Tổng hợp tài liệu chuyên sâu các tác phẩm văn học thi THPTQG

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Galassia, 24 Tháng mười một 2021.

  1. Galassia

    Bài viết:
    34
    Mỗi tác phẩm văn học mình sẽ cung cấp chi tiết gồm:

    1. Mở bài mẫu (cần những thông tin về tác giả, sơ lược hoàn cảnh sáng tác, tác phẩm và vấn đề nghị luận)
    2. Khái quát chung (phần liên kết giữa mở bài và thân bài phân tích: Hoàn cảnh sáng tác chi tiết và tóm tắt nội dung đi vào thân bài)
    3. Dẫn chứng (Một số lời nhận định hay về tác phẩm)
    4. Nội dung - Nghệ thuật của tác phẩm
    5. Kết bài mẫu
    6. Một số đề bài về tác phẩm (kèm lời giải)
     
    Chỉnh sửa cuối: 27 Tháng mười một 2021
  2. Galassia

    Bài viết:
    34
    Tây Tiến

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    Người lính, hình ảnh thân thương và rất đỗi cao cả ấy, đã đi vào thơ ca và làm trăn trở biết bao ngòi bút thi nhân. Hoàng Trung Thông từng viết: "Ta viết tiếp bài thơ báng súng/ Con lớn lên viết tiếp thay cha/ Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống/ Người hôm nay viết tiếp người hôm qua". Nhà thơ, qua nhiều thế hệ, họ đã cùng nhau viết về những người lính, với những góc nhìn khác nhau. Quang Dũng cũng từng gửi tâm sự của mình qua những dòng thơ viết về người lính trong "Tây Tiến". Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc.. Nhưng Quang Dũng trước hết vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa – đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình. Tây Tiến được sáng tác năm 1948, là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ..

    2. Khái quát chung

    Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc. Quang Dũng tham gia đoàn quân với chức vụ đại đội trưởng. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông sâu. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, thậm chí chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh hùng. Họ mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn để nhà thơ viết nên bài "Tây Tiến". Bài thơ ban đầu có tựa đề "Nhớ Tây Tiến" in trong tập thơ "Mây Đầu Ô" (1986).

    3. Dẫn chứng

    · "Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh.." (Vũ Thu Hương)

    · ".. Tây Tiến - sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn." (Đinh Minh Hằng).

    · "Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng.. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn," Tây Tiến "cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó." (Nguyễn Đăng Điệp)

    · "Bài thơ mang gần như trọn vẹn những gì đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng, để khi nói tới Quang Dũng là nhớ ngay đến Tây Tiến."

    · "Tây Tiến là một tượng đài bất hủ bằng thơ, khắc ghi những hình ảnh và rung động của một thời hào hùng và oanh liệt." (PGS. Nguyễn Văn Long)

    4. ND – NT

    · ND

    - Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng..

    - Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc

    => Chất lãng mạn bi tráng là vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ Quang Dũng

    · NT

    - Sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở thành khúc ca bi tráng phản ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến.

    + Cảm hứng lãng mạn: Thường tô đậm cái "tôi" đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội, những vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lí tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực.

    + Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình ảnh tương phản, đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc.

    + Cảm hứng bi tráng: Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến.

    - Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, sử dụng nhiều từ Hán Viêt, từ chỉ địa danh, từ tượng hình.

    - Sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc như nhân hóa, tương phản, điệp từ, điệp ngữ..

    => Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ và cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

    5. Kết bài

    Thông qua cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng, chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa thành công qua những vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn, bi hùng và trở thành bức tượng đài bất tử theo thời gian và trường tồn cùng lịch sử dân tộc trong những năm tháng kháng chiến gian khổ nhưng vẻ vang của đất nước. Đó cũng chính là vẻ đẹp tinh thần kiên cường, bất khuất của những người lính trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ dân tộc. Tác phẩm còn thể hiện tài năng của nhà thơ trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, tạo nên những vần thơ đậm chất hội họa và âm nhạc, đồng thời thể hiện "đời thơ hào hoa và bình dị" của tác giả Quang Dũng.

     
  3. Galassia

    Bài viết:
    34
    Việt Bắc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Đặng Thai Mai đã từng nói: "Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Đó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca" . Và đúng là như vậy, thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với các chặng đường cách mạng gian khổ mà hào hùng, vẻ vang của dân tộc với nội dung mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc cùng nghệ thuật đậm tính dân tộc. Trong đó, Việt Bắc là một trong những thành tựu xuất sắc, kết tinh vẻ đẹp hồn thơ và phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. Bài thơ được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Đoạn thơ sau là đoạn thơ tiêu biểu trong bài thơ Việt Bắc đã nói lên điều đó.

    2. Khái quát chung

    Việt Bắc là quê hương cách mạng, nơi có hang Pác Bó mà Nguyễn Ái Quốc sau bao nhiêu năm tìm đường cứu nước đã đặt chân đầu tiên khi về với Tổ quốc, nơi thành lập Mặt trận Việt Minh chuẩn bị tổng khởi nghĩa dẫn đến Cách mạng Tháng 8 thành công. Nơi Đội VN Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời – tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, nơi có 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, tháng 7/1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và tháng 10/1954 Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển về Hà Nội, cán bộ kháng chiến về xuôi. Sự lưu luyến bịn rịn đầy ân tình giữa cảnh và người Việt Bắc đối với người cán bộ về xuôi trong khoảnh khắc chia tay ấy là cảm xúc lớn, trực tiếp đã giúp cho nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài thơ này và in trong tập thơ Việt Bắc.

    3. Dẫn chứng

    - "Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi." (Tố Hữu)

    - "Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên." (Xuân Diệu)

    4. ND – NT

    · ND

    - Bài thơ thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn của những người cán bộ Cách Mạng về xuôi với đồng bào Việt Bắc và đó cũng là tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ Cách Mạng.

    - Bài thơ khẳng định tình nghĩa thủy chung gắn bó, tình cảm uống nước nhớ nguồn của những cán bộ Cách Mạng đối với thủ đô kháng chiến, quê hương Cách Mạng và người dân VN.

    · NT

    - Bài thơ được viết theo lối kết cấu đối đáp mình – ta của những câu hát giao duyên với sự luân phiên lượt lời của người ở lại và người ra đi tạo sự nhịp nhàng, đăng đối.

    - Giọng thơ tâm tình, thương mến kết hợp với thể thơ lục bát và ngôn ngữ trong sáng, giản dị, chức chan cảm xúc khiến cho nỗi nhớ trong bài thơ càng trở nên nồng nàn, sâu đậm.

    5. Kết bài

    Bài thơ Việt Bắc là lời tâm tình của kẻ ở người đi. Là sự bồi hồi, xao xuyến, là sự bịn rịn khôn nguôi trong cảnh chia li của người dân Việt Bắc và chiến sĩ bộ đội ta. Lời thơ thật gần gũi, giản dị nhưng cũng đầy tha thiết, xúc động. Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như "Đồng chí" của Chính Hữu, "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng: Không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng thấy được ý thức trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng đất nước giàu đẹp hơn.

    6. Một số đề bài

    Đề 1: Trong bốn dòng thơ đầu của bài thơ Việt Bắc, người ở lại có hỏi người về xuôi;

    - Mình về mình có nhớ ta

    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

    Mình về mình có nhớ không

    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

    Có khi đáp lại, người về xuôi vừa hỏi, vừa gửi gắm nỗi nhớ:

    Ta về, mình có nhớ ta

    Ta về ta nhớ những hoa cùng người

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình.

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

    Cảm nhận của anh/ chị về tâm trạng kẻ ở- người đi trong các đoạn thơ trên. Từ đó, rút ra nhận xét về tính dân tộc trong đoạn thơ.

    Đáp án:

    · Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận. (0.5)

    · Cảm nhận về tâm trạng kẻ ở - người đi

    ** Tâm trạng người ở lại:

    - Gợi lại tình cảm sâu đậm, gắn bó

    - Cách xưng hô mình- ta, kết cấu đối đáp, ẩn dụ.

    ** Tâm trạng của người về xuôi:

    - Tấm lòng của người về xuôi với VB, luôn thủy chung, son sắt. Nhấn mạnh ấn tượng về vẻ đẹp của "hoa và người" toát lên vẻ đẹp giữa thiên nhiên và con người qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.

    - Cách xưng hô mình- ta, kết cấu đối đáp, ẩn dụ,

    ** Những đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ lục bát với âm hưởng nhẹ nhàng, sâu lắng; lối xưng hô mình – ta; kết cấu đối đáp của ca dao dân ca; hình ảnh bình dị mà gợi cảm; giọng thơ tha thiết, đậm chất trữ tình.

    *Nhận xét về tính dân tộc trong 2 đoạn thơ:

    Hai đoạn thơ cũng cho thấy tình cảm sâu đậm của người ở lại và người ra đi và cách cảm nhận của nhà thơ về những vấn đề vận mệnh đất nước một cách nhẹ nhàng, sâu lắng. Nhà thơ khai thác triệt để văn học dân gian để thể hiện lối sống tình nghĩa, thủy chung; tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước..

     
  4. Galassia

    Bài viết:
    34
    Sóng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    Xuân Quỳnh là nhà thơ trẻ tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ và được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. "Sóng" là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ Xuân Quỳnh, được viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968). Đây là một trong những vần thơ xuất sắc nhất viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha của người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương gắn bó, một trái tim luôn trăn trở lo âu, một tấm lòng luôn mong được hi sinh, dâng hiến cho tình yêu. Những vẻ đẹp trên của tâm hồn người con gái đang yêu được thể hiện rõ nét ở khổ sau (trích dẫn đoạn thơ).

    2. Khái quát chung

    Thật vậy, tiếng lòng của nhân vật trữ tình trong "Sóng" cũng là tiếng lòng của biết bao người con gái luôn da diết trong tình yêu và khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ được sáng tác vào năm 1967 trong chuyến đi vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Bài thơ là sự sóng đôi của hai hình tượng "sóng" và "em". Hai hình tượng này lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh. Vì thế có thể nói rằng hai hình tượng này tuy hai mà một, tuy một mà hai. Nhìn chung bài thơ được tổ chức theo lối kết cấu vừa song hành vừa trùng phức. Song hành để thấu tỏ, trùng phức để khẳng định những khát khao cháy bỏng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Đoạn thơ gồm 5 dòng thơ cũng chính là khổ thứ 5 của bài thơ "Sóng" : .

    3. Dẫn chứng

    - "Điều đáng quý ở XQ và thơ XQ là sự thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu". (Võ Văn Trực)

    - "Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến 1 tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở." (GS. TS Trần Đăng Suyền)

    4. ND – NT

    · ND: Dựa vào việc quan sát, chiêm nghiệm về những con sóng trước biển cả mênh mông, Xuân Quỳnh đã phát hiện ra những cung bậc đa dạng, phức tạp của cảm xúc trong tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Qua đó, nhà thơ đã cho người đọc thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp và được yêu là một hạnh phúc lớn lao của con người.

    · NT:

    - Thể thơ năm chữ tạo âm điệu sâu lắng, dạt dào, như âm điệu của những con sóng biển và cũng là sóng lòng của người phụ nữ khi yêu.

    - Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng khoáng và cách gieo vần, phối âm độc đáo, giàu sức liên tưởng gợi ra nhịp điệu của những con sóng miên man, bất tận, khi ào ạt trào dâng, lúc lại dịu êm, đằm lắng..

    - Giọng thơ vừa thiết tha, đằm thắm, vừa mãnh liệt sôi nổi, vừa hồn nhiên, nữ tính.

    - Xây dựng hình ảnh ẩn dụ - với hình tượng sóng, vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ.

    - Bài thơ sử dụng các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, điệp, đối lập - tương phản.. góp phần thể hiện đặc sắc vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.

    5. Kết bài

    Sóng là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Sóng đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn và một trái tim yêu thiết tha, nồng nàn, luôn trăn trở, nhớ thương của người phụ nữ.

    6. Một số đề bài

    Đề 1: Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp tình yêu của người phụ nữ ở các khổ thơ sau trong tác phẩm Sóng – Xuân Quỳnh. Từ đó liện hệ tình yêu của tuổi trẻ hiện nay.

    Trong hai khổ thơ đầu:


    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể


    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ


    Đến hai khổ thơ cuối:

    Cuộc đời tuy dài thế

    Năm tháng vẫn đi qua

    Như biển kia dẫu rộng

    Mây vẫn bay về xa


    Làm sao được tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ.


    Đáp án:

    · Mở bài: 0.5

    - Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng: Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường.

    - Bài thơ "Sóng" được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, đồng thời là một trong những bài thơ tình hay nhất trong nền văn học Việt Nam.

    - Nêu vấn đề chính: Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp tình yêu ở các khổ thơ

    - Nêu ý phụ: Từ đó liện hệ tình yêu của tuổi trẻ hiện nay.

    · Thân bài:

    A. Khái quát sơ lược về tác phẩm cần cảm nhận:

    B. Cảm nhận vẻ đẹp của tình yêu của người phụ nữ qua các khổ thơ sau (2, 5)

    * Nội dung:

    - Hai khổ đầu:

    + Mượn sóng để liên tưởng đến những cung bậc khác nhau trong tình yêu của người phụ nữ - phong phú, đối cực, phức tạp, đầy bí ẩn

    + Khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì nhỏ hẹp, chật chội, tầm thường.

    - Hai khổ cuối:

    + Những suy tư lo âu trăn trở trước cuộc đời ; ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh khó bền của hạnh phúc..

    + Khát vọng sống hết mình trong tình yêu, khát vọng hóa thân thành sóng để bất tử hóa tình yêu, vượt lên mọi giới hạn của đời người

    * Nghệ thuật:

    - Thể thơ năm chữ truyền thống; cách ngát nhịp gieo vần độc đáo; giàu sức liên tưởng.

    - Xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết..

    *Liên hệ tình yêu của tuổi trẻ hiện nay: 1, 0

    - Tuổi trẻ hôm nay vẫn phát huy được những vẻ đẹp của tình yêu trong bài thơ như:

    + Sống hết mình trong tình yêu

    + Niềm khát khao, tin tưởng vào một tình yêu đích thực

    + Chủ động vươn tới một tình yêu cao đẹp

    - Bên cạnh đó, một bộ phận nhỏ các bạn trẻ có quan niệm sai lầm trong tình yêu. Họ sống thực dụng, không trân trọng những giá trị truyền thống đẹp đẽ của tình yêu.

    Đề 2: Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu qua hai khổ thơ sau:

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Và:

    Làm sao được tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ.

    Từ đó, bình luận về những sáng tạo tài hoa của nhà thơ Xuân Quỳnh qua việc thể hiện khát vọng tâm hồn của người phụ nữ.

    Đáp án:

    - Giới thiệu: Tác giả Xuân Quỳnh, tác phẩm Sóng, vấn đề nghị luận.. 0, 5

    - Phân tích các khổ thơ để làm rõ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu:

    + Khổ 1: Mượn hình tượng sóng với những trạng thái vận động đối cực (Dữ dội và dịu êm/Ồn ào và lặng lẽ), với thủy trình từ sông ra biển (tìm ra tận bể) để ẩn dụ cho vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ khi yêu: Luôn trải nghiệm những cung bậc cảm xúc đối lập, phức tạp nhưng phong phú, sâu sắc, luôn có những khát khao giàu nhận thức, khát vọng vươn đến tình yêu lớn lao, đẹp đẽ..

    + Khổ 2: Mượn hình tượng sóng với những trạng thái vận động hóa thân để trường tồn (tan ra.. trăm con sóng nhỏ.. Giữa biển lớn.. ngàn năm còn vỗ) gợi vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ khi yêu: Khát khao được hòa nhập, hy sinh cho tình yêu, khao khát tình yêu luôn vĩnh cửu.. khát vọng tình yêu luôn bất tử trong cuộc đời..

    - Tương đồng và khác biệt: Hai khổ thơ thể hiện ấn tượng, sâu sắc những biểu hiện đẹp đẽ, quý giá về cảm xúc và khát vọng của tâm hồn người phụ nữ khi sống trong tình yêu qua tiếng lòng của Xuân Quỳnh, một tâm hồn giàu trắc ẩn và khát vọng yêu thương; Cách dùng hình tượng sóng theo nghĩa ẩn dụ sâu sắc kết hợp cách dùng từ ngữ tương phản hiệu quả, phép nhân hóa sống động, hai khổ thơ gợi rõ những chiều sâu cảm xúc của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu..

    - Bình luận những sáng tạo tài hoa của nhà thơ Xuân Quỳnh qua việc thể hiện khát vọng tâm hồn của người phụ nữ :(1.0đ)

    + Xây dựng hình tượng sóng: Với sự xuất hiện đột ngột ở khổ đầu với sự vận động đối cực, với thủy trình vươn ra biển rộng.. để ẩn dụ cho trạng thái cảm xúc sâu sắc, giàu cung bậc hướng tới khát vọng đẹp đẽ của tâm hồn của người phụ nữ: Khao khát được sống với cảm xúc sâu sắc, mãnh liệt của tình yêu, với cuộc đời rộng mở, trong tình yêu lớn lao, đẹp đẽ.. ; với sự hóa thân trường tồn vĩnh cửu trên biển trong khổ cuối để ẩn dụ cho khát vọng tâm hồn của người phụ nữ: Khao khát được yêu thương sâu sắc, mãnh liệt, bền bỉ..

    + Mượn hình tượng sóng có tính quy luật, sự vận động có nhịp điệu phong phú, để gợi rõ tiếng lòng và nhịp đập trái tim đầy khát vọng đẹp đẽ của tâm hồn của người phụ nữ.. nhấn mạnh đó là vẻ đẹp giàu phẩm chất của một tâm hồn.
     
  5. Galassia

    Bài viết:
    34
    Người Lái Đò Sông Đà

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình" . Đúng vậy, những nhà văn, nhà thơ, những người nghệ sĩ luôn sáng tạo nên những sản phẩm nghệ thuật độc đáo và đúng chất riêng của mình. Ta không thể không kể đến Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, nhà văn có phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác, có hiểu biết về nhiều lĩnh vực và có vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện, là bậc thầy ngôn ngữ trong nền văn học Việt Nam. Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Với phong cách độc đáo đó, Nguyễn Tuân đã tìm đến thể tùy bút như một tất yếu. "Người lái đò sông Đà" là một tùy bút đặc sắc của Nguyễn Tuân in trong tập "Sông Đà" xuất bản năm 1960. Tùy bút này là một áng văn đẹp được viết nên từ tình yêu quê hương đất nước tha thiết, say đắm để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cũng như "chất vàng mười" của con người nơi đây.

    2. Khái quát chung

    Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tầm vóc văn chương của ông được khẳng định bằng những thành tựu nghệ thuật xuất sắc trong cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Nếu như trước cách mạng ngòi bút của ông thường viết về cái "tôi" ngông nghênh, kiêu bạc đối với xã hội đương thời, thì sau cách mạng ông đã hòa mình vào cuộc sống nhân dân, cái tôi tài hoa ca ngợi vẻ đẹp giang sơn. "Sông Đà" là tác phẩm tiêu biểu của ông thời kì sau cách mạng, là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn và xa xôi những năm 1958-1960. Chuyến đi không chỉ để thỏa mãn cái thú tìm kiếm những miền đất lạ cho thỏa khát khao "xê dịch" mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc đặc biệt là thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và cho ra đời thiên tùy bút để lại ấn tượng với độc giả.

    3. Dẫn chứng

    · "Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức." (Vũ Ngọc Phan)

    · ".. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói-" hung bạo và trữ tình.. " . (Nguyễn Đăng Mạnh).

    · ".. Nguyễn Tuân- một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm.. ". (Nguyễn Đăng Mạnh).

    4. ND – NT

    · ND

    - Nguyễn Tuân đã làm nổi bật 2 nét tính cách của con Sông Đà: Vừa hung bạo vừa trữ tình. Hai đặc điểm đó tưởng chừng như đối lập nhưng lại hài hòa, thống nhất tạo nên một Sông Đà vô cùng độc đáo, đẹp đẽ.

    - Khắc họa thành công hình ảnh con người lao động qua hình tượng nhân vật ông lái đò vô danh – một người anh hùng trên sông nước, một" tay lái ra hoa "mà Nguyễn Tuân gọi là" chất vàng mười đã qua thử lửa ".

    - Tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người của nhà văn.

    · NT

    - Ngôn ngữ sống động, tổng hợp trên nhiều vốn tri thức, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, từ hội họa, điện ảnh đến quân sự..

    - Nghệ thuật viết tùy bút bậc thầy khiến con sông đã hung bạo, độc hiểm cũng phải hiện hình rõ nét trên trang giấy của Nguyễn Tuân.

    - Lối so sánh liên tưởng độc đáo đã thể hiện được một số đặc trưng cơ bản của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Ông luôn có cảm hứng đặc biệt với những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ, tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, sử dung tùy bút pha bút kí rất phóng túng..

    5. Kết bài

    " Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp "(K. Pautopxki). Với tuỳ bút" Người lái đò sông Đà ", ngòi bút của Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối diệu kì giữa cái đẹp của ngôn từ và ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh, dẫn dắt người đọc đến với vẻ đẹp hung bạo mà trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, nhất là vẻ đẹp" vàng mười "nơi tâm hồn con người mà nhà văn tập trung khắc họa qua hình tượng người lái đò. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác

    6. Một số đề bài

    Đề 1: Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa đậm nét hình ảnh Sông Đà, trong đó có đoạn:

    - " Tiếng nước thác nghe như oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. "

    Và:

    - " Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ. "

    Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp của Sông Đà qua hai đoạn văn trên. Từ đó, hãy làm rõ cái tôi tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân.

    Đáp án:

    · Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò Sông Đà và vấn đề nghị luận

    · Cảm nhận về vẻ đẹp của Sông Đà qua hai đoạn văn:

    * Đoạn 1:

    - Nội dung: Sông Đà ở thượng nguồn với vẻ hùng vĩ, hung bạo, dữ dội, nguy hiểm.

    + Tiếng thác nước: Ghê rợn, uy hiếp tinh thần con người.

    + Đá mai phục lòng sông, hiếu chiến và nguy hiểm.

    - Nghệ thuật: Nhân hóa, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, độc đáo.

    * Đoạn 2:

    - Nội dung: Sông Đà với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình, đầy gợi cảm.

    + Sông Đà như người thiếu nữ với áng tóc trữ tình, quyến rũ và đầy sức sống.

    + Sắc nước sông Đà biến đổi theo mùa như tính khí thất thường của chính con sông.

    - Nghệ thuật: Thủ pháp so sánh, liên tưởng bất ngờ, độc đáo; câu văn dài với âm điệu nhịp nhàng, nhiều tầng bậc, giàu hình ảnh, đầy chất thơ.

    · Nhận xét về cái tôi tài hoa của Nguyễn Tuân: Thể hiện ở việc nhân hóa con sông; ở cách so sánh, liên tưởng nhiều tầng bậc, bất ngờ, độc đáo; câu văn biến đổi linh hoạt, uyển chuyển, đầy chất thơ, chất họa..

    · Đánh giá chung:

    + Hai đoạn văn cùng nêu bật vẻ đẹp đa dạng mà thống nhất của Sông Đà – biểu tượng cho chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc.

    + Thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước và phong cách tài hoa, uyên bác, độc đáo của Nguyễn Tuân - nhà tùy bút hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại.

    Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong tác phẩm" Người lái đò Sông Đà"của nhà văn Nguyễn Tuân.

    Đáp án:

    · Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, nhân vật ông lái đò.

    · Vẻ đẹp hình tượng người lái đò Sông Đà:

    * Người lao động bình thường:

    + Gắn bó với nghề sông nước.

    + Xóa mờ những nét riêng.

    + Sau khi vượt thác không bận tâm, tư thế làm chủ, bình dị, khiêm nhường.

    *Người nghệ sĩ tài hoa:

    - Có tính cách phóng khoáng, thích đối mặt với khó khăn, thử thách.

    - Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá như người nghệ sĩ điêu

    Luyện, cao cường.

    - Cuộc chiến băng ghềnh, vượt thác không cân sức, tỉnh táo chỉ huy 6 mái chèo vượt qua 3 vòng vây thạch trận:

    + Vòng thứ nhất – thắng lợi của sự can trường, lòng quả cảm, bình tĩnh, hiên ngang của một chiến binh.

    + Vòng thứ hai – thắng lợi của một dũng tướng, kỵ sĩ với kinh nghiệm, trí tuệ điêu luyện.

    + Vòng thứ ba – thắng lợi của một tay lái ra hoa, tài trí, phi thường.

    - > Vẻ đẹp của người lao động bình thường và nghệ sĩ tài hoa. Tiêu biểu cho vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc, con người Việt Nam.

    * Nghệ thuật: Khắc họa nhân vật độc đáo; so sánh, nhân hóa, liên tưởng sắc sảo; vận dụng kiến thức liên ngành; ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, kể - tả nhuần nhuyễn.
     
  6. Galassia

    Bài viết:
    34
    Mẫu thân bài cho tác phẩm Người Lái Đò Sông Đà

    (Có thể áp dụng được nhiều kiểu đề)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Sông Đà hung bạo

    Việc xây dựng hình tượng trong những trang viết của mình đối với mỗi tác giả là việc đặc biệt quan trọng. "Một mình đi một lối", Nguyễn Tuân thể hiện cái ngông nghênh kiêu bạc của mình khi vẽ ra rất nhiều hình tượng đặc biệt. Một Huấn Cao tung hoành ngang dọc với giấc mơ lớn giữa một thời đại mục ruỗng, chịu cảnh tù đày nhưng vẫn trong tư thế khoan thai, đậm tô từng nét chữ rất vuông, rất đẹp trong "Chữ người tử tù". Một Bát Lê được nhìn ở góc độ tuyệt kỹ trong nghề nghiệp đao phủ của mình với "Bữa rượu máu" hay một người "ăn mày" cổ quái với tài uống trà trong "Những chiếc ấm" cũng đạt tới độ tuyệt mỹ khi lão có riêng một bộ ấm chén uống trà vẫn cất trong bị ăn mày. Vậy mới thấy, những hình tượng được xây dựng trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân đều bao chứa những tính cách đặc biệt: Đẹp mà khác thường. Sông Đà cũng là một hình tượng như vậy.


    "Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu"

    Câu nói trên có nghĩa là mọi dòng sông đều đổ theo hướng Đông, duy chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc – đó cũng là đặc điểm khơi gợi hứng thú khám phá và chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời kiếm tìm cái đẹp và sự độc đáo. Khi mượn câu thơ xưa làm lời đề từ, có lẽ tác giả "Người lái đò Sông Đà" không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà còn nhằm khẳng định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương nước nhà. Như Nguyễn Tuân đã từng tuyên bố: "Lòng kiêu hãnh đã xui khiến ta chỉ chơi một lối độc tấu trong văn chương."

    Sông Đà hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân trước hết là ở vẻ đẹp hung bạo. Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi lên sự hùng vĩ của sông Đà chính là cảnh đá bờ sông dựng vách thành.

    Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh vách thành đã phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của sông Đà như thành cao, vực thẳm, hào sâu. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá như chi tiết "mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời" đến việc đứng bên này bờ "nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách" rồi "có quãng con nai, con hổ có thể nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia" . Độ hẹp của lòng sông Đà khi bị những vách đá lớn bên bờ sông chèn ép tới nghẹt thở còn được tái hiện một cách tài hoa khi nhà văn sử dụng động từ "chẹt" trong một hình ảnh so sánh rất ấn tượng: "chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu" . Còn phép so sánh nào độc đáo và hiệu quả hơn thế! Cảm giác đem đến cho người đọc rất bất ngờ. Họ hồi hộp, nín thở khi đi ngang qua những quãng sông hẹp như vậy. Nếu không khéo léo chèo lái, con thuyền rất có thể sẽ bị kẹt lại ngay.

    Có thể thấy, sự nguy hiểm của đá bờ sông tạo lũy thành đã khiến người đọc liên tưởng ra cảm giác lạnh lẽo, lo sợ cùng với những hình ảnh thể hiện độ cao và độ sâu: "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh" rồi bất ngờ đưa ra một liên tưởng thú vị: "cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mây nào vừa tắt phụt đèn điện" đã làm tăng thêm cảm giác về độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá qua cái nhìn chới với rợn ngợp của người quan sát.

    Sự hung bạo của dòng sông Đà còn được thể hiện qua quãng mặt ghềnh Hát Loóng "dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió" . Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, thế chỗ nhau đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà. Động từ "xô" điệp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng về những chuyển động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác. Bên cạnh đó, từ láy "gùn ghè" và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng "cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được ngang qua đấy" đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người. Dùng những hình ảnh cụ thể, gần gũi để nói về những hình ảnh khó tưởng tượng, làm được điều này, không ai khác ngoài "thầy phù thủy ngôn từ" Nguyễn Tuân.

    Chưa dừng lại ở đó, những cái hút nước trên sông Đà cũng là nỗi đe dọa thường trực với bất cứ con thuyền nào đi ngang qua. Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước hiện ra trong hình ảnh "cái giếng bê tông" xoáy tít, trong âm thanh ghê sợ của "cửa cống cái bị sặc", hoặc trong cả hình ảnh và âm thanh khi tưởng tượng ra mặt nước "ặc ặc lên" do đạng bị "rót dầu sôi vào" . Hình ảnh so sánh "thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực" đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. "Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới" – đó là những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về những sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Từ hình ảnh đến âm thanh, tất cả đều khiến người đọc dễ dàng hình dung ra một loài thủy quái với tâm địa độc ác. Chưa dừng lại ở đó, để người đọc có thể trực tiếp trải nghiệm cảm giác đáng sợ của những cái hút nước chết người, Nguyễn Tuân đưa ra một hình ảnh so sánh liên tưởng táo bạo. Cho một anh quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền thúng mang theo máy quay của mình để lao vào cái hút nước. Sau đó lia máy quay lên để thu hình cột nước cao vài sải. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của "một thành giếng xây toàn bằng nước" cho đến màu sắc của dòng sông "nước xanh ve", thấm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một "khối pha lê xanh như sắp vỡ tan" và bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp vào người.

    Nhưng có lẽ khúng khiếp nhất trong "diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một" . Nguyễn Tuân miêu tả âm thanh tiếng nước thác từ xa đến gần, từ "Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần rồi lại réo to mãi lên" đến "Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo" Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, đe dọa con người. "Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng", nhà văn đã thể hiện tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, khi đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị: Lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông. Âm thanh có hồn, giống như cách mà Nguyễn Tuân thổi hồn cho dòng sông. Biến sông Đà thành một sinh thể có linh hồn, có sự sống, có tính cách. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng "rất đắt", Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng.

    Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là "sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này" . Sông Đà như một vị tướng đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm.

    Ở trùng vi thứ nhất, sông Đà bày ra "năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông". Một loạt những thuật ngữ của quân sự, thể thảo, võ thuật như thạch trận, hàng tiền vệ, cuộc giáp lá cà, boong-ke, pháo đài, khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên. Thác đá vô cùng xảo quyệt với hình ảnh "Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền đối phương đi vào sâu nữa.. đánh khuýp quật vu hồi lại" . Mỗi hòn đều được sông Đà giao nhiệm vụ: "nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyển trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác", còn nước thác có nhiệm vụ "reo hò làm thanh viện cho đá" . Nguyễn Tuân mang đến những liên tưởng thú vị với những hình ảnh hòn đá có cảm xúc, hành động khiêu khích như con người: "Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến", "Một hòn khác lưu lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào" . Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên.".

    Vượt qua trùng vi thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: "Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn." . Thác đá được động vật hóa để tăng thêm sự hung hãn hoang dại: "Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!

    Đến trùng vi thứ ba, "Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác." . Tại đây những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, "vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được", tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với "tay lái ra hoa".

    Những dòng văn của Nguyễn Tuân đã giúp ta hình dung ra được sự hung bạo của con Sông Đà. Nó giống như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một" . Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà" . Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".


    2. Sông Đà trữ tình

    Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự tương phản. Trong tùy bút "Người lái đò sông Đà", sự tương phản hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng sông Đà thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông "vặn mình vào một cái bến cát", khi chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn "xèo xèo tan trong trí nhớ", ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích, qua nhiều góc độ quan sát của ông.

    Góc độ thứ nhất là từ trên cao nhìn xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một cô thiếu nữ kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: "con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân." . Điệp ngữ "tuôn dài, tuôn dài" vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của vùng biên giới Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi đổ ra biển. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cùng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc hạ nguồn. Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân, có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân . Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của đất nước Tổ Quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường của những người lao động bình thường.

    Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà" . Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đóa hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà "xanh ngọc bích" chứ"không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô". Việc so sánh màu nước sông không chỉ biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài hoa, khoa uyên bác mà còn là thiên vị của một niềm yêu! Mùa thu, nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ" – những từ ngữ tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông đầy nặng phù sa thượng nguồn. Hình ảnh so sánh "như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về" khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.

    Khi Nguyễn Tuân "ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu", bỗng "thấy thèm chỗ thoáng" thì hình ảnh con sông Đà lại hiện lên gần gũi như một "cố nhân" . Hai chữ "cố nhân" vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn cổ kính, xưa cũ của Đường thi. Nhìn dòng sông thấy "loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy" là cái nhìn của người chưa ra đến cửa rừng, mới chỉ thấy từng "miếng sáng" của dòng sông lấp lóa thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng khao khát. Khi liên tưởng mặt sông giống như "cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi", Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" . Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.

    Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con "sông vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng" . "Nắng giòn tan" là một ẩn dụ đẹp để gọi ra cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ, nó vừa mong manh vừa quí giá. Cách so sánh ấy đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến nâng niu cùng niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại dòng sông. Ông còn so sánh niềm vui tái ngộ dòng sông như niềm vui khi "nối lại chiêm bao đứt quãng" – một việc gần như không thể xảy ra tạo cảm giác sung sướng thú vị. Sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: "đằm đằm ấm ấm", thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Sông Đà đã thực sự trở thành một người bạn cũ, một tình nhân, dẫu trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn, mê hoặc lòng người đến kì lạ.

    Nét trữ tình thi vị của sông Đà tiếp tục được khắc họa khi Nguyễn Tuân ngồi thuyền trôi trên sông. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà" toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng.

    Nguyễn Tuân hướng đến vẻ đẹp quá khứ, lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: "Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp bình yên và hoang sơ của đôi bờ sông Đà. Sự êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông dày thêm không chỉ vì cái yên ả trong không gian mà như còn vì cái thăm thẳm xa xăm của thời gian. Đúng như tác giả đã so sánh "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa" . Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.

    Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của hiện tại, của thảm thực vật và muông thú đầy sức sống, trù phú. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống "một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ giành đồi núi đang ra những nõn búp". Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một "đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm". Một không gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết, một sức sống ngồn ngộn, tươi mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất họa. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy.

    Và từ hiện tại, ông mơ ước đến tương lai nghe một "tiếng còi sương" hoặc "thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên" hòa nhập cùng dòng sông "lững lờ như nhớ thương" . Âm thanh "tiếng còi" không chỉ giúp Nguyên Tuân thức tỉnh khỏi không gian thơ mộng mà còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, về một tuyến đường xe lửa lên Tây Bắc, hay biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

    Có thể nói tâm hồn nhà văn như vỗ cánh cùng ước mơ sông Đà đẹp tươi hơn trong ngày mới dựng xây. Càng về cuối bức tranh, sông Đà càng đẹp và sống động với "áng cỏ sương", rồi "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi""tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến" . Cảnh thiên nhiên cứ mở rộng dần bằng vẻ đẹp vừa hiện thực vừa biến ảo trong cái nhìn đắm mình trong thơ mộng của nhà văn.


    3. Người lái đò sông Đà

    Trước 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con người đặc tuyển, xuất chúng vì thế, cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, đó là những vẻ đẹp "vang bóng một thời" thường đem đến sự ngưỡng mộ ngầm ngùi, nuối tiếc. Như một Huấn Cao tung hoành ngang dọc với giấc mơ lớn giữa một thời đại mục ruỗng, chịu cảnh tù đày nhưng vẫn trong tư thế khoan thai, đậm tô từng nét chữ rất vuông, rất đẹp trong "Chữ người tử tù". Một Bát Lê được nhìn ở góc độ tuyệt kỹ trong nghề nghiệp đao phủ của mình với "Bữa rượu máu" hay một người "ăn mày" cổ quái với tài uống trà trong "Những chiếc ấm" cũng đạt tới độ tuyệt mỹ khi lão có riêng một bộ ấm chén uống trà vẫn cất trong bị ăn mày. Sau 1945, quan niệm thẩm mĩ của nhà văn đã có sự thay đổi cơ bản. Vẫn nhìn con người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ, Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Trong những sáng tác sau 1945, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng, yêu mến đối với họ. Người lái đò sông Đà trong tùy bút cùng tên cũng là một nhân vật được nhà văn khám phá và thể hiện không chỉ ở vẻ đẹp tài hoa mà còn là trí dũng.


    Ông lái đò quê ở Lai Châu làm nghề chèo đò trên dòng sông Đà đã hơn 10 năm. Ông lái đò xuất hiện với ngoại hình vô cùng độc đáo và ấn tượng. Mỗi đường nét ngoại hình đều in đậm dấu ấn của con sông Đà hung bạo. Xuất hiện với ấn tượng ban đầu là một ông lão bảy mươi tuổi, ông đã dành hết phần lớn cuộc đời để chèo lái trên dòng sông, sự nguy hiểm của dòng sông Đà không còn là nỗi băn khoăn và ngạc nhiên đối với ông. Từ những hình ảnh "cánh tay lêu nghêu như cái sào", "chân khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng", "giọng nói ào ào như tiếng thác trước ghềnh", độc giả có thể nhận ra được đây là một con người sinh ra và lớn lên trong chính những sóng gió của con sông Đà. Trên ngực ông lái đò có những "vết sẹo bầm lên như một khoanh củ nâu" bởi mỗi lần vượt thác ghềnh ông đều tì con sào lên ngực, dùng trái tim làm điểm tựa để vượt qua những con thác ghềnh đầy dữ dội, nguy hiểm của con sông Tây Bắc. Qua mỗi chuyến ngược xuôi vết sẹo càng hằn sâu thêm. Với cảm hứng tôn vinh nghệ thuật, Nguyễn Tuân gọi vết sẹo đấy là tấm huy chương lao động siêu hạng. Chỉ bằng với vài nét khắc họa mà tác giả đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh người lái đò gần gũi, một người đã gắn bó lâu dài với môi trường sông nước, dũng cảm vượt qua bao lần hiểm nguy, chờ trực của thác nước mạnh, những hòn đá lớn. Ông lái đò thực sự rất xứng đáng với tấm huân chương mà nhà văn đã phong tạo.

    Qua việc miêu tả hành trình cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục, Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp trí, dũng, và tài hoa của ông lái đò. Sông Đà như một vị tướng thâm độc giao việc cho mỗi hòn đá, mỗi con sóng để chiến đấu với đối thủ chính là ông lái đò. Sông Đà bày ra tổng cộng ba trùng vi thạch trận để đối phó với ông lái đò và mỗi vòng ông lái đò đều đáp trả lại với sự dày dặn kinh nghiệm và kĩ thuật điêu luyện của mình.

    Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận, sông Đà bày ra "năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông" . "Những đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền", bọn chúng không tùy tiện nằm ngồi bởi sông Đà đã giao nhiệm vụ cho từng hòn. Ở hàng đầu tiên là sự phối hợp của những hòn đá to khủng khiếp được sắp xếp để trông cửa. Những hòn đá bệ vệ, oai phong, lẫm liệt là một bọn làm tiền vệ giả vờ sơ hở để lừa dụ ông đò vào sâu trong ổ mai phục đã phục sẵn rồi "đánh khuýp quật vu hồi" . Nếu thuyền lọt vào ổ mai phục thì cũng tơi tả lại ngay lập tức đối mặt với những boong - ke chìm và những tảng đá nổi sừng sững trên mặt nước, tảng thì nấp dưới những làn sóng dữ dội của con sông Đà.

    Khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò "mặt méo bệch đi" – cách sử dụng từ độc đáo đã giúp nhà văn làm hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác: "mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng" vết thương đau đớn của ông đò đã được thể hiện bởi cảm giác tóe đom đóm và rát bỏng như lửa cháy. Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng quá chênh lệch với sóng thác sông Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén vết thương, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây thứ nhất của thạch trận trên sông Đà. Qua cách miêu tả "tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người lái đò", Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước vẻ đẹp "dũng" của người lái đò: Bản lĩnh, kiên cường, và dũng mãnh.

    Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, sông Đà "tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn" như đang chờ chực ông lái đò mắc vào cạm bẫy của dòng sông. Thác đá được động vật hóa để tăng thêm sự hung hãn hoang dại: "Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò.

    Nhưng ông đò ở vòng vây thứ hai này không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm: "Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá" . "Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này" . Ông được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang điều khiển, thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà khi "nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái.. phóng nhanh vào cửa sinh" . Kinh nghiệm dày dặn và trí nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết "ông đò vẫn nhớ mặt bọn này" để có cách ứng phó phù hợp "đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến" . Ông đò đã thành công vượt qua vòng vây thứ hai với vẻ đẹp "trí" của mình: Trí nhớ siêu phàm, mưu mẹo và kinh nghiệm dày dặn.

    Ở vòng vây cuối, sông Đà bày "ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác." . Sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về "cổng đá cánh mở cánh khép" – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ "đá hậu vệ" kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ.

    Ông đò thể hiện sự quyết đoán của mình khi "cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng" một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh "cổng đá" mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn, điệp từ, ngắt nhịp nhanh và giàu sức liên tưởng: "Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được" đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Những hình ảnh đó đã cho thấy những biến pháp kì diệu của một "tay lái ra hoa", một vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ làm chủ hành trình chinh phục con sông Đà hung bạo.

    Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo "Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ", những người lái đò lại "đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh.. chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi" . Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao, vẻ đẹp bình dị đời thường của những người anh hùng khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện thường ngày.
     
  7. Galassia

    Bài viết:
    34
    Vợ Chồng A Phủ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    Tô Hoài là một trong số những nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông sở hữu một số lượng tác phẩm đạt kỉ lục và đều mang một phong cách riêng biệt: Lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh, vốn từ ngữ giàu có và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy. Không chỉ vậy, ông còn có những hiểu biết phong phú về các phong tục tập quán của nhiều dân tộc miền núi. Điển hình trong những tác phẩm về miền núi của ông đó là tập "Truyện Tây Bắc", trong tập truyện có thể nói tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" là xuất sắc nhất. Câu chuyện kể về con người miền núi Tây Bắc, điển hình là nhân vật Mị.. (vấn đề nghị luận).

    2. Khái quát chung

    Tập "Truyện Tây Bắc" là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế kéo dài 8 tháng đến vùng Tây Bắc năm 1952. Vùng đất Tây Bắc để lại cho ông nhiều dấu ấn, những kỉ niệm khó quên: "Mảnh đất này để thương để nhớ cho tôi nhiều quá". Vậy nên để tri ân cho mảnh đất, con người nơi đây ông đã viết nên tập "Truyện Tây Bắc" gồm 3 tác phẩm: "Mường Giơn", "Cứu đất cứu mường", "Vợ chồng A Phủ". Trong đó, tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động, được thể hiện qua nhân vật điển hình là Mị. Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, có nhiều chàng trai theo đuổi. Vì món nợ truyền kiếp của cha với nhà thống lí, Mị đã bị bắt về cúng ma và làm con dâu gạt nợ nhà thống lí. Từ cô gái yêu tự do, tràn đầy sức sống, Mị trở thành nô lệ, dần dần tê liệt về tinh thần. Thế nhưng với phẩm chất tốt đẹp của người lao động, sức sống cứ tiềm tàng, âm ỉ rồi bùng cháy mãnh liệt đề rồi Mị tự đứng dậy cắt dây cởi trói trả lại tự do cho chính mình..

    3. Dẫn chứng

    · "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai" - Lỗ Tấn.

    · "Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học" (Tố Hữu).

    · "Ông là cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xuôi thời kì Cách Mạng." (Hà Minh Đức).

    · ".. Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt".

    · "Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực." (Nguyễn Minh Châu).

    · "Thắp sáng ngọn lửa của khát vọng sống, Tô Hoài cũng làm bừng sáng giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm".

    4. NT – Giá trị hiện thực, nhân đạo

    · NT

    - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc họa nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét. Hai nhân vật Mị và A Phủ có số phận giống nhau nhưng tính cách khác nhau đã được tác giả thể hiện bằng bút pháp thích hợp.

    - Ngòi bút tả cảnh đặc sắc mang đậm màu sắc, dấu ấn của vùng núi Tây Bắc: Cảnh sắc thiên nhiên, cảnh sinh hoạt, cảnh xử kiện..

    - Nghệ thuật trần thuật rất thành công với giọng kể trầm lắng đầy cảm thông, yêu mến; nhịp kể chậm xúc động có khi hòa vào dòng tâm tư của nhân vật, vừa bộc lộ nội tâm của nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm.

    - Ngôn ngữ sinh động được chọn lọc, sáng tạo giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

    · Giá trị hiện thực:

    - Vạch trần tội ác giai cấp thống trị.

    - Phản ánh cuộc sống đầy tủi nhục, đau đớn của người dân lao động miền núi trước cách mạng dưới sự đàn áp, bóc lột, đày đọa của giai cấp thống trị.

    - Phản ánh cuộc đấu tranh, phản kháng, hành trình đi tìm cuộc sống tự do của họ. Tái hiện hành trình đến cách mạng: Tự phát -> tự giác.

    - Khắc họa những nét đặc sắc về phong tục tập quán, tính cách và tâm hồn của những người dân miền núi.

    · Giá trị nhân đạo:

    - Lên án những thế lực phong kiến, thực dân áp bức tàn bạo cuộc sống con người.

    - Cảm thông thương xót cho số phận đau khổ của người dân miền núi trước cách mạng.

    - Khẳng định, ngợi ca và thể hiện niềm tin vào những phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng và con đường đến với cách mạng của họ.

    - Đề cao tình hữu ái giai cấp, sự đồng cảm của những con người nghèo khổ.

    5. Kết bài

    Với truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" cùng tập truyện Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã hoàn thành điều mong mỏi của mình, đó là quay lại và trả niềm thương, nỗi nhớ cho mảnh đất nơi đây. Những người lao động ham sống và khát sống đã vươn lên, tìm ra ánh sáng, tương lai cho chính bản thân mình. Lòng ham sống trong Mị hay trong A Phủ vượt qua tất cả cường quyền, bạo quyền và thần quyền đã giúp Tô Hoài thể hiện trọn vẹn giá trị nhân đạo và thông điệp hướng tới tương lai của mình. Con người lao động trong bất cứ thời điểm nào, họ luôn hướng về sự sống, ánh sáng và luôn sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của bản thân mình.

    6. Một số đề bài

    · Đề 1: Trong truyện Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã hai lần nói về việc Mị "vùng bước đi" và "băng đi" ở hai đoạn văn sau:

    Đoạn 1:

    ".. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi." Em không yêu, quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em bắt pao nào.. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa.. "

    Đoạn 2:

    ".. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưnng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

    - A Phủ cho tôi đi.

    A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

    - "Ở đây chết mất.."

    Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật khát vọng sống của nhân vật này.

    Đáp án:

    · Mở bài: 0.25

    - Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

    + Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

    + "Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông.

    - Nêu vấn đề cần nghị luận: Trong truyện, qua hai lần nói về việc Mị "vùng bước" và "băng đi" ở hai đoạn văn, nhà văn ca ngợi khát vọng sống của nhân vật này.

    · Thân bài: 3.50

    A. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích:

    - "Vợ chồng A Phủ", trích trong tập "Truyện Tây Bắc", là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động

    - Hai lần nói về việc Mị "vùng bước đi" và "băng đi" ở hai đoạn văn thuộc phần một của truyện.

    B. Giới thiệu nhân vật Mị:

    - Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, có nhiều chàng trai theo đuổi. Vì món nợ truyền kiếp của cha với nhà thống lí, Mị đã bị bắt về cúng ma và làm con dâu gạt nợ nhà thống lí. Từ cô gái yêu tự do, tràn đầy sức sống, Mị trở thành nô lệ, dần dần tê liệt về tinh thần. Thế nhưng với phẩm chất tốt đẹp của người lao động, sức sống cứ tiềm tàng, âm ỉ rồi bùng cháy mãnh liệt đề rồi Mị tự đứng dậy cắt dây cởi trói trả lại tự do cho chính mình.

    C. Phân tích hai chi tiết:

    * Đoạn 1:

    - Vị trí: Sau khi uống rượu, lắng nghe tiếng sáo trong không khí đêm tình mùa xuân đang về, tâm trạng Mị có sự thay đổi. Từ kiếp sống nô lệ, cam chịu, Mị muốn đi chơi. Đúng lúc đó, A Sử đi vào trói Mị suốt đêm trong buồng tối.

    - Hoàn cảnh: Bị trói suốt đêm, nhưng trong lòng đang muốn đi chơi.

    - Tâm trạng Mị:

    + Hơi rượu nồng nàn:

    ++ Là tác nhân quan trọng thay đổi tâm lí của Mịị. Mị đã uống ực từng bát để trôi đi tất cả những đắng cay. Nó là chất xúc tác để Mị trở về quá khứ, sống lại những tháng ngày tuổi trẻ đẹp đẽ;

    ++ Hơi rượu khiến Mị chìm đắm trong quá khứ ngọt ngào của tình yêu, hạnh phúc bất chấp hiện thực phũ phàng;

    + Tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi:

    ++Tiếng sáo là biểu tượng cho tình yêu, hạnh phúc, khát vọng tuổi trẻ.

    ++Tiếng sáo từ ngoại cảnh trở thành tiếng sáo trong tâm tưởng, thúc giục Mị đi theo tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc.

    + Mị vùng bước đi: Hành động cho thấy, dù thân thể bị trói đứng nhưng tâm hồn Mị hoàn toàn tự do. Khao khát cháy bỏng chuyển hóa thành hành động. Đó là khát vọng muốn vượt thoát khỏi hiện thực đau khổ, cuộc sống tù đày, kìm kẹp để tìm đến cuộc sống tự do, tình yêu và hạnh phúc.

    - Đoạn văn thể hiện diễn biến tâm lý của Mị trong đêm bị trói đứng xoay quanh khát vọng vượt thoát khỏi hiện thực, khao khát cháy bỏng được sống tự do, được hưởng tình yêu và hạnh phúc. Đoạn văn thể hiện sức sống tiềm tàng mà mãnh liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị.

    - Nghệ thuật: Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế.

    *Đoạn văn 2:

    - Vị trí: Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ và thấy A Phủ băng đi trong đêm tối, Mị đã nghĩ đến mình bèn băng đi, chạy theo A Phủ để trốn khỏi Hồng Ngài.

    - Hoàn cảnh: Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị rơi vào tình cảnh éo le, bi đát, có nguy cơ bị trói đứng thay cho A Phủ.

    - Diễn biến tâm trạng, hành động, lời ttóỉ của Mị:

    + Mị đứng lặng trong bóng tối: Đứng lặng bởi hiện tại Mị vẫn đang bị trói chặt bởi một sợi dây vô hình: Hủ tục. Đứng lặng bởi giờ đây đang diễn ra cuộc đấu tranh trong nội tâm, giữa nỗi sợ hãi và lòng yêu đời ham sống.

    + Chạy theo A Phủ: "Vụt chạy theo.. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi..". Chạy để tự cứu mình, để tìm đến cuộc sống tự do. Đây là cuộc cách mạng trong tư tưởng, là chiến thắng của khát vọng sống mãnh liệt trỗi dậy trong Mị.

    + Hai lời thoại: "A Phủ cho tôi đi" và "Ở đây thì chết mất." ngắn gọn nhưng thấy được sự quyết tâm và nhận thức rõ ràng giữa hiện thực cuộc sống và khát vọng được sống của nhận vật.

    - Đoạn văn tập trung thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng và hành động của nhân vật. Tất cả đều thể hiện một khát vọng vượt thoát khỏi số phận nô lệ, khát vọng được sống tự do của nhân vật. Đoạn văn cho thấy vẻ đẹp đầy nội lực, lòng dũng cảm và sự quyết đoán của nhân vật khi dám vượt qua mọi sợ hãi,

    Tự cắt dây cỏi trói cho chính mình.

    - Nghệ thuật: Miêu tả nhân vật qua diễn biến tâm lý, ngôn ngữ và hành động.

    D. Nhận xét khát vọng sống của nhân vật Mị.

    - Cả hai đoạn văn đề tập trung làm nổi bật khát yọng sống chân chính cử nhân vật: Đó là khát vọng giải thoát khỏi kiếp nô lệ, khát vọng được sống tự do, sống trong tình yêu, hạnh phúc;

    - Nếu khát vọng đó ở đoạn 1 chỉ dừng lại ở những diễn biến trong tâm trạng và cũng nhanh chóng bị nghịch cảnh chi phối thì ở đoạn nó đã chuyển hóa thành hành động mạnh mẽ, quyết liệt của nhận vật;

    - Vì vậy, nhân vật Mị hiện lên không chỉ có khát vọng sống cao đẹp mà còn thể hiện ở tinh thần phản kháng, đấu tranh để được thoát khỏi nô lệ, về với cách mạng.

    · Kết bài: 0.25

    - Tóm lại, ý nghĩa khát vọng sống của nhân vật Mị qua hai đoạn văn;

    - Bài học cuộc sống rút ra từ nhân vật.

    Đề 2: Cảm nhận của anh/ chị về khát vọng được sống, được yêu của nhân vật Mị trong "đêm tình mùa xuân" và trong đêm cởi trói cho A Phủ ở đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

    Đáp án:

    · Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích

    · Cảm nhận về khát vọng được sống, được yêu:

    - Giải thích khát vọng được sống, được yêu được hiểu là khát vọng về cuộc sống đúng nghĩa

    - Khát vọng được thể hiện qua diễn biến tâm lí phức tạp:

    +Trong đêm tình mùa xuân: Mùa xuân đến với âm thanh, màu sắc, Đặc biệt âm thanh của tiếng sáo đã thức tỉnh khát vọng sống mãnh liệt. Mị nhẩm thầm bài hát, hành động "lén lấy hủ rượu uống ừng ực từng bát", nhớ về hồi ức tươi đẹp, nghĩ về hiện tại cay đắng, hành động lấy váy hoa chuẩn bị đi chơi, dù bị trói nhưng tâm hồn vẫn đi theo tiếng sáo.

    +Trong đêm cứu A Phủ: Lúc đầu, Mị dửng dưng.. sau đó Mị đồng cảm xót thương và cứu A Phủ

    + Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật

    + Đáng giá chung: Khát vọng được thể hiện qua diễn biến tâm lí phức tạp.

    V Đề 3: Trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài (Ngữ Văn 12, tập 2, NXBGD Việt Nam) có hai sự kiện đánh dấu bước ngoặt cuộc đời, số phận của nhân vật Mỵ: Sự kiện Mỵ bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà Thống lý Pá Tra và sự kiện Mỵ cắt dây trói cứu A Phủ.

    Anh/ chị hãy phân tích hai sự kiện đó. Nhận xét vai trò, ý nghĩa của hai sự kiện đó trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm.

    Đáp án:

    * Phân tích hai sự kiện và nêu ý nghĩa hai sự kiện:

    - Sự kiện Mỵ bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà Pá Tra.

    + Nguyên nhân: Bị ép buộc vì món nợ của cha mẹ và vì bị A Sử lừa theo tập tục bắt vợ của người vùng cao.

    + Ban đầu Mỵ phản kháng, trốn về có ý định tự vẫn nhưng vì thương cha Mỵ đành trở lại nhà Pá Tra.

    + Chịu sự đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần dẫn đến mất hết ý thức về cuộc sống, "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".

    + Ý nghĩa: Phơi bày thực trạng của xã hội thực dân, phong kiến miền núi. Thể hiện sự cảm thông của tác giả trước số phận đau khổ của người dân miền núi dưới chế độ thực dân, phong kiến.

    - Sự kiện cắt dây trói giải thoát A Phủ:

    + Hoàn cảnh: A Phủ vô ý để mất một con bò, bị Pa Tra trói đứng giữa trời đông giá rét.

    + Ban đầu Mỵ vô cảm trước cảnh A Phủ bị trói.

    + Khi thấy dòng nước mắt của A Phủ Mỵ động lòng. Mỵ nghĩ đến bản thân mình, thương mình và thương người đồng cảnh ngộ; Mỵ nghĩ đến sự độc ác của cha con thống lý và ý thức sống trở về, nhận ra dấu hiệu về cái chết Mỵ càng thấy thương A Phủ hơn. Để cuối cùng tất cả trở thành hành đông quyết liệt: Cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ.

    + Ý nghĩa: Đồng cảm xót thương trước số phận đau khổ và phát hiện, trân bản chất tốt đẹp của người dân lao động miền núi.

    * Nhận xét hai sự kiện trong thể hiện nội dung, tư tưởng:

    + Lột tả chân thực nhân vật và vẻ nên bức chân dung người người lao động vùng cao.

    + Thể hiện cách nhìn về con người và xã hội của nhà văn.

    + Thể hiện biệt tài của nhà văn trong việc nắm bắt các vấn đề cốt yếu từ đó bộc lộ tính cách, số phận nhân vật.

    * Đánh giá chung: Hai sự kiện phản ánh chân thực số phận của người dân lao động miền núi. Đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà văn cũng như tài năng nghệ thuật của ông.

    V Chi tiết tiếng sáo trong đoạn trích truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

    - Hoàn cảnh xuất hiện tiếng sáo: Kiếp sống tủi nhục của Mị ở nhà thống lí Pá Tra đã biến Mị từ một cô gái yêu đời trở thành người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, câm lặng, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Nhưng trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, tâm hồn Mị được hồi sinh khi tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha cất lên..

    - Giá trị của chi tiết tiếng sáo:

    + Xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm với những cung bậc cảm xúc và ý nghĩa khác nhau: Lấp ló ngoài đầu núi, văng vẳng đầu làng, lơ lửng bay ngoài đường, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.

    + Tiếng sáo làm sống dậy những cảm xúc, những kí ức về những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ; làm sống dậy ý thức về bản thân, cảm nhận nguồn sức sống đang dâng trào "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng.."

    + Tiếng sáo giúp Mị nhận thức thực tại, thấm thía hơn bao giờ hết nỗi bất hạnh của đời mình "nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này.."

    + Tiếng sáo thôi thúc khiến Mị có hành động "nổi loạn" – đi chơi xuân, ngay cả lúc bị A Sử trói đứng vào cột, tiếng sáo vẫn đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi..

    - Đánh giá:

    + Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tự do, là bài ca bất diệt về tình yêu và hạnh phúc bất chấp chấp tủi nhục, đắng cay.

    + Là chi tiết đặc sắc, giúp nhà văn khám phá, phát hiện những diễn biến lặng lẽ và quyết liệt trong tâm hồn người phụ nữ vùng cao Tây Bắc.

    + Góp phần làm nên chất thơ cho truyện ngắn.

    V Đề 4: Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn văn sau:

    [..] Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lửa để bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi lửa như đêm trước.

    Đáp án:

    * Nội dung:

    - Đoạn văn miêu tả nỗi buồn, sự cô đơn héo hắt, sự chai sạn vô cảm lạnh lùng của Mị trước nỗi đau khổ, tuyệt vọng của A Phủ cũng như hành động độc ác, thô bạo của A Sử.

    - Qua đoạn văn người đọc thấy được tội ác của bọn thống trịmiền núi đã chà đạp lên nhân phẩm, quyền sống của con người, làm cho con người bị tê liệt về ý thức phản kháng và cạn khô nguồn nhựa sống.

    * Về nghệ thuật:

    - Miêu tả nội tâm sâu sắc, tinh tế, ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, lắng đọng.

    - Hình ảnh ngọn lửa miêu tả đầy sức ám ảnh, làm nổi bật sựlạnh lẽo, tê dại trong tâm hồn Mị và chuẩn bị cho hành động, tình huống có ý nghĩa nhân đạo tiếp theo.

    V Đề 5: Trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" (Tô Hoài), tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân là một chi tiết xuất hiện trở đi trở lại nhiều lần. Hãy phân tích ý nghĩa của chi tiết tiếng sáo trong hai lần xuất hiện sau để từ đó thấy được ngôn ngữ miêu tả đặc sắc của nhà văn:

    ".. Ngoài đầu núi đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.

    Mày có con trai con gái rồi

    Mày đi làm nương

    Ta chưa có con trai con gái

    Ta đi tìm người yêu..";

    ".. Trong bóng tối Mị đứng im lặng như không biết mình bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi." Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào.. "Mị vùng bước đi nhưng tay chân đau không cựa được..".

    Đáp án:

    A. Chi tiết tiếng sáo trong lần miêu tả thứ nhất:

    – Đây là những tiếng sáo đầu tiên báo hiệu những đêm tình mùa xuân đang đến, những tiếng sáo "rủ bạn đi chơi", tiếng sáo gọi bạn yêu của những tâm hồn tự do, khao khát yêu đương.

    – Tâm trạng Mị khi nghe tiếng sáo:

    + Tiếng sáo gọi bạn tình "vọng" vào tâm hồn Mị "thiết tha bổi hổi". Từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng lại hàm chứa cái lẽ sống phóng khoáng, tự do của con người đã có sức mời gọi lớn lao đối với Mị: "Mày có con trai.. người yêu".

    + Mị "ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi": Cô Mị sau bao ngày lặng câm đã cất tiếng, dù đó chỉ là những lời thì thầm. Bản "tình ca" tha thiết của những kẻ yêu nhau, của những người tự do, khao khát hạnh phúc đã cất lên trên đôi môi của Mị, đánh dấu một bước trở lại của người con gái yêu đời, yêu sống ngày nào.

    B. Chi tiết tiếng sáo trong lần miêu tả thứ hai:

    – Đây là tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân, tiếng sáo vọng vào tâm hồn Mị khi Mị bị A Sử trói.

    – Tâm trạng Mị khi nghe tiếng sáo:

    + "Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượi còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi..": Mị như quên hẳn mình đang bị trói, quên những đau đớn về thể xác, Mị vẫn thả hồn theo những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo không chỉ vang vọng trong không gian mà còn tồn tại trong chính tâm hồn Mị.

    + "Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được": Tiếng sáo của những đôi lứa yêu nhau và của cả những người lỡ duyên đã có sự tác động lớn lao tới tâm hồn Mị, nó thôi thúc Mị, khiến Mị vùng bước đi, quên thực tại đau khổ trước mắt. Hành động tàn nhẫn tới tận cùng của A Sử chỉ có thể trói Mị giữa ngày xuân nhưng không thể giam nổi sức xuân đang trào dâng trong Mị.

    2. Đánh giá:

    A. Ý nghĩa của tiếng sáo:

    – Chi tiết tiếng sáo qua 2 lần miêu tả có vai trò hết sức quan trọng đối với việc làm hồi sinh tâm hồn Mị, làm trỗi dậy sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong cô. Nó giống như một tác nhân làm sống dậy trong Mị những cảm xúc rạo rực của tuổi trẻ, làm bùng lên niềm khao khát sống, khao khát yêu đương. Nếu không có không khí ngày tết nhộn nhịp ở Hồng Ngài, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình không cất lên thì có lẽ Mị vẫn mãi chìm đắm trong những tháng ngày câm lặng, vô thức. Ngay cả khi cô bị trói đứng thì âm thanh của tiếng sáo như ma lực làm bùng cháy trong Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống.

    – Sự xuất hiện của chi tiết âm thanh tiếng sáo còn góp phần tô đậm thêm những giá tri nhân đạo của tác phẩm. Nhà văn muốn ca ngợi và khẳng định sức sống tiềm tàng trong tâm hồn người lao động miền núi không có một thế lực nào có thể hủy diệt được. Và chỉ cần âm thanh của tiếng sáo ấy có thể làm thức dậy nguồn sức sống ấy.

    – Chi tiết tiếng sáo cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc tạo nên hơi thở miền núi cho truyện ngắn. Cũng nhờ có sự xuất hiện của âm thanh này mà các trang văn mà Tô Hoài xây dựng đẫm chất thơ. Tiếng sáo ấy quả là âm thanh gây nhiều ấn tượng không chỉ đối với các nhân vật trong truyện mà còn gây ấn tượng, hút người đọc mạnh mẽ.

    B. Ngôn ngữ miêu tả đặc sắc của nhà văn:

    – Tiếng sáo là một trong những chi tiết được Tô Hoài dụng công miêu tả. Nó xuất hiện nhiều lần, trở đi trở lại với các mức độ và sắc thái khác nhau.

    – Và để khắc họa nổi bật chi tiết trên, tác giả sử dụng ngôn ngữ đầy sức gợi, gợi tả các sắc thái khác nhau của tiếng sáo. Qua cách diễn đạt này, độc giả dường như không phải tốn quá nhiều công sức để mường tượng thứ âm thanh ấy mà nó hiện hữu khá rõ nét, không chỉ tác động vào thính giác mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ đến thị giác.

    V Đề 5: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài hai lần miêu tả nhân vật Mị gắn với căn buồng có chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay:

    Lần thứ nhất: "Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi"

    Lần thứ hai: "Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi..".

    Phân tích hình ảnh nhân vật Mị qua hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này.

    Đáp án:

    * Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả:

    – Giới thiệu về nhân vật:

    + Mị vốn là cô gái xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo và khát khao sống mãnh liệt.

    + Do món nợ truyền kiếp từ hồi cha mẹ Mị cưới nhau nên Mị phải trở thành con dâu gạt

    Nợ nhà thống lí Pá Tra.

    – Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả:

    *Lần thứ nhất:

    + Bối cảnh: Sau bao nhiêu năm sống trong nhà Thống Lí "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen

    Khổ rồi"; "Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa", "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". "Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi".

    + Tâm lí, tính cách: Mị sống trơ lì, vô cảm, mất đi ý thức về giá trị bản thân, mất ý thức

    Phản kháng, cam chịu chấp nhận số phận. Căn buồng nơi Mị ở chính là sự hình tượng hóa cho cuộc sống tăm tối, cam chịu số phận của nhân vật.

    *Lần thứ hai:

    + Bối cảnh: Mùa xuân về trên đất Hồng Ngài, âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình khiến Mị

    "Thiết tha bổi hổi"; "Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước"; Mị "từ từ bước vào buồng.. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng"; "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi"; "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa".

    + Tâm lí, tính cách:

    Không còn cam chịu chấp nhận số phận, Mị nhận thức được về hoàn cảnh sống. Tất cả cảm xúc, cảm giác: Từ bồi hồi, nhớ tiếc, đến khao khát..

    Sức sống tiềm tàng trỗi dậy, Mị bắt đầu ý thức được về giá trị bản thân, về tuổi trẻ; ngọn lửa của lòng ham sống, khát khao yêu đương và tự do được thổi bùng lên; cùng với đó là ý thức phản kháng..

    – Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nghệ thuật phân tích, miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế; xây dựng chi tiết mang tính biểu tượng, ngôn ngữ giàu chất thơ, giọng điệu trần thuật linh hoạt.

    - Nhận xét về sự thay đỏi của nhân nhân vật Mị:

    - Từ sự cam chịu, tê liệt về tinh thần đến khao khát sống mạnh mẽ, mãnh liệt. Sự thay đổi đó thể hiện chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài.

    - Tâm lí, tính cách nhân vật được miêu tả gắn bó chặt chẽ với hoàn cảnh sống, vận

    Động theo chiều hướng tích cực, gắn với sự thức tỉnh, sự hồi sinh. Nhân vật có khả năng vượt lên hoàn cảnh, thậm chí thay đổi hoàn cảnh sống..

    V Đề 6: Trong đoạn kết "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài, lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi" . Nhưng sau đó thì Mị lại cắt dây cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

    Anh (chị) hãy phân tích về sự thay đổi trên trong tâm lí và hành động của Mị. Từ đó nêu những điểm mới mẻ về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    Đáp án:

    * Diễn biến tâm lí của Mị:

    - Mới đầu nhìn A Phủ bị trói, Mị dửng dưng, vô cảm, lạnh lùng:

    + Đêm tình mùa xuân hồi sinh tâm hồn Mị, sau đó Mị lại trở về với cuộc sống lặng câm, vô cảm.

    + Mị vô cảm với chính mình: Bị A Sử đạp ngay ở cửa bếp nhưng những đêm sau Mị vẫn dậy để thổi lửa hơ tay -> Mị không cảm nhận được nỗi đau thể xác và tủi nhục về tinh thần.

    + Vô cảm với người đồng cảnh ngộ - A Phủ: Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vô cảm, dửng dưng, lạnh lùng đến tàn nhẫn. Mị không biết, không hay, không quan tâm, chỉ biết chỉ cò ở với ngọn lửa.

    - Từ vô cảm đến đồng cảm:

    + Dòng nước mắt "bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủđã đánh thức lòng nhân ái trong Mị, làm tan chảy trái tim băng giá, vô cảm của Mị.

    + Mị thương mình, thương người

    + Nhận thức được tội ác của giai cấp thống trị: Lên án, nguyền rủa, kết tội.

    + Nhận ra sự bất công phi lí "người kia việc gì phải chết"

    + Lòng thương người, nỗi căm hờn, sự đồng cảm giai cấp vượt lên nỗi sợ hãi, vượt lên cường quyền và thần quyền -> Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và chạy theo A Phủ.

    - Nghệ thuật:

    + Tình huống truyện độc đáo

    + Biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.

    + Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị

    + Trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn.

    * Nhận xét sự thay đổi tâm lí và hành động của Mị qua 2 chi tiết:

    Từ sự vô cảm, dửng dưng, lạnh lùng, Mị thương mình thương người, đồng cảm với A Phủ. Đây là bước chuyển của sự phát triển tâm lívà hành động tất yếu, hợp logic ở nhân vật.

    Từ sự vô cảm, Mị ý thức được thực tại, tâm hồn sống dậy, không cam chịu-> phản kháng mãnh liệt để giải phóng cho người đồng cảnh ngộ và cho chính mình.

    *Giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm:

    - Lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với nỗi khổ đau của con người.

    - Lên án thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống của con người.

    - Phát hiện, trân trọng, ngợi ca phẩm chất cao đẹp của người lao động.

    - Đặt niềm tin và nhìn thấy sức vươn dậy, khả năng phản kháng mạnh mẽ và khả năng làm cách mạng của người lao động nghèo vùng cao.

    V Đề 7: Trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã cho thấy ý nghĩ của Mị khi làm dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pá Tra: "Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi." và trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, Mị muốn đi chơi, Mị vùng bước đi nhưng không được vì đã bị A Sử trói đứng trong buồng tối: Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa

    Phân tích tâm trạng nhân vật Mị qua hai cảnh ngộ trên, từ đó cảm nhận về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    Đáp án:

    *Tâm trạng của Mị khi tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa

    - Khi sống ở nhà thống lí, Mị đã bị bóc lột sức lao động đến cùng cực, chịu khổ nhục triền miên..

    - Mị bị giam hãm trong không gian chật hẹp và tù đọng, trong thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng, không hiện tại và không tương lai.

    - Mị tê liệt ý thức về bản thân, tưởng mình như con trâu, con ngựa.. chỉ biết đi làm như một cái máy.

    *Tâm trạng Mị thay đổi trong đêm tình mùa xuân.

    - Sự tác động của nhiều yếu tố như tiết trời mùa xuân, men rượu và tiếng sáo đã làm chuyển biến tâm hồn Mị. Mị đã lén "uống ực từng bát" rượu, rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy.. nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Rồi âm thanh của tiếng sáo như tiếng ai mời gọi. Mị muốn đi chơi và đã sửa soạn đi chơi thực sự.. Như thế là lòng ham sống đã thức dậy trong Mị.

    - Sức sống cứ lớn dần cho tới khi nó chiếm trọn tâm hồn Mị..

    - Rồi Mị bi A Sử trói trong trạng thái mơ hồ.

    - Khi Mị cảm thấy cái hiện tại tàn khốc là lúc Mị vùng bước đi mà tay chân không cựa được. "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa."

    *Cảm nhận về giá trị nhân đạo của tác phẩm

    - Sức sống của con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người.

    - Chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam hãm con người và sự sống. Chế độ ấy đáng lên án.

    V Đề 8: Cảm nhận của anh/chị về sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai). Từ đó, nêu bật tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài. /

    Đáp án:

    Cảm nhận về sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ.

    - Hoàn cảnh:

    + Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị lầm lũi, cô độc.

    + Nhìn A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản nhiên, vô cảm.

    - Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng và hành động phản kháng mạnh mẽ:

    + Một đêm, khi thấy "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ", Mị thức tỉnh, ý thức phản kháng nhen nhóm trong suy nghĩ của Mị:

    * Mị nhớ đến cảnh mình bị trói, cảnh người đàn bà bị trói đến chết trong quên lãng, Mị nhận ra tội ác của cha con thống lý.

    * Mị nghĩ đến thân phận "làm ma nhà thống lý" và sự nghịch lý đối với A Phủ.

    * Mị nghĩ đến cái chết của A Phủ và quyết định cứu A Phủ.

    + Hành động phán kháng mạnh mẽ, quyết liệt:

    * Mị rón rén mà quyết liệt cắt dây trói cứu A Phủ.

    * Mị chợt nhận ra "Ở đây thì chết mất" và chạy theo A Phủ, cùng A Phủ thoát khỏi kiếp nô lệ ở nhà thống lý, đến với cuộc sống tự do.

    - Nghệ thuật: Nghệ thuật tạo tình huống, miêu tả tâm lý nhân vật, nghệ thuật trần thuật nửa trực tiếp.

    C. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn:

    - Thấu hiểu, đồng cảm trước số phận đau khổ của người lao động.

    - Lên án thế lực thống trị chà đạp quyền sống con người.

    - Đề cao sức sống tiềm tàng, mãnh liệt và ý thức phản kháng mạnh mẽ; thấy được khả năng cách mạng và khát vọng hướng đến cuộc sống tự do của người lao động bị áp bức.

    D. Đánh giá chung:

    + Sức sống tiềm tàng, ý thức phản kháng mạnh mẽ của Mị thể hiện khát vọng sống và khả năng cách mạng ở người lao động. Đây là điều kiện cần để họ thức tỉnh, đến với cách mạng, tham gia đấu tranh giành lấy tự do.

    + Thể hiện rõ cảm hứng sáng tác, tư tưởng nhân đạo; tài năng nghệ thuật của nhà văn.

    V Đề 9: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi "Em không yêu, quả pao rơi rồi/ Em yêu người nào, em bắt pao nào.." . Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

    Trình bày cảm nhận của anh/chị về âm thanh "tiếng sáo" và âm thanh "tiếng chân ngựa đạp vào vách" trong đoạn trích trên.

    Đáp án:

    * Cảm nhận về âm thanh "tiếng sáo" và âm thanh "tiếng chân ngựa đạp vào vách" trong đoạn trích.

    · Tiếng sáo:

    - Là nét đặc trưng văn hóa Tây Bắc khi tết đến xuân về. Tiếng sáo và ca từ bài hát của người thổi sáo xuất hiện ở nhiều không gian, thời gian và mang những sắc điệu khác nhau gắn với sự hồi sinh của Mị.

    - Trong đoạn trích

    + Có ý nghĩa khơi gợi, dẫn dụ, bùng phát, bứt phá, khiến Mị quên đi thực tại "như không biết mình đang bị trói.. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi" Em không yêu, quả pao rơi rồi/ Em yêu người nào, em, em bắt pao nào.. ".

    + Đó là âm thanh của khát khao, mơ ước, để Mị được sống với quá khứ ngọt ngào. Nó đánh thức khát vọng sống, khát vọng tự do, tình yêu và hạnh phúc tưởng chừng như đã chết.

    · Tiếng chân ngựa đạp vào vách:

    - Chỉ xuất hiện một lần nhưng bắt tiếng sáo phải im bặt, kéo Mị trở về với thực tại phũ phàng.

    - Nó như một thứ dây trói vô hình đáng sợ gấp nhiều lần dây trói hữu hình trên thể xác Mị, khiến Mị phải lịm tắt trong nỗi ai oán của kiếp súc nô:" Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa ".

    · Đánh giá:

    - Hai âm thanh vừa tả thực vừa có nghĩa biểu trưng, khép mở ra hai thế giới và hai tâm trạng: Thế giới ngọt ngào, êm ái của tình yêu và hạnh phúc và thế giới cay nghiệt của sự áp bức cường quyền và thần quyền; tâm trạng khát khao, mơ ước và chua chát, bẽ bàng.

    - Diễn tả nội tâm của Mị một cách sống động, thể hiện tài năng, tấm lòng nhân đạo của nhà văn.

    V Đề 10: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn tô Hoài đã miêu tả tâm lí của nhân vật Mị sau khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: " Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt " . Và ở đêm tình mùa xuân: " Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sao. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách " .

    Anh/chị hãy phân tích hình ảnh Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này.

    Đáp án:

    • Giới thiệu nhân vật

    - Nhan sắc:" Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị "-> nhan sắc rực rỡ ở tuổi cập kê.

    - Tài năng: Thổi sáo, thổi lá. Hay đến mức có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.

    - Phẩm chất tốt đẹp: Khi bố mẹ Mị hết đời chưa trả được món nợ cho thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra định bắt Mị về làm con dâu gạt nợ:

    + Hiếu thảo:" Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố "

    + Tự tin vào khả năng lao động:" Con nay đã biết cuốc nương làm ngô "

    + Khao khát tự do:" Bố đừng bán con cho nhà giàu "

    - > Xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị xã hội của tiền quyền, cường quyền và thần quyền vùi dập, đẩy vào ngã rẽ tăm tối.

    • Phân tích hình ảnh Mị trong hai lần trên

    ▪ Chi tiết 1:

    *Vị trí chi tiết: Chi tiết nằm ở phần đầu tác phẩm, khi Mị đã quen dần với việc làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Vì món nợ truyền kiếp của gia đình và tục bắt vợ mà Mị đã trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Khi mới về làm dâu, Mị cũng đã phản kháng, muốn tự tử nhưng lâu dần ý thức đó bị mất đi.

    *Phân tích chi tiết:

    - Khi làm dâu đã quen, ý thức phản kháng trong Mị bị vùi lấp đi:" Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi "=> chấp nhận thân phận con dâu gạt nợ.

    - Nỗi khổ thể xác:

    + Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa; thậm chí còn không bằng con trâu con ngựa.

    + Mị mất hoàn toàn ý niệm về thời gian. Thời gian của Mị chỉ được tính bằng công việc, các công việc nối tiếp nhau, việc này chồng lên việc kia. Mị trở thành cỗ máy, công cụ lao động, mất hết ý niệm về cuộc sống.

    - Nỗi khổ tinh thần:

    + Biện pháp so sánh: Mị - con trâu, con ngựa -> vật hóa nặng nề.

    + Thể hiện qua những câu văn tả thực trầm buồn mở đầu tác phẩm:" Ai cố việc ở xa về.. "," lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ".

    + Hình ảnh ẩn dụ: Căn buồng Mị ở" kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng "-> giống như ngục thất giam cầm cuộc đời Mị, giống như nấm mồ chôn vùi tuổi thanh xuân, chôn vùi hạnh phúc của Mị.

    ▪ Chi tiết 2:

    *Vị trí: Chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm – Mị trong đêm tình mùa xuân. Trong đêm tình mùa xuân, với sự tác động của khung cảnh ngày xuân, tiếng sáo và hơi rượu, sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy.

    *Phân tích chi tiết:

    Trong hơi rượu và tiếng sáo sức sống tiềm tàng lại trỗi dậy:

    - Mị như ở trạng thái mộng du, vượt thoát hoàn cảnh để tìm lại chính mình.

    + Lấy ống mỡ sắn một miếng để thắp đèn lên cho sáng. -> thắp sáng căn buồng cũng là thắp sáng khát vọng giải thoát cuộc đời mình.

    +" Mị muốn đi chơi": Thức dậy ý thức và khát vọng.

    + Chuẩn bị đi chơi: Quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo.

    => Khao khát được sống, được giao tiếp của Mị đã hồi sinh sau chuỗi ngày bị vật hóa nặng nề.

    • Giá trị của hai chi tiết

    - Cho thấy đầy đủ chân dung nhân vật Mị - một cô gái miền núi với khao khát tự do mãnh liệt

    - Góp phần truyền tải đầy đủ tư tưởng, nội dung của tác phẩm mà tác giả muốn gửi gắm:

    + Giá trị hiện thực: Phơi bày thực trạng xã hội phong kiến miền núi lúc bấy giờ.

    + Giá trị nhân đạo:

    ++ Bày tỏ sự đồng cảm, xót thương cho những số phận dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.

    ++ Lên án, phê phán những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người.

    ++ Tin tưởng vào bản chất người luôn tiềm tàng trong mỗi con người: Khát vọng sống mãnh liệt.
     
  8. Galassia

    Bài viết:
    34
    Vợ Nhặt

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, là một gương mặt xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn "Một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy" (Nguyên Hồng) bởi sự am hiểu sâu sắc về đời sống người nông dân. Người nông dân trên những trang văn của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất yêu đời, chất phác, hóm hỉnh và tài hoa. Một trong những tác phẩm nổi bật viết về đề tài người nông dân của ông là "Vợ nhặt". "Vợ nhặt" được coi là kiệt tác trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, cũng là một truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại.. (Vấn đề nghị luận)

    2. Khái quát chung

    Tiền thân của truyện ngắn "Vợ nhặt" là một chương trong tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" viết vào năm 1945. Tới 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết "Vợ nhặt" in trong tập "Con chó xấu xí" (1962). Do đó, tác phẩm không chỉ là kết quả của một quá trình suy ngẫm, gọt giũa về cả nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng lạc quan của thời đại mới trong thời điểm đất nước được giải phóng sau năm 1954. Truyện ngắn không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ qua những nhân vật.. (Vấn đề nghị luận)

    O Tình huống truyện là sự kiện, là hoàn cảnh, tình thế của câu chuyện. Tình huống này chứa đựng những mâu thuẫn, bất thường, thậm chí là nghịch lý trong cuộc sống của nhân vật. Nhờ tình huống mang những đặc trưng kể trên, người viết có thể tạo nên hoàn cảnh, tình thế cho nhân vật. Thông qua đó, nhân vật bị buộc đưa ra lựa chọn, thể hiện tư tưởng, tâm lý, hành động của nhân vật. Tình huống truyện của "Vợ nhặt" là tình huống truyện hành động.

    3. Dẫn chứng

    - "Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống." (Kim Lân)

    - Tô Hoài từng viết: "Mỗi khi chợt nghĩ lại, tôi vẫn bàng hoàng về những năm khủng khiếp ấy".

    - Nhà văn Kim Lân từng nói: "Đói, nó vừa đắng cay, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên một tia sáng về đạo đức, danh dự".

    - Kim Lân từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người".

    4. NT – Giá trị hiện thực, nhân đạo

    · NT

    - Xây dựng tình huống truyện độc đáo, éo le để từ đó các nhân vật xuất hiện và bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.

    - Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc. Qua đó, mỗi nhân vật trong bài hiện lên với những nét tính cách riêng, những tâm tư tình cảm riêng, rất chân thực và sống động.

    - Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, ngôn ngữ gần gũi, mộc mạc, giản dị, mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ.

    - Tạo được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc: Ngon đèn Tràng thắp lên trong đêm tối, nồi cháo cám của bà cụ Tứ, lá cờ Việt Minh trong trí óc Tràng.

    · Giá trị hiện thực:

    - Phản ánh tình cảnh thê thảm của người nông dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 – thời kì đen tối nhất trong lịch sử của dân tộc đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào ta.

    - Phơi bày tội ác của phát xít Nhật khi chúng đặt ra những chính sách hết sức vô lý, gây ra nạn đói năm 1945 như Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay. Nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh "một cổ hai tròng", vừa bị thực dân Pháp đàn áp, vừa bị phát xít Nhật hành hạ.

    · Giá trị nhân đạo

    - Thể hiện sự đồng cảm, xót thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ khi rơi vào cảnh ngộ éo le, bi thảm, bị cái đói hành hạ, tước đi sinh mạng và có nguy cơ bị cái đói làm cho tha hóa.

    - Nhà văn đã khám phá, trân trọng phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của những người lao động nghèo: Đó là khát vọng được sống, được hạnh phúc, là trái tim giàu tình yêu thương, bao dung, nhân hậu đối với những người cùng cảnh ngộ.

    - Tố cáo một cách đanh thép tội ác của bọn thực dân, phát xít đã đẩy những người dân Việt Nam vào cuộc sống tối tăm, cực khổ.

    - Thể hiện cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào cách mạng, mở ra niềm hi vọng về một tương lai tươi sáng cho những người nghèo khổ.

    - Qua tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã khái quát một bài học có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc: Hoàn cảnh nghiệt ngã biến con người thành bèo bọt nhưng con người bằng khát vọng mãnh liệt về sự sống, hạnh phúc vẫn vượt lên hoàn cảnh để khẳng định bản chất NGƯỜI đẹp đẽ của mình.

    "Hoàn cảnh chẳng những không thể vùi dập bản chất NGƯỜI tốt đẹp mà trái lại, nó càng làm cho bản chất ấy tỏa sáng".

    5. Kết bài

    Bằng sự tinh tế trong cảm nhận, chân thực trong miêu tả cùng sự am hiểu sâu sắc đối với đời sống tinh thần của những người nông dân nghèo, nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ tái hiện thành công, sinh động không khí ngột ngạt, u tối của nạn đói năm 1945 mà trên cái phông nền ảm đạm, thảm thương đó nhà văn làm nổi bật lên vẻ đẹp của sự sống, của tình thương bên trong con người. Qua truyện ngắn nhà văn Kim Lân cũng cho độc giả thấy được vẻ đẹp và sức mạnh đích thực của tình thương: Nạn đói có thể hủy diệt con người ta về sự sống thể xác nhưng tuyệt nhiên không thể làm mất đi tình yêu thương, cũng chẳng thể hủy diệt nổi sức sống tinh thần và niềm tin của con người.

    6. Một số đề bài

    Đề 1: Về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là một người phụ nữ liều lĩnh, thiếu lòng tự trọng . Ý kiến khác thì khẳng định: Đó là một người phụ nữ tự trọng, có ý thức về phẩm giá của mình. Từ cảm nhận của mình về hình tượng nhân vật người vợ nhặt, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên.

    Đáp án:

    · Vài nét về tác giả, tác phẩm

    - Kim Lân là một trong những nhà truyện ngắn có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Văn phong của ông giản dị mà thấm thía.

    - Tiền thân của truyện ngắn Vợ nhặt là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, viết sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở, sau đó bị lạc mất bản thảo. Sau hòa bình lập lại 1954, Kim Lân dựa một phần cốt truyện cũ để viết truyện Vợ nhặt.

    · Giải thích các ý kiến

    - Ý kiến thứ nhất: Cho rằng nhân vật người vợ nhặt là một người phụ nữ liều lĩnh, thiếu lòng tự trọng. Ý kiến trên có lẽ đã căn cứ vào tình tiết người đàn bà này đã theo không nhân vật Tràng chỉ sau hai lần gặp, nghe ba câu nói đùa, ăn bốn bát bánh đúc..

    - Ý kiến thứ hai: Khẳng định nhân vật người vợ nhặt là một người phụ nữ tự trọng, có ý thức về phẩm giá. Có lẽ người đưa ra ý kiến này đã nghiêng về góc độ nhìn nhân vật như là một nạn nhân của nạn đói, cảm thông tình thế đặc biệt của nhân vật và có cái nhìn yêu thương, trân trọng đối với những biểu hiện đáng quý của người vợ nhặt như: Không chịu chấp nhận lời nói đùa ăn trầu, nghiêng nón che mặt và tỏ vẻ ngượng nghịu khó chịu khi bị nhìn soi mói trên đường về nhà Tràng, chỉ ngồi mớm ở mép giường khi vào nhà..

    · Bình luận về các ý kiến - Bình luận hai ý kiến:

    - Ý kiến thứ nhất dựa trên cơ sở hiện tượng, biểu hiện của nhân vật. Ý kiến thứ hai vẫn có cơ sở từ biểu hiện và hành động nhân vật nhưng đã có sự lưu ý về cảnh ngộ và bản chất nhân vật.

    - Bàn thêm: Con người vốn phức tạp và có mối quan hệ nhất định đối với hoàn cảnh sống. Phải đặt mỗi người vào cảnh ngộ cụ thể của họ để hiểu và cảm thông. Nhân vật người vợ nhặt bị nạn đói dồn vào cảnh ngộ bi thảm nên có lúc có vẻ như trở nên liều lĩnh, hi sinh lòng tự trọng, chấp nhận theo không người đàn ông. Nhưng trong bi thảm, người vợ nhặt vẫn có biểu hiện ý tứ, mực thước, có ý thức giữ gìn phẩm giá. Trong bi thảm, nhân vật người vợ nhặt vẫn âm thầm nuôi dưỡng niềm khát khao cuộc sống gia đình, niềm mỏi mong chính đáng về cuộc sống ngày mai.

    Đề 2: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim lân đã nhiều lần miêu tả giọt nước mắt và nụ cười của bà cụ Tứ. Buổi chiều hôm trước: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt;.. Bà lão nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng" và trong bữa ăn sáng hôm sau: "Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa cười:


    - Chè đây. – Bà lão múc ra một bát- Chè khoán đây, ngon đáo để cơ".

    Phân tich nỗi niềm của nhân vật người mẹ trong những lần miêu tả trên để thấy rõ tài năng và tấm lòng của nhà văn Kim Lân trong việc phát hiện và mô tả con người.

    Đáp án:

    · Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận. 0.5

    · Phân tích nỗi niềm của nhân vật bà cụ Tứ:

    - Buổi chiều hôm trước

    +Hiểu ra cơ sự (việc Tràng nhặt vợ), tâm trạng người mẹ trở nên nặng nề với sự đan xen của những cảm xúc phức tạp: Xót thương cho sự thua thiệt của con trai; buồn tủi vì bổn phận là mẹ mà bà không thể giúp gì cho con khi cảnh nhà nghèo khó và còn vì hiểu rằng cuộc hôn nhân này cũng chỉ là bất đắc dĩ.. nên "kẽ mắt của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt".

    +Thương con trai lấy vợ lúc đói quay đói quắt, bà cũng thấu hiểu cái trớ trêu của nghịch cảnh "người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới lấy được vợ" để rồi bà thấy thương con dâu nhiều hơn.

    +Lo lắng cho tương lai của các con, trong căn nhà rúm ró, xiêu vẹo, lòng người mẹ như cũng tối sầm lại với những ý nghĩ u ám khổ đau. Nỗi buồn tủi, xót thương lại khiến bà rơi nước mắt.

    - Trong bữa ăn sáng hôm sau:

    + Dường như những buồn đau, lo lắng qua đi, chỉ còn lại niềm vui, sự hi vọng. Nó được biểu hiện không chỉ ở dáng vẻ, nét mặt mà cả trong lời nói và việc làm.

    + Nồi cháo cám đắng chát, bứ nghẹn mà bà cụ xem như chè khoán (một thức quà ngon) được mang ra để đãi các con trong tâm thế vui vẻ (vừa khuấy vừa cười) chứa trong nó tấm lòng người mẹ thương con và một nghị lực sống kiên cường.

    + Thái độ, lời nói của bà cụ tạo không khí ấm cúng và ngăn giữ sự xâm lấn trở lại của những cảm xúc ai oán, bi quan.

    => Bà cụ Tứ mang tính cách của một bà mẹ nông dân nghèo, từng trải trong cuộc sống và cũng rất mực thương con; chất phác, hiền hậu, nhân từ và cũng rất sâu sắc trong tình người.

    · Tài năng và tấm lòng của nhà văn:

    - Kim Lân đã chọn được những chi tiết đặc sắc, sắp xếp hợp lí, hoàn hảo để tạo được logic và tính hợp lí của những biểu hiện, diễn biến tâm lí nhân vật. Nhà văn đã kết hợp nhiều điếm nhìn trần thuật- nhìn từ bên trong để diễn tả đến tận cùng sự phức tạp của tâm lí và chiều sâu của những tình cảm, nỗi niềm trong lòng nhân vật; nhìn từ bên ngoài để có những đánh giá khách quan.

    - Tấm lòng yêu thương con người của nhà văn được thể hiện phong phú ở sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ, ở niềm tin tưởng vào những phẩm chất quý giá, ở tinh thần khẳng định sức sống, khát vọng sống của con người. Tất cả tạo nên chiều sâu nhân đạo cho nội dung tác phẩm.

    Chi tiết nồi chè khoán trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

    - Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết:

    + Chi tiết nồi chè khoán của bà cụ Tứ trong truyện ngắn "Vợ nhặt" được xuất hiện trong bữa cơm ngày đói của mẹ con Tràng. Nồi cháo cám được bà cụ Tứ đặc biệt chuẩn bị để mừng ngày đầu tiên con dâu về nhà.

    - Ý nghĩa:

    Về nội dung:

    + Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy

    Nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo

    Đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945.

    + Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ:

    Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng

    Của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.

    - Giá trị của chi tiết:

    + Phản ánh hiện thực đầy xót xa của những người nghèo khổ, trong nạn đói 1945, để duy trì sự sống người ta phải ăn cả những thứ đồ ăn vốn không dành cho con người.

    + Đó là món quà cưới, là tấm lòng nhân hậu của người mẹ trước hạnh phúc của các con.

    + Gián tiếp tố cáo tội ác của thực dân phát xít đã đẩy con người vào tình cảnh thê thảm.

    + Thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với những giá trị tốt đẹp của con người: Dù đứng trước ranh giới của sự sống và cái chết nhưng con người vẫn dành cho nhau những tình cảm thật đáng quý

    - Đánh giá: "Nồi chè khoán" là biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Thể hiện cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của Kim Lân. Dù chỉ là chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc hơn tính cách của nhân vật và gửi gắm những thông điệp thiêng liêng về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và sức mạnh của tình thương, tình người.

    *Phân tích diễn biến tâm trạng của Tràng sau khi nhặt vợ:

    - Tràng quên đi thực tại đói khát ghê gớm đang đe dọa để sống với thực tại hạnh phúc (lấy dẫn chứng minh họa từ tác phẩm)

    - Đặc biệt, tác giả nhiều lần diễn tả tiếng cười của Tràng từ khi nhặt được vợ. Cung bậc tiếng cười có khác nhau nhưng đều tỏa ra niềm vui, một sức sống hồn nhiên rạo rực mà cái đói, cái chết không thể nào dập tắt được

    - Cùng với niềm hạnh phúc lứa đôi là niềm vui có được một tổ ấm gia đình

    - Niềm vui của Tràng có chiều sâu khi Tràng cảm thấy bây giờ mới nên người. Hóa ra Tràng chỉ thực sự trưởng thành từ khi có vợ, nghĩa là biết suy nghĩ nghiêm chỉnh về trách nhiệm đối với gia đình.

    - Tuy nhiên, hạnh phúc mà Tràng có được rất chông chênh bởi sự đe dọa của cái đói, cái chết.

    Đề 3: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân ba lần miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Chiều hôm trước, khi Tràng dẫn người vợ nhặt về nhà: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì.. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.."


    "Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng".

    Và sáng hôm sau, trong bữa ăn "Trống thúc thuế đấy, đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được các con ạ.. Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc" .

    (Kim Lân - Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr. 27 và tr. 31)

    Hãy trình bày cảm nhận của anh/chị về chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

    Đáp án: Cảm nhận chi tiết "dòng nước mắt" của bà cụ Tứ

    - Hoàn cảnh dẫn đến "dòng nước mắt"

    + Bối cảnh chung: Nạn đói khủng khiếp 1945, bức tranh thảm đạm, đầy âm khí, thê lương và chết chóc

    + Bối cảnh riêng: Gia cảnh bà cụ Tứ; bản thân Tràng lại là dân ngụ cư, nghèo khổ, thô kệch, hơi ngẩn ngơ.. ; "thị" thì lại lang thang, đói rách, thảm hại. Hai người gặp nhau qua câu đùa cợt của Tràng. Lần thứ hai gặp lại, người đàn bà gợi ý và được cho ăn. Cuối cùng thị đã bám lấy câu nói đùa của người ta để theo không về làm vợ. Dòng nước mắt của bà cụ Tứ đã rỉ xuống khi biết được sự việc trớ trêu này..

    - Cảm nhận về dòng nước mắt:

    + Nước mắt của sự tủi thân, xót phận mình, xót thương cho các con đến thắt lòng.

    O Đau khổ khi chưa làm tròn bổn phận người mẹ.

    O Xót thương cho số kiếp con trai nhặt vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, tội nghiệp.

    O Thương cô con dâu hốc hác, rách rưới bị cái đói đẩy tới đường cùng phải liều thân.

    + Nước mắt vui mừng cho hạnh phúc của các con (hạnh phúc và buồn lo lẫn lộn)

    + Nước mắt lo lắng cho tương lai các con (Nỗi lo thường trực, ám ảnh, cả 3 lần dòng nước mắt của cụ đều đi kèm với nỗi lo lắng)

    O Đặc biệt, trong bữa ăn sáng hôm sau, khi nghe tiếng trống thúc thuế, bà cụ lại khóc nhưng đã cố che giấu nước mắt của mình trước mặt con dâu. Giọt nước mắt cùng với hành động đó thật cảm động, là biểu hiện thật bao la, sâu sắc tình thương con của bà..

    - Nhận xét chung

    + Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: Lên án tội ác phát xít Nhật; cảm thương số phận cảnh ngộ bi thảm của người nông dân nghèo trong nạn đói; trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ. Bà cụ Tứ cũng là mẫu hình điển hình cho những bà mẹ quê nghèo Việt Nam với tình mẫu tử sâu nặng..

    + Đặc sắc nghệ thuật: Xây dựng chi tiết nghệ thuật có sức biểu đạt lớn: Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật chân thực, tự nhiên, tinh tế, đặc sắc..

    Đề 4:
    Nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

    1. Lai lịch, ngoại hình:

    - Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là "nhà" thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

    - Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn.. Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.

    2. Tính cách:

    - Tràng là người vô tư, nông cạn.

    + Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

    + Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhậ đưa về nhà để thành.. vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!

    - Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.

    + Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.

    + Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê.. Anh còn mua 2 hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí.

    + Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại "nhặt vợ" một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được: Trong lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghò khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.

    - Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.

    + Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.

    + Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới.. Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới.

    3. Số phận:

    - Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.

    - Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.

    4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn

    - Kim Lân đã khắc họa nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chie còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

    - Qua nhân vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn cua họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao..

    Đề 5: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn người mẹ qua nhân vật bà cụ Tứ ( "Vợ nhặt" – Kim Lân)

    A. Giới thiệu: Bà cụ Tứ là một người mẹ nghèo khổ, lam lũ

    B. Vẻ đẹp tâm hồn:

    - Bà cụ Tứ là một người rất mực thương con:

    + Khi biết Tràng lấy vợ, bà vừa ai oán cho hoàn cảnh, vừa xót thương cho số kiếp con mình

    + Khi nghĩ đến cái hiện thực đói khát mà các con mình phải đối mặt, bà đã không cầm được nước mắt

    + Ở bữa cơm đón dâu, bà đã cố gắng, chắt chiu để có được nồi cháo cám, cố gắng để niềm vui của các con không bị gián đoạn

    + Khi nghe tiếng trống thúc thuế vang lên, một lần nữa bà lại khóc khi nghĩ đến cuộc sống của những đứa con mình.

    - Bà là một người mẹ nhân hậu, bao dung:

    + Bà chấp nhận việc người phụ nữ theo không con mình, mà lại là theo không ngay giữa nạn đói

    + Không những thế, bà còn bày tỏ lòng yêu thương, cảm thông và biết ơn đối với người đàn bà xa lạ

    - Bà cụ Tứ còn là một người mẹ giàu tinh thần lạc quan:

    + Khi hiểu ra việc Tràng lấy vợ, bà đã động viên, an ủi các con tin tưởng vào tương lai: Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời

    + Sáng hôm sau, bà tỏ ra vui vẻ, hoạt bát khác hẳn ngày thường. Bà thu dọn nhà cửa, với niềm tin rằng cuộc đời rồi sẽ tốt đẹp hơn

    + Trong bữa cơm đón dâu, bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng về sau

    + Kể cả khi phải ăn sang cháo cám, thái độ của bà vẫn rất vui vẻ.

    => Tất cả những vẻ đẹp tâm hồn ấy đều xuất phát từ một cội nguồn duy nhất: Đó là lòng thương con vô bờ bến của người mẹ già nghèo khổ.

    2. Vài nét đặc sắc về nghệ thuật:

    - Nghệ thuật tạo tình huống độc đáo

    - Nghệ thuật trần thuật sinh động

    - Nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc

    Kết luận: Khái quát lại vấn đề, nêu cảm nhận của em về nhân vật.
     
  9. Galassia

    Bài viết:
    34
    Chiếc Thuyền Ngoài Xa



    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, đồng thời là "
    nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất" (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, ông viết về thế hệ con người Việt Nam trong chiến tranh hào hùng, phi thường, dũng cảm, dám gạt bỏ ước mơ của mình để cống hiến cho độc lập dân tộc, ta đã từng bắt gặp những con người như thế, đó là Nguyệt và Lãm trong truyện ngắn "Mảnh trăng cuối rừng". Thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh, thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc với số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. "Chiếc thuyền ngoài xa" là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu ở thời kì sau. Tác phẩm.. (vấn đề nghị luận).

    Bấm để xem
    Đóng lại
    2. Khái quát chung

    "Chiếc thuyền ngoài xa" được sáng tác vào tháng 8/1983, lúc đầu được in trong tập "Bến quê", sau đó được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn xuất bản năm 1987. Năm 1983, đó là một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm này, cả dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống có nhiều điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh Châu.

    3. Dẫn chứng

    - "Sáng tác của NMC một mặt là những tác phẩm văn chương đích thực, mặt khác còn có cái gì đó vượt lên trên cả văn chương bởi nỗi quan hoài da diết với con người." – G. S Nguyễn Văn Long.

    - Nhân quyền "giống như món trang sức đắt tiền trong tủ kính mà những đôi tay lam lũ không thể chạm vào".

    - Nikulin: "Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước năm 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng".

    - "Nhẫn lại nuôi con, suốt đời im lặng


    Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời"

    (Tố Hữu)

    4. NT – Giá trị hiện thực, nhân đạo

    · Nghệ thuật

    - Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tác giả đã dựng nên tình huống nghịch lí giữa hình ảnh của con thuyền khi ở ngoài xa với con thuyền lúc đến gần để tạo ra tình huống nhận thức cho nhân vật của mình, cũng là cho người đọc.

    - Nghệ thuật trần thuật: Tác phẩm kể chuyện qua ngôn ngữ nhân vật Phùng, tạo điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục.

    - Ngôn ngữ, giọng điệu:

    + Ngôn ngữ nhân vật phụ hợp với đặc điểm, tính cách của từng người.

    + Giọng điệu người kể luôn thay đổi theo diễn biến tình tiết giàu kịch tính. Nổi bật là giọng điệu mang sắc thái suy tư, chiêm nghiệm.

    · Giá trị hiện thực: Phản ánh đời sống cực khổ của người dân nghèo miền biển – khổ vì nghèo đói và nạn bạo hành.

    · Giá trị nhân đạo:

    - Bày tỏ niềm cảm thương với những bất hạnh, cùng cực của con người (qua cái nhìn của Phùng và Đẩu).

    - Khám phá, trân trọng những vẻ đẹp khuất lấp của con người qua nhân vật người đàn bà hàng chài khắc khổ nhưng đầy nhân hậu, vị tha, bao dung và giàu đức hi sinh.

    - Bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Cái ta nhìn thấy chỉ là hiện tượng, phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới phát hiện ra bản chất bên trong.

    5. Kết bài

    Qua truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa", Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện và cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống và qua thay đổi nhận thức của nhân vật Phùng, nhân vật Đẩu, tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Theo Nguyễn Minh Châu, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện đầu tiên phải là sự chân thực. Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tìm tòi, phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó.

    6. Một số đề bài

    · Đề 1: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu - Ngữ văn 12, tập hai, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2017), hai nhân vật Phùng và Đẩu từng có lúc thốt lên: Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!


    Qua phân tích tình huống dẫn đến cảm giác ngạc nhiên, bối rối chứa đựng trong lời nói ấy của ác nhân vật, anh/ chị hãy làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.

    Đáp án:

    · Nêu được những thông tin khái quát về tác giả, tác phẩm:

    - Tác giả: Nguyễn Minh Châu – nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng, người góp phần đổi mới văn học sau 1975.

    - Tác phẩm: Viết năm 1983, báo hiệu sự chuyển mình của văn học Việt Nam sang thời kỳ mới.

    · Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:

    - Một tình huống đầy nghịch lý, có nền là hoàn cảnh, sự việc nhiều éo le:

    + Cảnh bạo lực giữa khung cảnh thơ mộng.

    + Phản ứng lạ lùng của những người liên đới.

    + Cách giải quyết sự việc và kết cục bất ngờ.

    - > "Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!" là câu nói mà hai nhân vật Phùng và Đẩu thốt lên tại tòa án huyện, khi họ hỏi (chất vấn) người đàn bà làng chài và lắng nghe những gì chị ta trần tình, giãi bàỵ Câu nói bộc lộ đỉnh cao của sự ngạc nhiên, sau tất cả những gì mà họ (nhất là Phùng) đã chứng kiến và tham dự, không chỉ tại tòa án mà còn tại bãi biển trong mấy buổi sớm. Họ ngạc nhiên vì thấy mọi việc không diễn ra theo logic bình thường.

    - Thông điệp nhận thức về bản chất phức tạp của cuộc đời: Mọi thứ không phải diễn ra như điều ta tưởng tượng, mong ước và suy đoán; tâm lý con người (nhất là người lao động nghèo khổ) diễn ra rất khác so với hình dung của những kẻ hời hợt hoặc thiếu thực tế. Bạo lực không chỉ có nguyên nhân từ những gì thuộc về bản tính con người mà còn từ sự khốn quẫn trong đời sống. Trong con người cam chịu vẫn có sự cứng cỏi và sự vị tha. Không phải cứ cách mạng về là hết khổ. Những hành động thiện chí không phải bao giờ cũng được đón nhận theo chiều hướng tích cực.. Nói chung, nghịch lý luôn chứa đựng trong các sự kiện đời sống, trong mọi hành xử của con người.

    - Thông điệp nhận thức về độ chênh giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật hời hợt thường chỉ thấy được bề nổi của sự vật, thường tự thỏa mãn với những cái nhìn thấy "từ xa", thường chỉ dung nạp những gì thuần nhất, lý tưởng. Nhân vật Phùng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trong quá trình truy tìm cái đẹp, xây dựng ý tưởng sáng tạọ. Những điều diễn ra đã giúp anh nhìn sâu hơn về bản chất và trách nhiệm của nghệ thuật chân chính, nghệ thuật vì con ngườị

    - Đánh giá: Thông điệp mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm được rút ra từ chiêm nghiệm của một cây bút giàu trách nhiệm với cuộc đời, với nghệ thuật, luôn trăn trở với việc đổi mới văn học. Thông điệp đó, ngoài việc thể hiện rõ định hướng sáng tác của tác giả Chiếc thuyền ngoài xa trong giai đoạn mới, còn góp phần tích cực tạo nên bước chuyển của cả nền văn học Việt Nam sau 1975.

    V Hình ảnh "chiếc thắt lưng" trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa

    - Ý nghĩa về mặt nghệ thuật:

    + Hình ảnh chiếc thắt lưng không phải xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm nhưng có sức ám ảnh, là hình ảnh vừa mang ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu trưng.

    + Hình ảnh chiếc thắt lưng cũng có vai trò thể hiện tính cách, số phận các nhân vật và góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm.

    - Ý nghĩa về mặt nội dung

    + Chiếc thắt lưng là dụng cụ người dàn ông (người chồng) dùng để đánh người đàn bà (người vợ) tại bãi xe tăng một cách dã man. Đó là hình ảnh biểu trưng cho tình trạng bạo lực gia đình, tàn dư chiến tranh..

    + Xoay quanh hình ảnh chiếc thắt lưng, tác phẩm còn thể hiện đời sống nhiều khó khăn của người dân nghèo thời hậu chiến khi họ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề, tàn dư từ cuộc chiến.

    => Góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    V Đề 2: Cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn sau:


    [..] Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắc lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!".

    Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.

    * Nội dung:

    - Đoạn văn miêu tả hành động vũ phu, thô bạo của lão đàn ông đối với vợ và thái độ cam chịu, nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài.

    - Nỗi khổ của người dân sau chiến tranh trong cuộc sống sinh thường nhật. Vì nghèo đói mà con người trở nên độc ác, đày đọa lẫn nhau.

    * Về nghệ thuật:

    - Nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc, ngôn ngữ giản dị nhưng trĩu nặng trăn trở, suy tư về cuộc đời, thân phận con người.

    - Sử dụng thủ pháp đối lập giữa hành động thô bạo của người đàn ông và thái độ cam chịu của người đàn bà, giữa hành động bên ngoài và suy nghĩ bên trong.

    => Miêu tả nỗi khổ của người dân sau chiến tranh do hoàn cảnh nghèo khổ mang lại, đồng thời phát hiện những nghịch lý của cuộc sống. Từ đó nhà văn gửi gắm những suy tư mang tính triết lý sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật.

    V Đề 3: Trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" Nguyễn Minh Châu đã miêu tả những phản ứng của người đàn bà hàng chài. Trước những trận đòn man rợ của người chồng, người đàn bà ấy đã "không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy" . Nhưng khi thằng Phác, con trai chị xông đến đánh cha mình để bảo vệ cho mẹ để rồi nhận hai cái bạt tai ngã dúi xuống đất thì như "có một viên đạn đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, lảm rỏ xuống những dòng nước mắt".


    Phân tích hình ảnh người đàn bà trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về con người.

    * Phản ứng của người đàn bà hàng chài trước những trận đòn man rợ của người chồng: "không chống trả, không kêu lên một tiếng, không tìm cách trốn chạy" .

    - Tấn bi kịch gia đình mà người đàn bà phải gánh chịu

    - Thái độ cam chịu nhẫn nhục trước những trận đòn đã thành lệ, nhưng cũng không giấu nỗi cảm giác cay đắng. Cuộc sống đau khổ đã làm mất đi ở người đàn bà kể cả những phản xạ tối thiểu..

    * Phản ứng của người đàn bà hàng chài khi nhìn thấy thằng Phác đánh bố nó "như có một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những giọt nước mắt".

    - Tình thương con: Không thể che chắn, bảo vệ cho con, mang đến cho chúng một tuổi thơ êm đềm.

    - Nỗi day dứt, đau đớn: Bạo lực gia đình cứ tàn nhẫn ăn sâu vào tâm hồn con trẻ, đã làm lệch lạc những suy nghĩ, nhận thức đến hành động của một đứa trẻ.

    *Quan niệm nghệ thuật về con người:

    - Cái đẹp nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc đời

    - Nhà văn chân chính phải đi tìm "hạt ngọc ẩn giấu" trong tâm hồn con người, tìm hướng giải thoát cho con người khỏi những bi kịch.

    * Đánh giá

    - Nghệ thuật:

    + Xây dựng chi tiết đời thường mà độc đáo, mang ý nghĩa khám phá về đời sống.

    + Tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo.

    + Cách kể chuyện sinh động bộc lộ nhiều suy tư, chiêm nghiệm.

    - Nội dung: Thấy được những thông điệp giàu tính nhân văn mà Nguyễn Minh Châu gửi đến:

    +Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời

    +Cuộc chiến chống lại đói nghèo, lạc hậu, và bạo lực sẽ còn gian nan hơn cuộc chiến chống ngoại xâm. Chừng nào con người chưa thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, khi đó con người còn sống chung với cái ác, cái xấu.

    V Đề 4: Anh/ chị hãy phân tích những phát hiện về hiện thực đời sống của nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016), trong đó đặc biệt làm rõ tâm trạng và nhận thức của nhân vật Phùng mỗi khi nhìn thấy tấm ảnh ở đoạn kết thúc truyện.

    * Phân tích những phát hiện về hiện thực đời sống của nhân vật Phùng

    - Phát hiện về cảnh thiên nhiên "đắt trời cho" :

    Sau gần tuần lễ "phục kích" thực hiện nhiệm vụ được giao, Phùng đã tìm được một cảnh ưng ý. Trước mắt Phùng, thiên nhiên hiện ra với vẻđẹp toàn bích. Tâm hồn nghệ sĩ đã xuất hiện những rung cảm mãnh liệt tưởng như đã phát hiện ra chân lý của sự toàn thiện, toàn mỹ.

    => Ý nghĩa: Hiện thực đời sống tạo nên cái đẹp cho nghệ thuật, là đối

    Tượng của nghệ thuật.

    - Phát hiện về cảnh đời đen tối của gia đình hàng chài:

    Phùng chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo, người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng. Thằng Phác – đứa con trai vì muốn bảo vệmẹ đã lao vào đánh bố. Cảnh tượng này Phùng còn được chứng kiến thêm lần thứ hai. Chứng kiến nghịch cảnh bất công, ngang trái, Phùng cảm thấy kinh ngạc

    => Ý nghĩa: Hiện thực cuộc sống chứa đầy nghịch lí với những mảng sáng – tối, xấu – đẹp, thiện – ác.. cùng tồn tại. Con người cần có cái nhìn đa diện đa chiều để phát hiện ra sự thật cuộc đời đằng sau hình thức bề ngoài.

    - Phát hiện ở Tòa án huyện:

    Trước lòng tốt của Phùng và Đẩu, người đàn bà lại van xin không bỏ chồng và kể câu chuyện đời éo le, bi kịch của mình. Phùng cảm thấy căn phòng trở nên ngột ngạt vàvỡ lẽ thêm nhiều nhận thức về cuộc sống.

    => Ý nghĩa: Cái đẹp của hiện thực cuộc sống nhiều khi bị khuất lấp. Muốn giải quyết vấn đề của cuộc sống nhiều khi không chỉ dựa vào lòng tốt mà cần phải có những giải pháp thiết thực.

    - Tâm trạng và nhận thức của Phùng mỗi khi nhìn thấy tấm ảnh ở đoạn kết thúc truyện:

    + Tuy là ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của sương mai. Màu hồng này là biểu tượng cho chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời.

    + Nếu nhìn kĩ hơn sẽ thấy hình ảnh người đàn bà hàng chài. Đây là hiện thân cho những phận người khốn khó, cho thấy sự ám ảnh, trăn trở của Phùng về hiện thực cuộc đời vẫn còn nhiều lam lũ, khổ đau.

    => Ý nghĩa: Mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời. Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn bó với cuộc đời.

    - Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

    + Tình huống truyện nhận thức chứa đầy mâu thuẫn, nghịch lí

    + Sử dụng ngôi kể, xây dựng chi tiết nghệ thuật làm nổi bật suy nghĩ, nhận thức, tâm trạng nhân vật.

    * Nhận xét về giá trị hiện thực

    Qua tác phẩm cho thấy nỗi trăn trở của Nguyễn Minh Châu về hiện thực cuộc sống bi kịch, thân phận éo le, đầy những mất mát, nghịch lí của con người thời hậu chiến vẫn chưa có hồi kết.
     
  10. Galassia

    Bài viết:
    34
    Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Mở bài

    Lưu Quang Vũ là một tài năng xuất sắc của văn học nghệ thuật Việt Nam những năm 80 của thế kỉ XX với những thành công ở nhiều lĩnh vực đa dạng: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn kịch. Với khát vọng được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến, ông không chỉ trở thành hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường lúc bấy giờ mà còn là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Với những triết lí sâu sắc và có tính thời sự, ông đã cho ra đời những vở kịch gây chấn động dư luận. Nhưng có lẽ, đáng chú ý nhất trong số những sáng tác của Lưu Quang Vũ là vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" được viết năm 1981 dựa trên cốt truyện dân gian cùng tên, công diễn lần đầu vào 1984. Vở kịch gồm có 7 cảnh, đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" thuộc cảnh 7 và màn kết.. * (*có thể thay đổi tùy theo yêu cầu của đề bài).

    2. Khái quát chung

    Tình huống kịch của LQV bắt đầu từ chỗ kết thúc truyện dân gian: Sau khi hồn Trương Ba được sống hợp pháp trong xác hàng thịt, cuộc sống vay mượn trái tự nhiên "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo" đã làm phát sinh những mâu thuẫn giữa hồn và xác. Mâu thuẫn càng phát triển khi linh hồn thanh cao dần bị tha hóa trước sự đòi hỏi, lấn át của thân xác thô kệch – Trương Ba trở nên xa lạ với những người thân trong gia đình, với bạn bè và tự chán ghét, ghê sợ chính mình.

    3. Dẫn chứng

    4. NT – TT

    · NT

    - Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí.

    - Sự kết hợp diễn biến hành động bên ngoài và bên trong.

    - Ngôn ngữ giàu tính triết lí.

    · TT

    - Cuộc sống hạnh phúc có nghĩa là phải có sự kết hợp hài hòa giữa linh hồn và thể xác.

    - Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải là sống bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ kiểu sống nào.

    - Khát vọng vươn tới sự hoàn thiện về nhân cách.

    - Phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Ham muốn vật chất, nhấn mạnh đời sống tinh thần một cách cực đoan, sống giả dối, không dám là chính mình.

    5. Kết bài

    Thông qua cuộc đời và những bi kịch của nhân vật Trương Ba trong vở kịch, Lưu Quang Vũ đã đem đến cho người đọc, người xem những triết lý nhân sinh, những bài học thật sâu sắc. Trong đó quan trọng nhất là khẳng định sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện là thể xác và tâm hồn, đồng thời cũng cổ vũ, giáo dục con người phải luôn luôn đấu tranh để hoàn thiện nhân cách, phẩm giá của bản thân, không thể sống với lối sống trong ngoài bất nhất. Điều đó không chỉ làm bản thân đau khổ vì không được sống đúng với bản thân và còn gây nhiều đau khổ cho người khác nữa.

    6. Một số đề bài

    V Đề 1: Khi hồn Trương Ba kiên quyết đòi trả xác cho hàng thịt, Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, hồn Trương Ba đã trả lời: "Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!" . Suy nghĩ của anh/chị về sự lựa chọn trên của nhân vật Trương Ba.

    Đáp án:

    · Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Sự lựa chọn của nhân vật Trương Ba khi đứng trước tình huống: Chết hẳn hoặc tiếp tục sống trong thân xác người khác. (0, 5)

    · Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm và vấn đề cần nghị luận

    - Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của VHVN hiện đại.

    - Vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm khai thác chất liệu dân gian, có ý nghĩa sâu sắc khi đặt ra nhiều vấn đề về tư tưởng, lối sống của con người.

    - Câu nói của TB "Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!" xuất hiện trong cuộc thoại giữa Hồn TB và Đế Thích thể hiện sự lựa chọn dứt khoát của TB..

    · Tình huống của nhân vật Trương Ba

    - Là người làm vườn nhân hậu, trong sạch, thẳng thắn, hết lòng thương yêu vợ cơn, có tài đánh cờ nhưng bị chết oan.

    - Được trả lại sự sống nhưng đó là sống nhờ trong thân xác hàng thịt thô lỗ, phũ phàng khiến Trương Ba dần thay đổi: Hồn TB có một cuộc sống đáng hổ thẹn khi phải sống chung với phần thể xác dung tục và bị sự dung tục đồng hóa. Trương Ba kiên quyết từ chối thỏa hiệp với xác hàng thịt.

    · Sự lựa chọn của nhân vật Trương Ba

    - Trương Ba đã tranh luận gay gắt với hàng thịt, đối thoại với người vợ, với con dâu, với Đế Thích trong đau đớn trước khi đi đến lựa chọn cuối cùng.

    - Lời thoại của Trương Ba thể hiện lựa chọn: Chấp nhận chết hẳn, không trú ngụ trong thân xác của bất kì ai.

    · Bình luận

    - Sự lựa chọn đau đớn vì như vậy, Trương Ba không còn được sống nhưng đó là lựa chọn đúng, giúp Trương Ba tránh được bao rắc rối trong các mối quan hệ, nhất là giữ được phẩm cách đẹp đẽ vốn có và được là chính mình, trong sự hài hòa tự nhiện giữa thể xác và tâm hồn.

    - Sự lựa chọn của Trương Ba phản ánh vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của người lao động trong cuộc chiến chống lại nghịch cảnh.

    - Sự lựa chọn dứt khoát của TB thể hiện chiều sâu triết lí nhân sinh sâu sắc của vở kịch: Sự sống là quý giá nhưng có một điều còn quan trọng hơn cả sự sống là sống như thế nào cho có ý nghĩa.

    - Quyết định của Trương Ba được khắc họa bằng ngôn ngữ kịch giàu triết lí, chứa đựng chiều sâu nội tâm nhân vật.

    V Đề 2: Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt cùa Lưu Quang Vũ có đoạn:

    Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!

    Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!

    Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tỏi muốn được là tôi toàn vẹn

    Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đểu được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tòi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đấtt, còn chút hình thù gì của ông đâu!

    Hồn Trưong Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phái sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sổng, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!


    Phân tích khát vọng cùa nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề con người cần được sống là chính mình.

    Đáp án:

    · MB: Giới thiệu tác giả Lưu Quang Vũ: Là một trong những cây bút tài hoa để lại dấu ấn trong nhiều thể loại: Thơ, văn xuôi, đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật ViệtNam hiện đại.

    - Giới thiệu vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt:

    + Vở kịch được Lưu Quang Vũ viết vào năm 1981, được công diễn lần đầu vào năm 1984. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất đánh dấu sự vượt trội trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.

    - Giới thiệu đoạn trích: Thuộc cảnh 7, cũng là đoạn kết, lúc mâu thuẫn vở kịch lên đến đỉnh điểm. Đoạn trích ở đề là cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích, qua đó hồn Trương Ba bày tỏ quan điểm sống của mình.

    · TB.

    1. Tóm tắt nội dung vở kịch và đoạn trích:

    Trương Ba là một người làm vườn chăm chỉ, tốt bụng và chơi cờ rất giỏi. Vì sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu nên ông chết một cách đột ngột. Tiếc tài đánh cờ của Trương Ba và cũng để sửa sai, tiên cờ Đế Thích đã dùng phép cho Hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt để được tiếp tục sống. Mọi rắc rối và trớ trêu bắt đầu từ đây. Vì trú ngụ trong thân xác thô lỗ, kềnh càng của anh hàng thịt, hồn Trương Ba có nhiễm một số tất xấu và càng ngày càng bị xác hàng thịt lấn lướt. Trương Ba cũng dần dần trở nên xa lạ với người thân. Hồn Trương Ba vô cùng đau khổ, dằn vặt vì rơi vào nghịch cảnh trớ trêu. Cuối cùng, để bảo toàn sự trong sạch của mình, hồn Trương Ba quyết định trả lại thân xác anh hàng thịt, xin Đế Thích cho cu Tị sống lại, còn mình thì xin được chết hẳn, không nhập vào thân xác ai nữa. Đoạn trích nằm cuối vở kịch.

    2. Phân tích khát vọng của nhân vật hồn Trương Ba: Triển khai bài viết theo các ý sau đây:

    - Hồn Trương Ba muốn thoát khỏi thân xác của anh hàng thịt, thoát khỏi cảnh sống nhờ sống gửi hồn mình vào thân xác anh hàng thịt.

    - Hồn Trương Ba muốn được sống hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác, không muốn sống cảnh bên trong một đằng bên ngoài một nẻo.

    - Hồn Trương Ba muốn được sống là chính mình "Tôi muốn được là tôi toàn vẹn". Không chấp nhận cảnh sống giả tạo, vươn tới lối sống toàn vẹn tuyệt đối là mình.

    - Hồn Trương Ba muốn được chết hẳn để được sống là chính mình

    3. Đánh giá

    - Qua đoạn trích, chúng ta không chỉ hiểu rõ bi kịch sống nhờ, sống gửi đầy đau khổ, dằn vặt của Trương Ba mà còn thêm trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của ông- một con người luôn sống thanh cao, lành mạnh, luôn đấu tranh với nghịch cảnh để hướng tới cái Chân- Thiện- Mĩ trong cuộc sống. Hãy là chính mình..

    - Nghệ thuật tạo dựng tình huống kịch lôi cuốn, hấp dẫn, độc đáo; nghệ thuật dẫn dắt xung đột kịch tự nhiên, hấp dẫn, lời thoại sinh động linh hoạt, giàu chất triết lí.

    4. Bày tỏ quan niệm sống: Con người cần được sống là chính mình

    - Sống là chính mình

    + Sống với đúng bản chất, năng lực, phẩm chất của mình, thống nhất giữa suy nghĩ và hành động.

    + Sống với những gì mình có, không giả tạo, a dua học đòi người khác, không phụ thuộc, lệ thuộc người khác, không bị xui khiến chi phối bởi những nhu cầu bản năng.

    + Sống có bản lĩnh, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm với mọi việc trong cuộc đời.

    + Sống là chính mình giúp mỗi người phát huy hết mọi năng lực sáng tạo => mạnh mẽ, kiên cường đối chọi với những thử thách của cuộc sống.

    + Mỗi người biết sống là chính mình sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đó là động lực của những thay đổi hướng đến cuộc sống tốt đẹp, nhân văn hơn

    - Bài học:

    + Không dám sống là mình sẽ gây ra đau khổ tai họa cho mình và những người xung quanh; phê phán lối sống giả tạo, dựa dẫm vào người khác.

    + Phải hiểu đúng bản chất của khái niệm là chính mình là hướng tới những giá trị tốt đẹp của con người. Điều đó khác với sự ích kỉ, vụ lợi, vì cái cá nhân, bất chấp mọi luân thường đạo lý.

    + Sống là chính mình không có nghĩa là bất biến mà phải biết sửa mình để ngày một hoàn thiện hơn.

    V Đề 3: Phân tích tấn bi kịch của Hồn Trương Ba trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ, từ đó bình luận quan niệm nghệ thuật về con người mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm.

    Giải thích: Bi kịch là gì? Là trạng thái đau khổ về tinh thần khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể hóa giải, khi mong muốn khát vọng và thực tiễn hoàn toàn trái ngược.. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhân vật Trương Ba là người mang tấn bi kịch đó.

    Phân tích tấn bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba:

    Trương Ba có số phận bi kịch đáng thương:

    – Chịu cái chết oan uổng do sự tắc trách của quan trời: Trương Ba vốn là người làm vườn hiền lành, khỏe mạnh, chăm chỉ, yêu thương vợ con, sống có tâm hồn trong sạch. Nhưng do Nam Tào vội đi dự tiệc nên đã bắt chết nhầm.

    – Không được là chính mình: Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn: Phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại không được sống là mình trọn vẹn.

    1. Bi kịch bị tha hóa về nhân cách:

    – Trước kia: Trương Ba là người làm vườn chăm chỉ, khéo léo (qua lời của cái Gái, chị con dâu), luôn quan tâm tới vợ con, chăm sóc yêu chiều các cháu, hòa thuận, tốt bụng với xóm làng. Bởi vậy, trong mắt người thân, ông là người mẫu mực được yêu quý, kính trọng.

    – Bây giờ: Từ khi sống trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm phu. Xác thịt âm u, đui mù nhưng vẫn có tiếng nói riêng, sức mạnh riêng. Lin hồnnhân hậu, trong sạch, ngay thẳng của Trương Ba vì phải sống mượn, gá lắp, tạm bợ, lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt mà trái lại còn bị cái xác ấy nó điều khiển. Đáng sợ hơn, hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể.

    – Trương Ba cảm nhận được sự thay đổi của chính mình dù không muốn thừa nhận: "Không! Ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn..". Ông cố bấu víu vào các trò chơi tâm hồn đổ lỗi cho xác: "Đấy là mày đấy chứ, chân tay mày, hơi thở mày." Nhưng rồi Trương Ba cũng không thể phủ nhận được một sự thật đau đớn là ông đang dần đánh mất mình: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta."

    2. Bi kịch bị người thân xa lánh, hắt hủi

    – Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Cái Gái không thừa nhận ông, xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, sấu sắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị cũng không đừng nói lên sự thật đau đớn: "Thầy bảo con cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy.. mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa.."

    – Tâm trạng của Trương Ba vô cùng đau khổ và tuyệt vọng vì bị gia đình- nơi cuối cùng có thể tìm thấy sự yêu thương và cảm thông- từ chối.

    3. Bi kịch bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo:

    – Bên trong: Thẳm sâu trong tâm hồn Trương Ba luôn có những nhu cầu tinh thần thanh cao, muốn giữ gìn danh dự, muốn sống có đạo đức và trách nhiệm, sống thanh thản trong những nguồn vui giản dị. Trong xác anh hàng thịt, Trương Ba vẫn ngày ngày chăm sóc cây, yêu thương con cháu, luôn muốn là bản thân mình trọn vẹn.

    – Bên ngoài: Tuy nhiên, do bị trói buộc bởi một xác hàng thịt, nên hồn Trương Ba giờ đây là gắn với nhu cầu của thể xác phàm tục như thèm ăn thịt, muốn thỏa mãn những dục vọng tầm thường, Trương Ba trở thành một người vụng về, thô lỗ bị mọi người xa lánh.

    – Mối quan hệ: Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính chất độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác dộng vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn bay đi thì thể xác cũng trở về với cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng. Bởi vậy, sự khác biệt giữa linh hồn và thể xác sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Trong những cuộc đối thoại Trương Ba không chỉ phải đấu tránh với thể xác hàng thịt âm u, đui mù mà còn phải đấu tranh với quan Trời: Đế Thích. Cuối cùng, Trương Ba đã phải tìm đến cái chết, mắc dù lòng khát khao được sống rất mãnh liệt. Những dằn vặt đau đớn của Trương Ba và cuối cùng quyết định chọn lấy cái chết để giữ gìn những giá trị tốt đẹp của Hồn Trương Ba khiến người đọc không khỏi xót xa, thương cảm.

    * Quan niệm nghệ thuật về con người mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm. Con người dù sống trong hoàn cảnh bi đát thế nào cũng luôn đấu tranh để loại trừ cái xấu, để gìn giữ nhân cách cao đẹp: Trương Ba quyết định chết và trả lại xác cho anh Hàng Thịt để mình luôn được sống trong lòng của những người thân yêu với những ấn tượng tốt đẹp.

    => Con người luôn cố gắng vượt lên, giữ phẩm giá, hoàn thiện nhân cách – Giá trị nhân văn cao đẹp.

    V Đề 4:


    "Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là tôi toàn vẹn.

    Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!

    Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ vào anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!

    Đế Thích :(không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?

    Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, (chỉ vào người mình) thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này.

    Đế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt?

    Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn.. còn chị vợ anh ta nữa.. chị ta thật đáng thương!"

    So sánh quan điểm sống của Trương a và Đế Thích trong đoạn trích trên. Từ đó, anh/chị hãy bình luận ngắn gọn về tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.

    * So sánh quan điểm của hai nhân vật qua đoạn trích.

    – Quan điểm của Trương Ba :(1, 0 điểm)

    + Không chấp nhận lối sống: Bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Đó là lối sống giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho chính mình. Điều đó chứng tỏ Trương Ba đã dũng cảm đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống không phải là mình, chiến thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân, không chịu lùi bước trước xác hàng thịt.

    + Khát vọng được sống là mình: Trọn vẹn cả linh hồn và thể xác. Đó mới thực sự là sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho mọi người.

    + Phê phán Đế Thích nghĩ đơn giản, sống quan liêu hời hợt: Chỉ cần cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết. Đối với Trương Ba, sống không được là mình mà phải nhờ vả, mượn thân xác người khác chẳng qua là sự tồn tại, vô hồn, không ý nghĩa.

    + Dám từ bỏ những thứ không phải của mình để trả lại sự sống cho anh hàng thịt. Trương Ba không chỉ cao thượng mà rất nhân hậu vị tha.

    => Quan điểm của Trương Ba không chấp nhận cuộc sống giả tạo, gượng ép, chắp vá, vô nghĩa. Khao khát sống là chính mình trọn vẹn thể xác và linh hồn. Đó là lối sống đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người hiểu rõ mục đích ý nghĩa của cuộc sống.

    – Quan điểm của Đế Thích :(1, 0 điểm)

    + Không ai được sống là mình, trên trời dưới đất đều sống kiểu bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo: Tôi, ông và cả Ngọc hoàng thượng đế tối cao cũng vậy. Đó là sự thật phải chấp nhận không nên thay đổi, phủ nhận.

    + Chỉ cần thể xác được sống lại cho linh hồn trú ngụ còn thể xác và linh hồn không thống nhất không quan trọng.. Vậy quan điểm của Đế Thích không coi trọng sự sống thực sự mà chỉ coi trọng sự tồn tại. Đó là quan điểm của vị tiên trên trời quan liêu hời hợt, vô cảm.

    + Đế Thích cho rằng sống chắp vá, sống gượng ép: Bên trong một đằng bên ngoài một nẻo không nguy hại gì cho ai. Vì vậy hãy cố gắng chập nhận và sống chung với hoàn cảnh đó: Không nên đổi tâm hồn đáng quý của bác cho tâm hồn tầm thường của anh hàng thịt.

    *Nhận xét hai quan điểm sống :(0, 5)

    + Trương Ba đúng đắn, tích cực, coi trọng sự sống thực sự là mình còn Đế Thích sai lầm, quan liêu chỉ coi trọng sự tồn tại còn sống được là mình không cần quan tâm.

    + Quan điểm của Trương Ba thể hiện tư tưởng chủ đề của vở kịch và cũng là thông điệp của nhà văn đến mọi người: Hãy sống là mình, trọn vẹn thống nhất thể xác và linh hồn. Nếu không chỉ là sự tồn tại vô nghĩa, tạo cơ hội cho kẻ xấu lợi dụng, cái ác hoành hành.

    + Nhà văn phê phán lối sống giả tạo, lối sống hời hợt, chắp vá, gượng ép hoặc quá đề cao nhu cầu vật chất hơn tinh thần, tinh thần hơn vật chất đang diễn ra phổ biến, trở thành trào lưu đáng báo động trong xã hội.

    * Bình luận tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo :(0, 5 điểm)

    – Đối với bản thân người có lối sống đó: Dần dần sẽ bị tha hóa, ích kỉ, thực dụng, giả dối, suy thoái nhân cách, đánh mất danh dự, lòng tự trọng: Tham nhũng, hối lộ, gây ra những tệ nạn xã hội. Bị mọi người coi thường xa lánh.

    – Đối với cộng đồng: Mất đoàn kết, hiểu lầm, mâu thuẫn, tranh giành, hãm hại nhau, kìm hãm sự phát triển.

    – Bài học: Sống yêu thương nhân hậu vị tha, mạnh dạn dũng cảm đấu tranh với biểu hiện tiêu cực, giả dối, bảo vệ người tốt lẽ phải.

    *Đánh giá chung :(0.25 điểm).

    – Nghệ thuật: Ngôn ngữ kịch giản dị, có sức khái quát cao, thể hiện rõ xung đột kịch và tích cách nhân vật.

    – Tính chất triết lí từ hai nhân vật có quan điểm sống trái ngược nhau làm nên thành công của vở.

    V Đề 5: Phân tích đoạn kết tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt.

    Đáp án:

    Thân bài:

    - Giới thiệu tình huống kịch: Trương Ba là người nhân hậu, thanh cao, khoáng hoạt phải trú nhờ trong xác hàng thịt dung tục, thô lỗ → rơi vào bi kịch → quyết định trả xác để được "là tôi toàn vẹn"

    - Mô tả lại đoạn kết:

    · Kết thúc vở kịch, Trương Ba Chết, nhưng hồn ông vẫn còn đó "giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện", và ông đã nói với vợ mình những lời tâm huyết, hàm chứa ý nghĩa "Tôi đây bà ạ. Tôi ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta.. Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu..".

    · Cu Tị sống lại và đang cùng ngồi với cái Gái trong khu vườn. Cái Gái "Lấy hạt na vùi xuống đất.." cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo thế. Những cây sẽ nối nhau mà khôn lớn. Mãi mãi.. "

    - Ý nghĩa:

    · Những lời nói của Trương Ba, phải chăng đó là sự bất tử của linh hồn trong sự sống, trong lòng người. Điều đó tô đậm thêm nhân cách cao thượng của Trương Ba và khắc sâu thêm tư tưởng nhân văn của tác phẩm.

    · Hình ảnh cái Gái ăn quả Na rồi vùi hạt xuống đất:

    - Biểu tượng cho sự tiếp nối những truyền thống tốt đẹp (" Ông nội tớ bảo vậy ") là tâm hồn là nhân cách Trương Ba. Biểu tượng cho sự sống bất diệt của những giá trị tinh thần mang tính nhân văn cao đẹp (" mãi mãi "). Khẳng định niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện và cái đẹp.

    - Ý nghĩa của sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà chính là sự hiện diện của người đã khuất trong tâm tưởng, nỗi nhớ, tình yêu của những người còn sống. Vẻ đẹp tâm hồn sẽ trường tồn dài lâu, bất tử so với sự tồn tại của thể xác

    - Có thể nói, đây là một đoạn kết giàu chất thơ với ngôn từ tha thiết, thấm đẫm tình cảm và có dư ba bởi những hình ảnh tượng trưng về sự sống nảy nở (" vườn cây rung rinh ánh sáng, hai đứa trẻ cùng ăn quả na rồi gieo hạt na xuống đất cho nó mọc thành cây mới). Đó là khúc ca trữ tình ca ngợi sự sống, ca ngợi những giá trị nhân văn mà con người luôn phải vươn tới và gìn giữ.

    - Tác giả gửi gắm thông điệp về cuộc sống: Sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...