Văn hóa Cái Bèo có niên đại trước nền Văn hóa Hạ Long. Di chỉ Cái Bèo phát hiện năm 1938 trong lần thám sát khảo cổ học ven biển khu vực liên quan thuộc vùng Vịnh Hạ Long nay.
Di chỉ Cái Bèo khai quật hơn 479 công cụ như chày, bàn nghiền, bàn mài, hòn kê, rìu bôn, đục, chì lưới.. bằng đá cuội. Đồ gốm thô cứng làm từ đất sét và cát hạt khô, bếp, di cốt người; các xương răng động vật, xương thú như lợn rừng, nai, dê núi.
Theo các nhà khảo cổ học, di chỉ Cái Bèo thuộc nền Văn hóa Hạ Long, bởi phân tích rõ ra là cư dân Cái Bèo cùng thời gian và xu hướng chuyển cư của người Hòa Bình – Bắc Sơn từ vùng núi xuống biển.
Sau đợt biển tiến Haloxen Trung làm nảy sinh các hoạt động kinh tế riêng biệt của từng vùng. Riêng cư dân đảo Cát Bà, trong đó có người cổ Cái Bèo làm nghề đánh cá là chủ yếu.
Nguồn:
Wikipedia
Khám phá Cái Bèo
Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển có quy mô lớn, địa tầng dày, có tổ hợp di tích và di vật phong phú.
Các vết tích văn hóa cho thấy đây là làng chài ven biển cổ nhất được biết hiện nay ở Việt Nam. Cái Bèo là điểm đến hấp dẫn trong chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà, Hải Phòng thành trung tâm du lịch quốc gia và quốc tế.
Di chỉ Cái Bèo nằm cách trung tâm thị trấn Cát Bà 1, 5km về phía Đông Nam. Đây là thung lũng bằng phẳng, 3 mặt núi đá vôi bao bọc, mặt Đông quay ra biển. Khu di chỉ rộng 800m2, dốc thoải từ Nam ra Bắc, cao 3, 5m so với mặt biển.
Cách di chỉ 200m là dãy núi Áng Thảm và Bù Nâu chạy vòng cung ôm lấy Cái Bèo, làm nơi đây kín gió, biển không ồn ào, phong cảnh hữu tình, thuận cho sinh sống và khai thác thủy sản.
Có lẽ vẻ đẹp thiên nhiên quy tụ về đây, cùng thuận lợi về địa thế, phong phú về sản vật nên dân cư cổ Cái Bèo quần tụ lâu dài tại đây, tạo nền văn hóa đặc sắc.
Theo tài liệu và nghiên cứu khảo cổ học vùng ven biển, hải đảo Đông Bắc Việt Nam của PGS. TS Nguyễn Khắc Sử - Viện Khảo cổ học Việt Nam, năm 1938 nữ khảo cổ học người Pháp M. Colani có công phát hiện và tiến hành thám sát vịnh Cá trên đảo Cát Bà, đó là di chỉ Cái Bèo hiện nay.
4-1972, cán bộ khảo cổ học Nguyễn Văn Hảo tiếp tục đào 2 hố thám sát và lấy tên là di chỉ Cát Bà. Kết quả thám sát cho thấy địa tầng mang dấu tích của người Việt cổ dày 0, 5 - 0, 9m, đất màu nâu pha nhiều sỏi.
Hiện vật thu gồm 2 rìu đá, 7 bàn mài rãnh hình ống máng, 1 chì lưới và nhiều mảnh gốm xốp. Theo kết luận của các nhà khảo cổ học, hiện vật thuộc Văn hóa Hạ Long.
Từ đó đến nay, di chỉ Cái Bèo được Viện Khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức khai quật thám sát di chỉ 4 lần các năm 1973, 1981, 1986, 2006, lấy tên di chỉ Cái Bèo.
Qua khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện nhiều lớp đất cấu tạo khác nhau, nằm theo trật tự nhất định hợp thành tầng văn hóa khá dày, khoảng 2, 6m và có thể phân biệt 3 lớp sớm, muộn.
Lớp 1 thuộc sơ kỳ thời đồ đá mới, cách nay khoảng 7000 năm.
Lớp 2 thuộc hậu thời đại đá mới, cách nay 3.000 năm và lớp 3 thuộc Văn hóa Hạ Long, cách đây 4000 năm. Hơn 479 hiện vật gồm:
Chày, bàn nghiền, bàn mài, hòn kê, rìu bôn, đục, chì lưới, nồi gốm, dụng cụ ghè đẽo, chặt thô, mũi nhọn, đòn kê, chày; quanh bếp nấu và hố rác bếp là những xương, răng cá và thú. Những hiện vật này thuộc các niên đại khác nhau từ 4000 - 7000 năm.
Kết quả thám sát cho thấy Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển quy mô lớn, địa tầng dày, tổ hợp di tích và di vật phong phú.
Những vết tích văn hóa ở đây phản ánh phát triển kế tiếp từ trung kỳ đá mới - đặc trưng cho Văn hóa Cái Bèo, sang hậu kỳ đá mới - đặc trưng cho Văn hóa Hạ Long.
Theo PGS. TS Nguyễn Khắc Sử, di chỉ khảo cổ Cái Bèo là một trong những di tích quý hiếm nhất vùng duyên hải Bắc Bộ.
Đây là làng chài ven biển cổ có quy mô lớn nhất hiện biết ở Việt Nam.
Di chỉ Cái Bèo xếp hạng Di tích Quốc gia 2009. Đây là DSVH biển tiêu biểu, đặc sắc Việt Nam, bảo tàng địa chất tuyệt vời về dao động mực nước biển đại dương.
Tiếp nhận và thích ứng của con người trước hiện tượng biển tiến, biển thoái là bài học cho chúng ta hôm nay trước nguy cơ xâm thực nước biển do biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, thơ mộng thiên nhiên và cuộc sống nhộn nhịp làng chài giúp Cái Bèo hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.
Chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà thành trung tâm du lịch cấp quốc gia và quốc tế, một trong những địa chỉ được huyện Cát Hải quan tâm là quản lý khai thác và phát huy giá trị văn hóa di chỉ Cái Bèo.
Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin Cát Hải Vũ Tiến Lập cho biết, Phòng Văn hóa - Thông tin tăng quản lý để dân không làm ảnh hưởng khu di chỉ.
Phòng tham mưu cho UBND huyện xây dựng văn bản trình Sở VH, TT và DL bố trí ngân sách trong chương trình mục tiêu của thành phố đầu tư xây dựng và cải tạo di chỉ Cái Bèo thành điểm tham quan.
2013, UBND huyện Cát Hải, Hải Phòng quyết định đầu tư 1 tỷ đồng từ ngân sách huyện để xây dựng tường rào bảo vệ khu di chỉ.
Minh Anh
Nguồn:
Web daibieunhandan
Di chỉ Cái Bèo qua khai quật
Địa điểm khảo cổ học Cái Bèo thuộc địa phận xã Đông Hải, đảo Cát Bà (Hải Phòng), cách thị trấn Cát Bà khoảng 1, 5km phía Đông Nam, tọa độ: 20o43'8' vĩ Bắc và 107o03'2' kinh Đông.
Di chỉ nằm giữa thung lũng đá vôi, chạy dài theo hướng Bắc – Nam, độ cao trung bình 4m so mặt nước biển. Theo khảo cứu của Viện Khảo cổ học Việt Nam, Cái Bèo là di chỉ khảo cổ học có giá trị quan trọng nhất hiện nay ở vùng ven biển và hải đảo Đông Bắc Việt Nam.
1938, nữ khảo cổ học người Pháp là M. Colani phát hiện ra di chỉ ngoài trời là Vịnh Làng Chài (Cái Bèo), trên đảo Cát Bà. Từ đó đến nay, 4 lần khai quật tại đây.
4-1972, đoàn cán bộ Viện Khảo cổ học do ông Hoàng Xuân Chinh (trưởng đoàn), Nguyễn Văn Hảo (cán bộ Viện Khảo cổ học) đào 2 hố thám sát trên di chỉ này, đặt tên di chỉ Cái Bèo.
Kết quả thám sát cho thấy:
Tầng văn hóa dày từ 0, 5 – 0, 9m đất có màu nâu pha nhiều sỏi. Hiện vật:
Rìu đá, bài mài rãnh hình ống máng, chì lưới và nhiều mảnh gốm xốp, giống M. Colani thám sát được. Những hiện vật khai quật lần này xếp vào Văn hóa Hạ Long, niên đại hậu kỳ thời đại đá mới.
Đóng góp thêm tư liệu nghiên cứu Văn hóa Hạ Long, một trong những nền văn hóa hậu kỳ đá mới ở vùng biển Đông Bắc Việt Nam, 16-8-1973, Viện Khảo cổ học phối hợp Sở VHTT Hải Phòng khai quật địa điểm Cái Bèo. Cán bộ khai quật:
Hoàng Xuân Chinh (trưởng đoàn), Nguyễn Khắc Sử, Phạm Lý Hương, Võ Quý, Phan Tiến Ba (cán bộ nghiên cứu Viện Khảo cổ học), Nguyễn Duyên Bằng (cán bộ nghiệp vụ Sở VHTT Hải Phòng). Đợt khai quật kết thúc 30-9-1973.
Kết quả khai quật:
Cấu tạo tầng văn hóa:
Lớp văn hóa đầu nằm trên lớp sinh thổ, ở độ sâu 2, 5 – 3, 2m, hiện vật là công cụ cuội ghè đẽo tạo loại rìu ngắn, mũi nhọn, chày nghiền, bàn nghiền; đồ gốm có gốm dày thô; xương động vật và vỏ sò lớn.
Lớp văn hóa thứ 2 ở độ sâu 1, 2 – 2, 4m, hiện vật chủ yếu trong lớp này là công cụ ghè đẽo, công cụ mài; đồ gốm cứng thành mỏng; lớp này tập trung nhiều xương cá và xương thú.
Lớp văn hóa thứ 3 ở độ sâu 0, 2 – 1, 2m, hiện vật chủ yếu là gốm xốp, gốm cứng mỏng và công cụ đá được mài toàn thân, vắng mặt xương cốt động vật.
Hiện vật khai quật lần này là 484 hiện vật đá trong đó có 2 vòng tay đều bị gãy tìm thấy ở độ sâu 0, 6m, hai đầu mảnh vòng có khoan hai lỗ thủng để nối ghép hay buộc dây, tinh thể thạch anh tìm thấy ở độ sâu 0, 65m có hình lăng trụ lục giác không đều, một đầu nhọn và một đầu bị gãy thuộc loại đá cứng màu trong suốt; 19.282 mảnh gốm, 2 chạc gốm còn tương đối nguyên vẹn; nhiều xương răng thú và cá.
Qua khai quật này các nhà nghiên cứu phát hiện lớp văn hóa đầu thuộc sơ kỳ thời đá mới, lớp tiếp theo thuộc hậu kỳ thời đá mới, lớp cuối thuộc Văn hóa Hạ Long.
Nói chung tầng văn hóa Cái Bèo là di chỉ khảo cổ học có địa tầng nguyên vẹn là cơ sở đáng tin cậy cho nghiên cứu diễn biến văn hóa tiền sử khu vực cũng như giải quyết vấn đề nguồn gốc bản địa.
1981, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) và Bảo tàng Hải Phòng khai quật. Hố khai quật mở gần biển hơn lần khai quật trước.
Mục đích khai quật để hiểu thêm địa tầng của di chỉ và yêu cầu khảo sát lại, đồng thời xây lại khu DTLS Hải Phòng. Kết quả khai quật công bố trên Thông báo khoa học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, số 1 – 1983.
Cấu tạo tầng văn hóa:
Địa tầng di chỉ có 15 lớp đất đào, hai tầng văn hóa khảo cổ. Tầng văn hóa lớp I ở dưới thuộc Văn hóa tiền Hạ Long; tầng văn hóa II ở trên thuộc Văn hóa Hạ Long. Giữa hai tầng văn hóa có một lớp cát và sỏi biển dày 20cm ngăn cách.
Từ lớp ngăn cách này trở lên, các lớp đất có cấu tạo phức tạp với nhiều màu sắc hơn; còn từ lớp ngăn cách đó trở xuống, đất có cấu tạo đơn giản và đồng nhất hơn.
Lần khai quật này phát hiện 2 dấu tích bếp và 1 mộ táng.
Dấu tích bếp lửa thứ nhất là vùng đất cháy hình tròn có đường kính 30cm, xung quanh bếp thường gặp hiện vật đá và gốm nhiều hơn những vùng khác.
Ở độ sâu 310cm phát hiện di tích bếp lửa thứ 2 là khu đất cháy hình bầu dục dài 110cm, rộng 60cm, quanh khu vực nhiều xương thú, xương cá. Dưới độ sâu 2, 6m, phát hiện 1 bộ xương người.
Căn cứ những vết xương còn lại có thể biết thi thể chôn nằm co, lưng quay phía tảng đá rất to gần vách Đông hố khai quật, đầu quay về Tây, không thấy huyệt mộ và đồ tùy táng.
Dựa những đặc tính trên sọ, trên xương hàm, khi nghiên cứu về giới tính và tuổi, ông Nguyễn Lân Cường cho là di cốt cá thể nam, dựa vào độ mòn răng, gắn liền các khớp sọ ở mặt trong có thể đoán 50 - 60 tuổi.
Hiện vật đợt khai quật này:
Hiện vật đá có chày nghiền, bàn nghiền, hòn kê, bàn mài (bàn mài diện rộng, mài rãnh), rìu (rìu mài lưỡi, mài toàn thân, rìu có vai), đục..
Hiện vật gốm chủ yếu là những mảnh gốm (gốm xốp, gốm mịn thuộc lớp văn hóa trên), gốm thô dày, chất liệu làm từ đất sét pha cát và bã thực vật, gốm màu đen xám và nâu xám, thành gốm dày, gốm tạo hình chủ yếu nặn bằng tay, độ nung không cao và không chín đều (thuộc lớp văn hóa dưới)
Qua nghiên cứu tầng văn hóa, di tích, di cốt và hiện vật cho thấy:
Đồ đá:
Chày nghiền rất phổ biến ở lớp văn hóa dưới làm bằng những hòn cuội dẹt hình bầu dục; bàn mài có bàn mài diện rộng và bàn mài rãnh ở lớp văn hóa trên; rìu ghè đẽo chỉ tồn tại ở lớp văn hóa cuối cùng.
Rìu mài lưỡi tiết diện hình bầu dục, rìu có vai và rìu tứ giác mài toàn thân tìm thấy ở lớp trên phù hợp có mặt của bàn mài rãnh. Các kỹ thuật ghè đẽo, mài, cưa, khoan.
Đồ gốm:
Có thể chia 3 nhóm, gốm xốp, gốm mịn và gốm thô dày. Nhóm xương gốm mịn và mỏng tạo bằng bàn xoay, miệng loe cong đột ngột chiếm phần lớn.
Phần miệng ít trang trí, phần cổ để trơn, phần đáy chủ yếu là đáy tròn, cũng có loại đáy bằng và có chân đế nhưng rất ít.
Nhóm gốm thô chia 2 loại:
Thô dày cứng và thô dày mềm. Gốm thô dày cứng có độ nung cao, xương gốm ít cát hạt và bã thực vật.
Gốm thô dày mềm, xương gốm bằng đất sét có pha nhiều hạt cát thô và bã thực vật, độ nung thấp, miệng hơi thẳng, toàn thân đều trang trí hoa văn in (hoa văn tổ ong, hoa văn thang dây).
Tất cả đều đáy tròn, không có chân đế, bề mặt đều ám khói. Đặc trưng đồ đá và đồ gốm, có thể xếp lớp văn hóa phía trên của di chỉ Cái Bèo vào Văn hóa Hạ Long và lớp văn hóa dưới vào Văn hóa tiền Hạ Long.
Bên cạnh hiện vật đá và gốm, di cốt người có trong hố khai quật cung cấp thêm những tài liệu mới để tìm hiểu về tục mai táng "kiểu chôn nằm co."
Chủ nhân có khả năng thuộc nhóm Australo – Melanesien của cư dân tiền Hạ Long. Xương răng động vật nói nên hình thái kinh tế.
12-1986, Viện Khảo cổ học khai quật do ông Nguyễn Văn Hảo (trưởng đoàn). Hố khai quật mở vào góc phía Tây Bắc của di chỉ, sát về phía chân núi.
Đáng chú ý khai quật này là tỷ lệ công cụ cuội ghè đẽo rất cao, công cụ mài toàn thân rất hạn chế, không thấy bôn có vai, có nấc như các lần khai quật trước. Tỷ lệ gốm xốp kiểu Hạ Long rất thấp, không thật điển hình.
12-2006, Viện Khảo cổ học do PGS. TS Nguyễn Khắc Sử làm trưởng đoàn cùng Bảo tàng Hải Phòng và Phòng Văn hóa huyện Cát Hả lại khai quật nhằm xác định phạm vi phân bố di chỉ Cái Bèo và mức độ bảo tồn giá trị di tích làm cơ sở để xếp hạng Di tích Quốc gia, bổ sung hiện vật trưng bày cho Bảo tàng Hải Phòng.
Kết quả khảo sát xác định di chỉ Cái Bèo có độ dốc thoải khoảng 8o, từ Tây sang Đông cao trung bình 4m so mặt nước biển hiện tại.
Dựa phân tích tổng hợp các lần khai quật có thể đoán niên đại các lớp văn hóa trong di chỉ Cái Bèo.
Lớp văn hóa trên cùng thuộc Văn hóa Hạ Long, hiện vật rìu, bôn đá tạo với kỹ thuật mài hoàn thiện, đồ gốm làm bằng bàn xoay, nhưng chưa xuất hiện kim loại đồng, nên thuộc hậu kỳ thời đồ đá mới.
Trong lớp văn hóa này có mặt đa số rìu tứ giác, như gốm mỏng trang trí văn chấm dải, đặc biệt là chạc gốm cho thấy mối quan hệ rất gần gũi với các di vật thuộc:
Văn hóa Phùng Nguyên, như vậy lớp văn hóa trên của di chỉ Cái Bèo có thể có tuổi 4.000 đến 4.500 năm trước.
Lớp giữa di chỉ Cái Bèo với kỹ thuật mài đá phát triển, song chưa đến mức hoàn thiện bên cạnh gốm bàn xoay, có gốm nặn tay có thể thuộc giai đoạn đầu hậu kỳ đá mới cách nay trên dưới 5.000 năm.
Lớp cuối di chỉ Cái Bèo chỉ có công cụ ghè đẽo, vắng kỹ thuật mài, đồ gốm nặn bằng tay còn thô sơ, trang trí văn đan, có thể thuộc trung kỳ đá mới khoảng 6.000 – 7.000 năm trước.
Qua quan sát vị trí cảnh quan nơi cư trú, tổng thể di vật ở các lớp Văn hóa di chỉ Cái Bèo, có thể hình dung hình thức hoạt động kinh tế bấy giờ.
Tầng lớp văn hóa dày, nhiều lớp chứng tỏ cư dân thời cổ ở đây sống định cư lâu dài qua nhiều thời đại.
Xuất hiện xương răng động vật hoang dã và xương cá biển cho thấy trước đây cư dân Cái Bèo chuyên săn bắt, hái lượm và đánh cá.
Bước sang giai đoạn Văn hóa Hạ Long cư dân phát triển trồng trọt, tạo thuyền mảng ra khơi. Ít vòng tay và tinh thể thạch anh chứng tỏ cư dân Cái Bèo có ý thức về cái đẹp.
Rõ ràng, Cái Bèo là di chỉ khảo cổ học có ý nghĩa lớn với nghiên cứu Văn hóa Hạ Long mà còn là tư liệu quý để tìm hiểu văn hóa và lịch sử của cư dân miền Đông Bắc nước ta thời xa xưa.
Lê Thị Huệ (tổng hợp)
Nguồn tham khảo:
- Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Khắc Sử. Báo cáo khai quật di chỉ Cái Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng, 1973.
- Lưu Trần Tiêu, Trịnh Căn. Khai quật di chỉ Cái Bèo (Hải Phòng). Thông báo khoa học, số 1/1983. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
- Nguyễn Khắc Sử. Khảo cổ học vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam. NXB. KHXH 2005.
- Nguyễn Khắc Sử. Di chỉ tiền sử Cái Bèo, đảo Cát Bà. NXB. KHXH, 2009.
Nguồn:
Web baotanglichsu
Di chỉ Cái Bèo - điểm nhấn văn hóa, du lịch Cát Bà
Phó Chủ tịch UBND huyện Cát Hải Vũ Thị Kim Bích cho biết, Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển có quy mô lớn, địa tầng dày, có tổ hợp di tích và di vật phong phú.
Từ các vết tích văn hóa cho thấy, đây là làng chài ven biển cổ nhất được biết hiện nay ở Việt Nam. Cái Bèo là điểm đến hấp dẫn trong chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà,
Hải Phòng thành trung tâm du lịch quốc gia và quốc tế, mang đậm dấu ấn lịch thuở sơ khai của dân huyện đảo.
Di chỉ Cái Bèo cách trung tâm thị trấn Cát Bà chừng 1, 5km về phía Đông Nam. Đây là thung lũng bằng phẳng, 3 mặt núi đá vôi bao bọc, mặt Đông quay ra biển.
Khu di chỉ rộng khoảng 800m2, dốc thoải từ Nam ra Bắc, cao 3, 5m so với mặt biển.
Cách di chỉ 200m là dãy núi Áng Thảm và Bù Nâu chạy vòng cung ôm lấy Cái Bèo, làm nơi đây kín gió, biển không ồn ào, phong cảnh hữu tình, thuận sinh sống và khai thác thủy sản.
Có lẽ vẻ đẹp thiên nhiên quy tụ cùng thuận lợi về địa thế, phong phú về sản vật nên dân cư cổ Cái Bèo quần tụ lâu dài tại đây, tạo nền văn hóa đặc sắc.
Theo tài liệu của PGS. TS Nguyễn Khắc Sử (Viện Khảo cổ học Việt Nam), trưởng đoàn khảo cứu, khai quật di chỉ Cái Bèo, đến nay có 4 khảo sát, khai quật di chỉ này.
Lần đầu tiên 1938, nhà khảo cổ học M. Colani người Pháp phát hiện Cái Bèo là nôi văn hóa cổ của Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Viện Khảo cổ học tiến hành thám sát và manh nha phát hiện nôi văn hóa biển.
1981, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam khai quật lần 2 tại đây. Phạm vi khai quật chỉ với diện tích 78m2, song tìm được nhiều hiện vật đá ở giai đoạn phát triển kế tiếp nhau là tiền Hạ Long và Hạ Long. 1986, lần khai quật thứ 3.
Làng chài Cái Bèo, thị trấn Cát Bà
Các nhà khảo cổ tìm được gần 180 công cụ đá:
Công cụ ghè đẽo, công cụ mài không qua chế tác của 6 chày và hòn ghè, 9 mảnh gốm xốp, 18 mảnh gốm cứng mỏng, 93 mảnh gốm thô dày, 11 đốt sống cá biển, 88 đầu cá biển, 6 mảnh xương thú..
Lần khai quật thứ tư 5-12-2006 với tham gia của nhiều nhà khoa học có uy tín, kết thúc khai quật đầu 1-2007 thu được từ 10 hố có 137 hiện vật đá, 1.424 mảnh gốm tiền sử và 568 tiêu bản di cốt động vật và vỏ nhuyễn thể biển.
Phân tích cho thấy, những tổ hợp di vật đều làm từ đá granít và gốm vặn thừng dập thô, không se, xương cá, vỏ sò, vỏ hàu biển kích thước lớn..
Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển có quy mô lớn, địa tầng dày, có tổ hợp di tích và di vật phong phú.
Những vết tích văn hóa ở đây phản ánh phát triển kế tiếp từ trung kỳ đá mới - đặc trưng cho nền Văn hóa Cái Bèo, sang hậu kỳ đá mới - đặc trưng cho Văn hóa Hạ Long. PGS. TS Nguyễn Khắc Sử:
"Di chỉ khảo cổ Cái Bèo là một trong những di tích quý hiếm nhất vùng duyên hải Bắc Bộ. Làng chài ven biển cổ có quy mô lớn nhất hiện biết ở Việt Nam."
7.000 năm trước, người Cái Bèo sống chủ yếu nhờ đánh cá biển và bắt sò, hàu.
Họ duy trì cuộc sống ấy đến 4.500 năm trước. Phân bố làng chài Cái Bèo rất rộng, khoảng 18.000m2.
Cư dân định cư ở Cái Bèo phát triển qua nhiều thời đại, từ trung kỳ đá mới đến sơ kỳ đồ đồng.
Từ săn bắt, hái lượm, đánh cá sang định cư nông nghiệp được coi quá trình phát triển Văn hóa Cái Bèo sang Văn hóa Hạ Long.
Những cư dân đầu tiên ở Cái Bèo có nguồn gốc bản địa, nhiều khả năng là con cháu người cổ Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn.
Văn hóa Cái Bèo vận động, phát triển sang Văn hóa Hạ Long thời đồ đồng đặc sắc ở vùng duyên hải Đông Bắc.
Di chỉ Cái Bèo xếp hạng DTQG 2009. Đây là DSVH biển tiêu biểu, đặc sắc Việt Nam mà còn là bảo tàng địa chất tuyệt vời về dao động mực nước biển đại dương.
Tiếp nhận và thích ứng của con người trước hiện tượng biển tiến, biển thoái là bài học cho chúng ta hôm nay trước nguy cơ xâm thực nước biển do biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, vẻ thơ mộng thiên nhiên và cuộc sống nhộn nhịp làng chài giúp Cái Bèo hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.
"Chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà thành trung tâm du lịch cấp quốc gia và quốc tế, một trong những địa chỉ được huyện Cát Hải quan tâm là quản lý, khai thác và phát huy giá trị Văn hóa di chỉ Cái Bèo, bởi thật hiếm nơi nào cảnh quan thiên nhiên gắn hài hòa với di tích văn hóa như Cái Bèo.
Thiên nhiên ưu đãi nơi này có vùng biển đảo đẹp như tranh, hơn hết nơi đây còn là di chỉ của người Việt cổ rất có giá trị.
Vì thế, huyện Cát Hải sẽ cùng các ngành chức năng của thành phố nỗ lực hết sức mình bảo tồn khu di tích này.." - bà Vũ Thị Kim Bích khẳng định.
PĐT
Nguồn:
Web baohaiphong
Trầm tích Cái Bèo..
QĐND - Di chỉ Cái Bèo là bằng chứng khẳng định Tổ tiên người Việt ở đây từ 7.000 năm trước trong công cuộc chinh phục biển khơi..
Dấu tích 7.000 năm
Nay Cát Bà (Cát Hải, Hải Phòng) vẫn giữ hồn cốt tính nguyên sơ với địa hình núi đá vôi, nhiều hang động. Khung cảnh đầy vẻ bí ẩn thấp thoáng bóng dáng người xưa.
Trước mặt là biển lớn, sau lưng có núi được phủ bởi những vạt rừng thưa có suối nước ngọt. Người Việt cổ cư trú tại đây cũng chính bởi những điều kiện lý tưởng đó.
Các bản đồ cũ, tên đảo Cát Bà đều ghi là đảo Các Bà, bên ngoài có đảo nhỏ mang tên Các Ông. Tương truyền, thuở bình minh lịch sử nước ta, các bà bám giữ đảo, làm hậu tuyến cho các ông chống giặc trên các đảo tiền phương.
1938, nhà khảo cổ người Pháp bà M. Colani phát hiện di chỉ vịnh Làng Chài phía Nam đảo Cát Bà. Bà khẳng định, nơi đây là di chỉ khảo cổ học sau khi tìm thấy những hiện vật như hòn ghè, hòn mài. 1973, nhà nước mới có điều kiện tổ chức khai quật. Nay, di chỉ này mang tên mới - di chỉ Cái Bèo.
Ông Vũ Tiến Bảy, Nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện Cát Hải, hơn 30 năm công tác văn hóa trên đảo Cát Bà vẫn nhớ như in những lần các nhà khoa học về khảo sát, khai quật những di chỉ khảo cổ trên đảo Cát Bà, trong đó có Cái Bèo.
Ông kể:
"Cái Bèo nhiều lần khai quật, mỗi lần lại có những phát hiện mới mà các nhà khảo cổ bất ngờ. Tôi thật may mắn vì lần nào khai quật cũng tham gia cùng các nhà khoa học.
Lần đầu khai quật 1973, có những hiện vật lộ thiên ở trên như hòn ghè, hòn kê, bàn mài, giúp khẳng định chắc chắn có người Việt cổ sống ở đây. Những lần khai quật tiếp theo, các nhà khoa học xác định niên đại những di vật này khoảng 4.500 năm, thuộc Văn hóa Hạ Long.
Sau này, đến đợt khai quật 2009, ông Bảy tiếp tục tham gia cùng đoàn khảo cổ của GS Nguyễn Khắc Sử và Bảo tàng Hải Phòng.
Lần này, các nhà khoa học phát hiện ở độ sâu 2, 6m, ngoài các công cụ ghè đẽo không qua chế tác, xương thú.. còn có bếp người Việt cổ và những nồi gốm.
" Đặc biệt là cốt bên trong những nồi bằng gốm là than. Các nhà khoa học nói người Việt cổ đan khung bằng tre, sau đó phết đất xung quanh. Khi đốt, phần tre bên trong cháy, chỉ còn lớp gốm bên ngoài "- ông Bảy nói.
Đặc biệt dùng phương pháp mới để kiểm tra, các nhà khoa học phát hiện Văn hóa Cái Bèo không muộn như Văn hóa Hạ Long mà sớm hơn, khoảng 7.000 năm trước..
Bảo tàng Hải Phòng lưu các hiện vật di chỉ Cái Bèo sau khi được khai quật, các tư liệu ở đây cho thấy:
Đảo Cát Bà có hơn 100 điểm có dấu vết người Việt cổ. Cái Bèo là di chỉ khai quật nhiều nhất.
Các tầng văn hóa Cái Bèo thể hiện rất rõ ở mỗi độ sâu, mỗi lớp sạn tương ứng với một thời gian, từng lớp từng lớp, từng tầng văn hóa.
Cái Bèo bị lãng quên?
Hiện tại, Hải Phòng có 2 dự án lớn sắp hoàn thành, dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (cảng Lạch Huyện) và Cầu vượt biển Tân Vũ-Lạch Huyện.
Dự án Cầu vượt biển Tân Vũ-Lạch Huyện là cầu vượt biển dài nhất Việt Nam, một trong những cây cầu lớn nhất khu vực Đông Nam Á, nối quận Hải An và huyện Cát Hải, kết nối với đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng.
Không lâu nữa, sau khi dự án này hoàn thành, cuối tuyến sẽ là cảng nước sâu Lạch Huyện, khu cảng hiện đại với khả năng đón tàu cỡ lớn đến 100 nghìn tấn, đáp ứng vai trò là cảng cửa ngõ quốc tế, kết hợp phục vụ mục tiêu trung chuyển quốc tế, góp phần thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.
2 dự án trên hoạt động giúp du khách tới thăm đảo rất thuận lợi, thời gian di chuyển rút ngắn. Cát Bà sẽ thành điểm đón hàng vạn du khách trong và ngoài nước.
Để có thể là điểm đến ấn tượng, Cát Bà phải tạo cho được dấu ấn riêng mình.
" Toàn đảo Cát Bà là bảo tàng văn hóa biển Việt Nam, mang đậm dấu ấn lịch sử thuở sơ khai, chúng ta phải tận dụng lợi thế này ", ông Bảy khẳng định.
Chuyện về Cái Bèo, ông Bảy không khỏi ngậm ngùi. Hơn 30 năm công tác trong ngành văn hóa, giờ nghỉ hưu nhưng tình yêu với huyện đảo, với người Cát Bà vẫn cháy trong ông.
Nỗi day dứt về việc bảo tồn, phát huy thế mạnh văn hóa huyện đảo đeo bám ông mãi.
Ông Bảy nhớ lại, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha có lần ra thăm đảo, nói với ông:
- Cát Bà đúng là Hồng Kông thu nhỏ!
Ông gạt đi:
- Không! Cát Bà phải là Cát Bà. Cát Bà phát triển du lịch sinh thái và du lịch khảo cổ học sẽ có giá trị rất lớn.
Giọng trầm xuống, ông Bảy nói tiếp, Cát Bà giờ xây nhiều nhà cao tầng quá. Nhà ống dần lấn sâu vào trong, san biển, phá núi.
Vịnh Tùng Dinh xưa là những nếp nhà rất đẹp, nhà sàn cắm cột xuống mặt biển, thuyền đưa mũi vào trong, giờ bê tông hóa tất cả, thành ra na ná những nơi khác.
Làng chài cổ Việt Hải xưa là những nếp nhà cổ với kiến trúc đặc thù, nay dần hiện đại hóa. Đó là kiểu làm du lịch ăn xổi.
Ông kể thêm:
Có lần mấy chuyên gia nước ngoài đến thăm đảo. Một người trong số đó đưa ảnh chụp nhà cao" ngất ngưởng "trong làng cổ và nói:
" Các bạn đang đánh mất mình! "
Đến nay, ông Bảy vẫn luôn hy vọng, Cát Bà sẽ dựng lại hiện trường, cảnh sinh hoạt người Việt cổ tại di chỉ Cái Bèo.
Ở đó giữ nguyên những tầng văn hóa. Khách du lịch có thể xuống tham quan những tầng văn hóa ấy kèm theo các hiện vật minh chứng cho sự tồn tại của người Việt cổ ở Cát Bà.
Từ di chỉ Cái Bèo này có thể vươn ra toàn bộ các điểm khác trên đảo. Đây sẽ là nhịp cầu nối thế hệ sau với thế hệ trước, nơi giao lưu, tìm hiểu của các nhà khoa học, người dân, bạn bè quốc tế.
Tìm đến vị trí di chỉ, chúng tôi không khỏi bất ngờ.
" Bác cho hỏi di chỉ Cái Bèo ở chỗ nào? "
" Cái Bèo đây, còn di chỉ thì không biết. "
4 người được hỏi (nhà cách vị trí di chỉ chưa đầy 100m) đều cùng có câu trả lời. Phải đến người thứ 5, chúng tôi mới nhận được câu trả lời:
" Ở dốc trên kia kìa. "
" Đấy, có cái bia thôi chứ có gì đâu. Ngày trước họ tới đào bới gì đó rồi đi. "- Gia đình ở đối diện nơi đặt tấm bia" Di tích khảo cổ học Cái Bèo "nói.
Bia nhỏ nằm nép bên vệ đường, bụi mờ phủ kín. Không được chỉ tận mắt, chúng tôi không thể biết đó là vị trí di chỉ, càng không nghĩ đó là di chỉ có ý nghĩa lịch sử giá trị nếu chưa tìm hiểu từ trước. Men theo lối nhỏ vào bên trong là mấy chuồng gà bỏ hoang, cây cối mọc um tùm.
Ông Bảy quan niệm làm du lịch bền vững phải đặc biệt quan tâm di chỉ văn hóa, đầu tư phải bài bản, sâu sắc. Hiện sản phẩm du lịch Cái Bèo đều là những tua, những món hàng rất mờ nhạt, có thể tìm thấy ở bất kỳ đâu, bất kỳ nơi nào.
Thử hỏi, ai có thể dửng dưng trước một làng chài cổ, nơi các nhà khoa học trong nước, quốc tế đều tìm thấy ở đây dấu ấn người Việt từ 7.000 năm trước?
Nỗi niềm ông Bảy chưa thể có câu trả lời thỏa đáng lúc này. Điều đọng lại mãi trong tôi khi rời Cái Bèo là vẻ cuốn hút bí ẩn làng chài đang mang trong mình tầng tầng, lớp lớp trầm tích văn hóa, một sự lôi cuốn kỳ lạ!
Bài và ảnh: HOÀNG LIÊN VIỆT
Nguồn:
Web qdnd
Hải Phòng: Làng chài Cái Bèo bảo tàng văn hóa biển
Làng chài nhỏ có di chỉ niên đại cách đây hàng nghìn năm, nay thành địa chỉ du lịch khá nổi tiếng, hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đó là làng chài Cái Bèo..
Làng chài Cái Bèo (còn gọi làng chài Vụng O, thuộc quần đảo Cát Bà, huyện đảo Cát Hải, TP. Hải Phòng) là một trong những làng nổi cổ lớn nhất cả nước ở thời tiền sử.
Đây là làng chài có khoảng 300 hộ dân. Cuộc sống cư dân làng chài Cái Bèo gắn liền với hoạt động đánh bắt thủy sản và nuôi cá lồng trong vịnh.
Không sôi động như bến tàu ra vịnh Lan Hạ nhưng Bến Bèo khá đa dạng các loại tàu, thuyền, đò sẵn sàng đưa khách đi khám phá vẻ đẹp thanh bình làng chài cổ nhất Việt Nam-Cái Bèo.
Nhìn từ xa, vịnh Cái Bèo hiện ra thật đẹp với làn nước màu xanh lục, núi đá nhấp nhô hòa lẫn với màu trời trong xanh. Vẻ thơ mộng thiên nhiên và cuộc sống nhộn nhịp làng chài tạo vẻ đẹp hiếm thấy.
Trên mặt nước bồng bềnh, làng chài gồm nhiều nhà thuyền kết liền với nhau thành nhóm. Không chỉ có những con thuyền, trên vịnh Cái Bèo còn có những nhà nổi kết lại san sát với nhau bằng những lồng bè nuôi cá. Từ nhà này có thể dễ sang nhà kia trên cầu nhỏ bắc ngang hay trên những thanh lồng.
Cái Bèo đánh giá là một di chỉ khảo cổ học có giá trị quan trọng nhất hiện nay của vùng ven biển và hải đảo Đông Bắc Việt Nam với 4 lần khảo sát và khai quật của các đoàn khảo cứu.
Lần đầu tiên 1938, nhà khảo cổ học M. Colani người Pháp phát hiện Cái Bèo là cái nôi văn hóa cổ Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Viện Khảo cổ học tiến hành thám sát và manh nha phát hiện nôi văn hóa biển.
1981, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam khai quật lần 2. Tuy phạm vi khai quật chỉ với diện tích 78m2 song tìm được nhiều hiện vật đá ở 2 giai đoạn phát triển kế tiếp nhau là tiền Hạ Long và Hạ Long.
Năm 1986, lần khai quật thứ 3 tiếp tục tiến hành.
Các nhà khảo cổ tìm được gần 180 công cụ đá gồm công cụ ghè đẽo, công cụ mài không qua chế tác của 6 chày và hòn ghè, 9 mảnh gốm xốp, 18 mảnh gốm cứng mỏng, 93 mảnh gốm thô dày, 11 đốt sống cá biển, 88 đầu cá biển, 6 mảnh xương thú.
Phân tích các mẫu hiện vật phát hiện có cơ sở kết luận di chỉ Cái Bèo gồm 2 giai đoạn văn hóa:
Giai đoạn tiền Hạ Long và Văn hóa Hạ Long.
Lần khai quật thứ 4 vào 5-12-2006 có nhiều nhà khoa học uy tín, khi kết thúc khai quật đầu 1-2007 thu từ 10 hố có 137 hiện vật đá, 1.424 mảnh gốm tiền sử, 568 tiêu bản di cốt động vật và vỏ nhuyễn thể biển.
Phân tích cho thấy những tổ hợp di vật thu được đều làm từ đá granít và gốm vặn thừng dập thô không se, xương cá, vỏ sò, vỏ hàu biển kích thước lớn..
Đến với làng chài Cái Bèo, du khách trải nghiệm khá thú vị là thuê tàu tham quan giữa các hộ gia đình nuôi cá bè, tìm hiểu cuộc sống của người dân làng chài.
Không chỉ thế, du khách còn có thể thoải mái ngắm nhìn khung cảnh nên thơ của vịnh và thưởng thức những món ăn đặc sản chế biến từ cá, tu hài, tôm trên các nhà hàng nổi do dân làng chài đánh bắt hay nuôi trồng.
Sinh hoạt ở làng chài là những sinh hoạt độc đáo, thú vị và hiếm gặp. Có hàng trăm bè cá lớn nhỏ cùng trong khu vực vịnh rộng lớn.
Mỗi buổi sáng, khi mặt trời lên trên biển Cát Bà, lũ cá quẫy mình đòi ăn làm xao động vùng nước, hòa cùng tiếng í ới gọi nhau đi học của trẻ em làng chài.. sẽ là trải nghiệm thú vị với du khách.
Cái Bèo xếp hạng DTQG 2009. Rất hiếm nơi nào cảnh quan thiên nhiên lại gắn liền và hài hòa với di tích văn hóa như ở đây. Cùng cuộc sống tấp nập nhộn nhịp.
Cái Bèo luôn cuốn hút du khách với vẻ đẹp hòa quyện giữa mộng mơ và thực tế.
Hoàng Việt
Nguồn:
Web vietnamtourism
Làng chài cổ nhất Việt Nam
Cái Bèo một trong những di chỉ khảo cổ được quan tâm nhất nhiều năm qua.
6 lần khảo sát, dần mở cánh cửa di chỉ, để nay có thể tìm lại làng chài cổ xưa nhất Việt Nam, nhìn thấy quá trình người Việt làm chủ Vịnh Bắc Bộ thế nào.
Di tích văn hóa biển
Di chỉ Cái Bèo phía Đông Nam đảo Cát Bà, độ cao trung bình 4m so mặt biển. Di chỉ này được M. Colani phát hiện và khảo sát lần đầu 1938, lúc đó mang tên Làng Chài.
4-1972 Viện Khảo cổ học tiến hành đào 2 hố thám sát và đặt tên di chỉ Cái Bèo.
Lần khai quật này thu di vật đá và gốm đặc trưng cho Văn hóa Hạ Long. 1973 khai quật trên diện tích 221m2.
Địa tầng di chỉ dày 3, 5m có 3 lớp văn hóa, ngăn cách bởi 2 lớp vô sinh.
2 lớp dưới đặc trưng cho thời kỳ đá mới hay tiền Hạ Long, lớp trên cùng thuộc Văn hóa Hạ Long.
Khai quật này thấy 2 bếp nguyên thủy, thu 488 hiện vật đá và 14.976 mảnh gốm, 105, 85kg xương thú và cá tập trung ở trung tâm di chỉ, nơi có bếp.
1981 di chỉ được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Hải Phòng khai quật diện tích 78m2.
Lần này thấy 2 bếp lửa, 1 mộ chôn nằm co của đàn ông chừng 50 - 60 tuổi, còn cốt sọ.
Hiện vật nhiều chày, bàn nghiền, bàn mài, công cụ ghè đẽo, mảnh phế liệu. Riêng đồ gốm có 5.261 mảnh.
Năm 1986, di chỉ khai quật diện tích gần 90m2, tầng văn hóa dày 2, 2m, 100 công cụ ghè đẽo (chiếm 56.7%), 66 công cụ không qua chế tác (37%), 11.300 mảnh gốm.
Theo các tác giả Bùi Vinh và Nguyễn Xuân Ngọc (Tạp chí Khảo cổ học số 2/ 2004) :
" Cư dân Cái Bèo là những người định cư ven biển, theo kiểu một làng chài, sử dụng lưới vó, vận hành bằng thuyền mảng, đánh bắt xa bờ lẫn gần bờ, gia công thực phẩm tại nơi cư trú.
Mô thức vận hành đó khác căn bản những cư dân cùng bình tuyến trung kỳ đá mới ở Việt Nam như Đa Bút, Quỳnh Văn. "
Theo nhà nghiên cứu Hà Hữu Nga, di chỉ Cái Bèo là một trong những di chỉ khảo cổ quan trọng nhất trong khu vực ven biển hải đảo miền Đông Bắc Việt Nam.
Khai quật mới nhất 12-2006 – 1-2007, hiện đang chỉnh lý tư liệu.
Đây là khai quật" khẩn "vì hiện trên mặt di chỉ Cái Bèo xuất hiện khu dân cư và một số công ty," một trong những tác nhân cơ bản xâm hại di tích và phá hủy cảnh quan môi trường di tích Cái Bèo.. "
Lần khai quật này tìm thấy bếp rộng 50cm, than chất thành đống dày 10cm. 2 nồi gốm nguyên. Bếp còn có các di vật đầu cá, vỏ hàu, viên cuội, hòn ghè, hòn nghiền, những tảng đá vôi ám khói, đánh giá" đích thực là bếp nguyên thủy. "
Nhóm khảo cổ phát hiện nhiều hiện vật đá như bàn mài, chày, hòn kê, gốm cứng, đặc trưng cho giai đoạn tiền Hạ Long.
Xây bảo tàng cho làng chài cổ?
Hiện các cơ quan khảo cổ quyết định dừng lại, không khai quật tiếp nhằm tìm cách giữ lại các địa tầng văn hóa còn nguyên thủy rất quý hiếm, để làm bảo tàng ngoài trời.
Theo đánh giá của Viện Khảo cổ:
" Cái Bèo là làng chài biển cổ có quy mô lớn nhất hiện biết ở Việt Nam.
Trước người Cái Bèo là cư dân Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn chuyên khai thác hệ động vật và thực vật nước ngọt trong các khối đá vôi sâu trong lục địa.
Những cư dân sống trong hang động trên đảo Cát Bà và vùng biển Hạ Long cũng vậy, vì lúc đó biển còn ở rất xa.
Cùng bình tuyến với Cái Bèo có nhóm cư dân Đa Bút, giai đoạn đầu họ khai thác hến nước ngọt, khai thác biển cách đây 5.000 năm.
Cư dân Văn hóa Quỳnh Văn khai thác sò và điệp biển là chính, di chỉ cổ nhất khoảng 6.000 năm.
Người Cái Bèo khoảng 7.000 năm trước đánh bắt cá biển và bắt sò, hàu biển, tiếp tục cho đến 4.500 năm trước.
Phạm vi phân bố làng chài rất rộng, khoảng 18.000m2. Cái Bèo vẫn là đơn vị cư trú, hay làng chài cổ có quy mô lớn nhất."
Phát hiện làng chài cổ Cái Bèo cho thấy người Việt sớm có mặt trên Biển Đông và bắt đầu nghề đánh bắt hải sản quy mô.
Một mặt, cư dân Cái Bèo vẫn tiếp tục phát triển văn hóa truyền thống Hòa Bình - Bắc Sơn, những người dân ở đây hướng ra chinh phục biển cả.
Theo ông Đỗ Xuân Trung, chuyên viên khảo cổ Bảo tàng Hải Phòng, các cơ quan khoa học khẩn trương làm thủ tục hồ sơ đề xuất xếp hạng cấp quốc gia di chỉ Cái Bèo.
Đề xuất phương án bảo vệ trưng bày phát huy giá trị lịch sử di chỉ. Một trong những phương án Hải Phòng nghiên cứu là lập bảo tàng ngoài trời quy mô phù hợp.
Cát Bà hiện là điểm đảo thu hút khách du lịch. 2006, Cát Bà đón 500.000 khách, gần 20% là khách quốc tế. Xây bảo tàng tại Cái Bèo, cửa ngõ của Cát Bà, hy vọng sẽ mở ra những tour du lịch văn hóa thú vị và kéo dài thời gian lưu trú của du khách.
Theo giám đốc Sở VHTT Quảng Ninh, khó nhất vẫn là kinh phí đầu tư dự án này. Nếu xã hội hóa, với nhiều nguồn lực đầu tư, có thể triển khai sớm hơn.