2.2. 1. Lượng rác thải nhựa ở Việt Nam
2.2. 1.1. Trên đất liền
Việt Nam đứng thứ 17 trong 109 nước có mức rác thải nhựa lớn nhất thế giới. Có thể nói, đây là một vị trí tương đối cao.
Cụ thể hơn, Bộ tài nguyên & Môi trường cho biết mỗi năm Việt Nam thải ra 1, 8 triệu tấn rác thải nhựa. Riêng Hà Nội và Hồ Chí Minh, trung bình mỗi ngày thải ra môi trường 80 tấn rác thải nhựa, và chỉ 27% trong số đó được tái chế lại.
Trong khi đó, lượng tiêu thụ nhựa tính trên đầu người ở Việt Nam tăng mạnh từ 3, 8 kg/người/năm lên 41, 3 kg/người/năm trong giai đoạn 1990 – 2018 (Theo báo cáo của Hiệp hội nhựa Việt Nam). Điều này cho thấy người Việt vẫn chưa có ý thức hạn chế rác thải nhựa, mà nhu cầu sử dụng đồ nhựa ngày càng tăng.
Rác thải nhựa ở Việt Nam đa phần đều bị thải trực tiếp cùng nhiều loại chất thải khác mà không được phân loại. Điều này càng gây khó khăn cho công tác phân loại, xử lý tái chế và giảm rác thải nhựa.
2.2. 1.2. Trên biển
Việt Nam đang đứng thứ 4 trên thế giới về lượng rác thải nhựa đổ ra biển với 0, 28 – 0, 73 triệu tấn mỗi năm (chiếm khoảng 6%).
Trong số lượng rác thải nhựa trên biển có 80% được bắt nguồn từ các hoạt động trên đất liền, 112 cửa biển của nước ta hiện chính là nơi diễn ra quá trình vận chuyển rác thải nhựa ra đại dương.
Hình 1. Thống kê 12 quốc gia xả rác nhựa nhiều nhất ra biển, theo báo VIFA (được trích dẫn từ The Wall Street Journal, năm 2010)
2.2. 2. Thực trạng xử lý rác thải nhựa ở Việt Nam
Các phương pháp chủ yếu đang được dùng để xử lý rác thải nhựa ở nước ta phải kể đến:
- Chôn lấp: Mỗi năm Việt Nam có 25, 5 triệu tấn rác thải sinh hoạt thì 75% được đem đi chôn lấp. Nhưng chôn lấp làm ảnh hưởng đến diện tích đất, và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường đất, làm ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước ngầm, v. V.
- Đốt rác thải nhựa: Đốt rác thải nhựa giúp giải quyết vấn đề về quỹ đất hạn hẹp, nhưng lại làm sản sinh ra chất dioxin (chất da cam) gây biến đổi gen, mang đến nhiều nguy hiểm cho con người và sinh vật.
- Tái chế rác thải nhựa: Việc tái chế tại nước ta chưa được thực hiện ở quy mô lớn mà vẫn còn nhỏ lẻ. Công nghệ tái chế hiệu quả thấp, chi phí cao.. nên chưa mang lại khả năng xử lý cao. Bên cạnh đó, tỷ lệ rác thải nhựa được phân loại từ nguồn là rất thấp cũng gây thêm nhiều khó khăn cho việc phân loại và tái chế.
Dưới đây là một đoạn trích dẫn trong BÁO CÁO HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA NĂM 2017 - CHUYÊN ĐỀ: QUẢN LÝ CHẤT THẢI
[1] của Bộ Tài nguyên và Môi trường về tình trạng sử dụng túi nylon ở Việt Nam.
"Thực trạng sử dụng túi nylon ở nước ta:
Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ TN&MT, mỗi hộ gia đình thường sử dụng 5 - 7 túi nylon/một ngày bao gồm cả túi to, túi nhỏ và những túi siêu nhỏ.. Chỉ riêng 2 thành phố lớn là Hà Nội và Tp. HCM, trung bình một ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi nylon. Mỗi ngày Hà Nội thải ra từ 4.000 đến 5.000 tấn rác, trong đó rác thải nylon chiếm đến 7 - 8%. Còn Tp. HCM mỗi ngày thải ra khoảng 7.000 tấn rác, trong đó, rác thải ni lông chiếm khoảng 10% tổng lượng rác thải.
Việc xử lý rác thải nylon hết sức phức tạp, ở điều kiện tự nhiên túi nylon phải mất 200 đến 500 năm mới phân hủy. Rác thải nylon nếu chôn lấp sẽ gây ô nhiễm môi trường đất và nước, gây cản trở sự sinh trưởng và phát triển các loại thực vật. Nếu đốt rác thải nylon sẽ tạo ra khí thải có chất độc dioxin và furan gây ngộ độc, ảnh hưởng đến tuyến nội tiết, giảm khả năng miễn dịch, rối loạn chức năng tiêu hóa và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ.. Nguy hiểm nhất túi nylon có thể gây ung thư khi mà những chất phụ gia dùng để tạo độ dẻo dai, tạo màu cho túi nylon có thể gây độc cho người nếu bị làm nóng ở nhiệt độ cao. Ở nhiệt độ 70 - 800C phụ gia dùng sản xuất túi nylon sẽ hòa tan vào thực phẩm. Nếu sử dụng túi nylon để đựng các thực phẩm có tính chua như dưa muối, cà muối, thực phẩm nóng các phụ gia sẽ tách khỏi thành phần nhựa và đi vào thực phẩm gây nhiễm độc."
Chú thích: [1] Bộ Tài nguyên và Môi trường (12/2017)
BÁO CÁO HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA NĂM 2017 - CHUYÊN ĐỀ: QUẢN LÝ CHẤT THẢI, tr. 36