Trống đồng Ngọc Lũ 1 có đường kính 79cm, cao 63cm, do dân làng Ngọc Lũ (Bình Lục, Hà Nam) đào được ở độ sâu 2m vào khoảng 1893 - 1894.
Năm 1902, trống được đem về nhà Bác Cổ Viễn Đông ở Hà Nội, nay là Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Đây là một trong những trống đồng Đông Sơn lớn và nguyên vẹn nhất từng được khai quật, được coi là một kiệt tác của nền văn minh Việt cổ.
MẤY Ý KIẾN VỀ TRỐNG ĐỒNG VÀ TÂM THỨC VIỆT CỔ
GS. Trần Quốc Vượng
Nguồn
Web vanhoahoc
Còn tiếp
Năm 1902, trống được đem về nhà Bác Cổ Viễn Đông ở Hà Nội, nay là Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Đây là một trong những trống đồng Đông Sơn lớn và nguyên vẹn nhất từng được khai quật, được coi là một kiệt tác của nền văn minh Việt cổ.

MẤY Ý KIẾN VỀ TRỐNG ĐỒNG VÀ TÂM THỨC VIỆT CỔ
GS. Trần Quốc Vượng
Trống đồng không phải của riêng người Việt Nam, càng không phải của riêng người Trung Quốc.
Có cả khu vực văn hóa trống đồng. Trên đại thể là khu vực Đông Nam Á, theo nghĩa rộng (không phải chỉ theo ý nghĩa chính trị - nhà nước, như hiện nay thường hiểu) :
Đó là khu vực chân núi hệ thống Himalaya, khu nóng, ẩm, gió mùa, mưa nhiều, nhiệt độ và ánh sáng đều lớn, đất đai thích hợp rất nhiều loại thực vật sinh trưởng và phát triển: Đặc biệt, đó là khu vực nghề nông trồng lúa nước[1] .
Nếu dựng bản đồ phân bố trống đồng đến giờ được biết, dễ thấy trừ những hiện tượng lẻ tẻ ở ngoại biên (như Mông Cổ), trung tâm phân bố trống đồng là miền Đông và Bắc bán đảo Đông Dương, gồm Bắc Việt Nam (từ Nghệ Tĩnh trở ra), Tây Nam Quảng Đông, Nam Quảng Tây, Tây Nam Vân Nam, Bắc Lào.
Từ đó "sóng trống đồng" lan tỏa dần và nhẹ dần - xuống miền Nam Đông Dương (Thái Lan, Miến Điện) và lên miền Bắc Hoa Nam (Nam Hồ Nam, Nam Tứ Xuyên).
Về cái nhìn lịch sử, nếu đừng thành kiến, sô vanh dân tộc, ta phải nhận rằng khu vực văn hóa trống đồng vốn là khu vực văn hóa phi Hoa phi Ấn.
Hẵng gọi phiếm xưng như người xưa, đó là khu vực văn hóa Việt tộc, tuy phải nói ngay nó không bao hàm hết phạm vi phân bố các tộc Bách Việt (như Câu (U) Việt ở Nam Giang Tô, Bắc Chiết Giang, Đông Mân Việt ở Nam Chiết Giang, Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây).
Không loại trừ khu vực phân bố các tộc phi Hoa khác, như người Bộc, người Di[2] . Tính đa dạng của nhân chủng và văn hóa khu vực Đông Nam Á ló rạng từ thời tiền sử.
Trống đồng không phải sáng tạo của người Hoa - Hán, điều đó thành định luật.
Chuyện Mã Viện hay Gia Cát Lượng sáng tạo trống đồng, từ lâu đã rõ đó là truyền thuyết giả (fakelore, không phải folklore) của một số học giả Tàu, tuy lắm chữ nghĩa song đầy ý vị sô vanh đại dân tộc và kỳ thị dân tộc.
Về thời gian, trống đồng xuất hiện giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, trước khi những Đế chế Tần, Hán bành trướng xuống Nam Hoa Nam và chinh phục các cộng đồng người phi Hoa ở toàn khu vực này.
Công cuộc bành trướng và chinh phục Trung Hoa, nhiều nền văn hóa bản địa, phi Hoa ở Hoa Nam nay bị diệt, nhiều nền văn hóa phi Hoa bị giải thể cấu trúc.
Đó là hậu quả bi thảm đường lối thực dân văn hóa của tầng lớp thống trị người Hán.
Trống đồng, biểu tượng hoành tráng của văn hóa phi Hoa, chịu chung số phận. Mã Viện phá huỷ trống đồng lấy đồng đúc tượng ngựa.
"Con thú quý tộc" này (noble animal, như người Tây phương thường gọi), sau khi thuần dưỡng, góp phần gây phân hóa xã hội lớn nơi các tộc người chăn nuôi phương Bắc và phương Tây, thành biểu trưng "quyền lực", của "kỵ sĩ", "thủ lĩnh", "ông chủ", "quý tộc", "chủ nô" và "lãnh chúa" ngày sau.
Nó len lỏi vào văn hóa các dân tộc phi Hoa, chèn lấn hòng diệt các biểu tượng văn hóa phi Hoa.
Từ Mã Viện đời Hán, Gia Cát Lượng đời Tam Quốc, Âu Dương Nguỷ (hay Ngỗi) đời Lục Triều đến Lưu Hiểu đời Minh.. bè lũ thống trị Hán tộc ra sức thu phá trống đồng, đánh phá tâm lý - văn hóa phi Hoa ở những vùng chúng kiểm soát, đóng chiếm và di hộ[3] .
Các cộng đồng tộc người phi Hoa lấy "nhu nhược thắng cương cường", từ việc đúc và dùng trống đồng cổ, lại đúc và tiếp tục dùng trống đồng mới, đến việc thờ cúng trống đồng, chôn cất trống đồng, vẫn ra sức giữ gìn "bầu trời văn hóa" phi Hoa của mình.
Biết bao hiện tượng lịch sử - văn hóa khác, nền văn hóa trống đồng qua đi, tàn lụi dần, nhưng những sở đắc văn hóa trống đồng vẫn còn.
Những sở đắc, những thành tựu văn hóa đó vẫn lưu giữ nơi tâm thức người Việt phương Nam.
Ở Trung Hoa hiện tại, nó vẫn là sắc thái văn hóa, góp phần tạo nét riêng biệt, độc đáo, của con người và văn hóa Hoa Nam so con người và văn hóa Hoa Bắc, của miền "Giang Nam" so với miền "Trung Nguyên Hoa Hạ."
Trên đất Việt Nam nay, nó vẫn là thành phần hữu cơ của văn hóa Việt Nam, truyền thống văn hóa Việt Nam[4] cổ xưa nhất và đẹp nhất, ngày càng tăng tiến về số lượng và kiểu dáng, hoa văn..
Vả lại, những trống đồng cổ xưa vẻ đẹp nhất đó - những trống đồng loại 1 Heger trên mảnh đất "nghìn xưa văn hiến" này không phải hiện tượng đơn lập, do đó có thể là ngẫu nhĩ, ngoại sinh, thực tế khảo cổ học Việt Nam từ những năm 20, 30 trở lại đây cho biết:
Những hiện tượng liên lập, những thành phần hữu cơ, nội sinh của nền Văn hóa Đông Sơn nổi tiếng của Việt Nam và Đông Nam Á, của văn minh Sông Hồng, của kỷ nguyên bắt đầu dựng nước giữ nước, Văn Lang, Âu Lạc, của thời đại các Vua Hùng..
Không ai phủ nhận dù ai đó có ý "gây nhiễu" bằng những thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ - ghi chép về thư tịch xưa nhất về trống đồng - đoạn ghi chép của Hậu Hán thư - Mã Viện truyện bộc lộ rõ sự thực:
"Trống đồng Lạc Việt ở đất Giao Chỉ[5] ."
Như thế:
- Trống đồng xưa nhất, về khảo cổ, gắn Văn hóa Đông Sơn. Hoàn toàn hợp lý, khi gọi chúng là TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
- Trống đồng xưa nhất, về cổ sử, gần với Lạc Việt. Hoàn toàn hợp lý khi gọi TRỐNG ĐỒNG LẠC VIỆT.
ĐÔNG SƠN - LẠC VIỆT - GIAO CHỈ đều là những hữu thể Việt Nam cổ.
Từ trống đồng xưa cổ có thể đúc rút ra triết lý Việt cổ, có thể chất lọc ra tư duy trống đồng, tư duy Việt cổ.
Về phương pháp luận sẽ hoàn toàn hợp lý, khi qua trống đồng, có thể tìm biết tâm thức Việt cổ (hay tâm thức người Nguyên Việt, Proto-Viets).
Ngắm các hoa văn trên những trống đồng lớn Đông Sơn - và những hiện vật Đông Sơn khác có lúc những nhà khảo cổ học và cổ sử học chúng ta cũng nói theo L. Finot, H. Parmentier và V. Goloubew rằng một số đồ án hoa văn ấy mang ý nghĩa Tô-tem giáo[6] .
Ai nấy đều mặc nhiên thừa nhận người Việt cổ theo tôn giáo Tô-tem (Totemisme), vấn đề chỉ còn là bàn xem Tô-tem của họ là con gì:
Chim, Rắn, Rồng, Rùa, Voi, Trâu, Bò.. hay cây gì: Cau, Dừa, Dâu.. hoặc là cả phức thể của những loại cây, con đó.
Giờ nhiều người nghĩ khác về nhận thức luận lẫn phương pháp luận.
Có thật ở thời nguyên thuỷ có thứ "tôn giáo" mệnh danh "Tô-tem giáo" (Totemisme) không? Hay là ngộ nhận, cả tên Tôtem lẫn hình thức tư duy cổ xưa được gọi Tôtem giáo (hay Đạo Vật Tổ) ?
Nhà dân tộc học Pháp Claude Lévi Strauss khảo sát lại toàn bộ vấn đề này[7] . Và kết luận:
"Vật Tổ chỉ là ảo tưởng phát sinh trước hết từ hiểu sai ý nghĩa vài hiện tượng dân tộc học, ngay ý niệm vật Tổ cũng là ảo tưởng, đừng nói tính cách thống nhất của thuyết ấy."
Theo ông, chỉ cần soát lại những trường hợp điển hình cụ thể, trước hết là trường hợp tộc người Ojibwa - người da đỏ ở miền Bắc Hồ Lớn ở Bắc Mỹ.
Nơi từ đó phát xuất danh từ vật Tổ Tôtem, cũng là nguồn gốc sinh mọi thắc mắc, mọi bàn cãi về "vật Tổ".
Đủ thấy khái niệm Tôtem giáo sinh ra do cắt xén thực tại vụng về của vài nhà dân tộc học phương Tây, hậu quả của lề thói tinh thần sinh hệ thống của họ.
Từ phương ngữ người da đỏ - ngôn ngữ bộ lạc Ojibwa - danh từ Tôtem tung ra không chính xác, không được chọn và xác định kĩ.
Về nội dung, người tung ra tên này (J. K. Long) lẫn lộn cách gọi tên thị tộc (tên con vật ứng với thị tộc) với những tín ngưỡng liên quan các thần hộ mệnh cho cá nhân người Ojibwa.
Ở Tikopia - hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Polynésie, nơi W. H. R. Rivers cho là có bằng chứng rõ rệt nhất về "Đạo Vật Tổ", nơi có 4 thị tộc phụ hệ không theo chế độ ngoại hôn một cách tuyệt đối.
Người ta thấy tính cách cực kỳ phức tạp và không đồng nhất những tín ngưỡng và tập tục bị gán vội cho nhãn hiệu "Đạo Vật Tổ."
Ở đây, động vật không được coi là biểu tượng Tổ tiên hay con của thổ dân. Một số động vật được thờ kính vì những lý do khác.
Bốn thị tộc người Tikopia thờ bốn thần liên quan đến bốn loại thực vật ăn được, họ chỉ kiêng ăn một số động vật, không kiêng ăn thực vật.
Quan hệ giữa thần và động vật là có thực và riêng cho từng con vật. Quan hệ thần và thực vật chỉ tượng trưng và chung cho cả loài.
Theo Claude Lévi Strauss và nhiều người, cái gọi là Tôtem giáo - Đạo Vật Tổ - bao hàm những tương quan ý niệm giữa TỰ NHIÊN và VĂN HOÁ. Cần phân biệt hai hiện tượng dân tộc khác nhau:
1. Vấn đề dùng tên cầm thú hay thảo mộc để đặt tên thị tộc.
2. Vấn đề đồng hóa con người với cầm thú thảo mộc, bắt nguồn từ những quan niệm rất tổng quát tương quan giữa con người và thiên nhiên của các tộc người cổ xưa sống gần thiên nhiên.
Quan niệm này ảnh hưởng đến ma thuật (như tục "khảo cây" của người Việt duy trì tới trước Cách mạng tháng Tám, tục treo các biểu tượng dương vật, âm vật - nõ nường - trên các giàn bầu bí, tục thờ cây, thờ hổ, thờ rắn.. đến nghệ thuật, tôn giáo, xã hội mỗi tộc người).
Khuynh hướng từ đầu lịch sử của tâm thức con người là phân loại (tư duy phân tích phân loại) và hệ thống hóa (tư duy hệ thống, tổng hợp) vũ trụ.
Động vật hay thực vật dùng đặt tên cho thị tộc (như tộc chim Bling - Blang (chim ăn thịt), tộc Trâu, tộc Rắn, tộc Hươu, tộc Dâu.. của người Việt cổ, tộc Cau, tộc Dừa.. của người Chàm cổ) vì chúng cung cấp phương pháp tư duy.
Người xưa, tương quan giữa TỰ NHIÊN và VĂN HOÁ, giữa nhân giới và nhiên giới, là những tương quan ý niệm, không phải là những tương quan nghiệm sống.
Lập những tương quan này, người xưa nhằm mục đích lý thuyết hơn là thực tiễn. Tương quan giữa người và vật - hiểu sai là "vật Tổ" là quan hệ ẩn dụ và gián tiếp, không phải quan hệ tiếp cận, trực tiếp.
Người ngày nay thường lý luận bằng khái niệm, danh lý.
Người cổ xưa lý luận kết hợp những tương quan tư tưởng. Nói tôi là chim, là hươu, là sơn dương.. tức là nói tôi ở trên cao, ở vùng cao. Nói tôi là cá, là rắn nước, tức là nói tôi ở dưới thấp, vùng nước..
Đây là những hệ thống phân loại, không thể, không nên tìm cái gọi tương quan vật Tổ trong bản chất "vật Tổ", mà phải qua những liên tưởng mà "vật Tổ" khả dĩ gợi ra trong đầu óc con người.
Theo Claude Lévi Strauss, cái gọi "Đạo Vật Tổ" là lối tư tưởng trong nhiều lối tư tưởng. Lối tư tưởng "vật Tổ" này có tình cảm xen vào, nhưng không quan trọng và mục đích là bổ sung cho hệ tư tưởng vốn "cởi mở."
Cái gọi "Đạo Vật Tổ", ta thường thấy giống nhau, khác nhau giữa các loài vật được tả bằng những danh từ "yêu, ghét, liên kết, chống đối."
Vạn vật quan niệm theo với những tương quan trong xã hội loài người khi lý giải "Đạo Vật Tổ", các học giả Xô Viết, Giáo sư Tô-ca-rép cũng kết luận như vậy[8] .
Người xưa phải chia loài vật thành từng đôi đối ứng nhau, nhờ danh pháp (nomenclature) đặc biệt, gồm những danh từ động vật và thực vật (đặc tính duy nhất của Đạo Vật tổ), người xưa có thể tả thỏa đáng bằng luật tắc đặc biệt những dị đồng này.
Lối tư tưởng bằng đối ứng không lạ thường, là "tôn giáo" cả, nó chỉ là trường hợp liên tưởng bằng đối ứng, vốn là đặc tính phổ quát tư duy con người.
Do đó, ta phân biệt cao/thấp, mạnh/yếu, đen/trắng, đêm/ngày, nóng/lạnh, đông/hè, đực/cái..
Hệ thống hơn, tổng quát hơn, người Trung Hoa và người Việt cổ quy kết vào hai nguyên lý ÂM/DƯƠNG.
Mọi mâu thuẫn đối nghịch này bao hàm trong TOÀN THỂ, cái MỘT, hay như các nhà tư tưởng Trung Hoa gọi là Thái Cực, là Đạo v. V.. ( "nhất Âm nhất Dương chi vi Đạo", Lão Tử, Đạo Đức kinh).
Hệ tư tưởng vật Tổ chỉ là giải quyết đặc biệt vấn đề tổng quát:
Làm sao cố vượt mâu thuẫn để đi đến tổng hợp.
Điều này chứng tỏ "vật Tổ" không phải là những con vật đáng kính, đáng sợ, đáng ăn hay kiêng ăn vì chúng chỉ truyền tải ý tưởng người xưa khi quan sát vũ trụ.
Theo Claude Lévi Strauss, vật Tổ được chọn không phải vì "ăn ngon" (bonnes à manger) mà vì "dễ tư tưởng" (bonnes à penser).
Tóm lại, "Đạo Vật Tổ" là hệ thống luận lý, dùng nhiên giới để tả những tư tưởng cho những cộng đồng tộc người cổ xưa gần gũi tiếp xúc thiên nhiên vạn vật, khác lối tư duy những nhà tư tưởng "bàn giấy" ngày sau[9] .
Bài "Vài duy nghĩ tản mạn về trống đồng", tôi vạch cách tập trung quan niệm lưỡng phân và lưỡng hợp trong tâm thức Việt cổ, ở đây không nhắc lại.
Chỉ nói thêm, nếu trước kia tôi chủ trương tồn tại của Đạo Vật Tổ trong tâm thức người Việt cổ thời Đông Sơn, với bài đó, tôi chỉ coi hình ảnh Chim, Gà, Hươu, Rùa, Rắn.. như những biểu tượng để diễn đạt quan niệm lưỡng phân - lưỡng hợp trong tư duy Việt cổ.
Có nghĩa bằng những sự kiện thực tế khảo cổ học, dân tộc học và cổ sử học Việt Nam, tôi đi tới quan niệm về tư duy người xưa giống Claude Lévi Strauss đã làm khi khảo sát toàn diện về "Đạo Vật Tổ."
Tôi thấy khảo cổ học và cổ sử học Việt Nam cần thanh toán dứt khoát với truyền thống tư tưởng phương Tây về tồn tại của "Tô-tem giáo" trong tâm thức Việt cổ.
Tôi cho rằng dân tộc Việt Nam cần nghiêm chỉnh soát lại cái gọi tàn dư Đạo Vật Tổ nơi tộc người Khơ Mú ở Tây Bắc Việt Nam mà gần đây luận án PTS về văn hóa dân gian còn nhắc đi nhắc lại[10] .
Tôi thấy cần nhấn mạnh cặp danh lý Sơn Tinh, Thuỷ Tinh cũng như tín ngưỡng thờ Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú) và tín ngưỡng thờ vua Thục ở đền Thượng Cổ Loa (Hà Nội) hay đền Cuông ở Diễn Châu (Nghệ Tĩnh) đều nhuốm màu sắc Đạo giáo.
Đều là "Đạo giáo hóa", "Lịch sử hóa" và "Thời sự hóa" những khía cạnh khác nhau của tâm thức Việt cổ, vốn quen lối tư tưởng bằng đối ứng, thể hiện rõ rệt trên trống đồng.
Đặc biệt quan trọng là hai cặp đối ứng Âu Lạc và vùng cao vùng thấp tả trong huyền tích Âu Cơ - Lạc Long Quân (khi huyền tích này ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái, nó bị thêm bớt nhiều bởi kiến thức Tam giáo của các tác giả, trộn lẫn huyền tích Việt với huyền tích Trung Hoa và tri thức Bắc sử).
Ngoài bài viết ở Khảo Cổ Học, trong sách "Một Hà Bắc cổ trong lòng đất" (Hà Bắc, 1981) phần Mở Đầu[11], tôi triển khai việc phân tích hai cặp đối ứng này.
Từ đầu thời đồng thau (Phùng Nguyên) đến đầu thời đại sắt (Đông Sơn), theo với tăng nhanh về số dân, do áp lực dân số, và theo với hình thành bước đầu về miền trung và hạ châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình (còn nhiều ô trũng lầy lội, đồng bằng chưa thành hình xong).
Diễn ra quá trình triển nở các cộng đồng Việt cổ từ vùng cao (chân núi và miền đất cao châu thổ) xuống vùng thấp.
Sự kiện lịch sử đó dài hàng ngàn năm được huyền tích tả như biến cố chia con cái của cặp vợ chồng khởi nguyên "Mẹ Âu - Bố Lạc" :
100 con (tượng trưng số nhiều) vốn trước kia ở với Mẹ Âu tại vùng núi, nay xẻ ra 50 con theo Bố Lạc về miền xuôi, miền nước, miền đồng bằng hạ bạn. Đi với sự kiện lịch sử là nảy sinh TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
*Trống đồng nảy sinh:
1. Người Việt cổ khai thác miền châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả nghĩa là khi có nền tảng nghề nông trồng lúa nước phát triển - cả lúa mùa ở vùng ruộng cao.
Cả lên chiêm vùng đồng trũng - với cơ cấu cây trồng tương đối ổn định, xoay quanh trung tâm CÂY LÚA NƯỚC, cả lúa nếp và lúa tẻ, tẻ dần thay nếp trong bữa ăn của người Việt cổ cũng do áp lực dân số khi triển khai xuống đồng bằng[12] .
Ngoài lúa và đậu (cây cung cấp chất đạm luôn theo cây cung cấp chất bột), rau (đặc biệt rau muống, cây đặc sản ở vùng nước, ngoài bầu bí là giống có trước ở vùng núi, vùng cao), các loại cây có củ:
Khoai, ngoài các loại củ từ, củ lỗ, khoai mài, khoai sọ.. vốn có sẵn ở vùng cao, nay thêm loại khoai lang, do đồng bằng ven biển có liên hệ với vùng ven biển và hải đảo Thái Bình Dương.
Do liên hệ này mà miền đồng bằng ven biển Bắc Bộ trồng mía, các loại cây có sợi (đay gai) và cây dâu tằm, các loại cây ăn quả (trồng ở VƯỜN, ngoài RUỘNG: Lúa, đậu).
2. Nông dân tăng tiến về dân số, nông nghiệp phát triển về vườn ruộng, về cây trồng và năng suất (nhờ độ phì của đất phù sa đồng bằng cùng kỹ thuật nông nghiệp phát triển) cũng có nghĩa hệ thống xóm làng phát triển, từ vùng cao xuống vùng thấp:
Sông ngòi và những dải đồi núi chia cắt địa hình miền trung du và đồng bằng thành từng vùng.
Do nhu cầu chống lũ lụt và do sức ép về dân số cần khoanh vùng lấy ruộng nương trồng trọt, xuất hiện đê điều, từ vùng trũng chân núi lan dần ra ven biển lên vùng cao.
Đê điều chặn đứng hình thành tự nhiên đến phút chót của miền châu thổ, góp phần chia cắt đồng bằng thành từng ô, từng vùng, tương đối độc lập về nguồn nước. Thực tế VÙNG nhỏ dần lên trên biển xóm làng.
TRÂU và VOI, con để cày, để thịt và con để cưỡi, để tải đồ, từ thời đồng thau sang thời sắt, cùng tăng năng suất và khả năng sản xuất sản phẩm thặng dư, đẩy mạnh phân hóa xã hội. Tầng lớp thủ lĩnh nảy sinh ở các VÙNG.
Chiến tranh cướp bóc, tăng cường trao đổi giữa vùng cao và vùng thấp, giữa núi rừng và đồng bằng và miền hải đảo, càng tăng cường uy thế quân sự, kinh tế của thủ lĩnh địa phương.
Quyền lực chính trị Tiền - Nhà nước (Pouvoir pré-étatique) nhô lên dần từ hệ thống những chức năng phục vụ cộng đồng và dần phủ định chúng.
3. Biểu tượng quyền lực mới nảy sinh này là cần thiết.
Hình thái văn hóa, là biểu tượng. Tiếng nói, thành tựu văn hóa lớn của loài người là hệ thống biểu tượng. Nghệ thuật tạo hình là hệ thống biểu tượng khác.
Chữ viết ra đời ở nhiều nơi thời đại đồng, sắt cũng là hệ thống biểu tượng mới. Đồ vật, dụng cụ có thể có ý nghĩa biểu tượng. Tôn giáo bao hàm một hệ thống biểu tượng v. V..
Ta gọi là biểu tượng để dùng định nghĩa của Carl Gustav Jung, một danh từ, một tên gọi, một hình ảnh hay một đồ vật, tuy quen thuộc hàng ngày, nhưng gợi thêm những ý nghĩa khác thêm vào ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của nó[13] .
Biểu tượng quyền lực thủ lĩnh có thể là CON NGỰA, CÂY "GẬY CHỈ HUY", THANH GƯƠM.. của các tộc người chăn nuôi - hay làm nông nhưng có nuôi ngựa và do đó có tầng lớp kỵ sĩ hay kỵ binh.
Nền văn hóa Việt cổ không có những biểu tượng ấy, hay chỉ có về sau, sau quá trình hỗn dung văn hóa. Thay vì ngựa, trong văn hóa Việt cổ là voi.
Thay vì gậy chỉ huy hay thanh gươm, văn hóa Việt cổ là cái rìu chiến (rìu to lưỡi xéo, có chạm khắc hoa văn).
Cùng voi, rìu chiến và trên mọi cái đó, biểu tượng tập trung, điển hình, độc đáo của quyền lực thủ lĩnh là BỘ GÕ, là CỒNG BÀ, là LỆNH ÔNG, nhất là TRỐNG ĐỒNG.
Ngành âm nhạc học làm sáng tỏ vì sao BỘ GÕ (tức là TIẾT TẤU) từng đóng vai trò chủ thể trong âm nhạc dân tộc - dân gian..
Trong âm nhạc truyền thống Đông Nam Á và Châu Phi đen (phải chăng có nền tảng từ khi nhân chủng Đông Nam Á còn chủ yếu là nhân chủng ĐEN, nghĩa là từ thời đại đá).
Một cái nhìn dân tộc học, từ hiện tại ngược về quá khứ, cho thấy vai trò thông tin, ra lệnh của lệnh, cồng, trống, mõ..
Từ khía cạnh biểu tượng quyền lực cộng đồng đến khía cạnh biểu tượng quyền lực cá nhân thủ lĩnh của chúng, bất cứ chất liệu tre, gỗ, da.. hay là kim khí.
4. Khi trên biển "nông dân - nông nghiệp - xóm làng", trên biển thôn dã nổi lên những quyền lực tiền - nhà nước của chế độ thủ lĩnh địa phương, chế độ:
"Lạc Tướng", "Lạc Hầu ăn ruộng" đối với những "Lạc dân làm ruộng", đó cũng là lúc CÔNG THƯƠNG NGHIỆP - đặc biệt là kỹ thuật luyện kim, trao đổi kim loại phát triển.
Và thương nghiệp thời cổ, bao giờ cũng gắn liền chiến tranh cướp bóc, với di động dân cư.
Nếu ở thời cuối đá mới - đầu thời đồng, thấy nổi lên liên hệ rộng rãi giữa miền ven biển Việt Nam và miền ven biển Đông Nam Hoa Nam (có thể đánh dấu di động của đám dân cư thuộc ngữ hệ malayo - polynésien), đến cuối thời đồng - đầu thời sắt - thời ĐÔNG SƠN, thời TRỐNG ĐỒNG thấy nổi lên mối liên hệ chặt chẽ:
"VIỆT ĐIỀN - DẠ LANG" từ đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ qua các thung lũng Việt Bắc, Tây Bắc mà móc nối với miền Nam Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam là mối liên hệ giữa các khu vực LẠC VIỆT - ở châu thổ sông Hồng ÂU VIỆT hay Âu TÂY - ở khu vực:
Việt Bắc và Nam Quảng Đông - Quảng Tây, DẠ LANG ở Quý Châu - trên đường hành lang sang đất THỤC ĐIỂN ở Vân Nam - trên đường hành lang sang miền đồng cỏ ở Trung Á.
Trên đường hành lang giữa miền châu thổ các sông lớn ở Đông Nam Á (văn minh của những dòng sông - văn minh thôn dã, thảo nguyên - văn minh thảo nguyên, văn minh du mục). Thung lũng là gạch nối giữa miền xuôi - miền ngược.
Điều đó dễ hiểu. Vì Việt Bắc, Tây Bắc cũng như Quảng Tây, Vân Nam.. là những xứ mỏ đồng, thiếc, chì, kẽm, sắt.. những nguyên liệu đang cần đến.
Họ có muối, vỏ sò, Cauris.. của miền ven biển và lương thực thực phẩm dư thừa của miền đồng bằng để đổi lấy những đàn đại gia súc (trâu, bò, voi) và quặng mỏ miền sơn địa.
Nếu mỗi vùng ( "bộ lạc") của miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có một hay vài trung tâm luyện kim (khảo cổ học Việt Nam đang làm sáng tỏ điểm này) ta cũng biết một trong những cội nguồn của thủ lĩnh địa phương là những ÔNG THỢ CẢ của nghề luyện kim (các "vua - thợ rèn" "roi - forgeron" của miền Châu Phi đen là mẫu hình).
Trống đồng là sản phẩm đạt hoàn hảo, tinh xảo kỹ thuật và nghệ thuật đúc đồng.
Dù hình thức, nó bắt nguồn từ nồi đất từ quả bầu hay từ cái gì khác, nó cũng thành biểu tượng tập trung, điển hình quyền lực thủ lĩnh - tiền nhà nước ( "Lạc Hầu", "quản trưởng") và nhà nước (VUA HÙNG, VUA THỤC), quyền lực bao tỏa nền văn minh thôn dã Việt cổ.
Những ÔNG THỢ CẢ LUYỆN KIM, chủ nhân trống đồng đồng thời là chủ những thương đoàn lái buôn xuôi ngược, những ông lái bò, lái trâu, lái đồng.. với những thế ứng xử khôn xảo, phóng túng..
Khác xa các bà buôn gồng bán gánh, buôn thúng bán mẹt trong mạng lưới "chợ quê" bao quanh nền văn minh thôn dã.
Các thương đoàn cổ đại thường là những đoàn quân thực sự và ông chủ thương đoàn đồng thời khoác diện mạo thủ lĩnh quân sự.
Đúc vũ khí Đông Sơn, phát động chiến tranh cướp bóc và phản chiến tranh là do họ. Huyền thoại của họ và về họ, là chuyện Phù Đổng, với mẫu câu ca còn sót lại:
"Ông Đổng mà đúc TRỐNG ĐỒNG."
5. Giao lưu kinh tế - văn hóa "VIỆT-ĐIỀN-DẠ LANG" ắt để lại dấu ấn đậm nhạt trên nền văn minh Sông Hồng và Văn hóa Đông Sơn, trên đồ đồng Đông Sơn và TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
Nhiều người bàn quan hệ Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Tấn Ninh (Vân Nam), mối quan hệ giữa mộ quan tài hình thuyền Việt Khê - Châu Can và mộ thuyền quan táng ở đất Ba - hơn là đất Thục (Tứ Xuyên).
Huyền tích "ngoa truyền trích quái" (lời Phương Đình) một cách mơ hồ gốc tích Thục Phán là con cháu vua Thục hay là "thủ lĩnh Ai Lao" ở miền Vân Nam, khảo cổ học đã tìm ra những dao găm "kiểu Tấn Ninh."
Những cán dao găm tượng người tết tóc kiểu tộc Khương (ngữ hệ Tạng Miến) ở Vân Nam cũng như vạch ra gốc tích phương Nam ven biển của những đống vỏ sò - tiền tàng trữ trong các đồ đựng - trống đồng ở Tấn Ninh.
Vạch ra "thần thái Đông Sơn" tuy vụng về, lệch lạc nghệ thuật chạm khắc trên đồ đồng Tấn Ninh, mẫu hình rìu có vai và rìu lưỡi xéo mà Bắc Việt Nam và Đông Sơn cung cấp cho cả Điền lẫn Thục.
Bàn khía cạnh khác của vấn đề này.
Nhà dân tộc - nghệ thuật học Nguyễn Tử Chi đối chiếu hoa văn Mường và hoa văn Đông Sơn nhận xét:
Cùng với "bầy thú" trên các trống đồng, những đồ án trang trí váy Mường xuất trình nghệ thuật động vật không mấy phổ biến ở Việt Nam (tôi nhấn mạnh -TQV) [14] .
Bắc Việt Nam là cái nôi Đông Sơn, TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
Nhưng không phải khẳng định như vậy thì các nhà khảo cổ học Việt Nam nói "vơ vào", thừa nhận mọi yếu tố Văn hóa Đông Sơn và trống đồng Đông Sơn đều là những nhân tố nội sinh.
Không phải, cái ý sô vanh dân tộc trong khoa học cũng kệch cỡm như ý sô vanh dân tộc về chính trị.
Nền văn hóa, bên những yếu tố nội sinh, thường có những yếu tố ngoại sinh. Qua lịch sử, bao giờ cũng có những hiện tượng giao tiếp hay hỗn dung văn hóa cộng đồng tộc người.
Văn minh, như văn minh Sông Hồng hay văn minh Đại Việt ngày sau luôn là kết quả hội tụ, kết tụ và kết tinh, thành định luật, hiển minh.
Những thú vồ mồi trên nắp thạp đồng Vạn Thắng (Vĩnh Phú), những hình người và thú của đồ đồng Lăng Ngăm (Hà Bắc), dao găm và hình thú ở đồ đồng Làng Vạc (Nghệ Tĩnh) chịu ảnh hưởng nghệ thuật Tấn Ninh và miền thảo nguyên.
Không ai không biết nếu Đông Nam Á là xứ sở những nền văn hóa thực vật và văn minh thực vật[15] từ thời đá đến những thời sau, nơi đây không phải cái nôi phát sinh nền nghệ thuật động vật.
Cái nôi ấy phải tìm kiếm ở miền thảo nguyên Âu Á (Eurasie). Nếu học giả phương Tây truy tìm cội nguồn Văn hóa Đông Sơn ở phương Tây hay phương Bắc là sai lầm từ căn bản.
Có điều, ảnh hưởng ấy - và âm vang của nó trên TRỐNG ĐỒNG - không phải trực tiếp mà là nói xa xôi, gián tiếp.
Giữa khu văn minh thảo nguyên và khu văn minh những dòng sông nhiều hành lang, nhiều cầu nối.
Trục giao thông (thuỷ bộ) sông Hồng từ đỉnh Việt Trì tam giác ba châu Bắc Bộ, qua miền thung lũng, Tây Bắc, sang Vân Nam là một trong những hành lang ở đó.
Nằm trên đường hành lang này là những cư dân nói tiếng Tạng Miến - làm nghề nông và nửa chăn nuôi, nửa buôn bán, cư dân nước Điền thời Chiến Quốc - Hán hay của Nam Chiếu - Đại Lý thời Tuỳ, Đường, Tống.
Điền như Nam Chiếu, Đại Lý.. có quan hệ kinh tế văn hóa về nhiều mặt với cư dân miền đỉnh tam giác châu Bắc Bộ (Điền - Âu - Lạc, Nam Chiếu - An Nam đô hộ phủ, Đại Lý, Nùng Trí Cao, Lý, Trần).
Họ là Tổ tiên của những tộc Lô Lô, Hà Nhì, Khù Sung.. nay.
Theo Man Thư của Phàn Xước đời Đường, họ thường bán trâu ngựa cho An Nam và đổi lấy muối..
Nùng Trí Cao chống Tống muốn vào Đạo Đặc Ma của Đại Lý mua ngựa[16] .
Trước đó, thời Tam Quốc, Sĩ Nhiếp ở Giao Chỉ vẫn liên hệ thủ lĩnh người Di là Ung Khải ở Ích Châu[17] .
Con đường từ Mê Linh (Sơn Tây cũ - Vĩnh Phú) qua Bôn Cổ đến Ích Châu (trị sở là Điền Trì, trung tâm chính trị - văn hóa nước Điền ngày trước), theo lời Mã Viện dẫn ở Thuỷ Kinh Chú, là đường giao thông thuận tiện.
Đó là đường giao lưu trống đồng phía Nam (Lạc Việt) lên và gia súc lớn cùng nghệ thuật động vật ở phía Tây Bắc xuống.
Điền - và "loài Mi Mạo" nói chung như Hán Thư ghi thuộc nhóm Bách Bộc cổ đại - là kẻ "chuyển tải" những thành tựu văn hóa Bắc Nam.
Họ làm nông và làm trung gian trao đổi: Miền Tây Trung Bộ Vân Nam gắn liền với miền thảo nguyên của những đàn động vật lớn của cư dân cùng ngữ hệ Tạng Miến như Điền - Nam Chiếu, gắn liền miền lưu vực các sông, nơi có vựa lúa cư dân Môn - Khơ-me và Tày Thái cổ.
Các tư liệu lịch sử đều ghi đổi trâu bò - gia súc lớn - lấy trống đồng (1 trống đồng = 7- 800, 1000 con). Hiển nhiên những tộc có các đàn gia súc lớn không phải những tộc đúc trống đồng.
Nói trống đồng bắt nguồn từ miền Tây Trung Bộ Vân Nam và Tây Nam Quảng Tây là không chính xác.
Tôi vẫn cho Bắc Việt Nam (và miền Tây Nam Quảng Tây) là quê hương TRỐNG ĐỒNG và những thủ lĩnh Tày cổ - và Môn - Khơ-me cổ chịu ảnh hưởng sâu đậm Tày cổ là chủ nhân đầu tiên trống đồng.
Nhưng tôi nghĩ miền Tây Trung Bộ Vân Nam (khu cư trú các tộc thuộc ngữ hệ Tạng Miến làm nông thờ cổ) cung cấp cho:
Văn hóa Đông Sơn nói chung, trống đồng nói riêng, ảnh hưởng nghệ thuật động vật của miền thảo nguyên.
Những cư dân đó và nền nghệ thuật động vật đó cấp cho cư dân Đông Sơn - cư dân này là kết quả hòa trộn và hòa hợp các cư dân Tày Thái cổ - vốn tụ cư ở miền Việt Bắc và trên miền trước núi sườn Đông Bắc tam giác châu Bắc Bộ, cư dân Môn, Khơ-me cổ - vốn sinh sống ở vùng:
Sườn Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trường Sơn, cư dân Mã Lai - Đa Đảo cổ - vốn sinh sống ở Vịnh Bắc Bộ và ven Biển Đông, cạnh đáy tam giác châu Bắc Bộ - tức người Việt cổ, một số từ vựng gốc Tạng Miến, hình thức tết tóc, một số hình loại dụng cụ, vũ khí.. đặc biệt là hình thức Sa-man giáo (Chamanisme).
Biểu tượng của thế giới thủ lĩnh, trống đồng - như người Lô Lô, người Mường gần đây sử dụng - còn là vật thiêng làm trung gian giao tiếp giữa CON NGƯỜI và THẦN LINH, giữa CÕI SỐNG và CÕI CHẾT:
Đồng cổ dữ Man ca
Nam nhân kỳ trại đa..
(Trống đồng và bài hát Man
Người Nam cầu cúng nhiều)
Cúng tế quỷ thần, cúng tế khi đau ốm, cúng tế cầu mưa, cúng tế tang lễ.. tất cả đều sử dụng TRỐNG ĐỒNG làm gạch nối THẦN - NGƯỜI.
Hình ảnh mờ nhạt các pháp sư Sa-man ở người Mường trước Cách mạng là những "thầy mo" :
Tiếng trống đồng linh thiêng mở đầu những tang lễ do thầy mo chủ trì và sau đó là những bài mo - từ những bài cúng "siêu thăng" linh hồn người chết sau thành phức thể hệ thống hóa những mảng huyền thoại cổ xưa vỡ vụn và tan biến vào những chuyện kể.
Nếu đạo Vu Nghiễm rất đậm đà trong nền văn hóa Sở - mà Sở từ cửu ca của Khuất Nguyên có bóng dáng các bài văn cúng - và "Việt phương", tức phương thuật của người Việt - Vua Hùng, theo Đại Việt Sử Lược, cũng là phương sĩ (magicien), Hán Vũ Đế hết lời tán tụng[18], tàn dư mờ nhạt của Sa-man giáo ở người Việt trước Cách mạng còn thấy ở tín ngưỡng đồng cốt.
(Đồng ngụ ý hồn nhiên trong trắng như đồng tử, nhi đồng. Cốt là xương, chỉ vào xương người chết kết thành tinh, tục cải táng thu xương của người Việt còn chưa nói tiếng cuối cùng).
"Tất cả thủ tục vu nghiễm Sa-man giáo cổ truyền đều theo đuổi một mục đích:
Phá khuôn khổ phàm tục cảm giác. Những giọng hát đều đều, những nhịp điệu của trống phách, bài ca, bài cúng.. nhắc đi nhắc lại, mệt mỏi, trai giới của nhịn ăn, nhảy múa, thuốc ma tuý v. V.. rút cục tạo hoàn cảnh cảm giác mở vào" siêu nhiên "..
" Con công để từ "cố gắng chết đi ở cảm giác phàm tục để tái sinh vào cảm giác thần bí.
Cảm giác này biểu lộ ra bằng cách mở những khả năng cảm giác, hay là bằng cách thu những năng khiếu siêu cảm giác phi thường" [19] .
"Khả năng tự thấy mình như bộ xương dĩ nhiên ngụ ý nghĩa tượng trưng về chết đi và phục sinh; bởi" thu về bộ xương "đối với dân đi săn và dân du mục là phức thể nghi lễ tượng trưng lấy trọng tâm là ý tưởng về sự SỐNG luôn hóa sinh không ngừng" [20] .
Pháp sư Sa-man và các đệ tử có tu luyện thần bí liên quan chiêm ngắm chính bộ xương mình.
"Tập luyện tinh thần như thế ngụ ý vượt ra ngoài thời gian, vị pháp sư Sa-man không những tiên tri về nội quan sự chết của thể xác, mà còn thấy lại được cái người ta có thể được là nguồn sống trường cửu là bộ xương.
Đối với dân đi săn và du mục, xương tượng trưng cỗi rễ cùng tột của sự sống động vật, cửa ngõ cho da thịt luôn xuất hiện.
Chính từ xương cốt mà động vật và loài người tái sinh; chúng dừng lại ít lâu ở đời sống thần xác và đến lúc chết, đời sống của chúng kết tinh vào xương cốt để lại tái sinh theo vòng luân hồi bất tuyệt..
(Sự chiêm ngắm bộ xương của mình hay là những kỹ thuật tu luyện tinh thần trước xác chết, bộ xương người hay sọ người chết) đối với pháp sư Sa-man của những dân tộc đi săn và du mục có nghĩa là thấy lại nguồn sống cùng tột của động vật, tức là tham gia vào Bản thể" [21] .
V. Goloubew mang so sánh cách trang trí trên các trống đồng với cách trang trí trên trống của pháp sư Sa-man Mông Cổ[22], so sánh trang trí trên mặt trống với cảnh trong lễ Tiwha - lễ tang của người Dayak..
Chúng ta cũng thấy trên một qua đồng Đông Sơn có cảnh người cầm đầu giơ lên.
Có thể lễ tang của người Đông Sơn, của người Mường ngày trước và việc cải táng thu xương cũng như tín ngưỡng đồng cốt của người Việt trước đây đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng Sa-man giáo của các dân tộc đi săn và chăn nuôi miền thảo nguyên thông qua các tộc Tạng - Miến miền Tây Bắc Việt và Tây Trung Bộ Vân Nam.
Bên trên, tôi đã phản bác quan điểm gán cho chủ nhân trống đồng những ý niệm về Tô-tem giáo; tôi đã nêu lên một giả thuyết về ảnh hưởng của Sa-man giáo từ vùng thảo nguyên Âu Á tràn vào tâm thức cư dân làm chủ khu vực văn hóa trống đồng.
Nhưng vết hằn sâu sắc nhất trong tâm thức người Việt cổ chủ nhân trống đồng loại 1 Heger, chủ nhân Văn hóa Đông Sơn, lẽ cố nhiên phải là tâm lý, tâm thức của cư dân nông nghiệp, cư dân trồng lúa nước.
Tín ngưỡng, tôn giáo chính của họ là những lễ thức nông nghiệp và hình thái sinh hoạt văn hóa cộng đồng cơ bản của họ phải là những hội mùa.
Về vấn đề này, tôi cũng như nhiều tác giả khác đã bàn nhiều lần. Dưới đây, chỉ xin nhấn mạnh thêm vài ý kiến, chi tiết.
Con người, từ thời đại đá chuyển qua thời đại đồng dần vứt bỏ quan niệm "năng lượng" ồ ạt sức sống của tôn giáo nguyên thuỷ, để xây dựng - hay tiếp thu - một vũ trụ luận quy phạm hơn, trí tuệ hóa hơn, vì dựa trên độ dày[23] kiến thức thiên văn và nông nghiệp các cộng đồng trồng trọt.
Biểu tượng mặt trời chiếm vai trò trung tâm trên trống đồng gắn liền với hình thái thờ mặt trời của cư dân Đông Sơn[24] .
Mặt trời - và theo với nó là cả khối năng lượng kiến thức thiên văn học sơ khai chiếm lĩnh địa vị chủ đạo trong tâm thức và ý thức hệ tôn giáo cư dân Đông Sơn.
Hình thái thờ mặt trời không chỉ biểu hiện mối quan hệ của CON NGƯỜI (người trồng trọt) với TỰ NHIÊN mà còn biểu hiện quan hệ xã hội (tuân phục) giữa CƯ DÂN và THỦ LĨNH (vua) :
Những ông "vua" cổ đại thường tự đồng nhất với MẶT TRỜI.
Một nguyên lý phổ biến của vũ trụ luận của nhiều xã nông nghiệp là nguyên lý lưỡng hợp.
Bài "Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng", tôi khai triển chứng minh về nguyên lý này được hằn lên từ TRỐNG ĐỒNG và ĐỒ ĐỒNG ĐÔNG SƠN cũng như từ những mẫu huyền thoại và huyền tích Việt Nam.
Những cặp biểu tượng lưỡng hợp cho thế giới bên trên và thế giới bên dưới (dưới đất, dưới nước) thể hiện trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn rất rõ rệt:
Chim - Cá, Chim - Cá Sấu, Chim - Rắn, Chim - Hổ, Voi - Rắn..
Dựa những tư liệu dân tộc học Mường của Nguyễn Từ Chi, Lê Văn Lan nêu giả thuyết về trống đồng là biểu hiện của mô hình vũ trụ "ba chiều - bốn thế giới" :
Cõi trời và cõi đất ở phía trên, diễn đạt thành mặt trống, và cõi Âm ở phía dưới, diễn đạt thành thân trống[25] .
Đó là giả thuyết đáng lưu ý. Từ đó mà nói cái gọi là TRỐNG ĐỒNG vốn không phải TRỐNG (nhạc cụ thuộc bộ gõ) mà chỉ là mô hình vũ trụ thì lại là điều tôi không thể chấp nhận được.
Nên chăng nói rằng trống đồng, ngoài chức năng cụ thể là bộ gõ, còn là biểu tượng, toát lên ý niệm về biểu tượng vũ trụ luận của người Việt cổ Đông Sơn.
Nếu chấp nhận cái khái niệm "không gian xã hội" mà G. Condominas định nghĩa là "Toàn bộ hệ thống tương quan đặc trưng cho một nhóm người xác định" [26] trong đó bao hàm không gian thực và không gian ảo (trong huyền thoại) thì ta có thể nói:
"Tâm thức cư dân Việt cổ, không gian xã hội bao hàm Cõi Trên / cõi chết, Cõi Đất / cõi dưới, cõi Sống, cõi Nước. Hệ tư duy về không gian xã hội, theo tôi vẫn là hệ tư duy lưỡng hợp."
Cuối cùng, tôi xin nói ít về cơ cấu thời gian trong tâm thức Việt cổ. Thời gian thôn dã, thời gian nông nghiệp là thời gian chu kỳ (temps cyclique), biểu hiện như vòng tròn.
Các băng trang trí trên mặt trống, mặt thạp đều là những vành tròn trong đó có người và động vật đều chuyển động theo - một hướng ngược chiều kim đồng hồ, tức là ứng với chuyển động ảo của mặt trời.
Tôi ngờ rằng tượng 4 cóc (hay 4 cặp cóc) trên trống đồng hay tượng 4 cặp trai gái giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh là tượng trưng của 4 tiết (xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí) trong một năm - một chu kỳ thời gian của cư dân Việt cổ trồng trọt ở thời đại Đông Sơn.
Chú thích
1. Trần Quốc Vượng: Những hằng số cùng sự thăng trầm của văn hóa và lịch sử Đông Nam Á; trong Kỷ Yếu Hội Nghị Khoa Học Đông Nam Á lần thứ nhất.
2. Trần Quốc Vượng: Vấn đề người Lạc Việt, Thông Báo Sử Học, Hà Nội, 1962.
3. Nguyễn Duy Hinh: Trống đồng trong sử sách, Khảo Cổ Học, số 13, tr. 18, 1974.
4. Trần Quốc Vượng: Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng, Khảo Cổ Học, số 14, tr. 71-71, 1974 (Xem bài số 1).
5. Nguyễn Duy Hinh: Sđd.
6. L. Finot: Những thời đại lớn ở Đông Dương (chữ Pháp), Parmentier; Những trống đồng cổ (chữ Pháp), Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ, T. XVIII, Hà Nội, 1918. Xem V. Goloubew, Thời đại đồ đồng thau ở Bắc kỳ và Trung kỳ (chữ Pháp), Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ, T. XXIX, Hà Nội, 1929.
7. Claude Lévi Strauss: Đạo Vật Tổ ngày nay (chữ Pháp), Paris, 1962.
8. S. A. Tokarev: Các hình thái tôn giáo sơ khai (chữ Nga), Moscow, 1974.
9. S. A. Tokarev: Sđd.
10. Đặng Nghiêm Vạn - Nguyễn Trúc Bình: Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, Hà Nội, 1972.
11. Trần Quốc Vượng - Trần Đình Luyện và Nguyễn Ngọc Bích: Một Hà Bắc cổ trong lòng đất, Hà Bắc, 1981, tr. 13-31.
12. Carl Gustav Jung: Thăm dò tiềm thức, bản dịch, Sài Gòn, tr. 16, 1967.
13. Nt, Chương I.
14. Nguyễn Từ Chi: Ký họa Mường (chữ Pháp), Dữ kiện dân tộc học, tạp chí Etudes Vietnamiennes, số 3, Hà Nội, tr. 88, 1971.
Trần Từ: Hoa văn Mường, Hà Nội, tr. 64, 1978.
15. P. Gourou: Nền văn minh thực vật (chữ Pháp), Hà Nội, 1940.
16. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt (Lịch sử ngoại giao và tôn giáo triều Lý), Hà Nội, 1949.
17. Tam Quốc Chí, Ngô Chí, Sĩ Nhiếp truyện.
18. Hán thư, Vũ Đế bản kỷ.
19. Mircea Eliade: Huyền thoại, giấc mơ và huyền bí (chữ Pháp), Paris, tr. 113, 1953.
20. Nt.
21. Nt.
22. V. Golobew: Trống ma thuật Mông Cổ (chữ Pháp), Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ, T. XXXII, Hà Nội, 1932.
23. Trần Từ: Sđd. 29
24. M. Colani: Dấu tích của một hình thái thờ mặt trời ở Đông Dương (chữ Pháp).
25. Lê Văn Lan: Những chiếc trống đồng cổ ở Việt Nam, Hà Nội, 1976.
26. G. Condominas: Không gian xã hội - Về khu vực Đông Nam Á, Flammarion, Paris, 1980.
Thực ra, vũ trụ luận của người Mường, theo tìm hiểu của Nguyễn Từ Chi, là hỗn dung hai kiểu loại vũ trụ luận khác nhau:
1. Vũ trụ luận "ba tầng, bốn thế giới" : Tầng trên Trời - tầng Giữa và tầng Dưới. Tầng Dưới lại được chia thành hai thế giới. Thế giới Dưới nước và thế giới Dưới đất.
2. Vũ trụ luận "hai bên" : Người Mường quan niệm ở tầng người có hai bên:
Một bên là Mường của người sống và một bên là Mường của người chết (Mường Ma).
Có cả khu vực văn hóa trống đồng. Trên đại thể là khu vực Đông Nam Á, theo nghĩa rộng (không phải chỉ theo ý nghĩa chính trị - nhà nước, như hiện nay thường hiểu) :
Đó là khu vực chân núi hệ thống Himalaya, khu nóng, ẩm, gió mùa, mưa nhiều, nhiệt độ và ánh sáng đều lớn, đất đai thích hợp rất nhiều loại thực vật sinh trưởng và phát triển: Đặc biệt, đó là khu vực nghề nông trồng lúa nước[1] .
Nếu dựng bản đồ phân bố trống đồng đến giờ được biết, dễ thấy trừ những hiện tượng lẻ tẻ ở ngoại biên (như Mông Cổ), trung tâm phân bố trống đồng là miền Đông và Bắc bán đảo Đông Dương, gồm Bắc Việt Nam (từ Nghệ Tĩnh trở ra), Tây Nam Quảng Đông, Nam Quảng Tây, Tây Nam Vân Nam, Bắc Lào.
Từ đó "sóng trống đồng" lan tỏa dần và nhẹ dần - xuống miền Nam Đông Dương (Thái Lan, Miến Điện) và lên miền Bắc Hoa Nam (Nam Hồ Nam, Nam Tứ Xuyên).
Về cái nhìn lịch sử, nếu đừng thành kiến, sô vanh dân tộc, ta phải nhận rằng khu vực văn hóa trống đồng vốn là khu vực văn hóa phi Hoa phi Ấn.
Hẵng gọi phiếm xưng như người xưa, đó là khu vực văn hóa Việt tộc, tuy phải nói ngay nó không bao hàm hết phạm vi phân bố các tộc Bách Việt (như Câu (U) Việt ở Nam Giang Tô, Bắc Chiết Giang, Đông Mân Việt ở Nam Chiết Giang, Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây).
Không loại trừ khu vực phân bố các tộc phi Hoa khác, như người Bộc, người Di[2] . Tính đa dạng của nhân chủng và văn hóa khu vực Đông Nam Á ló rạng từ thời tiền sử.
Trống đồng không phải sáng tạo của người Hoa - Hán, điều đó thành định luật.
Chuyện Mã Viện hay Gia Cát Lượng sáng tạo trống đồng, từ lâu đã rõ đó là truyền thuyết giả (fakelore, không phải folklore) của một số học giả Tàu, tuy lắm chữ nghĩa song đầy ý vị sô vanh đại dân tộc và kỳ thị dân tộc.
Về thời gian, trống đồng xuất hiện giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, trước khi những Đế chế Tần, Hán bành trướng xuống Nam Hoa Nam và chinh phục các cộng đồng người phi Hoa ở toàn khu vực này.
Công cuộc bành trướng và chinh phục Trung Hoa, nhiều nền văn hóa bản địa, phi Hoa ở Hoa Nam nay bị diệt, nhiều nền văn hóa phi Hoa bị giải thể cấu trúc.
Đó là hậu quả bi thảm đường lối thực dân văn hóa của tầng lớp thống trị người Hán.
Trống đồng, biểu tượng hoành tráng của văn hóa phi Hoa, chịu chung số phận. Mã Viện phá huỷ trống đồng lấy đồng đúc tượng ngựa.
"Con thú quý tộc" này (noble animal, như người Tây phương thường gọi), sau khi thuần dưỡng, góp phần gây phân hóa xã hội lớn nơi các tộc người chăn nuôi phương Bắc và phương Tây, thành biểu trưng "quyền lực", của "kỵ sĩ", "thủ lĩnh", "ông chủ", "quý tộc", "chủ nô" và "lãnh chúa" ngày sau.
Nó len lỏi vào văn hóa các dân tộc phi Hoa, chèn lấn hòng diệt các biểu tượng văn hóa phi Hoa.
Từ Mã Viện đời Hán, Gia Cát Lượng đời Tam Quốc, Âu Dương Nguỷ (hay Ngỗi) đời Lục Triều đến Lưu Hiểu đời Minh.. bè lũ thống trị Hán tộc ra sức thu phá trống đồng, đánh phá tâm lý - văn hóa phi Hoa ở những vùng chúng kiểm soát, đóng chiếm và di hộ[3] .
Các cộng đồng tộc người phi Hoa lấy "nhu nhược thắng cương cường", từ việc đúc và dùng trống đồng cổ, lại đúc và tiếp tục dùng trống đồng mới, đến việc thờ cúng trống đồng, chôn cất trống đồng, vẫn ra sức giữ gìn "bầu trời văn hóa" phi Hoa của mình.
Biết bao hiện tượng lịch sử - văn hóa khác, nền văn hóa trống đồng qua đi, tàn lụi dần, nhưng những sở đắc văn hóa trống đồng vẫn còn.
Những sở đắc, những thành tựu văn hóa đó vẫn lưu giữ nơi tâm thức người Việt phương Nam.
Ở Trung Hoa hiện tại, nó vẫn là sắc thái văn hóa, góp phần tạo nét riêng biệt, độc đáo, của con người và văn hóa Hoa Nam so con người và văn hóa Hoa Bắc, của miền "Giang Nam" so với miền "Trung Nguyên Hoa Hạ."
Trên đất Việt Nam nay, nó vẫn là thành phần hữu cơ của văn hóa Việt Nam, truyền thống văn hóa Việt Nam[4] cổ xưa nhất và đẹp nhất, ngày càng tăng tiến về số lượng và kiểu dáng, hoa văn..
Vả lại, những trống đồng cổ xưa vẻ đẹp nhất đó - những trống đồng loại 1 Heger trên mảnh đất "nghìn xưa văn hiến" này không phải hiện tượng đơn lập, do đó có thể là ngẫu nhĩ, ngoại sinh, thực tế khảo cổ học Việt Nam từ những năm 20, 30 trở lại đây cho biết:
Những hiện tượng liên lập, những thành phần hữu cơ, nội sinh của nền Văn hóa Đông Sơn nổi tiếng của Việt Nam và Đông Nam Á, của văn minh Sông Hồng, của kỷ nguyên bắt đầu dựng nước giữ nước, Văn Lang, Âu Lạc, của thời đại các Vua Hùng..
Không ai phủ nhận dù ai đó có ý "gây nhiễu" bằng những thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ - ghi chép về thư tịch xưa nhất về trống đồng - đoạn ghi chép của Hậu Hán thư - Mã Viện truyện bộc lộ rõ sự thực:
"Trống đồng Lạc Việt ở đất Giao Chỉ[5] ."
Như thế:
- Trống đồng xưa nhất, về khảo cổ, gắn Văn hóa Đông Sơn. Hoàn toàn hợp lý, khi gọi chúng là TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
- Trống đồng xưa nhất, về cổ sử, gần với Lạc Việt. Hoàn toàn hợp lý khi gọi TRỐNG ĐỒNG LẠC VIỆT.
ĐÔNG SƠN - LẠC VIỆT - GIAO CHỈ đều là những hữu thể Việt Nam cổ.
Từ trống đồng xưa cổ có thể đúc rút ra triết lý Việt cổ, có thể chất lọc ra tư duy trống đồng, tư duy Việt cổ.
Về phương pháp luận sẽ hoàn toàn hợp lý, khi qua trống đồng, có thể tìm biết tâm thức Việt cổ (hay tâm thức người Nguyên Việt, Proto-Viets).
Ngắm các hoa văn trên những trống đồng lớn Đông Sơn - và những hiện vật Đông Sơn khác có lúc những nhà khảo cổ học và cổ sử học chúng ta cũng nói theo L. Finot, H. Parmentier và V. Goloubew rằng một số đồ án hoa văn ấy mang ý nghĩa Tô-tem giáo[6] .
Ai nấy đều mặc nhiên thừa nhận người Việt cổ theo tôn giáo Tô-tem (Totemisme), vấn đề chỉ còn là bàn xem Tô-tem của họ là con gì:
Chim, Rắn, Rồng, Rùa, Voi, Trâu, Bò.. hay cây gì: Cau, Dừa, Dâu.. hoặc là cả phức thể của những loại cây, con đó.
Giờ nhiều người nghĩ khác về nhận thức luận lẫn phương pháp luận.
Có thật ở thời nguyên thuỷ có thứ "tôn giáo" mệnh danh "Tô-tem giáo" (Totemisme) không? Hay là ngộ nhận, cả tên Tôtem lẫn hình thức tư duy cổ xưa được gọi Tôtem giáo (hay Đạo Vật Tổ) ?
Nhà dân tộc học Pháp Claude Lévi Strauss khảo sát lại toàn bộ vấn đề này[7] . Và kết luận:
"Vật Tổ chỉ là ảo tưởng phát sinh trước hết từ hiểu sai ý nghĩa vài hiện tượng dân tộc học, ngay ý niệm vật Tổ cũng là ảo tưởng, đừng nói tính cách thống nhất của thuyết ấy."
Theo ông, chỉ cần soát lại những trường hợp điển hình cụ thể, trước hết là trường hợp tộc người Ojibwa - người da đỏ ở miền Bắc Hồ Lớn ở Bắc Mỹ.
Nơi từ đó phát xuất danh từ vật Tổ Tôtem, cũng là nguồn gốc sinh mọi thắc mắc, mọi bàn cãi về "vật Tổ".
Đủ thấy khái niệm Tôtem giáo sinh ra do cắt xén thực tại vụng về của vài nhà dân tộc học phương Tây, hậu quả của lề thói tinh thần sinh hệ thống của họ.
Từ phương ngữ người da đỏ - ngôn ngữ bộ lạc Ojibwa - danh từ Tôtem tung ra không chính xác, không được chọn và xác định kĩ.
Về nội dung, người tung ra tên này (J. K. Long) lẫn lộn cách gọi tên thị tộc (tên con vật ứng với thị tộc) với những tín ngưỡng liên quan các thần hộ mệnh cho cá nhân người Ojibwa.
Ở Tikopia - hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Polynésie, nơi W. H. R. Rivers cho là có bằng chứng rõ rệt nhất về "Đạo Vật Tổ", nơi có 4 thị tộc phụ hệ không theo chế độ ngoại hôn một cách tuyệt đối.
Người ta thấy tính cách cực kỳ phức tạp và không đồng nhất những tín ngưỡng và tập tục bị gán vội cho nhãn hiệu "Đạo Vật Tổ."
Ở đây, động vật không được coi là biểu tượng Tổ tiên hay con của thổ dân. Một số động vật được thờ kính vì những lý do khác.
Bốn thị tộc người Tikopia thờ bốn thần liên quan đến bốn loại thực vật ăn được, họ chỉ kiêng ăn một số động vật, không kiêng ăn thực vật.
Quan hệ giữa thần và động vật là có thực và riêng cho từng con vật. Quan hệ thần và thực vật chỉ tượng trưng và chung cho cả loài.
Theo Claude Lévi Strauss và nhiều người, cái gọi là Tôtem giáo - Đạo Vật Tổ - bao hàm những tương quan ý niệm giữa TỰ NHIÊN và VĂN HOÁ. Cần phân biệt hai hiện tượng dân tộc khác nhau:
1. Vấn đề dùng tên cầm thú hay thảo mộc để đặt tên thị tộc.
2. Vấn đề đồng hóa con người với cầm thú thảo mộc, bắt nguồn từ những quan niệm rất tổng quát tương quan giữa con người và thiên nhiên của các tộc người cổ xưa sống gần thiên nhiên.
Quan niệm này ảnh hưởng đến ma thuật (như tục "khảo cây" của người Việt duy trì tới trước Cách mạng tháng Tám, tục treo các biểu tượng dương vật, âm vật - nõ nường - trên các giàn bầu bí, tục thờ cây, thờ hổ, thờ rắn.. đến nghệ thuật, tôn giáo, xã hội mỗi tộc người).
Khuynh hướng từ đầu lịch sử của tâm thức con người là phân loại (tư duy phân tích phân loại) và hệ thống hóa (tư duy hệ thống, tổng hợp) vũ trụ.
Động vật hay thực vật dùng đặt tên cho thị tộc (như tộc chim Bling - Blang (chim ăn thịt), tộc Trâu, tộc Rắn, tộc Hươu, tộc Dâu.. của người Việt cổ, tộc Cau, tộc Dừa.. của người Chàm cổ) vì chúng cung cấp phương pháp tư duy.
Người xưa, tương quan giữa TỰ NHIÊN và VĂN HOÁ, giữa nhân giới và nhiên giới, là những tương quan ý niệm, không phải là những tương quan nghiệm sống.
Lập những tương quan này, người xưa nhằm mục đích lý thuyết hơn là thực tiễn. Tương quan giữa người và vật - hiểu sai là "vật Tổ" là quan hệ ẩn dụ và gián tiếp, không phải quan hệ tiếp cận, trực tiếp.
Người ngày nay thường lý luận bằng khái niệm, danh lý.
Người cổ xưa lý luận kết hợp những tương quan tư tưởng. Nói tôi là chim, là hươu, là sơn dương.. tức là nói tôi ở trên cao, ở vùng cao. Nói tôi là cá, là rắn nước, tức là nói tôi ở dưới thấp, vùng nước..
Đây là những hệ thống phân loại, không thể, không nên tìm cái gọi tương quan vật Tổ trong bản chất "vật Tổ", mà phải qua những liên tưởng mà "vật Tổ" khả dĩ gợi ra trong đầu óc con người.
Theo Claude Lévi Strauss, cái gọi "Đạo Vật Tổ" là lối tư tưởng trong nhiều lối tư tưởng. Lối tư tưởng "vật Tổ" này có tình cảm xen vào, nhưng không quan trọng và mục đích là bổ sung cho hệ tư tưởng vốn "cởi mở."
Cái gọi "Đạo Vật Tổ", ta thường thấy giống nhau, khác nhau giữa các loài vật được tả bằng những danh từ "yêu, ghét, liên kết, chống đối."
Vạn vật quan niệm theo với những tương quan trong xã hội loài người khi lý giải "Đạo Vật Tổ", các học giả Xô Viết, Giáo sư Tô-ca-rép cũng kết luận như vậy[8] .
Người xưa phải chia loài vật thành từng đôi đối ứng nhau, nhờ danh pháp (nomenclature) đặc biệt, gồm những danh từ động vật và thực vật (đặc tính duy nhất của Đạo Vật tổ), người xưa có thể tả thỏa đáng bằng luật tắc đặc biệt những dị đồng này.
Lối tư tưởng bằng đối ứng không lạ thường, là "tôn giáo" cả, nó chỉ là trường hợp liên tưởng bằng đối ứng, vốn là đặc tính phổ quát tư duy con người.
Do đó, ta phân biệt cao/thấp, mạnh/yếu, đen/trắng, đêm/ngày, nóng/lạnh, đông/hè, đực/cái..
Hệ thống hơn, tổng quát hơn, người Trung Hoa và người Việt cổ quy kết vào hai nguyên lý ÂM/DƯƠNG.
Mọi mâu thuẫn đối nghịch này bao hàm trong TOÀN THỂ, cái MỘT, hay như các nhà tư tưởng Trung Hoa gọi là Thái Cực, là Đạo v. V.. ( "nhất Âm nhất Dương chi vi Đạo", Lão Tử, Đạo Đức kinh).
Hệ tư tưởng vật Tổ chỉ là giải quyết đặc biệt vấn đề tổng quát:
Làm sao cố vượt mâu thuẫn để đi đến tổng hợp.
Điều này chứng tỏ "vật Tổ" không phải là những con vật đáng kính, đáng sợ, đáng ăn hay kiêng ăn vì chúng chỉ truyền tải ý tưởng người xưa khi quan sát vũ trụ.
Theo Claude Lévi Strauss, vật Tổ được chọn không phải vì "ăn ngon" (bonnes à manger) mà vì "dễ tư tưởng" (bonnes à penser).
Tóm lại, "Đạo Vật Tổ" là hệ thống luận lý, dùng nhiên giới để tả những tư tưởng cho những cộng đồng tộc người cổ xưa gần gũi tiếp xúc thiên nhiên vạn vật, khác lối tư duy những nhà tư tưởng "bàn giấy" ngày sau[9] .
Bài "Vài duy nghĩ tản mạn về trống đồng", tôi vạch cách tập trung quan niệm lưỡng phân và lưỡng hợp trong tâm thức Việt cổ, ở đây không nhắc lại.
Chỉ nói thêm, nếu trước kia tôi chủ trương tồn tại của Đạo Vật Tổ trong tâm thức người Việt cổ thời Đông Sơn, với bài đó, tôi chỉ coi hình ảnh Chim, Gà, Hươu, Rùa, Rắn.. như những biểu tượng để diễn đạt quan niệm lưỡng phân - lưỡng hợp trong tư duy Việt cổ.
Có nghĩa bằng những sự kiện thực tế khảo cổ học, dân tộc học và cổ sử học Việt Nam, tôi đi tới quan niệm về tư duy người xưa giống Claude Lévi Strauss đã làm khi khảo sát toàn diện về "Đạo Vật Tổ."
Tôi thấy khảo cổ học và cổ sử học Việt Nam cần thanh toán dứt khoát với truyền thống tư tưởng phương Tây về tồn tại của "Tô-tem giáo" trong tâm thức Việt cổ.
Tôi cho rằng dân tộc Việt Nam cần nghiêm chỉnh soát lại cái gọi tàn dư Đạo Vật Tổ nơi tộc người Khơ Mú ở Tây Bắc Việt Nam mà gần đây luận án PTS về văn hóa dân gian còn nhắc đi nhắc lại[10] .
Tôi thấy cần nhấn mạnh cặp danh lý Sơn Tinh, Thuỷ Tinh cũng như tín ngưỡng thờ Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú) và tín ngưỡng thờ vua Thục ở đền Thượng Cổ Loa (Hà Nội) hay đền Cuông ở Diễn Châu (Nghệ Tĩnh) đều nhuốm màu sắc Đạo giáo.
Đều là "Đạo giáo hóa", "Lịch sử hóa" và "Thời sự hóa" những khía cạnh khác nhau của tâm thức Việt cổ, vốn quen lối tư tưởng bằng đối ứng, thể hiện rõ rệt trên trống đồng.
Đặc biệt quan trọng là hai cặp đối ứng Âu Lạc và vùng cao vùng thấp tả trong huyền tích Âu Cơ - Lạc Long Quân (khi huyền tích này ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái, nó bị thêm bớt nhiều bởi kiến thức Tam giáo của các tác giả, trộn lẫn huyền tích Việt với huyền tích Trung Hoa và tri thức Bắc sử).
Ngoài bài viết ở Khảo Cổ Học, trong sách "Một Hà Bắc cổ trong lòng đất" (Hà Bắc, 1981) phần Mở Đầu[11], tôi triển khai việc phân tích hai cặp đối ứng này.
Từ đầu thời đồng thau (Phùng Nguyên) đến đầu thời đại sắt (Đông Sơn), theo với tăng nhanh về số dân, do áp lực dân số, và theo với hình thành bước đầu về miền trung và hạ châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình (còn nhiều ô trũng lầy lội, đồng bằng chưa thành hình xong).
Diễn ra quá trình triển nở các cộng đồng Việt cổ từ vùng cao (chân núi và miền đất cao châu thổ) xuống vùng thấp.
Sự kiện lịch sử đó dài hàng ngàn năm được huyền tích tả như biến cố chia con cái của cặp vợ chồng khởi nguyên "Mẹ Âu - Bố Lạc" :
100 con (tượng trưng số nhiều) vốn trước kia ở với Mẹ Âu tại vùng núi, nay xẻ ra 50 con theo Bố Lạc về miền xuôi, miền nước, miền đồng bằng hạ bạn. Đi với sự kiện lịch sử là nảy sinh TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
*Trống đồng nảy sinh:
1. Người Việt cổ khai thác miền châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả nghĩa là khi có nền tảng nghề nông trồng lúa nước phát triển - cả lúa mùa ở vùng ruộng cao.
Cả lên chiêm vùng đồng trũng - với cơ cấu cây trồng tương đối ổn định, xoay quanh trung tâm CÂY LÚA NƯỚC, cả lúa nếp và lúa tẻ, tẻ dần thay nếp trong bữa ăn của người Việt cổ cũng do áp lực dân số khi triển khai xuống đồng bằng[12] .
Ngoài lúa và đậu (cây cung cấp chất đạm luôn theo cây cung cấp chất bột), rau (đặc biệt rau muống, cây đặc sản ở vùng nước, ngoài bầu bí là giống có trước ở vùng núi, vùng cao), các loại cây có củ:
Khoai, ngoài các loại củ từ, củ lỗ, khoai mài, khoai sọ.. vốn có sẵn ở vùng cao, nay thêm loại khoai lang, do đồng bằng ven biển có liên hệ với vùng ven biển và hải đảo Thái Bình Dương.
Do liên hệ này mà miền đồng bằng ven biển Bắc Bộ trồng mía, các loại cây có sợi (đay gai) và cây dâu tằm, các loại cây ăn quả (trồng ở VƯỜN, ngoài RUỘNG: Lúa, đậu).
2. Nông dân tăng tiến về dân số, nông nghiệp phát triển về vườn ruộng, về cây trồng và năng suất (nhờ độ phì của đất phù sa đồng bằng cùng kỹ thuật nông nghiệp phát triển) cũng có nghĩa hệ thống xóm làng phát triển, từ vùng cao xuống vùng thấp:
Sông ngòi và những dải đồi núi chia cắt địa hình miền trung du và đồng bằng thành từng vùng.
Do nhu cầu chống lũ lụt và do sức ép về dân số cần khoanh vùng lấy ruộng nương trồng trọt, xuất hiện đê điều, từ vùng trũng chân núi lan dần ra ven biển lên vùng cao.
Đê điều chặn đứng hình thành tự nhiên đến phút chót của miền châu thổ, góp phần chia cắt đồng bằng thành từng ô, từng vùng, tương đối độc lập về nguồn nước. Thực tế VÙNG nhỏ dần lên trên biển xóm làng.
TRÂU và VOI, con để cày, để thịt và con để cưỡi, để tải đồ, từ thời đồng thau sang thời sắt, cùng tăng năng suất và khả năng sản xuất sản phẩm thặng dư, đẩy mạnh phân hóa xã hội. Tầng lớp thủ lĩnh nảy sinh ở các VÙNG.
Chiến tranh cướp bóc, tăng cường trao đổi giữa vùng cao và vùng thấp, giữa núi rừng và đồng bằng và miền hải đảo, càng tăng cường uy thế quân sự, kinh tế của thủ lĩnh địa phương.
Quyền lực chính trị Tiền - Nhà nước (Pouvoir pré-étatique) nhô lên dần từ hệ thống những chức năng phục vụ cộng đồng và dần phủ định chúng.
3. Biểu tượng quyền lực mới nảy sinh này là cần thiết.
Hình thái văn hóa, là biểu tượng. Tiếng nói, thành tựu văn hóa lớn của loài người là hệ thống biểu tượng. Nghệ thuật tạo hình là hệ thống biểu tượng khác.
Chữ viết ra đời ở nhiều nơi thời đại đồng, sắt cũng là hệ thống biểu tượng mới. Đồ vật, dụng cụ có thể có ý nghĩa biểu tượng. Tôn giáo bao hàm một hệ thống biểu tượng v. V..
Ta gọi là biểu tượng để dùng định nghĩa của Carl Gustav Jung, một danh từ, một tên gọi, một hình ảnh hay một đồ vật, tuy quen thuộc hàng ngày, nhưng gợi thêm những ý nghĩa khác thêm vào ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của nó[13] .
Biểu tượng quyền lực thủ lĩnh có thể là CON NGỰA, CÂY "GẬY CHỈ HUY", THANH GƯƠM.. của các tộc người chăn nuôi - hay làm nông nhưng có nuôi ngựa và do đó có tầng lớp kỵ sĩ hay kỵ binh.
Nền văn hóa Việt cổ không có những biểu tượng ấy, hay chỉ có về sau, sau quá trình hỗn dung văn hóa. Thay vì ngựa, trong văn hóa Việt cổ là voi.
Thay vì gậy chỉ huy hay thanh gươm, văn hóa Việt cổ là cái rìu chiến (rìu to lưỡi xéo, có chạm khắc hoa văn).
Cùng voi, rìu chiến và trên mọi cái đó, biểu tượng tập trung, điển hình, độc đáo của quyền lực thủ lĩnh là BỘ GÕ, là CỒNG BÀ, là LỆNH ÔNG, nhất là TRỐNG ĐỒNG.
Ngành âm nhạc học làm sáng tỏ vì sao BỘ GÕ (tức là TIẾT TẤU) từng đóng vai trò chủ thể trong âm nhạc dân tộc - dân gian..
Trong âm nhạc truyền thống Đông Nam Á và Châu Phi đen (phải chăng có nền tảng từ khi nhân chủng Đông Nam Á còn chủ yếu là nhân chủng ĐEN, nghĩa là từ thời đại đá).
Một cái nhìn dân tộc học, từ hiện tại ngược về quá khứ, cho thấy vai trò thông tin, ra lệnh của lệnh, cồng, trống, mõ..
Từ khía cạnh biểu tượng quyền lực cộng đồng đến khía cạnh biểu tượng quyền lực cá nhân thủ lĩnh của chúng, bất cứ chất liệu tre, gỗ, da.. hay là kim khí.
4. Khi trên biển "nông dân - nông nghiệp - xóm làng", trên biển thôn dã nổi lên những quyền lực tiền - nhà nước của chế độ thủ lĩnh địa phương, chế độ:
"Lạc Tướng", "Lạc Hầu ăn ruộng" đối với những "Lạc dân làm ruộng", đó cũng là lúc CÔNG THƯƠNG NGHIỆP - đặc biệt là kỹ thuật luyện kim, trao đổi kim loại phát triển.
Và thương nghiệp thời cổ, bao giờ cũng gắn liền chiến tranh cướp bóc, với di động dân cư.
Nếu ở thời cuối đá mới - đầu thời đồng, thấy nổi lên liên hệ rộng rãi giữa miền ven biển Việt Nam và miền ven biển Đông Nam Hoa Nam (có thể đánh dấu di động của đám dân cư thuộc ngữ hệ malayo - polynésien), đến cuối thời đồng - đầu thời sắt - thời ĐÔNG SƠN, thời TRỐNG ĐỒNG thấy nổi lên mối liên hệ chặt chẽ:
"VIỆT ĐIỀN - DẠ LANG" từ đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ qua các thung lũng Việt Bắc, Tây Bắc mà móc nối với miền Nam Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam là mối liên hệ giữa các khu vực LẠC VIỆT - ở châu thổ sông Hồng ÂU VIỆT hay Âu TÂY - ở khu vực:
Việt Bắc và Nam Quảng Đông - Quảng Tây, DẠ LANG ở Quý Châu - trên đường hành lang sang đất THỤC ĐIỂN ở Vân Nam - trên đường hành lang sang miền đồng cỏ ở Trung Á.
Trên đường hành lang giữa miền châu thổ các sông lớn ở Đông Nam Á (văn minh của những dòng sông - văn minh thôn dã, thảo nguyên - văn minh thảo nguyên, văn minh du mục). Thung lũng là gạch nối giữa miền xuôi - miền ngược.
Điều đó dễ hiểu. Vì Việt Bắc, Tây Bắc cũng như Quảng Tây, Vân Nam.. là những xứ mỏ đồng, thiếc, chì, kẽm, sắt.. những nguyên liệu đang cần đến.
Họ có muối, vỏ sò, Cauris.. của miền ven biển và lương thực thực phẩm dư thừa của miền đồng bằng để đổi lấy những đàn đại gia súc (trâu, bò, voi) và quặng mỏ miền sơn địa.
Nếu mỗi vùng ( "bộ lạc") của miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có một hay vài trung tâm luyện kim (khảo cổ học Việt Nam đang làm sáng tỏ điểm này) ta cũng biết một trong những cội nguồn của thủ lĩnh địa phương là những ÔNG THỢ CẢ của nghề luyện kim (các "vua - thợ rèn" "roi - forgeron" của miền Châu Phi đen là mẫu hình).
Trống đồng là sản phẩm đạt hoàn hảo, tinh xảo kỹ thuật và nghệ thuật đúc đồng.
Dù hình thức, nó bắt nguồn từ nồi đất từ quả bầu hay từ cái gì khác, nó cũng thành biểu tượng tập trung, điển hình quyền lực thủ lĩnh - tiền nhà nước ( "Lạc Hầu", "quản trưởng") và nhà nước (VUA HÙNG, VUA THỤC), quyền lực bao tỏa nền văn minh thôn dã Việt cổ.
Những ÔNG THỢ CẢ LUYỆN KIM, chủ nhân trống đồng đồng thời là chủ những thương đoàn lái buôn xuôi ngược, những ông lái bò, lái trâu, lái đồng.. với những thế ứng xử khôn xảo, phóng túng..
Khác xa các bà buôn gồng bán gánh, buôn thúng bán mẹt trong mạng lưới "chợ quê" bao quanh nền văn minh thôn dã.
Các thương đoàn cổ đại thường là những đoàn quân thực sự và ông chủ thương đoàn đồng thời khoác diện mạo thủ lĩnh quân sự.
Đúc vũ khí Đông Sơn, phát động chiến tranh cướp bóc và phản chiến tranh là do họ. Huyền thoại của họ và về họ, là chuyện Phù Đổng, với mẫu câu ca còn sót lại:
"Ông Đổng mà đúc TRỐNG ĐỒNG."
5. Giao lưu kinh tế - văn hóa "VIỆT-ĐIỀN-DẠ LANG" ắt để lại dấu ấn đậm nhạt trên nền văn minh Sông Hồng và Văn hóa Đông Sơn, trên đồ đồng Đông Sơn và TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
Nhiều người bàn quan hệ Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Tấn Ninh (Vân Nam), mối quan hệ giữa mộ quan tài hình thuyền Việt Khê - Châu Can và mộ thuyền quan táng ở đất Ba - hơn là đất Thục (Tứ Xuyên).
Huyền tích "ngoa truyền trích quái" (lời Phương Đình) một cách mơ hồ gốc tích Thục Phán là con cháu vua Thục hay là "thủ lĩnh Ai Lao" ở miền Vân Nam, khảo cổ học đã tìm ra những dao găm "kiểu Tấn Ninh."
Những cán dao găm tượng người tết tóc kiểu tộc Khương (ngữ hệ Tạng Miến) ở Vân Nam cũng như vạch ra gốc tích phương Nam ven biển của những đống vỏ sò - tiền tàng trữ trong các đồ đựng - trống đồng ở Tấn Ninh.
Vạch ra "thần thái Đông Sơn" tuy vụng về, lệch lạc nghệ thuật chạm khắc trên đồ đồng Tấn Ninh, mẫu hình rìu có vai và rìu lưỡi xéo mà Bắc Việt Nam và Đông Sơn cung cấp cho cả Điền lẫn Thục.
Bàn khía cạnh khác của vấn đề này.
Nhà dân tộc - nghệ thuật học Nguyễn Tử Chi đối chiếu hoa văn Mường và hoa văn Đông Sơn nhận xét:
Cùng với "bầy thú" trên các trống đồng, những đồ án trang trí váy Mường xuất trình nghệ thuật động vật không mấy phổ biến ở Việt Nam (tôi nhấn mạnh -TQV) [14] .
Bắc Việt Nam là cái nôi Đông Sơn, TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.
Nhưng không phải khẳng định như vậy thì các nhà khảo cổ học Việt Nam nói "vơ vào", thừa nhận mọi yếu tố Văn hóa Đông Sơn và trống đồng Đông Sơn đều là những nhân tố nội sinh.
Không phải, cái ý sô vanh dân tộc trong khoa học cũng kệch cỡm như ý sô vanh dân tộc về chính trị.
Nền văn hóa, bên những yếu tố nội sinh, thường có những yếu tố ngoại sinh. Qua lịch sử, bao giờ cũng có những hiện tượng giao tiếp hay hỗn dung văn hóa cộng đồng tộc người.
Văn minh, như văn minh Sông Hồng hay văn minh Đại Việt ngày sau luôn là kết quả hội tụ, kết tụ và kết tinh, thành định luật, hiển minh.
Những thú vồ mồi trên nắp thạp đồng Vạn Thắng (Vĩnh Phú), những hình người và thú của đồ đồng Lăng Ngăm (Hà Bắc), dao găm và hình thú ở đồ đồng Làng Vạc (Nghệ Tĩnh) chịu ảnh hưởng nghệ thuật Tấn Ninh và miền thảo nguyên.
Không ai không biết nếu Đông Nam Á là xứ sở những nền văn hóa thực vật và văn minh thực vật[15] từ thời đá đến những thời sau, nơi đây không phải cái nôi phát sinh nền nghệ thuật động vật.
Cái nôi ấy phải tìm kiếm ở miền thảo nguyên Âu Á (Eurasie). Nếu học giả phương Tây truy tìm cội nguồn Văn hóa Đông Sơn ở phương Tây hay phương Bắc là sai lầm từ căn bản.
Có điều, ảnh hưởng ấy - và âm vang của nó trên TRỐNG ĐỒNG - không phải trực tiếp mà là nói xa xôi, gián tiếp.
Giữa khu văn minh thảo nguyên và khu văn minh những dòng sông nhiều hành lang, nhiều cầu nối.
Trục giao thông (thuỷ bộ) sông Hồng từ đỉnh Việt Trì tam giác ba châu Bắc Bộ, qua miền thung lũng, Tây Bắc, sang Vân Nam là một trong những hành lang ở đó.
Nằm trên đường hành lang này là những cư dân nói tiếng Tạng Miến - làm nghề nông và nửa chăn nuôi, nửa buôn bán, cư dân nước Điền thời Chiến Quốc - Hán hay của Nam Chiếu - Đại Lý thời Tuỳ, Đường, Tống.
Điền như Nam Chiếu, Đại Lý.. có quan hệ kinh tế văn hóa về nhiều mặt với cư dân miền đỉnh tam giác châu Bắc Bộ (Điền - Âu - Lạc, Nam Chiếu - An Nam đô hộ phủ, Đại Lý, Nùng Trí Cao, Lý, Trần).
Họ là Tổ tiên của những tộc Lô Lô, Hà Nhì, Khù Sung.. nay.
Theo Man Thư của Phàn Xước đời Đường, họ thường bán trâu ngựa cho An Nam và đổi lấy muối..
Nùng Trí Cao chống Tống muốn vào Đạo Đặc Ma của Đại Lý mua ngựa[16] .
Trước đó, thời Tam Quốc, Sĩ Nhiếp ở Giao Chỉ vẫn liên hệ thủ lĩnh người Di là Ung Khải ở Ích Châu[17] .
Con đường từ Mê Linh (Sơn Tây cũ - Vĩnh Phú) qua Bôn Cổ đến Ích Châu (trị sở là Điền Trì, trung tâm chính trị - văn hóa nước Điền ngày trước), theo lời Mã Viện dẫn ở Thuỷ Kinh Chú, là đường giao thông thuận tiện.
Đó là đường giao lưu trống đồng phía Nam (Lạc Việt) lên và gia súc lớn cùng nghệ thuật động vật ở phía Tây Bắc xuống.
Điền - và "loài Mi Mạo" nói chung như Hán Thư ghi thuộc nhóm Bách Bộc cổ đại - là kẻ "chuyển tải" những thành tựu văn hóa Bắc Nam.
Họ làm nông và làm trung gian trao đổi: Miền Tây Trung Bộ Vân Nam gắn liền với miền thảo nguyên của những đàn động vật lớn của cư dân cùng ngữ hệ Tạng Miến như Điền - Nam Chiếu, gắn liền miền lưu vực các sông, nơi có vựa lúa cư dân Môn - Khơ-me và Tày Thái cổ.
Các tư liệu lịch sử đều ghi đổi trâu bò - gia súc lớn - lấy trống đồng (1 trống đồng = 7- 800, 1000 con). Hiển nhiên những tộc có các đàn gia súc lớn không phải những tộc đúc trống đồng.
Nói trống đồng bắt nguồn từ miền Tây Trung Bộ Vân Nam và Tây Nam Quảng Tây là không chính xác.
Tôi vẫn cho Bắc Việt Nam (và miền Tây Nam Quảng Tây) là quê hương TRỐNG ĐỒNG và những thủ lĩnh Tày cổ - và Môn - Khơ-me cổ chịu ảnh hưởng sâu đậm Tày cổ là chủ nhân đầu tiên trống đồng.
Nhưng tôi nghĩ miền Tây Trung Bộ Vân Nam (khu cư trú các tộc thuộc ngữ hệ Tạng Miến làm nông thờ cổ) cung cấp cho:
Văn hóa Đông Sơn nói chung, trống đồng nói riêng, ảnh hưởng nghệ thuật động vật của miền thảo nguyên.
Những cư dân đó và nền nghệ thuật động vật đó cấp cho cư dân Đông Sơn - cư dân này là kết quả hòa trộn và hòa hợp các cư dân Tày Thái cổ - vốn tụ cư ở miền Việt Bắc và trên miền trước núi sườn Đông Bắc tam giác châu Bắc Bộ, cư dân Môn, Khơ-me cổ - vốn sinh sống ở vùng:
Sườn Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trường Sơn, cư dân Mã Lai - Đa Đảo cổ - vốn sinh sống ở Vịnh Bắc Bộ và ven Biển Đông, cạnh đáy tam giác châu Bắc Bộ - tức người Việt cổ, một số từ vựng gốc Tạng Miến, hình thức tết tóc, một số hình loại dụng cụ, vũ khí.. đặc biệt là hình thức Sa-man giáo (Chamanisme).
Biểu tượng của thế giới thủ lĩnh, trống đồng - như người Lô Lô, người Mường gần đây sử dụng - còn là vật thiêng làm trung gian giao tiếp giữa CON NGƯỜI và THẦN LINH, giữa CÕI SỐNG và CÕI CHẾT:
Đồng cổ dữ Man ca
Nam nhân kỳ trại đa..
(Trống đồng và bài hát Man
Người Nam cầu cúng nhiều)
Cúng tế quỷ thần, cúng tế khi đau ốm, cúng tế cầu mưa, cúng tế tang lễ.. tất cả đều sử dụng TRỐNG ĐỒNG làm gạch nối THẦN - NGƯỜI.
Hình ảnh mờ nhạt các pháp sư Sa-man ở người Mường trước Cách mạng là những "thầy mo" :
Tiếng trống đồng linh thiêng mở đầu những tang lễ do thầy mo chủ trì và sau đó là những bài mo - từ những bài cúng "siêu thăng" linh hồn người chết sau thành phức thể hệ thống hóa những mảng huyền thoại cổ xưa vỡ vụn và tan biến vào những chuyện kể.
Nếu đạo Vu Nghiễm rất đậm đà trong nền văn hóa Sở - mà Sở từ cửu ca của Khuất Nguyên có bóng dáng các bài văn cúng - và "Việt phương", tức phương thuật của người Việt - Vua Hùng, theo Đại Việt Sử Lược, cũng là phương sĩ (magicien), Hán Vũ Đế hết lời tán tụng[18], tàn dư mờ nhạt của Sa-man giáo ở người Việt trước Cách mạng còn thấy ở tín ngưỡng đồng cốt.
(Đồng ngụ ý hồn nhiên trong trắng như đồng tử, nhi đồng. Cốt là xương, chỉ vào xương người chết kết thành tinh, tục cải táng thu xương của người Việt còn chưa nói tiếng cuối cùng).
"Tất cả thủ tục vu nghiễm Sa-man giáo cổ truyền đều theo đuổi một mục đích:
Phá khuôn khổ phàm tục cảm giác. Những giọng hát đều đều, những nhịp điệu của trống phách, bài ca, bài cúng.. nhắc đi nhắc lại, mệt mỏi, trai giới của nhịn ăn, nhảy múa, thuốc ma tuý v. V.. rút cục tạo hoàn cảnh cảm giác mở vào" siêu nhiên "..
" Con công để từ "cố gắng chết đi ở cảm giác phàm tục để tái sinh vào cảm giác thần bí.
Cảm giác này biểu lộ ra bằng cách mở những khả năng cảm giác, hay là bằng cách thu những năng khiếu siêu cảm giác phi thường" [19] .
"Khả năng tự thấy mình như bộ xương dĩ nhiên ngụ ý nghĩa tượng trưng về chết đi và phục sinh; bởi" thu về bộ xương "đối với dân đi săn và dân du mục là phức thể nghi lễ tượng trưng lấy trọng tâm là ý tưởng về sự SỐNG luôn hóa sinh không ngừng" [20] .
Pháp sư Sa-man và các đệ tử có tu luyện thần bí liên quan chiêm ngắm chính bộ xương mình.
"Tập luyện tinh thần như thế ngụ ý vượt ra ngoài thời gian, vị pháp sư Sa-man không những tiên tri về nội quan sự chết của thể xác, mà còn thấy lại được cái người ta có thể được là nguồn sống trường cửu là bộ xương.
Đối với dân đi săn và du mục, xương tượng trưng cỗi rễ cùng tột của sự sống động vật, cửa ngõ cho da thịt luôn xuất hiện.
Chính từ xương cốt mà động vật và loài người tái sinh; chúng dừng lại ít lâu ở đời sống thần xác và đến lúc chết, đời sống của chúng kết tinh vào xương cốt để lại tái sinh theo vòng luân hồi bất tuyệt..
(Sự chiêm ngắm bộ xương của mình hay là những kỹ thuật tu luyện tinh thần trước xác chết, bộ xương người hay sọ người chết) đối với pháp sư Sa-man của những dân tộc đi săn và du mục có nghĩa là thấy lại nguồn sống cùng tột của động vật, tức là tham gia vào Bản thể" [21] .
V. Goloubew mang so sánh cách trang trí trên các trống đồng với cách trang trí trên trống của pháp sư Sa-man Mông Cổ[22], so sánh trang trí trên mặt trống với cảnh trong lễ Tiwha - lễ tang của người Dayak..
Chúng ta cũng thấy trên một qua đồng Đông Sơn có cảnh người cầm đầu giơ lên.
Có thể lễ tang của người Đông Sơn, của người Mường ngày trước và việc cải táng thu xương cũng như tín ngưỡng đồng cốt của người Việt trước đây đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng Sa-man giáo của các dân tộc đi săn và chăn nuôi miền thảo nguyên thông qua các tộc Tạng - Miến miền Tây Bắc Việt và Tây Trung Bộ Vân Nam.
Bên trên, tôi đã phản bác quan điểm gán cho chủ nhân trống đồng những ý niệm về Tô-tem giáo; tôi đã nêu lên một giả thuyết về ảnh hưởng của Sa-man giáo từ vùng thảo nguyên Âu Á tràn vào tâm thức cư dân làm chủ khu vực văn hóa trống đồng.
Nhưng vết hằn sâu sắc nhất trong tâm thức người Việt cổ chủ nhân trống đồng loại 1 Heger, chủ nhân Văn hóa Đông Sơn, lẽ cố nhiên phải là tâm lý, tâm thức của cư dân nông nghiệp, cư dân trồng lúa nước.
Tín ngưỡng, tôn giáo chính của họ là những lễ thức nông nghiệp và hình thái sinh hoạt văn hóa cộng đồng cơ bản của họ phải là những hội mùa.
Về vấn đề này, tôi cũng như nhiều tác giả khác đã bàn nhiều lần. Dưới đây, chỉ xin nhấn mạnh thêm vài ý kiến, chi tiết.
Con người, từ thời đại đá chuyển qua thời đại đồng dần vứt bỏ quan niệm "năng lượng" ồ ạt sức sống của tôn giáo nguyên thuỷ, để xây dựng - hay tiếp thu - một vũ trụ luận quy phạm hơn, trí tuệ hóa hơn, vì dựa trên độ dày[23] kiến thức thiên văn và nông nghiệp các cộng đồng trồng trọt.
Biểu tượng mặt trời chiếm vai trò trung tâm trên trống đồng gắn liền với hình thái thờ mặt trời của cư dân Đông Sơn[24] .
Mặt trời - và theo với nó là cả khối năng lượng kiến thức thiên văn học sơ khai chiếm lĩnh địa vị chủ đạo trong tâm thức và ý thức hệ tôn giáo cư dân Đông Sơn.
Hình thái thờ mặt trời không chỉ biểu hiện mối quan hệ của CON NGƯỜI (người trồng trọt) với TỰ NHIÊN mà còn biểu hiện quan hệ xã hội (tuân phục) giữa CƯ DÂN và THỦ LĨNH (vua) :
Những ông "vua" cổ đại thường tự đồng nhất với MẶT TRỜI.
Một nguyên lý phổ biến của vũ trụ luận của nhiều xã nông nghiệp là nguyên lý lưỡng hợp.
Bài "Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng", tôi khai triển chứng minh về nguyên lý này được hằn lên từ TRỐNG ĐỒNG và ĐỒ ĐỒNG ĐÔNG SƠN cũng như từ những mẫu huyền thoại và huyền tích Việt Nam.
Những cặp biểu tượng lưỡng hợp cho thế giới bên trên và thế giới bên dưới (dưới đất, dưới nước) thể hiện trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn rất rõ rệt:
Chim - Cá, Chim - Cá Sấu, Chim - Rắn, Chim - Hổ, Voi - Rắn..
Dựa những tư liệu dân tộc học Mường của Nguyễn Từ Chi, Lê Văn Lan nêu giả thuyết về trống đồng là biểu hiện của mô hình vũ trụ "ba chiều - bốn thế giới" :
Cõi trời và cõi đất ở phía trên, diễn đạt thành mặt trống, và cõi Âm ở phía dưới, diễn đạt thành thân trống[25] .
Đó là giả thuyết đáng lưu ý. Từ đó mà nói cái gọi là TRỐNG ĐỒNG vốn không phải TRỐNG (nhạc cụ thuộc bộ gõ) mà chỉ là mô hình vũ trụ thì lại là điều tôi không thể chấp nhận được.
Nên chăng nói rằng trống đồng, ngoài chức năng cụ thể là bộ gõ, còn là biểu tượng, toát lên ý niệm về biểu tượng vũ trụ luận của người Việt cổ Đông Sơn.
Nếu chấp nhận cái khái niệm "không gian xã hội" mà G. Condominas định nghĩa là "Toàn bộ hệ thống tương quan đặc trưng cho một nhóm người xác định" [26] trong đó bao hàm không gian thực và không gian ảo (trong huyền thoại) thì ta có thể nói:
"Tâm thức cư dân Việt cổ, không gian xã hội bao hàm Cõi Trên / cõi chết, Cõi Đất / cõi dưới, cõi Sống, cõi Nước. Hệ tư duy về không gian xã hội, theo tôi vẫn là hệ tư duy lưỡng hợp."
Cuối cùng, tôi xin nói ít về cơ cấu thời gian trong tâm thức Việt cổ. Thời gian thôn dã, thời gian nông nghiệp là thời gian chu kỳ (temps cyclique), biểu hiện như vòng tròn.
Các băng trang trí trên mặt trống, mặt thạp đều là những vành tròn trong đó có người và động vật đều chuyển động theo - một hướng ngược chiều kim đồng hồ, tức là ứng với chuyển động ảo của mặt trời.
Tôi ngờ rằng tượng 4 cóc (hay 4 cặp cóc) trên trống đồng hay tượng 4 cặp trai gái giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh là tượng trưng của 4 tiết (xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí) trong một năm - một chu kỳ thời gian của cư dân Việt cổ trồng trọt ở thời đại Đông Sơn.
Chú thích
1. Trần Quốc Vượng: Những hằng số cùng sự thăng trầm của văn hóa và lịch sử Đông Nam Á; trong Kỷ Yếu Hội Nghị Khoa Học Đông Nam Á lần thứ nhất.
2. Trần Quốc Vượng: Vấn đề người Lạc Việt, Thông Báo Sử Học, Hà Nội, 1962.
3. Nguyễn Duy Hinh: Trống đồng trong sử sách, Khảo Cổ Học, số 13, tr. 18, 1974.
4. Trần Quốc Vượng: Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng, Khảo Cổ Học, số 14, tr. 71-71, 1974 (Xem bài số 1).
5. Nguyễn Duy Hinh: Sđd.
6. L. Finot: Những thời đại lớn ở Đông Dương (chữ Pháp), Parmentier; Những trống đồng cổ (chữ Pháp), Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ, T. XVIII, Hà Nội, 1918. Xem V. Goloubew, Thời đại đồ đồng thau ở Bắc kỳ và Trung kỳ (chữ Pháp), Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ, T. XXIX, Hà Nội, 1929.
7. Claude Lévi Strauss: Đạo Vật Tổ ngày nay (chữ Pháp), Paris, 1962.
8. S. A. Tokarev: Các hình thái tôn giáo sơ khai (chữ Nga), Moscow, 1974.
9. S. A. Tokarev: Sđd.
10. Đặng Nghiêm Vạn - Nguyễn Trúc Bình: Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, Hà Nội, 1972.
11. Trần Quốc Vượng - Trần Đình Luyện và Nguyễn Ngọc Bích: Một Hà Bắc cổ trong lòng đất, Hà Bắc, 1981, tr. 13-31.
12. Carl Gustav Jung: Thăm dò tiềm thức, bản dịch, Sài Gòn, tr. 16, 1967.
13. Nt, Chương I.
14. Nguyễn Từ Chi: Ký họa Mường (chữ Pháp), Dữ kiện dân tộc học, tạp chí Etudes Vietnamiennes, số 3, Hà Nội, tr. 88, 1971.
Trần Từ: Hoa văn Mường, Hà Nội, tr. 64, 1978.
15. P. Gourou: Nền văn minh thực vật (chữ Pháp), Hà Nội, 1940.
16. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt (Lịch sử ngoại giao và tôn giáo triều Lý), Hà Nội, 1949.
17. Tam Quốc Chí, Ngô Chí, Sĩ Nhiếp truyện.
18. Hán thư, Vũ Đế bản kỷ.
19. Mircea Eliade: Huyền thoại, giấc mơ và huyền bí (chữ Pháp), Paris, tr. 113, 1953.
20. Nt.
21. Nt.
22. V. Golobew: Trống ma thuật Mông Cổ (chữ Pháp), Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ, T. XXXII, Hà Nội, 1932.
23. Trần Từ: Sđd. 29
24. M. Colani: Dấu tích của một hình thái thờ mặt trời ở Đông Dương (chữ Pháp).
25. Lê Văn Lan: Những chiếc trống đồng cổ ở Việt Nam, Hà Nội, 1976.
26. G. Condominas: Không gian xã hội - Về khu vực Đông Nam Á, Flammarion, Paris, 1980.
Thực ra, vũ trụ luận của người Mường, theo tìm hiểu của Nguyễn Từ Chi, là hỗn dung hai kiểu loại vũ trụ luận khác nhau:
1. Vũ trụ luận "ba tầng, bốn thế giới" : Tầng trên Trời - tầng Giữa và tầng Dưới. Tầng Dưới lại được chia thành hai thế giới. Thế giới Dưới nước và thế giới Dưới đất.
2. Vũ trụ luận "hai bên" : Người Mường quan niệm ở tầng người có hai bên:
Một bên là Mường của người sống và một bên là Mường của người chết (Mường Ma).
Nguồn
Web vanhoahoc
Còn tiếp
Chỉnh sửa cuối: