội thị ra đòi Mao Tiêu, Mao Tiêu cố ý đi rón rén, nội thị giục đi nhanh, Mao Tiêu nói: - Tôi thấy vua thì phải chết ngay, vậy hoãn cho tôi chốc lát. Nội thị thương tình, dìu dắt đi vào, Mao Tiêu đến dưới thềm hai lạy dập đầu tâu rằng: - Tôi nghe có sống không kiêng chết, có nước không kiêng mất, kiêng mất không thể còn được, kiêng chết không thể sống được, cái kế sống chết, mất còn, đức minh chủ cần phải nên biết, chẳng hay đại vương có muốn nghe không? Vua Tần nét mặt hơi dịu lại nói rằng: - Mày có kế gì thử nói ta nghe. Mao Tiêu nói: - Kẻ trung thần không tiến lời nói a dua, đấng minh chủ không có việc làm cuồng bội. Vua làm việc cuồng bội mà không nói là bầy tôi phụ vua, bầy tôi có lời ngay thẳng mà vua không nghe là vua phụ lòng bầy tôi. Đại vương có việc làm trái đạo Trời mà không tự biết, kẻ vi thần này có lời nói ngay thẳng trái tai, mà vua lại không muốn nghe, tôi e nước Tần từ đây nguy mất. Vua Tần sợ hãi hồi lâu, sắc mặt càng dịu, nói rằng: - Nhà ngươi định nói việc gì, ta bằng lòng nghe. Mao Tiêu nói: - Đại vương ngày nay có phải nghĩ đến cả việc thiên hạ đó không? Vua Tần nói: - Phải. Mao Tiêu nói: - Thiên hạ sở dĩ tôn Tần, không phải chỉ vì sợ oai lực, cũng có ý cho đại vương là bậc hùng chủ cả thiên hạ, trung thần, liệt sĩ, đều họp ở triều đình Tần vậy. Nay đại vương xé thây giả phụ, là bất nhân, đập chết hai em đó là có lòng bất hữu, đày mẹ ở cung Hoắc Dương là bất hiếu, giết hại những người can ngăn, bày thây ở dưới cửa khuyết, thực không khác gì Kiệt, Trụ, nghĩ đến cả việc thiên hạ mà làm việc như thế, thì sao cho thiên hạ phải phục được. Xưa kia vua Thuấn thờ bà mẹ ghẻ ác nghiệt hết đạo mà được làm vua, vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỉ Can, thiên hạ đều làm phản cả. Tôi tự biết là tất chết, nhưng e rằng sau khi tôi chết rồi, sẽ không còn ai dám nói nữa, rồi ra lời oán rủa ngài thêm, những người có trung mưu không dám bày tỏ, trong ngoài lìa tan, chư hầu sẽ làm phản hết, tiếc thay đế nghiệp của Tần gần thành, mà tự đại vương lại làm cho hỏng đi. Tôi nói hết rồi, xin chịu tội luộc. Lập tức đứng dậy cởi áo chực nhảy vào chảo nước sôi, vua Tần vội chạy xuống, tay trái nắm lấy Mao Tiêu, tay phải vẫy tả hữu bảo cất bỏ vạt nước sôi đi, Mao Tiêu nói: - Đại vương đã yết bảng cự người can, không luộc tôi đi thì ai còn sợ. Vua Tần lại sai cất bỏ bảng đi. Rồi sai tả hữu đưa áo cho Mao Tiêu mặc vào, mời ngồi nói rằng: - Những người can trước chỉ kể tội quả nhân, chưa hề nói rõ cái kế còn mất, trời sai tiên sinh đến mở bảo sự ngu tối của quả nhân, quả nhân xin kính theo như lời. Mao Tiêu hai lạy nói rằng: - Đại vương đã nghe lời tôi, xin lập tức đi đón thái hậu. Đống thây chết ở dưới cửa khuyết, đều là cốt huyết trung thần, xin cho thu táng. Vua Tần liền sai quan tư lí thu nhặt tử thi 27 người, đều biện quan quách đem chôn ở núi Long Thủ, nêu lên rằng: "Hợp trung mộ". Hôm ấy vua Tần tự đi đón thái hậu, sai Mao Tiêu ngự xe đi đến Ung Châu. Khi gần đến cung Hoắc Dương, sai sứ giả vào báo trước, vua Tần quì gối đi vào, trông thấy thái hậu dập đầu khóc òa lên. Thái hậu cũng chảy nước mắt khóc, vua Tần dẫn Mao Tiêu vào yết kiến thái hậu, trỏ mà nói rằng: - Đây là Dĩnh Khảo Thúc của con đây. Đêm ấy vua Tần ngủ lại ở cung Hoắc Dương, hôm sau mời thái hậu lên kiệu đi trước, vua Tần theo sau, nghìn xe muôn ngựa đi theo ủng hộ chật đường, người đi xem ai nấy đều ngợi khen vua Tần là người hiếu. Về đến Hàm Dương, đặt tiệc rượu ở cung Cam Toàn, mẹ con vui uống, thái hậu lại đặt tiệc rượu riêng để đãi Mao Tiêu, tạ rằng: - Khiến cho mẹ con ta lại được gặp nhau, là đều nhờ sức Mao Quân. Vua Tần bèn cho Mao Tiêu làm thái phó, tước thượng khanh. Vua Tần lại sợ Bất Vi thông nhau với trong cung cấm, sai rời khỏi đô thành, đến ở đất phong tại Hà Nam. Các nước nghe Bất Vi đi đến đất phong, đều sai sứ đến vấn an, tranh nhau mời làm tướng, sứ giả đi lại luôn luôn. Vua Tần sợ nước khác dùng lại làm hại cho Tần, bèn tự tay viết một phong thư đưa cho Bất Vi, đại lược nói rằng: "Nhà ngươi có công gì với Tần, mà được phong mười vạn hộ, nhà ngươi có thân gì với Tần mà được gọi là thượng phụ. Tần có ơn với nhà ngươi to lắm, cái loạn Lao Ái do nhà ngươi gây nên, quả nhân không nỡ giết, cho ngươi được đến ở đất phong, ngươi không hối quá, lại cùng sứ giả chư hầu giao thông, như vậy không phải là cái ý quả nhân khoan đãi nhà ngươi. Vậy nhà ngươi khá cùng gia quyến rời đến ở Thục Quận, lấy một thành huyện Tỉ, để làm chỗ cho nhà ngươi trọn đời". Lã Bất Vi tiếp thư đọc xong, giận nói rằng: - Ta phá nhà phù lập tiên vương, công ấy ai bằng ta. Thái hậu trước nhờ ta mà có thai, vua tức là con ta đẻ ra, ai thân bằng ta. Vua sao nỡ phụ ta quá như thế? Một lát lại thở dài nói rằng: - Ta là con nhà lái buôn, âm mưu nước người, dâm vợ người, giết vua người, tuyệt tự người. Trời nào lại có dung ta, nay ta chết kể là chậm lắm. Bèn bỏ thuốc độc vào rượu uống mà chết. Tân khách trong nhà vốn chịu ơn của Bất Vi, cùng nhau trộm thây chôn giấu ở dưới núi Bắc Mang, cùng người vợ hợp táng. Vua Tần nghe Bất Vi đã chết, cầu lấy thây không được, bèn đuổi hết tân khách của Bất Vi, lại hạ lệnh những du khách phương khác không cho ở Hàm Dương, ai đã làm quan rồi thì cách chức, trong ba ngày đều đuổi ra khỏi cõi, nhà nào chứa giữ nhất luật trị tội. Có người nước Sở tên là Lý Tư, là học trò bậc danh hiền Tuân khanh, học vấn rộng xa, trước đến nước Tần, thờ Bất Vi làm xá nhân. Bất Vi tiến tài năng lên vua Tần, được làm khách khanh, bấy giờ vì lệnh trục khách, Lý Tư cũng vào số bị đuổi, đã bị đuổi ra khỏi ngoài thành Hàm Dương rồi. Lý Tư ở giữa đường, có viết một bài biểu, nói thác là việc cơ mật, sai trạm truyền dâng lên vua Tần, trong thư kể những tay du khách đã giúp các đời vua Tần làm nên cường thịnh, lời lẽ rất thống thiết, vua Tần xem thư mới nghĩ ra, bèn bỏ lệnh trục khách, sai người đuổi theo mời Lý Tư ở lại, cho làm quan như cũ. Lý Tư bèn tâu vua Tần nhân lúc thế nước Tần đang mạnh, các nước đều suy kém, đem quân thôn tính cả sáu nước, lập cuộc thống nhất. Lý Tư lại tâu nên đánh nước Hàn trước, vua Tần bèn sai nội Sử Đằng đem 10 vạn quân đánh Hàn. Bấy giờ nước Hàn có Công tử Phi giỏi về môn học hình danh pháp luật, thấy nước Hàn suy kém, mấy lần dâng thư lên vua Hàn, vua Hàn đều không dùng. Đến lúc quân Tần đánh Hàn, vua Hàn sợ, Công tử Phi tự phụ tài mình, muốn cầu dụng ở nước Tần, bèn xin sang sứ Tần để cầu hòa. Đến Hàm Dương vào yết kiến vua Tần, nói vua Hàn xin nộp đất làm phiên thuộc, vua Tần mừng lắm, Phi nhân đó nói rằng: - Tôi có kế có thể phá được tung ước của các nước mà làm xong được mưu kiêm tính của Tần, đại vương dùng kế của tôi, nếu không thu phục được các nước, thì xin chém tôi, đem rao khắp trong nước để làm gương cho những kẻ làm tôi bất trung. Rồi đem các sách đã làm ra như Thuyết nan, Cô phẫn, Ngũ đố, Thuyết lâm, tất cả hơn 50 vạn chữ. Vua Tần xem lấy làm hay, muốn cho làm khách khanh, cùng bàn việc nước. Lý Tư có lòng ghen tài, gièm với vua Tần rằng: - Các Công tử chư hầu, đều thân yêu người thân của mình, khi nào lại để cho người khác lợi dụng. Tần đánh Hàn, vua Hàn sợ mà sai Phi vào Tần, biết đâu chẳng là dùng kế phản gián, không nên dùng vậy. Vua Tần nói: - Vậy đuổi đi ư? Lý Tư nói: - Xưa kia Công tử Vô Kỵ nước Ngụy, Công tử Bình Nguyên Quân nước Triệu đều từng ở Tần. Tần không dùng thả cho về nước, rồi sau làm hại cho Tần. Phi có tài, chi bằng giết đi, để cắt cánh của nước Hàn. Vua Tần bèn giam Hàn Phi ở Hàm Dương, sắp giết bỏ, Phi nói: - Ta có tội gì? Ngục lại nói: - Một chỗ đậu không thể dung được hai con chim, đời bây giờ, người có tài, nếu không dùng thì giết chết, cứ gì phải có tội. Hàn Phi bèn khảng khái ngâm thơ, đêm ấy lấy giải mũ tự thắt cổ mà chết. Vua Hàn nghe Phi chết, càng sợ, xin đem cả nước phụ theo vào Tần, xưng làm tôi. Vua Tần bèn hạ lệnh bãi quân đánh Hàn. Vua Tần một hôm cùng Lý Tư bàn việc, khen tài Hàn Phi, tiếc rằng đã chết. Lý Tư nói: - Tôi cử một người họ Úy tên Liêu, người ở Đại Lương, làu thông binh pháp, có tài gấp mười Hàn Phi. Vua Tần nói: - Người ấy ở đâu? Lý Tư nói: - Nay ở Hàm Dương, nhưng người ấy tự phụ rất cao, không thể lấy lễ bày tôi mà khuất được. Vua Tần bèn dùng lễ khách cho mời, Úy Liêu thấy vua Tần vái dài không lạy, vua Tần đáp lễ, mời ngồi ghế trên, gọi là tiên sinh. Úy Liêu nói: - Các nước đối với nước Tần mạnh, ví như quận huyện tan thì dễ hợp, hợp thì khó đánh, điều đó đại vương cần phải nghĩ đến. Vua Tần nói: - Muốn cho các nước tan mà không hợp được nữa, tiên sinh có kế gì không? Úy Liêu nói: - Nay việc các nước đều do hào thần quyết định, mà bọn hào thần không phải đều là người trung trí, chẳng qua chỉ cốt được nhiều tiền của để làm vui mà thôi. Đại vương chớ nên tiếc của kho, đút nhiều của cho bọn hào thần các nước để làm loạn mưu của họ, chỉ mất độ 30 vạn cân vàng mà có thể làm tuyệt hết được chư hầu. Vua Tần bằng lòng lắm, tôn Úy Liêu làm thượng khách, ăn mặc đều như mình, thời thường đến quán xá, quì xin dạy bảo. Úy Liêu nói: - Ta xét kỹ vua Tần, mũi to, mắt dài, ngực ưỡn, tiếng gầm, là người tàn khắc ít ân, lúc có việc thì chịu khuất người, lúc xong việc thì khinh bỏ người. Nay thiên hạ chưa thống nhất, cho nên chịu khuất thân với ta, nếu đắc chí rồi, thiên hạ đều bị giết hại cả. Một đêm không từ biệt bỏ đi, quán lại vội báo vua Tần. Vua Tần như mất cánh tay, vội sai người đuổi theo mời lại, cùng Úy Liêu lập lời thề, bái làm đại úy, chủ việc binh, những đệ tử đều cho làm đại phu. Rồi trích nhiều tiền kho, chia sai sứ giả đi đến các nước xem người nào, bày tôi nào được yêu mến mà cầm quyền chính, đút lót cho nhiều tiền để dò xét tình hình. Vua Tần lại hỏi Úy Liêu nên lần lượt kiêm tính nước nào trước, nước nào sau. Úy Liêu nói: - Hàn yếu dễ đánh, nên đánh trước, thứ đến Triệu, Ngụy. Đã lấy được ba nước ấy liền đem quân đi đánh Sở, Sở mất thì Tề cũng chẳng còn. Vua Tần muốn đánh Triệu, nhưng nghĩ Triệu đang thông hiếu với Tần, không lấy cớ gì mà đánh được. Úy Liêu biết Triệu có người sủng thần là Quách Khai tham lam hay ăn của đút, bèn bày kế đem quân đi đánh Ngụy trước, rồi sai đệ tử là Vương Ngao sang bảo vua Ngụy cắt Nghiệp Thành dâng Triệu để cầu cứu, lại đút lót ba nghìn cân vàng cho Quách Khai bảo xui vua Triệu nên nhận đất đem quân cứu Ngụy, rồi Tần sẽ lấy cớ ấy mà đánh Triệu. Quả nhiên, vua Triệu mắc mưu, sai Hỗ Tiếp mang năm vạn quân đến nhận đất Nghiệp Thành của Ngụy. Vua Tần liền sai Hoàn Xỉ tiến đánh, quân Triệu bị thua to. Vua Triệu được tin báo họp quần thần lại để bàn kế, mọi người đều nói Liêm Pha có thể chống được quân Tần, nên sang Ngụy đón về. Quách Khai vốn có thù với Liêm Pha, sợ Pha lại được dùng, bèn gièm với vua Triệu rằng: - Liêm tướng quân tuổi gần 70, cân lực đã suy, đại vương nên sai người đến dò xem, nếu quả chưa suy, sẽ triệu về cũng chưa muộn. Vua Triệu nghe lời, sai nội thị là Đường Cửu đem một bộ áo giáp tốt, bốn con ngựa tốt sang cho Liêm Pha và dò xét xem thế nào. Quách Khai bèn đút tiền cho Đường Cửu, yêu cầu hễ sang thấy Liêm Pha già yếu thì thôi, nếu còn khỏe mạnh thì cũng cứ nói là già nua không dùng được, để vua Triệu khỏi đón về. Đường Cửu vâng lời đi sang Ngụy, vào yết kiến Liêm Pha, thuật lời vua Triệu, Liêm Pha hỏi: - Quân Tần đánh Triệu ư? Đường Cửu hỏi: - Làm sao tướng quân lại biết? Liêm Pha nói: - Tôi ở Ngụy đã vài năm, vua Triệu không hề có chữ hỏi thăm, nay bỗng đem cho áo giáp và ngựa tốt, tất có việc dùng tôi, nên tôi biết. Đường Cửu nói: - Tướng quân không giận Triệu ư? Liêm Pha nói: - Tôi đang ngày đêm tưởng nhớ người Triệu, khi nào lại dám giận vua Triệu. Rồi giữ Đường Cửu lại cùng ăn cơm, cố ý ở trước mặt Đường Cửu làm ra bộ hăng hái khỏe mạnh, ăn một bữa hết đấu gạo, hơn mười cân thịt, ăn ngốn ngáo như hùm beo một hồi, no rồi liền mặc cái áo giáp của vua Triệu cho, nhảy phắt lên ngựa, rong ruổi như bay, lại ở trên lưng ngựa múa mấy hồi giáo dài, rồi mới nhảy xuống, bảo Đường Cửu rằng: - Tôi so với lúc tuổi trẻ thế nào, phiền về tâu với vua Triệu, tôi đây còn có thể đem cái tuổi thừa để báo Triệu được. Đường Cửu thấy rõ Liêm Pha tinh thần còn cường tráng lắm, nhưng đã ăn đút của Quách Khai, về đến Hàm Đan tâu vua Triệu rằng: - Liêm tướng quân dẫu tuổi già mà còn ăn cơm ăn thịt nhiều lắm, nhưng xem ra có tì tật, cùng tôi ngồi trong chốc lát ba lần són phân ra. Vua Triệu than rằng khi chiến tranh mà són phân như thế thì làm sao được, Liêm Pha quả đã già rồi! Rồi đó không triệu Liêm Pha về nữa, phái thêm quân giúp Hỗ Tiếp để chống quân Tần. Về sau vua Sở biết Liêm Pha ở Ngụy, sai người đến triệu, Pha lại sang Sở làm tướng, thấy quân Sở không bằng Triệu, uất ức mà chết. Bấy giờ Vương Ngao còn ở Triệu, biết rõ Quách Khai quả là kẻ tham lợi, tuyệt không có chút lòng vì nước, hỏi dò rằng: - Vạn nhất nước Triệu mất thì ngài đi đâu? Quách Khai nói: - Tôi sẽ ở trong hai nước Tề, Sở, chọn một nước mà thoát thân. Vương Ngao bèn xui Quách Khai nên đem thân thờ Tần, và nói thực rằng: - Vua Tần biết ngài có quyền ở Triệu, cho nên sai tôi kết hoan với ngài, những số vàng tôi đã dâng ngài, đều là vâng mệnh vua Tần cả, nếu Triệu mất, ngài theo về Tần, tất sẽ được làm thượng khanh, những ruộng tốt nhà đẹp ở Triệu, tùy ý ngài chọn lấy. Quách Khai xin vâng lời, Vương Ngao lại đem bảy nghìn cân vàng giao cho Khai nói là vua Tần nhờ dùng để kết giao với các tướng văn tướng võ ở Triệu, Quách Khai cả mừng nói rằng: - Khai này được vua Tần ban cho quá hậu, nếu không dụng tâm mong báo, thì không phải là loài người. Vương Ngao bèn từ biệt Quách Khai về Tần, đem bốn vạn cân vàng còn thừa nộp lại nói rằng: - Tôi dùng một vạn cân vàng kết liễu sinh mạng Quách Khai, dùng một Quách Khai kết liễu sinh mạng nước Triệu vậy. Vua Tần biết Triệu không dùng Liêm Pha, lại giục Hoàn Xỉ tiến đánh, vua Triệu sợ quá thành bệnh mà chết. Vua Triệu đã có con cả là Gia, sau lại say mê một con hát, lưu ở trong cung, đẻ được một con trai là Thiên làm thái tử, sai Quách Khai làm thái phó. Thiên vốn không thích học, Quách Khai lại dạy cho các trò chơi, hai người rất tin yêu nhau. Lúc ấy vua Triệu mất, Quách Khai rước Thiên lên ngôi, lấy ba trăm hộ phong cho Công tử Gia, lưu ở trong nước, Quách Khai làm tướng quốc. Hoàn Xỉ nhân nước Triệu có tang, đánh phá quân Triệu ở Nghi An, chém được Hỗ Tiếp, giết hơn mười vạn người, tiến bức Hàm Đan. Vua Triệu vốn nghe tài Lý Mục, vội cho sứ đến Đại Châu đòi Lý Mục đem quân đến cứu. Vua Triệu cho Lý Mục được tùy nghi làm việc, lại lấy hết mười vạn tinh binh ở trong nước sai Triệu Thông, Nhan Tụ đều mang năm vạn quân, chịu quyền Lý Mục tiết chế. Lý Mục vâng mệnh, đóng trại ở Phì Lũy, giữ vững không đánh, ngày ngày mổ trâu khao quân, sai chia đội bắn thi, quân sĩ được thưởng xin cho ra đánh. Lý Mục nhất định không cho. Đại tướng Tần là Hoàn Xỉ thấy Lý Mục giữ vững không đánh, bèn chia một nửa quân đi đánh Cam Toàn Thị. Lý Mục chắc là tại dinh quân Tần lúc ấy có ít quân lại không phòng bị, bèn chia quân làm ba đạo đang đêm đến đánh úp. Quân Tần không ngờ quân Triệu chợt đến, không kịp chống đánh đều vỡ tan cả, quân Triệu giết được hơn 10 viên tướng có tiếng và vô số quân lính. Hoàn Xỉ ở Cam Toàn Thị được tin, giận quá, lại đem hết quân đến đánh. Lý Mục đốc thúc ba đạo quân cùng ra sức đánh chẹn, Hoàn Xỉ không thể chống nổi, bị thua to chạy về Hàm Dương. Vua Triệu cho là Lý Mục có công lui được quân Tần, khen rằng: - Mục tức là Bạch Khởi của ta vậy. Rồi vua Triệu phong Lý Mục là Võ An Quân, cho ăn lộc muôn hộ. Vua Tần giận Hoàn Xỉ thua quân, phế làm thứ nhân, lại sai đại tướng Vương Tiễn, Dương Đoan Hòa đều đem quân chia đường đánh Triệu. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 106 Vương Ngao phản gián giết Lý Mục Điền Quang đâm cổ tiến Kinh Kha Bấm để xem Bấy giờ Thái tử Đan nước Yên làm con tin ở Tần, thấy quân Tần lại cử binh mã đánh Triệu, biết họa tất lây đến nước Yên, ngầm sai người đưa thư cho vua Yên bảo nên phòng bị việc chiến thủ, lại bảo vua Yên nói dối có bệnh, sai người sang đón thái tử về nước. Vua Yên theo kế, sứ giả đến Tần, vua Tần nói: - Vua Yên không chết, thái tử chưa có thể về được, muốn cho thái tử về, trừ phi bao giờ đầu quạ trắng, ngựa mọc sừng mới được. Thái tử Đan ngửa mặt lên trời kêu to, một luồng oán khí thẳng xông lên trời, đầu quạ đều trắng, vua Tần vẫn không cho về. Thái tử Đan bèn đổi quần áo, hủy hình dung, giả làm đầy tớ nhà người ta, đánh lừa ra khỏi Hàm Cốc Quan, đang đêm trở về nước Yên. Vua Tần đang bận việc Hàn, Triệu, chưa rỗi hỏi đến tội Yên Đan trốn về. Lại nói đến đại tướng Triệu là Lý Mục đóng quân ở núi Hội Toàn, hai đạo quân Tần đều không dám tiến. Vua Tần lại sai Vương Ngao đến giúp mưu kế cho Vương Tiễn. Vương Ngao bàn rằng Lý Mục là tay danh tướng, chưa dễ đánh được, hãy tạm giảng hòa, nhưng chớ định ước, trong khi sứ mệnh hai bên đi lại, sẽ lập kế phản gián. Vương Tiễn theo lời, sai người sang dinh Triệu giảng hòa. Lý Mục sai người đáp lại. Vương Ngao đến Triệu lại thông với Quách Khai, nói Lý Mục cùng Tần riêng tư giảng hòa, ước ngày phá Triệu sẽ chia làm vua ở Đại Quận, nếu đem lời ấy nói với vua Triệu, khiến cử viên tướng khác thay Lý Mục, rồi xin nói với vua Tần thưởng công cho. Quách Khai đã có nhị tâm, bèn theo lời Vương Ngao mật tâu vua Triệu. Vua Triệu ngầm sai người xét xem, quả thấy Lý Mục cùng Vương Tiễn tin sứ đi lại, bèn tin làm thực, mưu với Quách Khai. Quách Khai cử ngay Triệu Thông ở trong quân làm đại tướng, thay Lý Mục, còn Lý Mục nói dối dùng làm tướng quốc, tất Mục không ngờ. Vua Triệu nghe lời, sai Tư Mã Thượng cầm cờ Tiết đến núi Hội Toàn truyền mệnh. Lý Mục nói: - Trong lúc hai quân đối lũy, nước nhà yên hay nguy, đều ở một người tướng, dẫu có mệnh vua ta không thể theo được. Tư Mã Thượng bảo riêng Lý Mục rằng: - Quách Khai gièm tướng quân muốn làm phản, vua Triệu nghe lời, nói là đòi tướng quân về làm tướng quốc, đó là lời nói dối tướng quân vậy. Lý Mục tức giận nói rằng: - Khai trước gièm Liêm Pha, nay lại gièm ta, ta phải đem quân vào triều, trừ bỏ thằng ác ở bên cạnh vua, rồi sẽ chống Tần sau. Tư Mã Thượng nói: - Tướng quân làm như thế, người biết cho là bất trung, người không biết lại cho làm phản thực, lại tổ để cho kẻ gièm pha được cớ nói mình. Lấy tài tướng quân, đi đâu chẳng lập được công danh, hà tất ở Triệu. Lý Mục than rằng: - Ta thường giận Nhạc Nghị, Liêm Pha làm tướng Triệu không trọn, không ngờ ngày nay lại đến ta. Rồi Lý Mục lại nói: - Triệu Thông không đáng thay ta làm tướng, ta không thể đem ấn giao cho được. Rồi treo ấn ở trong màn, nửa đêm đổi lốt làm người thường trốn đi, muốn đi sang Ngụy. Triệu Thông cảm ơn Quách Khai tiến cử, lại giận Lý Mục không chịu giao tướng ấn cho mình, bèn sai lực sĩ đuổi bắt Lý Mục, tìm thấy ở trong một nhà trọ, nhân lúc say trói lại mà chém, đem đầu về dâng. Tư Mã Thượng không dám về triều phục mệnh, đem trộm vợ con đi trốn ra ngoài bể. Sau khi Triệu Thông đã thay Lý Mục làm tướng, Nhan Tụ làm phó, quan quân vốn phục Lý Mục, thấy Mục không có tội gì mà bị hại, đều căm giận quá, trong một đêm cùng nhau bỏ trốn hết cả. Triệu Thông không thể cấm được. Quân Tần nghe Lý Mục chết đều uống rượu vui mừng. Vương Tiễn, Dương Đoan Hòa hai đạo quân lập tức cùng tiến đánh. Triệu Thông vội đem quân nghênh địch, nhưng bị quân Tần đánh chẹn giữa, đầu đuôi không cứu nhau được. Triệu Thông thua chạy, bị Vương Tiễn đón đường giết chết, còn Nhan Tụ thu nhặt tàn binh chạy về Hàm Đan. Quân Tần đuổi thẳng vào đến nơi, bổ vây bốn mặt. Vua Tần nghe hai đạo quân đều đắc thắng, bèn sai nội sử Đằng rời quân sang đất Hàn. Vua Hàn là An sợ quá, dâng hết cả thành, xin vào làm tôi nhà Tần, Tần bèn lấy đất Hàn đặt làm quận Dĩnh Xuyên. Thế là nước Hàn mất, sáu nước chỉ còn năm. Lại nói quân Tần vây Hàm Đan, Nhan Tụ đem hết quân chống giữ, vua Triệu sợ quá, muốn sai sứ sang lân bang cầu cứu. Quách Khai nói: - Vua Hàn đã vào làm tôi Tần; Yên, Ngụy đang lo tự giữ không rồi, còn cứu ta thế nào được. Cứ như ý tôi, quân Tần thế mạnh lắm, chi bằng đem cả thành đầu hàng, còn giữ được địa vị phong hầu. Vua Triệu muốn nghe, Công tử Gia phục xuống đất kêu khóc rằng: - Tiên vương đem tôn miếu xã tắc truyền cho vua, sao lại nỡ bỏ. Tôi xin cùng Nhan Tụ hết sức chống đánh, vạn nhất thành phá, vài trăm dặm đất Đại quận còn có thể lập nước được, cớ sao lại chịu bó tay làm tên tù của người ta? Quách Khai nói: - Thành phá thì vua bị bắt, khi nào còn đến đất Đại được? Công tử Gia rút gươm cầm ở tay, chỉ Quách Khai nói rằng: - Tên sàm thần hại nước, còn dám nói nhiều, ta tất chém chết. Vua Triệu khuyên giải mới thôi. Vua Triệu về cung, không biết làm thế nào, chỉ còn biết uống rượu làm vui mà thôi. Quách Khai muốn ước với quân Tần dâng thành, nhưng Công tử Gia đem hết tôn tộc tân khách, giúp đỡ Nhan Tụ phòng giữ, không thể thông tin được. Bấy giờ vì mất mùa luôn, nhân dân ngoài thành trốn hết, quân Tần không còn cướp lấy vào đâu được, chỉ ở trong thành có nhiều thóc chứa, ăn dùng không thiếu, nóng nảy không thể hạ được, Vương Tiễn liền lui quân ra ngoài 50 dặm, để gần chỗ chở lương. Trong thành thấy quân Tần lui đi, việc phòng thủ giữ hơi trễ, ngày mở cửa một lần, để cho mọi người ra vào, Quách Khai nhân dịp ấy, sai người tâm phúc đem phong mật thư ra đưa đến dinh Tần, trong thư đại ý nói: "Tôi có ý dâng thành đã lâu, hiềm vì không có dịp, nhưng vua Triệu đã sợ hãi lắm rồi. Nếu vua Tần ngự giá đến nơi, tôi xin khuyên vua Triệu ra hàng". Vương Tiễn được thư, sai người phi báo vua Tần. Vua Tần thân đem ba vạn tinh binh, sai Lý Tín hộ giá đi đến Hàm Đan, lại hạ lệnh vây thành, ngày đêm đánh phá. Trên thành trông thấy lá cờ to có chữ "Tần Vương", phi báo vua Triệu. Vua Triệu càng sợ, Quách Khai nói: - Vua Tần thân mang quân đến đây, ý định không phá được Hàm Đan không thôi, bọn Công tử Gia, Nhan Tụ không đủ cậy, xin đại vương tự quyết đoán lấy. Vua Triệu hỏi: - Quả nhân muốn hàng Tần, e bị giết thì làm thế nào? Quách Khai nói: - Tần chẳng hại vua Hàn, lại hại đại vương ư? Nếu đem ngọc bích họ Hòa và địa đồ Hàm Dương ra dâng, vua Tần tất mừng. Vua Triệu liền sai Quách Khai viết hàng thư. Quách Khai thảo xong lại tâu rằng: - Hàng thư dẫu viết, Công tử Gia tất sẽ ngăn trở, nghe nói đại dinh vua Tần ở cửa Tây, đại vương nói dối là đi tuần thành, rồi đi xe đến đó, tự mở cửa ra hàng, lo gì không được. Vua Triệu vốn hôn mê, chỉ nghe lời Quách Khai, đến lúc nguy cấp lại càng không có chủ trì, bèn theo như lời. Nhan Tụ đang tuần thị ở cửa Bắc, nghe vua Triệu đã ra cửa Tây đầu hàng vua Tần rồi, sợ quá. Công tử Gia cũng phi ngựa đến, nói trên thành vâng mệnh vua Triệu đã dựng cờ hàng, quân Tần sắp kéo vào thành. Nhan Tụ nói: - Tôi xin liều chết giữ cửa Bắc, Công tử nên đi triệu hết các người công tộc đến ngay đây, cùng chạy đến đất Đại, để mưu việc khôi phục. Công tử Gia lại theo lời, lập tức mang vài trăm người tôn tộc, cùng Nhan Tụ chạy ra cửa Bắc, luôn ban đêm đi đến đất Đại. Nhan Tụ khuyên Công tử tự lập làm vua Đại, để hiệu lệnh quân dân, nêu công Lý Mục, khai phục quan tước, thân tự đặt lễ tế, để thu lòng người đất Đại, sai sứ đi kết hợp với Yên, đóng quân ở Thượng Cốc để phòng quân Tần. Lại nói vua Tần chuẩn cho vua Triệu đầu hàng, vào thành Hàm Đan, ở trong cung vua Triệu. Vua Triệu theo lễ bày tôi vào bái kiến, vua Tần ngồi mà nhận, các bày tôi cũ có nhiều người chảy nước mắt khóc. Hôm sau vua Tần cầm xem viên ngọc bích họ Hòa cười bảo quần thần rằng: - Viên ngọc này tiên vương dùng 15 thành đổi mà không được. Rồi vua Tần hạ lệnh lấy đất Triệu đặt làm quận Cự Lộc, đặt quan trấn giữ, an trí vua Triệu ở Phòng Lăng, phong Quách Khai làm thượng khanh. Vua Triệu bấy giờ mới biết cái tội Quách Khai bán nước, than rằng: - Nếu Lý Mục còn sống, người Tần há được ăn thóc Hàm Đan của ta. Tại Phòng Lăng bốn mặt có nhà đá, Triệu Vương ở trong nhà đá, nghe tiếng nước chảy hỏi sông gì. Tả hữu thưa rằng: - Sở có 4 sông: Giang, Hán, Thư, Chương, đây là sông Thư phát nguyên ở Phòng Sơn chảy đến sông Hán. Vua Triệu buồn bã than rằng: - Nước là vật vô tình, còn biết tự chảy đến sông Hán. Quả nhân bị giam ở đây, trông về làng cũ, nghìn dặm xa xôi, không thể về đến nơi được. Bèn làm bài ca sơn thủy để tỏ ý xót thương cho thân thể, từ đó suốt ngày buồn bã, mỗi khi hát một bài, khiến các người chung quanh cũng phải ngậm ngùi thương xót, rồi phát bệnh mà chết. Vua Tần kéo quân về Hàm Dương, tạm cho quân lính nghỉ ngơi. Quách Khai tích vàng nhiều quá, không thể mang theo được, bèn chứa cả vào hầm nhà riêng ở Hàm Đan, khi việc đã xong, xin vua Tần cho nghỉ ít lâu về Triệu để vận tải gia tài, vua Tần cười mà cho. Về đến Hàm Đan, mở hầm lấy vàng chứa vào mấy xe, giữa đường bị kẻ cướp giết chết, lấy hết vàng đem đi mất. Có người nói bọn cướp ấy là khách của Lý Mục báo thù cho chủ. Lại nói thái tử Đan trốn về nước Yên, giận vua Tần lắm, bèn tán gia tài, họp nhiều tân khách để mưu việc báo thù, tìm được những tay dũng sĩ là Hạ Phù, Tống Ý đều hậu đãi. Có Tần Võ Dương tuổi mới 13, ban ngày giết người thù ở giữa chợ, người chợ sợ không dám gần, thái tử tha tội cho, thu nuôi ở trong nhà. Tướng Tần là Phàn Ô Kỳ bị tội chạy sang Yên, trốn ở trong núi sâu, lúc ấy nghe thái tử hiếu khách cũng tự xuất thân xin theo. Đan đãi làm bậc thượng tân, xây một cái thành ở phía Đông sông Dịch Thủy cho Ô Kỳ ở, gọi là Phàn Quán. Thái phó Cúc Võ sợ làm như thế là chọc tức Tần, Tần không khi nào để yên, xin cho Ô Kỳ lập tức sang ở nước Hung Nô, để nước Tần khỏi mượn cớ sinh sự; rồi Tây kết với Tam Tấn, Nam liền với Tề, Sở, Bắc kết Hung Nô, thì mới có thể mưu đồ việc báo thù Tần được. Thái tử Đan nói: - Kế của thái phó là kế tính lâu ngày, lòng Đan này như lửa đốt không thể lúc nào thôi được, phương chi Phàn tướng quân cùng khốn về theo, đó là bạn đáng thương của Đan này, khi nào lại vì cớ sợ Tần mà đem bỏ Phàn tướng quân ở nơi hẻo lánh. Đan thà chết, chứ không thể nào làm được, xin thái phó nghĩ cho Đan kế khác. Cúc Võ nói: - Lấy Yên yếu mà chống Tần mạnh, như đem lông bỏ vào lò, đem trứng chọi với đá, tôi trí nông biết ít, không thể vì thái tử nghĩ kế được, có quen với Điền Quang tiên sinh là người có trí khôn và sức khỏe ngầm, lại biết nhiều người lạ. Thái tử muốn báo thù Tần không có Điền Quang không được. Thái tử Đan liền cậy Cúc Võ đem xe đi đón Điền Quang. Khi Điền Quang đến nơi, thái tử nhân ra ngoài cửa cung đón rước rất cung kính. Điền Quang tuổi già lụ khụ, trèo lên ngồi trên, những người đứng bên đều cười thầm, thái tử Đan đuổi các người tả hữu ra ngoài quì mà nói rằng: - Cái thế ngày nay, Yên, Tần không thể cùng đứng. Nghe tiên sinh là người có trí dũng kiêm toàn, hay có kỳ kế, có thể cứu sống được nước Yên không? Điền Quang từ chối là đã yếu không làm gì được nữa. Thái tử Đan nói: - Trong chỗ bạn chơi với tiên sinh, hiện có người nào cũng trí dũng như tiên sinh lúc còn trẻ không? Điền Quang nói: - Khó lắm, khó lắm, thái tử xem những khách ở trong nhà, có mấy người có thể dùng được, bảo ra đây cho tôi xem. Thái tử Đan bèn cho gọi bọn Hạ Phù, Tống Ý, Tần Võ Dương đến chào Điền Quang. Điền Quang xem qua một lượt, hỏi rõ họ tên, rồi bảo thái tử rằng: - Tôi xem những khách của thái tử, không người nào dùng được cả. Hạ Phù là người máu hăng giận thì mặt đỏ, Tống Ý là người mạch hăng giận thì mặt xanh, Tần Võ Dương là người cốt hăng giận thì mặt trắng, tức giận mà hình ra mặt để cho người ta biết, thì làm sao nên việc được. Tôi biết có Kinh Khanh là người thần dũng, mừng giận không hình ra mặt, dường như hơn những người này. Thái tử Đan hỏi: - Kinh Khanh tên gì? Người ở đâu? Điền Quang nói: - Kinh Khanh tên là Kha, nguyên là dòng dõi quan đại phu nước Tề, tên là Khánh Phong. Khánh Phong chạy sang Ngô, ở đất Chu Phương. Sở đánh giết Khánh Phong, họ hàng lại chạy sang Vệ, đem kiếm thuật bảo Vệ Nguyên Quân. Nguyên Quân không dùng, rồi Kha bỏ sang Yên, đổi họ Kinh, tính ham rượu. Người Yên là Cao Tiệm Ly khéo đánh cái trúc. Kinh Kha theo nhịp hát theo, hát xong chảy nước mắt khóc rồi lại than thở, cho là thiên hạ không ai biết mình. Người ấy thâm trầm có mưu lược, Quang này kém xa. Thái tử Đan liền lấy xe của mình, sai tên nội thị ngự xe, nhờ Quang đón Kinh Kha hộ, Điền Quang nói: - Vì Kinh Kha nghèo, tôi vẫn cho ăn uống, chắc phải nghe lời tôi mà đến ngay. Quang sắp lên xe, Thái tử dặn rằng: - Những lời Đan nói việc lớn của nước nhà, xin tiên sinh chớ hở ra cho ai biết. Điền Quang cười nói: - Già này không dám nói. Nói rồi đi xe ra chợ Kinh Kha. Kha cùng Cao Tiệm Ly đang uống rượu ngà ngà say, Tiệm Ly đánh cái trúc, Quang nghe tiếng trúc, xuống xe vào thẳng gọi Kinh Kha, Tiệm Ly cầm trúc tránh đi, Kinh Kha cùng Điền Quang chào nhau, rồi mời Kha về trong nhà. Trong khi trò chuyện, Quang liền nói đến việc thái tử Đan muốn dùng mình mưu việc báo thù Tần, nhưng vì mình già, có cử Kinh Kha để thay. Kinh Kha nhận lời ngay. Điền Quang muốn khích chí Kinh Kha, bèn vỗ gươm than rằng: - Phàm kẻ trưởng giả làm gì chớ để người ta nghi, nay thái tử đem việc nước bàn với Quang, mà lại dặn Quang chớ tiết lộ, đó là có lòng nghi Quang. Quang này khi muốn thành việc người mà lại để cho người ta nghi mình, vậy Quang xin đem cái chết để tỏ lòng, xin túc hạ đi báo cho thái tử biết. Nói xong, Điền Quang tự rút gươm đâm cổ mà chết. Kinh Kha đang thương khóc, thì thái tử Đan lại sai người đến xem Kinh Kha có chịu đến không. Kinh Kha xét ra thái tử có lòng thành, liền trèo lên xe của Điền Quang đi vào cung của thái tử. Thái tử tiếp đãi Kinh Kha cũng như Điền Quang, hỏi rằng: - Điền tiên sinh sao không đến? Kinh Kha nói: - Quang nghĩ thái tử có lời dặn riêng, muốn đem cái chết để tỏ ra là giữ kín không nói với ai, nên đã đâm cổ chết rồi. Thái tử vỗ ngực thương khóc rằng: - Điền tiên sinh vì Đan này mà tự giết mình, há chẳng oan lắm thay! Hồi lâu gạt nước mắt, mời Kinh Kha ngồi lên trên, rồi nói rằng: - Điền tiên sinh có lòng yêu mà khiến Đan này được gặp mặt ngài, thực là vinh hạnh quá. Kinh Kha hỏi: - Thái tử lo về nước Tần là vì việc gì? Đan nói: - Tần ví như hùm sói, cắn nuốt không chán, không lấy được hết đất thiên hạ không thôi. Nay đã diệt được hai nước Hàn, Triệu rồi, tất sẽ lần lượt đến Yên. Vì thế nên Đan này ngày đêm lấy làm lo nghĩ, ăn không ngon, ngủ không yên. Kinh Kha nói: - Theo như kế thái tử, sẽ đem quân cùng Tần quyết được thua, hay có kế gì khác? Thái tử Đan nói: - Yên là nước nhỏ lại thường bị hại về binh lửa, nay Công tử Gia nước Triệu tự xưng là vua nước Đại muốn cùng Yên hợp quân chống Tần. Đan này e đem hết cả quân trong nước, không đương nổi một viên tướng Tần, dẫu phụ thêm có vua Đại vào, thế cũng không mạnh. Ngụy, Tề thì vốn phụ với Tần, mà Sở thì lại ở xa, chư hầu đều sợ Tần mạnh, không ai dám hợp tung nữa. Đan trộm nghĩ có một kế, là thực được một tay dũng sĩ, giả sang sứ Tần, dụ lấy lợi lớn. Vua Tần tham lấy, tất được đến gần, nhân dịp đó sấn và chẹt lấy, bắt phải trả lại những đất đã lấn của chư hầu, như Tào Mạt đối Tề Hoàn công ngày xưa, thì hay lắm, nếu không nghe thì đâm chết. Lúc ấy những đại tướng cầm trọng binh, đều không chịu kém nhau, vua chết nước loạn, trên dưới ngờ nhau, bấy giờ ta sẽ liên hợp Sở, Ngụy, cùng lập con cháu sau Hàn, Triệu, hợp sức phá Tần, đó là lúc càn khôn tái tạo vậy, xin ngài lưu ý cho. Kinh Kha ngẫm nghĩ hồi lâu, thưa rằng: - Tôi hèn kém, e không làm nổi việc ấy. Thái tử Đan đập đầu cố xin rằng: - Vì trọng tấm lòng cao nghĩa của ngài, Đan này xin thác sinh mệnh vào ngài đó, xin chớ chối từ. Kinh Kha lại hai lần từ chối, rồi mới nhận lời. Liền đó thái tử Đan tôn Kinh Kha làm thượng khanh, xây một cái quán ở ngay bên hữu quán của Phàn Ô Kỳ gọi là Kinh Quán, để Kinh Kha ở. Thái tử ngày ngày đến thăm, cung phụng ăn uống rất hậu, lại hiến xe ngựa và gái đẹp, tùy ý Kinh Kha sở thích. Một hôm, Kha cùng thái tử đi chơi ở Đông cung, thấy dưới ao có con rùa lớn nổi lên, Kha toan nhặt viên ngói để ném rùa, thái tử liền đưa thỏi vàng để thay hòn ngói. Lại một hôm cùng thi cưỡi ngựa, thái tử có con ngựa quí ngày đi ngàn dặm, Kha bỗng nói gan ngựa ăn ngon lắm, rồi sau thấy nhà bếp đem món gan đến, tức là gan con ngựa quí mà thái tử đã sai giết cho Kha ăn. Đan lại giới thiệu Phàn Ô Kỳ với Kinh Kha, rồi làm tiệc đãi hai người ở Hoa Dương Đài, đem một mỹ nhân yêu quí của mình ra mời rượu, lại sai mỹ nhân gảy đàn làm vui. Kinh Kha thấy hai tay mỹ nhân trắng muốt như ngọc, khen rằng: - Hai tay đẹp quá! Tiệc tan, Đan sai nội thị đem cái ngọc bàn đựng đồ vật biếu Kinh Kha, Kha mở xem thì cái tay của mỹ nhân mà thái tử đã chặt ra, để tỏ cho Kha biết là mình không còn tiếc gì. Kha than rằng: - Thái tử đãi Kha này hậu đến thế ư? Kha này xin đem cái chết để báo lại. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 107 Dâng địa đồ Kinh Kha náo Tần đình Bàn binh pháp Vương Tiễn thay Lý Tín Bấm để xem Kinh Kha ngày thường cùng người bàn về thuật đánh gươm, ít khi chịu ai là giỏi, chỉ tâm phục có Cáp Nhiếp là người ở Du Thứ, tự cho là không bằng, cùng kết thân làm bạn. Lúc ấy Kha chịu hậu ơn của thái tử Đan, muốn đến Hàm Dương chẹt bắt vua Tần, sai người đi tìm Cáp Nhiếp muốn mời đến Yên để cùng thượng nghị. Vì Cáp Nhiếp thường đi chơi không nhất định ở chỗ nào, nhất thời không thể mời đến được. Thái tử Đan biết Kinh Kha là tay hào kiệt, ngày đêm thờ phụng kính cẩn, không dám thúc giục. Bỗng có biện lại báo tin là vua Tần sai đại tướng là Vương Tiễn đi lấn đất đã đến Nam giới nước Yên. Vua Đại là Gia sai sứ đến ước cùng đem quân giữ Thượng Cốc để cự Tần. Thái tử Đan sợ quá nói với Kinh Kha rằng: - Quân Tần sắp qua sông Dịch Thủy, ngài dẫu muốn vì Yên nghĩ kế, e không kịp chăng. Kinh Kha nói: - Tôi đã nghĩ kỹ lắm, lần đi này không có cái gì để cho vua Tần tin mình, thì không đến được gần. Nay Phàn tướng quân phạm tội với Tần, vua Tần rao mua thủ cấp nghìn vàng, phong ấp muôn nhà, mà chỗ đất tốt ở Đốc Cương, người Tần vẫn muốn lấy, nếu được cái đầu Phàn tướng quân và bản địa đồ Đốc Cương đem dâng vua Tần, vua Tần tất vui mừng mà tiếp đãi, tôi nhân đó có thể giúp việc cho thái tử được. Đan nói: - Phàn tướng quân cùng khốn về theo sao nỡ giết chết, còn như bản địa đồ Đốc Cương thì không dám tiếc. Kinh Kha biết thái tử Đan có lòng bất nhẫn, bèn đến yết riêng Phàn Ô Kỳ nói rằng: - Tướng quân bị họa to ở Tần, cha mẹ họ hàng đều bị giết chết, nay nghe Tần mua cái đầu tướng quân, vàng nghìn cân, ấp muôn nhà, tướng quân sẽ dùng cách gì để báo cái thù ấy? Phàn Ô Kỳ ngửa mặt thở dài, chảy nước mắt nói rằng: - Tôi mỗi khi nghĩ đến vua Tần, đau buốt đến tâm can, muốn được cùng nó chết, chỉ hiềm chưa có dịp mà thôi. Kinh Kha nói: - Nay tôi có một lời, có thể giải được lo cho nước Yên, báo được thù cho tướng quân có chịu nghe không? Phàn Ô Kỳ vội hỏi rằng: - Sẽ dùng kế gì? Kinh Kha trù trừ không nói. Ô Kỳ hỏi: - Làm sao ngài lại không nói? Kha nói: - Kế đã định rồi nhưng khó nói ra. Ô Kỳ nói: - Nếu báo thù Tần dẫu phải nát thịt tan xương, tôi cũng không tiếc, vậy có điều gì mà ngài khó nói ra. Kha nói: - Cái kế ngu của tôi, là muốn hành thích vua Tần mà không sao đến gần được. Nếu được cái đầu tướng quân để dâng vua Tần, vua Tần tất mừng mà tiếp tôi, nhân đó tôi tay trái nắm lấy tay áo, tay phải đâm vào ngực, thì cái thù của tướng quân sẽ báo được mà Yên khỏi được cái họa diệt vong, tướng quân nghĩ thế nào? Ô Kỳ trật ngay áo ra, quăng tay dậm chân, nói to lên rằng: - Đó là điều mà tôi ngày đêm lo nghĩ mà hiềm chưa có cách gì, nay mới được nghe ngài dạy. Nói xong, liền rút thanh gươm đeo tự cứa vào cổ họng, họng đứt mà cổ chưa đứt. Kinh Kha lại lấy gươm chặt cho đứt hẳn, rồi sai người phi báo thái tử Đan là đã lấy được đầu Phàn tướng quân rồi. Thái tử Đan nghe tin vội đi xe đến phục vào cái thây mà khóc rất thảm, sai hậu táng cái mình còn cái đầu thì để vào trong hòm gỗ. Kinh Kha nói: - Thái tử có thấy con dao nào nhọn sắc lắm không? Thái tử nói: - Từ phu nhân nước Triệu có con dao nhọn dài một thước tám tấc rất sắc, tôi bỏ ra trăm cân vàng mua được, sai thợ đem nhuộm thuốc độc, từng đem thử người nếu chỉ hơi rướm máu là cũng chết ngay. Tôi vẫn cất kỹ để phần ngài đã lâu, chưa rõ bao giờ thì ngài đi. Kha nói: - Tôi có người bạn quen là Cáp Nhiếp chưa đến, muốn đợi hắn đi giúp sức. Đan nói: - Ông bạn của ngài như cái bèo trong bể, biết đâu mà tìm. Môn hạ của tôi có mấy tay dũng sĩ, chỉ thấy Tần Võ Dương là hơn, liệu có thể đi giúp sức được chăng? Kha thấy thái tử nóng nảy quá, thở dài nói rằng: - Nay mang một con dao nhọn, đi vào nước Tần rất nguy hiểm, chỉ là có đi mà không về, tôi sở dĩ chậm đi, là muốn đợi bạn tôi để làm cho chắc chắn, thái tử đã không đợi được thì xin đi. Thái tử Đan liền thảo bức thư cùng bức địa đồ Đốc Cương giao cho Kinh Kha, đem nghìn vàng vì Kinh Kha sắm sửa hành trang, Tần Võ Dương làm phó sứ. Khi ra đi, thái tử Đan cùng tân khách có biết việc ấy đều áo trắng mũ trắng đưa đến sông Dịch Thủy, đặt tiệc tiễn hành, Cao Tiệm Ly nghe Kinh Kha vào Tần cũng đem cái vai lợn và một đấu rượu đến. Kinh Kha giới thiệu với thái tử, thái tử mời cùng ngồi uống rượu. Khi uống được vài lượt rồi, Cao Tiệm Ly đánh cái trúc, Kinh Kha nhịp theo, hát rằng: Gió hiu hắt nước lạnh tê. Phen này tráng sĩ đã đi không về. (Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn. Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn) Tiếng hát rất thê thảm, tân khách và các người đi theo đều chảy nước mắt khóc. Kinh Kha ngửa mặt thở đánh phì một tiếng, hơi xông thẳng lên trời, hóa thành một cầu vồng trắng, ai nấy đều lấy làm lạ. Kinh Kha lại hát rằng: Hang hùm quyết chí xông pha, Một luồng hơi thở hóa ra cầu vồng. Tiếng hát đổi ra giọng hăng hái, mọi người đều trừng mắt hăm hở như đi ra trận. Thái tử Đan lại rót chén rượu, quì mời Kinh Kha, Kha uống một hơi hết ngay, víu vai Võ Dương, nhảy tót lên xe, giục ra roi đi mau. Thái tử Đan lên gò cao trông theo, đến khi không trông thấy nữa mới thôi, ra ý buồn bã chảy nước mắt mà đi về. Kinh Kha đã đến Hàm Dương, biết quan trung thứ tử Mông Gia được vua Tần yêu, đem nghìn vàng đến đút lót, nhờ nói trước với vua Tần cho. Mông Gia vào tâu vua Tần rằng: - Vua Yên sợ oai, không dám chống lại xin đem cả nước xưng thần, cầu được giữ tôn miếu của tiên nhân, lại sợ hãi không dám tự tỏ bày, xin chém đầu Phàn Ô Kỳ và dâng bản địa đồ đất Đốc Cương, sai sứ đem dâng. Nay sứ giả là Kinh Kha, hiện đang ở nhà quán dịch để đợi chỉ. Vua Tần nghe đã giết Phàn Ô Kỳ mừng quá, liền thiết đại triều ở cung Hàm Dương, cho đòi sứ Yên là Kinh Kha vào triều kiến. Kinh Kha giấu con dao nhọn vào trong túi áo, bưng cái hòm đầu Phàn Ô Kỳ. Tần Võ Dương bưng cái hộp địa đồ, theo nhau bước lên. Tần Võ Dương sắc mặt trắng nhợt như người chết, như có dáng sợ hãi quá. Thị thần hỏi: - Sứ giả làm sao lại biến sắc. Kinh Kha ngoảnh lại nhìn Võ Dương cười, rồi đi lên trước dập đầu tạ rằng: - Tần Võ Dương là một kẻ quê mùa rợ mọi, ngày thường chưa từng được thấy thiên tử, cho nên sợ quá mà đổi sắc đi, xin đại vương mở rộng lòng tha thứ, cho được làm xong sứ sự ở trước thiên nhan. Vua Tần truyền chỉ, chỉ cho một người chánh sứ lên điện, các người tả hữu liền thét bảo Võ Dương đi xuống thềm. Vua Tần sai đem cái hòm đầu để xem, quả nhiên là đầu Phàn Ô Kỳ, hỏi Kinh Kha rằng: - Sao không giết ngay tên nghịch thần này đem dâng, lại đợi đến bây giờ? Kinh Kha nói: - Phàn Ô Kỳ phạm tội với đại vương trốn trên miền Bắc mạc, quả quân phải treo thưởng nghìn vàng mới bắt được, muốn để sống đem nộp, e giữa đường có biến, cho nên chặt lấy đầu, mong được sảo thư cái lòng giận của đại vương. Kinh Kha đối đáp ung dung, nhan sắc càng ra vẻ hòa nhã. Vua Tần không có lòng ngờ. Bấy giờ Võ Dương bưng cái hộp địa đồ lên xem. Kinh Kha xuống lấy dâng lên, vua Tần mở bức địa đồ đang chực xem, mũi dao của Kinh Kha đã lộ, không thể che giấu được nữa, hoảng quá, liền tay tả nắm lấy tay áo vua Tần, tay hữu cầm dao đâm vào ngực, chưa đến mình vua Tần sợ quá, vùng đứng dậy, tay áo đứt. Bấy giờ là đầu tháng Năm, vua Tần chỉ mặc cái áo đơn, cho nên dễ rách, bên cạnh chỗ vua ngồi, có cái bình phong đổ xuống đất, Kinh Kha cầm dao theo sấn đằng sau, vua Tần không thể thoát thân quanh cột mà chạy. Nguyên phép nhà Tần, quần thần chầu trên điện, không được mang binh khí, còn các quan lang trung túc vệ cầm giáo đều đứng dàn hầu ở dưới điện, không có tuyên triệu, không được tự tiện lên điện. Bấy giờ sự biến bất ngờ xảy ra, không kịp gọi lên, quần thần đều lấy tay không đánh Kha. Kha khỏe lắm, người nào đến gần là bị ngã ngay, có viên thị y Hạ Vô Đán cũng lấy túi thuốc đánh Kha, Kha quật tay một cái, túi thuốc bị rách tung. Vì Kinh Kha còn phải đánh đuổi mọi người, nên vua Tần chạy tránh chỗ này chỗ nọ, không bị Kinh Kha bắt được. Thanh bảo kiếm của vua Tần đeo ở bên mình gọi là "Lộc lư" dài tám thước, muốn rút ra đánh Kha, vì vỏ dài khó rút ra được, có tên tiểu nội thị Triệu Cao vội gọi rằng: - Đại vương sao không xoay vỏ gươm ra sau lưng mà rút? Vua Tần nghe ra, liền xoay vỏ gươm ra sau lưng, quài tay lại rút gươm ra được dễ dàng. Vua Tần khỏe không kém gì Kinh Kha, dao nhọn dài hơn thước chỉ có thể đâm gần, còn thanh kiếm dài tám thước có thể đánh xa được. Vua Tần đã có thanh kiếm cầm tay, liền bạo dạn ngay, bèn chạy đến chém Kinh Kha, chặt đứt đùi bên tả, Kinh Kha ngã bổ mình xuống bên cạnh cái cột đồng bên tả, không thể đứng dậy được, bèn cầm con dao nhọn ném vua Tần. Vua Tần né mình tránh ra, con dao sượt qua tai vua Tần mà vụt đi đâm thẳng vào cột đồng bên hữu, lòe cả lửa ra. Vua Tần lại cầm kiếm đánh Kha, Kha giơ tay ra đón, rụng mất ba ngón tay, bị chém luôn tám nhát. Kinh Kha dựa cột mà cười, rồi ngồi nhổm lên mắng vua Tần rằng: - May cho mày, ta muốn bắt chước việc Tào Mạt để cướp sống mày, bắt trả những đất lấn của chư hầu, không ngờ việc không thành, mày lại chạy thoát được, há chẳng phải là lòng trời ư? Nhưng mày cậy mạnh, thôn tính chư hầu, hưởng nước cũng chẳng được dài đâu! Các người tả hữu xô nhau lại đánh chết Kinh Kha. Tần Võ Dương ở dưới điện, thấy Kinh Kha đã ra tay, toan chạy lên, nhưng bị bọn lang trung đánh chết. Tiếc thay Kinh Kha chịu thái tử Đan nước Yên cung dưỡng bao nhiêu ngày, đi sang Tần làm một việc chẳng xong, không những tự hại mình, lại làm uổng ba người là Điền Quang, Phàn Ô Kỳ và Tần Võ Dương, đoạn tống sinh mệnh cha con vua Yên, đó cũng vì kiếm thuật không tinh mà nên nỗi vậy. Vua Tần sợ quá, ngồi ngây nửa ngày mới hoàn hồn, đến xem Kinh Kha, thấy hai mắt trừng trừng rõ ràng như người sống, sắc giận hầm hầm. Vua Tần càng sợ, sai đem thây Kinh Kha, Tần Võ Dương và đầu Phàn Ô Kỳ cùng đốt ở trong chợ, những người nước Yên đi theo đều bị chém bêu đầu ở các cửa thành, rồi đi về nội cung. Các hậu phi trong cung nghe có việc biến, đều đến vấn an và đặt tiệc rượu mừng. Sáng hôm sau, vua Tần ra coi chầu luận công hành thưởng, trước hết thưởng cho Hạ Vô Đán hai trăm cân vàng nói rằng: - Vô Đán yêu ta, cầm túi thuốc ném thẳng Kinh Kha. Rồi gọi tên tiểu nội thị Triệu Cao bảo rằng: - Nhờ có mày bảo ta mới biết rút kiếm ra mà đánh Kinh Kha, cũng thưởng cho trăm cân vàng. Trong quần thần những người tay không vào đánh Kinh Kha, cứ coi vết thương nặng nhẹ mà gia thưởng. Các lang trung ở dưới điện đánh giết Tần Võ Dương cũng đều được thưởng. Mông Gia lầm nói hộ cho Kinh Kha vào triều bị tội lăng trì xử tử, diệt cả nhà. Mông Ngao đã bị ốm chết, con là Mông Vũ hiện làm tì tướng vì không tư tình nên được tha tội. Vua Tần vẫn chưa nguôi cơn giận, sai Vương Bí đem thêm quân giúp sức cha là Vương Tiễn đánh Yên. Quân Yên bị thua to, Vương Tiễn họp binh vây Kế Thành. Khi thành bị đánh phá, vua Yên bảo thái tử Đan rằng: - Ngày nay nước mất nhà tan, là chỉ vì mày! Đan thưa rằng: - Hai nước Hàn, Triệu bị diệt cũng tội ở Đan này ư? Rồi thái tử Đan cùng vua Yên bỏ Kế Thành chạy ra Liêm Đông để lo kế khôi phục. Vương Tiễn bị bệnh xin từ chức, vua Tần sai Lý Tín thay cầm quân đuổi theo đánh cha con vua Yên. Vua Yên nghe quân Tần lại đến, sai sứ cầu cứu vua đất Đại là Gia. Gia phúc thư lại vua Yên đại lược nói Tần sở dĩ kíp đánh Yên là vì cớ oán thái tử Đan, vua có thể giết Đan để tạ tội Tần, thì Tần sẽ hết giận, xã tắc Yên may giữ được còn. Vua Yên do dự không nỡ, thái tử Đan sợ bị giết, bèn cùng tân khách trốn ra đảo Đào Hoa. Lý Tín đóng quân ở Thủ Sơn, sai người đưa thư kể tội thái tử Đan, vua Yên sợ quá, giả cách cho đòi thái tử Đan đến bàn việc, đổ rượu cho say, thắt cổ giết chết, rồi chặt lấy đầu. Bấy giờ là tháng Năm mà trời bỗng mưa tuyết, mặt đất tuyết dày đến ba thước năm tấc, rét buốt như mùa đông, người ta đều bảo đó là oán khí của thái tử Đan làm ra vậy. Vua Yên sai đem đầu thái tử Đan đóng hòm đem nộp Lý Tín và viết thư tạ tội. Lý Tín nhân tháng Năm lại có tuyết lớn, quân lính bị rét thành bệnh, tâu vua Tần hãy cho tạm rút quân về. Vua Tần lại nghe kế của Úy Liêu, cho rằng Yên, Đại chỉ còn như cái hồn bay, không bao lâu phải tan, hãy đem quân đánh Ngụy rồi đến Tề, Sở, ba nước ấy đã diệt được rồi, thì Yên, Đại không cần đánh cũng hạ được. Lại sai Vương Bí làm đại tướng đem 10 vạn quân đi đánh Ngụy, vua Ngụy cầu cứu Tề, nhưng tướng quốc Tề là Thắng ăn đút nhiều vàng của Tần, và nhất định trông cậy Tần, bảo vua Tề chớ cứu Ngụy. Quân Tần đánh Đại Lương, Vương Bí nhân lúc trời mưa to, sai quân lính khai cừ ở Tây Bắc, dẫn nước hai sông Hoàng Hà, và Biện Hà đắp đê ngăn chắn hạ lưu. Khi cừ đào xong, mưa to luôn mươi ngày không thôi, thế nước to quá, Vương Bí phá đê cho nước tràn vào trong thành. Thành bị nước ngâm ba ngày, mấy nơi bị lở, quân Tần liền theo đó mà vào. Vua Ngụy cùng quần thần đang bàn viết biểu xin đầu hàng, bị Vương Tiễn bắt được bỏ lên xe tù cùng quan thuộc đưa về Hàm Dương, giữa đường vua Ngụy bị bệnh chết. Vương Bí lấy hết đất Ngụy đặt làm quận Tam Xuyên, lại lấy cả đất Giã Vương, bỏ Vệ Quân làm thứ nhân. Vua Tần lại dùng kế Úy Liêu đem quân đánh Sở, hỏi Lý Tín dùng độ bao nhiêu quân thì vừa. Lý Tín nói: - Chỉ dùng 20 vạn người là đủ. Vua Tần lại hỏi lão tướng Vương Tiễn, Tiễn nói nếu dùng 20 vạn người đánh Sở tất bị thua, tất phải dùng 60 vạn quân mới được. Vua Tần cho là Vương Tiễn già nua nên nhút nhát, không bằng Lý Tín trai trẻ đang hăng hái, bèn không dùng Vương Tiễn, cử Lý Tín làm đại tướng, Mông Vũ làm phó, đem 20 vạn quân đi đánh Sở. Vua Sở là Phụ Trâu nghe tin quân Tần đến đánh, bèn cử Hạng Yên làm đại tướng, mang 20 vạn quân chống đánh. Lý Tín cậy mạnh cứ tiến tràn vào, gặp quân Hạng Yên, hai bên cùng giao chiến, trong lúc đánh nhau đang hăng, bảy đạo quân phục của Sở đều xông ra, Lý Tín không chống nổi bị thua to bỏ chạy. Hạng Yên đuổi đánh luôn ba ngày ba đêm, quan quân Tần bị chết hại rất nhiều. Mông Vũ đi sau, nghe quân Lý Tín thua to, liền lùi lại, sai sứ về cáo cấp vua Tần. Vua Tần giận quá, tước hết quan chức và ấp ăn lộc của Lý Tín, rồi thân đến Dĩnh Dương yết kiến Vương Tiễn, tỏ ý lấy làm hối về việc nghe lời Lý Tín đem 20 vạn quân đánh Sở, quả nhiên bị thua, và yêu cầu Vương Tiễn lại ra làm tướng đi đánh Sở, để báo cái thù ấy. Vương Tiễn hai lần từ chối, nhưng vua Tần cứ ép nài. Vương Tiễn nói: - Nếu đại vương bất đắc dĩ mà dùng tôi thì phi có 60 vạn quân không được. Vua Tần hiềm là dùng nhiều quân quá, Vương Tiễn nói: - Nước Sở đất rộng hơn cả miền Đông Nam, hễ có hiệu lệnh là có thế lấy được trăm vạn quân ngay. Tôi xin 60 vạn quân, còn e không địch nổi, nữa là còn mong diệt được nước ấy ư? Vua Tần lấy làm phải, bèn lấy xe chở Vương Tiễn vào triều, ngay ngày hôm ấy bái làm đại tướng, lại cử Mông Vũ làm phó. Khi khởi hành Vua Tần thân đi tiễn. Vương Tiễn nâng chén rượu mời vua Tần uống rồi nói rằng: - Xin đại vương uống cạn chén này, tôi có điều muốn nói. Vua Tần uống một hơi hết ngay, hỏi rằng: - Tướng quân muốn nói gì? Vương Tiễn lấy ở trong áo ra một tờ giấy, trong giấy xin vua Tần cấp cho vài nơi ruộng nhà tốt ở Hàm Dương. Vua Tần nói: - Nếu tướng quân thành công trở về, quả nhân còn tính cùng tướng quân hưởng phú quí, chứ lo gì nghèo? Vương Tiễn nói: - Tôi già rồi, đại vương dẫu phong tước đền công cho, cũng như ngọn đuốc ngoài gió, sáng được mấy tí, chi bằng lúc tôi còn sống, cấp cho ruộng nhà tốt để lại cho con cháu, đời đời được chịu ơn của đại vương. Vua Tần cả cười, rồi bằng lòng cho. Khi quân đi đến cửa Hàm Cốc, Vương Tiễn lại sai sứ về xin vua Tần cho thêm mấy nơi vườn ao nữa. Mông Vũ nói: - Tướng quân xin như thế, chẳng là nhiều lắm ư? Vương Tiễn mật bảo rằng: - Vua Tần tính dữ tợn mà đa nghi, nay đem 60 vạn quân giao cho ta, thế là đem hết cả nước mà ủy thác vào ta vậy. Ta xin nhiều ruộng nhà ao vườn để lập nghiệp cho con cháu, là cốt để yên lòng vua Tần không nghi ta là có mưu tính sự gì khác nữa. Mông Vũ phục là cao kiến. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 108 Kiêm sáu nước thống nhất thiên hạ Lên ngôi báu tự gọi Thủy Hoàng Bấm để xem Lại nói Vương Tiễn thay Lý Tín làm đại tướng mang 60 vạn quân đến đánh Sở, tướng Sở là Hạng Yên giữ Đông Cương để chống lại, vua Sở lại sai Cảnh Kỳ đem thêm 20 vạn quân giúp sức. Vương Tiễn đóng quân ở núi Thiên Trung, đặt liên dinh trại hơn mươi dặm, phòng giữ kiên cố. Hạng Yên hàng ngày sai người đến khiêu chiến, nhất quyết không ra. Hạng Yên cho là Vương Tiễn tuổi già nhát sợ. Vương Tiễn hàng ngày cho quân lính tắm gội ăn uống, như thế trong vài tháng, quân lính vô sự ngày ngày chỉ cùng nhau ném đá nhảy cao làm trò chơi. Theo binh pháp của Phạm Lãi, ném đá là dùng hòn đá nặng 12 cân, dựng cây gỗ làm máy, bắn đi được ba trăm bước là thắng, không được như thế là thua, người nào có sức khỏe có thể lấy tay ném đá, thì thắng hơn một tầng. Nhảy cao là chôn một tấm gỗ ngang cao bảy tám thước, cùng nhau nhảy qua, lấy đó thi hơn thua. Vương Tiễn mỗi ngày sai quân lại các dinh ngầm ghi những người được thua, biết sức mạnh yếu, bên ngoài làm ra cách tự giữ không cho quân lính đến địa giới Sở kiếm củi, bắt được người Sở cho ăn uống no say rồi tha cho về. Giữ nhau đến hơn một năm. Hạng Yên không đánh được trận nào, cho là Vương Tiễn tiếng dẫu đánh Sở, thực là giữ mình, bèn không có dự bị gì đến việc đánh nhau nữa. Vương Tiễn một hôm đại khao tướng sĩ, nói hôm nay cùng các người phá quân Sở, tướng sĩ đều tranh nhau xin đi trước, bèn kén hai vạn quân kiêu dũng làm quân xung phong, lại chia quân làm vài đạo, hễ thấy quân Sở thua chạy rồi, lại đều chia đi cướp đất. Hạng Yên không ngờ Vương Tiễn chợt đến, vội vàng chống đánh, quân Tần hăng hái quá, một người địch nổi trăm người, quân Sở thua to. Khuất Định tử trận, Hạng Yên và Cảnh Kỳ đem tàn quân chạy về phía Đông. Vương Tiễn thừa thắng đuổi theo, hai bên lại đánh nhau ở thành Vĩnh An, quân Sở lại thua to, quân Tần bèn hạ được Tây Lăng. Vương Tiễn sai Mông Vũ chia một nửa quân đóng ở Ngọc Chử, truyền hịch các quận Hồ Nam, tuyên bố uy đức vua Tần, tự đem đại quân kéo thẳng đến kinh đô Thọ Xuân, một mặt sai người về Hàm Dương báo tiệp. Hạng Yên đi lên sông Hoài mộ quân chưa về, Vương Tiễn thừa cơ đánh gấp, thành phá, Cảnh Kỳ tự đâm cổ chết ở trên thành. Vua Sở là Phụ Trâu bị bắt, vua Tần thân đến Phàn Khẩu để nhận tù, truất vua Sở làm thứ nhân, sai Vương Tiễn hợp binh với Mông Vũ để đánh lấy Kinh, Tương. Hạng Yên mộ được hai vạn năm nghìn quân về đến Từ Thành, bỗng gặp người em cùng mẹ với vua Sở là Xương Bình Quân chạy nạn đến đó, nói thành Thọ Xuân đã bị phá, vua Sở đã bị bắt, chẳng biết sống chết thế nào. Hạng Yên nói: - Ngô, Việt có Trường Giang làm giới hạn, đất vuông nghìn dặm, còn có thể dựng nước được. Bèn đem quân qua sông, tôn Xương Bình Quân làm vua Sở, ở thành Ô Lăng, luyện binh giữ thành. Được tin Hạng Yên lại lập vua Sở mới ở Giang Nam, vua Tần có ý lo. Vương Tiễn nói: - Hình thế nước Sở, ở cả Giang, Hoài, nay cả miền Hoài về tay ta rồi, kẻ kia dẫu còn chút hơi thở, nhưng đại binh đến là bị bắt ngay, lo gì điều ấy. Vua Tần khen rằng: - Tướng quân tuổi dẫu già rồi mà chí còn hăng hái lắm. Hôm sau, vua Tần trở về Hàm Dương, lưu Vương Tiễn ở lại để bình định miền Giang Nam. Vương Tiễn sai Mông Vũ đóng thuyền ở Anh Vũ Châu, hơn năm thuyền xong, thuận dòng xuôi xuống, quân Sở giữ sông, không thể chống nổi. Quân Tần bèn lên bộ, lưu mười vạn quân ở Hoàng Sơn, để đóng chẹn cửa sông, đại quân từ Chu Phương tiến vây Lam Lăng, đóng dinh trại khắp bốn mặt, quân lính reo hò vang trời. Hạng Yên đem hết quân trong thành ra đánh ở dưới thành, hiệp đầu quân Tần hơi lui. Vương Tiễn chia các tráng sĩ làm hai đội tả hữu, đều cầm đoản binh, reo to xông vào trận, Mông Vũ tay chém một viên tì tướng, lại bắt sống một người, quân Tần càng thêm hăng hái. Hạng Yên lại thua to, chạy vào trong thành, lấp cửa thành cố giữ. Vương Tiễn dùng thang máy leo vào đánh, Hạng Yên dùng tên lửa bắn, đốt cháy thang máy. Mông Vũ nói: - Hạng Yên đã như con cá ở trong nồi rồi. Rồi sai đắp lũy cao bằng thành, vây đánh càng gấp. Xương Bình Quân thân tự đi tuần thành, bị tên bay bắn phải, quân lính vực về hành cung, nửa đêm thì chết. Hạng Yên khóc nói rằng: -Ta còn sống trộm ở đây, là vì còn có Xương Bình Quân là dòng dõi vua Sở, ngày nay Xương Bình Quân chết nốt, thì còn mong gì. Rồi ngửa lên trời kêu to ba tiếng, cầm gươm đâm cổ mà chết. Trong thành rối loạn, quân Tần trèo vào mở cửa thành. Vương Tiễn kéo quân vào, dụ yên nhân dân, lại đem quân xuống miền Nam, đến núi Tích Sơn, quân lính đào đất làm bếp đặt nồi thổi cơm, được một cái bia đá, ở trong khắc 12 chữ rằng: "Hữu tích: Binh, thiên hạ tranh; vô tích: Ninh, thiên hạ thanh", nghĩa là có thiếc thì đánh nhau thiên hạ loạn; không có thiếc thì yên ổn, thiên hạ yên. Vương Tiễn cho đòi thổ nhân đến hỏi, nói núi ấy từ khi vua Bình Vương nhà Chu dời sang đất Lạc, núi ấy bèn sản ra nhiều chì thiếc, nên gọi là Tích Sơn, 40 năm nay lấy dùng không hết, gần đây xuất sản ít dần, bia ấy cũng không biết người nào làm ra. Vương Tiễn than rằng: - Bia này lộ ra, thiên hạ từ đây được yên ổn, có lẽ người xưa đã xét thấy cái số định, nên chôn bia để bảo người sau đó chăng. Từ nay nên đặt tên nơi này gọi là Vô Tích. Vương Tiễn kéo quân qua Cô Tô, thủ thần đem thành hàng, bèn qua Chiết Giang, lược định đất Việt. Con cháu vua Việt, từ sau khi Việt mất, ở tản mát trong khoảng Dũng Giang, Thiên Thai, dựa theo mé bể mà ở, tự xưng quân trưởng, không thống thuộc nhau, đến đó nghe oai đức vua Tần, đều đến xin hàng. Vương Tiễn thu lấy địa đồ và sổ dinh, phi báo vua Tần, lấy được cả đất Dự Chương, dựng ra hai quận Cửu Giang, Cối Kê, thế là diệt được nước Sở. Vương Tiễn đã diệt được Sở, đem quân về Hàm Dương, vua Tần thưởng cho nghìn cân vàng. Tiễn cáo lão lại về Dĩnh Dương, vua Tần cử con trai Tiễn là Vương Bí làm đại tướng đem quân đánh vua Yên ở Liêu Đông, dặn bình được Liêu Đông rồi, đem quân lấy luôn đất Đại. Vương Bí đem quân đi, qua sông Áp Lục, vây phá được thành Bình Nhưỡng, bắt Yên Vương Hỉ đưa về Hàm Dương, truất làm thứ nhân, thế là lại diệt được Yên. Vương Bí đã diệt Yên, bèn rời quân sang phía Tây đánh đất Đại. Đại vương Gia thua to, muốn chạy sang Hung Nô, Vương Bí đuổi theo bắt được đem giam, Gia tự sát. Vương Bí lấy được hết đất Vân Trung, Nhạn Môn, thế là diệt hẳn được nước Triệu. Sáu nước đối địch với Tần, đến đó đã mất năm rồi, chỉ còn lại một nước Tề nữa mà thôi. Thư báo tiệp của Vương Bí gửi về đến Hàm Dương, vua Tần mừng quá, tự tay viết một bức thư, gửi cho Vương Bí, đại lược nói rằng: "Tướng quân một lần đem quân đi mà bình được Yên và Đại, rong ruổi hơn hai ngàn dặm, ví với cha già, công lao chẳng hơn kém nhau. Tuy nhiên, từ Yên về Tề, Nam Bắc tiện đường, nước Tề còn lại, ví như thân người, còn thiếu một cánh tay, xin tướng quân đem cái oai thừa, diệt nốt nước Tề, như vậy cái công của cha con tướng quân đối với Tần không còn ai sánh kịp". Vương Bí được thư bèn dẫn quân qua Yên Sơn, theo đường Hà Giang xuống miền Nam. Lại nói Tề Vương Kiến nghe lời tướng quốc Hậu Thắng, không cứu Hàn, Triệu, mỗi khi Tần diệt được một nước, lại sai sứ đến mừng, Tần lại đút nhiều vàng cho sứ giả, sứ giả về, kể chuyện vua Tần hậu đãi, vua Tề cho là hòa hiếu có thể cậy được, không phòng bị việc chiến tranh. Đến khi nghe năm nước bị diệt cả rồi, vua Tề mới áy náy không yên, cùng Hậu Thắng thương nghị, mới đem quân giữ địa giới phía Tây, để phòng quân Tần đánh úp, không đề phòng Vương Bí ở mặt Bắc đem quân qua Ngô Kiều thẳng đến Tế Nam. Nước Tề từ khi vua Kiến lên ngôi, trong 44 năm, không bị binh lửa, trên dưới đều được yên ổn vô sự, không từng diễn tập võ nghệ, phương chi quân Tần vốn có tiếng là cường bạo, nay nghe có vài mươi vạn quân sắp kéo đến, nên sợ hãi quá, không còn ai dám chống nữa. Vương Bí kéo quân đi thẳng vào tận Lâm Tri, nhân dân trong thành đều chạy tán loạn, cửa thành không giữ được nữa, Hậu Thắng bó tay không còn kế gì, đành khuyên vua Tề ra hàng. Vương Bí không phải đánh một trận nào, trong khoảng hai tháng lấy được hết đất Sơn Đông. Vua Tần nghe tin báo tiệp truyền lệnh rằng: - Tề Vương Kiến dùng kế của Hậu Thắng, tuyệt sứ Tần, muốn làm loạn. Nay may mà tướng sĩ dũng mệnh đã diệt được Tề. Lý ưng giết cả vua tôi, nhưng nghĩ đến cái tình Kiến qui thuận trong hơn 40 năm, tha tội chết cho, cùng vợ con dời ra Cung Thành, quan hữu tư tính ngày cấp thóc cho ăn, cho trọn cái đời sống thừa của Kiến; còn Hậu Thắng thì nên chém đầu ngay ở bản xứ. Vương Bí vâng mệnh giết Hậu Thắng, sai quân áp giải Tề Vương Kiến ra an trí ở Cung Thành, cho ở trong mấy gian nhà ở dưới núi Thái Hàng bốn bề đều là cây tùng cây bách, tuyệt chẳng có cư dân ở. Cung quyến dẫu bỏ đi hết, nhưng còn vài chục miệng ăn, thóc cấp không đủ, mà quan hữu tư thỉnh thoảng mới lại cấp cho. Kiến chỉ có một con trai, còn bé, kêu khóc suốt đêm. Kiến buồn rầu ngồi dậy, nghe tiếng gió thổi các cây tùng bách, nghĩ lại khi ở Lâm Tri phú quí đến bực nào, vì dại nghe tên gian thần Hậu Thắng đến nỗi mất nước, chết đói, ở núi hoang, hối lại không còn kịp nữa. Nghĩ vậy rồi khóc nức nở, được vài hôm thì chết, các cung nhân đều trốn cả, còn đứa con trai cũng không biết sống chết thế nào. Người ta nói Tề Vương Kiến vì đói mà chết, người Tề nghe tin đều động lòng thương, nhân làm bài hát rằng: Một rừng tùng bách cây to, Đói lòng chẳng thể ăn cho no lòng, Ai làm cho Kiến cơ cùng, Vì tên gian nịnh đen lòng xui nên. Mấy câu hát ấy là trách Hậu Thắng đã làm mất nước Tề vậy. Bấy giờ là năm thứ 26 Tần Vương Chính, sáu nước đều tinh hợp cả vào nước Tần, thiên hạ nhất thống. Vua Tần cho rằng sáu nước kia đều xưng vương, danh hiệu không tôn, muốn đổi xưng là đế, nhưng năm xưa cũng từng có nghị Đông Tây hai đế, không đủ truyền cho đời sau, uy phục bốn rợ, bèn xét xem quân hiệu ở thượng cổ, chỉ có Tam Hoàng, Ngũ Đế, công đức ở trên Tam Vương duy có Tần đức kiêm Tam Hoàng, công hơn Ngũ Đế, bèn kiêm cả hai danh hiệu gọi là hoàng đế, tôn cha là Trang Tương Vương làm thái thượng hoàng. Lại cho Chu Công đặt ra phép đặt tên thụy, con được nghị cha, tôi được nghị vua là trái lễ, bỏ phép ấy đi không dùng. Ta làm Thủy hoàng đế, đời sau cứ theo số ấy mà tính đi, nhị thế, tam thế cho đến bách, thiên, vạn thế, truyền mãi không cùng. Thiên tử tự xưng là "trẫm", bày tôi tâu việc xưng là "bệ hạ". Triệu thợ khéo chạm viên ngọc họ Hòa làm ấn truyền nước, có khắc chữ rằng: "Thụ mệnh ư thiên, ký thọ vĩnh xương". Lại suy tính năm hành trước sau, nhà Chu được hành hỏa, duy thủy có thể diệt được hỏa, Tần theo cái vận hành thủy, y phục tinh kỳ đều theo sắc đen, thủy số sáu, cho nên đồ dùng đều theo số sáu. Lấy ngày sóc tháng mười làm tháng giêng, các lễ triều hạ đều ở trong tháng ấy. Chữ "chinh" đồng âm với chữ "chính", ngự húy hoàng đế không được phạm, đổi chữ "chính" làm chữ "chinh"; chữ "chinh" có nghĩa không được tốt lành, nhưng vì là ý Thủy Hoàng nên không ai dám nói. Úy Liêu thấy Thủy Hoàng đắc ý lắm, thay đổi mãi không thôi, phàn nàn riêng một mình rằng: - Nhà Tần dẫu được thiên hạ mà nguyên khí đã suy rồi, thì lâu dài sao được. Rồi cùng đệ tử Vương Ngao một đêm trốn đi, không ai biết đi đâu, Thủy Hoàng hỏi quần thần rằng: - Úy Liêu bỏ trẫm mà đi là cớ làm sao? Quần thần đều thưa rằng: - Úy Liêu giúp bệ hạ định bốn bể, công rất to cũng mong xé đất chia phong như Thái Công, Chu Công nhà Chu, nay bệ hạ đã định tôn hiệu mà chưa luận công hành thưởng, nên Úy Liêu thất ý mà bỏ đi. Thủy Hoàng hỏi: - Chế độ phân phong của nhà Chu còn dùng được nữa không? Quần thần đều nói: - Tề, Sở, Đại, đất xa khó trị, không đặt vương thì không thể trấn nhiếp được. Lý Tư bàn rằng: - Nhà Chu chia phong ra vài trăm nước, đều là người cùng họ, về sau con cháu tranh giết nhau mãi không thôi, nay bệ hạ đã thống nhất được thiên hạ, đều chia ra làm nhiều quận huyện, dẫu có công thần, chỉ nên hậu cấp bổng lộc, không cho được một thước đất, một tên dân nào, thì tuyệt hẳn được cái gốc họa binh cách, há chẳng phải là kế trị an lâu dài ư? Vua Tần theo nghị ấy, bèn chia thiên hạ làm 36 quận, mỗi quận đặt một viên thủ úy, một viên giám ngự sử. Thu hết giáp binh thiên hạ đem về cả Hàm Dương, tiêu hủy đi. Đúc 12 người vàng, mỗi người nặng nghìn cân, đặt ở trong cung đình, để ứng cái điềm người cao lớn ở Lâm Thao. Đem hết những bậc hào kiệt trong thiên hạ đến ở cả Hàm Dương, cộng 20 vạn nhà. Lại ở khu bắc Hàm Dương, theo lối cung thất sáu nước, dựng ra sáu sở ly cung. Lại làm cung A Phòng. Cử Lý Tư làm thừa tướng, Triệu Cao làm lang trung lệnh, các tướng súy có công, như bọn Vương Bí, Mông Vũ, đều phong cho vạn hộ, còn các người hoặc được vài nghìn hộ, đều theo cái số thuế thu nhập mà cấp cho. Rồi đó đốt sách, chôn học trò, tuần du vô độ, đắp Vạn lý trường thành để chống rợ Hồ, trăm họ ta thán, lấy làm khổ sở quá. Đến đời vua Nhị Thế, lại càng bạo ngược, các tay anh hùng ở nơi thảo dã là bọn Trần Thắng, Ngô Khởi đều nổi lên mà làm mất nhà Tần. Quay về bài gốc 0SHARES