

Bài 1: Hãy phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng tháng Tám, ông là nhà thơ lãng mạn xuất sắc. Thơ ông là nỗi đau đớn của một người dân vong quốc, sống trong cảnh nô lệ nước mất, nhà tan. Ông tự ví mình như một linh hồn nhỏ mang trăm nghìn nỗi sầu đau nhân thế;
"Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu"
Từ sau cách mạng tháng Tám, nhất là từ chuyến đi thực tế ra vùng mỏ Quảng Ninh năm 1958, trong không khí phấn khởi miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiến thiết đất nước, thơ ông dồi dào trở lại trong hai nguồn cảm hứng lớn, ca ngợi thiên nhiên đất nước, "Đoàn thuyền đánh cá" được tác giả sáng tác trong chuyến đi này. Bài thơ là một khúc ca hào hùng tráng lệ ca ngợi vẻ đẹp của biển trời quê hương và lao động đánh cá bằng bút pháp lãng mạn với những hình ảnh thơ kì vĩ, lớn lao.
Trong tác phẩm, hai đoạn đầu của bài thơi đã tái hiện khung cảnh đẹp đẽ cảnh đoàn thuyền ra khơi trong buổi hoàng hôn, đêm tối.
- (Dẫn đoạn thơ) -
Kết cấu bài thơ được tổ chức theo hành trình của chuyến ra khơi đánh cá. Bắt đầu là lúc hoàng hôn buông xuống trên biển cả. Kết thúc là cảnh bình minh lên, đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về đất liền trong ánh sáng của ngày mới.
Khổ đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Đó là một bức tranh tươi sáng, ấm áp, tràn ngập niềm vui sướng, sự phấn khởi trong tâm hồn người lao động.
Cảnh chiều tàn, mặt trời lặn trên biển được tác giả khắc họa thật đẹp đẽ.
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa"
Hoàng hôn, chiều tà, đó là thời điểm kết thúc một ngày. Ánh sáng nhạt dần nhường chỗ cho bóng tối. Ngày chuyển dần thành đêm. Sự sống sôi động chậm dần rồi đi vào ngưng nghỉ. Vì thế, thời gian ấy thường gợi buồn. Tuy nhiên, cảnh vật trong thơ lại rất tươi sáng.
Mặt trời không "khuất, mất, tịch" mà từ từ chìm xuống biển, trong hoạt động quen thuộc của một ngày. Cách so sánh "như hòn lửa" gợi vẻ đẹp của vầng dương trong thời khắc ngày tàn vẫn ấm áp sự sống. Mặt trời vừa tắt, bóng đêm buông xuống trên biển cả rất nhanh. Câu thơ tiếp sau tả cảnh đêm tối;
"Sóng đã cài then, đêm sập cửa."
Hai động từ "cài, sập" cho thấy thời gian trôi rất nhanh. Nghệ thuật nhân hóa khiến cảnh đêm đại dương thật ấm áp, gần gũi, sinh động. Những con sóng chạy dài nhấp nhô trên biển tựa như những chiếc then. Bóng tối dày nặng, đen thẫm như cánh cửa để những con sóng nhấp nhô cài vào cánh cửa màn đêm. Đại dương mênh mông như một ngôi nhà lớn của mẹ biển. Người lao động ra khơi đánh cá là trở về với ngôi nhà của người mẹ thiên nhiên vĩ đại, yêu thương. Câu thơ đã khéo léo thể hiện niềm vui làm chủ biển khơi, đất trời của người lao động.
Trên nền không gian, thời gian ấy đoàn thuyền đánh cá của những người dân bắt đầu nhịp điệu lao động quen thuộc trên biển:
"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi."
Từ "lại" cho thấy đó là hoạt động được lặp đi lặp lại mỗi khi màn đêm buông xuống. Nó lý giải vì sao cảnh hoàng hôn, đêm tối trên đại dương lại ấm áp, không buồn bã, thê lương là vì một ngày kết thúc lại là sự khởi đầu cho một nhịp điệu lao động hăng say, hứng khởi của con người. Vẻ đẹp, khí thế của chuyến đi được tập trung thể hiện ở câu cuối:
"Câu hát căng buồm cùng gió khơi."
Nghệ thuật nói quá được sử dụng thành công trong câu thơ đã gợi vẻ đẹp lãng mạn, chất thơ của hình ảnh cánh buồm. Có lẽ, không hề ngẫu nhiên các tác giả khi tả cảnh ra khơi đều hướng tới vẻ đẹp đó. Trong bài thơ "Quê hương" Tế Hanh, cũng từng viết:
"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió"
Cánh buồm trong thơ Tế Hanh mang linh hồn làng chài quê hương, còn cánh buồm trong thơ Huy Cận no gió và căng tràn niềm vui, sự hứng khởi, tin tưởng trong tâm hồn người lao động. Một cánh buồm mang vẻ đẹp trẻ tráng, khí thế hăng say của con người ở thời khắc lên đường.
Tiếp theo ngay sau cau hát ra đi là khúc hát ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả và nói lên niềm mong ước của người lao động trong mỗi chuyến đi:
"Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Trải nghiệm của chuyến đi thực tế ra biển Hạ Long, tình yêu thiên nhiên, cuộc đời mới đã chắp cánh cho thơ Huy Cận. Từ hình dáng, sắc màu, tập tính của các loài cá, tác giả gợi ra những liên tưởng độc đáo. Cá bạc má sống ở tầng nước lặng, cá thu thường sống theo bầy đàn đi lại như đoàn thoi trên mặt biển nhà thơ liên tưởng đến kho báu vô tận dưới lòng đại dương. Hình dáng, màu sắc, vẻ đẹp của cá tựa như những sợi tơ óng ánh sắc màu dệt nên tấm tahmr biển lung linh màu sắc, đẹp trong mọi không gian, thời gian đêm ngày. Từ cá "dệt biển", tác giả liên tưởng đến cá "dệt lưới" là cách nói của nhà thơ, cái đẹp;
"Đến dệt lưới ta đàn cá ơi!"
Cụm từ "đàn cá ơi" tạo nên một giọng điệu thật ấm áp, trìu mến, thân thương như tiếng gọi của người dân với những người bạn thiên nhiên hào phóng vô tư. Dệt biển là dệt vẻ đẹp. Dệt lưới là tạo nên điều tốt lành, no ấm, đủ đầy, hạnh phúc của con người. Câu thơ là niềm mong ước sâu thẳm của người lao động trong mỗi chuyến ra khơi mong đánh bắt được.
Đoàn thuyền đánh cá là một sáng tác hay, thành quả của chuyến đi thực tế của Huy Cận trong nắm 1958 khi miền Bắc đang trong không khí hăng say xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai đoạn thơ mở đầu đã tái hiện khung cảnh ra khơi của đoàn thuyền trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ của buổi hoàng hôn. Đoạn thơ cũng nói lên niềm vui sướng, phấn khởi, hân hoan của người lao động trong niềm vui làm chủ biển cả, làm chủ công việc của mình.
Về nghệ thuật, đây là hai đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của tác phẩm. Biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, cường điệu, cùng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi tả đã góp phần làm nên thành công cho nội dung đoạn thơ.
Đoạn thơ đã gợi nên tình yêu với biển cả quê hương đất nước, niềm tự hào về bàn tay xây dựng cuộc sống của người lao động. Từ đó, mỗi con người phải có ý thức, trách nhiệm đóng góp, xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước của mình.
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng tháng Tám, ông là nhà thơ lãng mạn xuất sắc. Thơ ông là nỗi đau đớn của một người dân vong quốc, sống trong cảnh nô lệ nước mất, nhà tan. Ông tự ví mình như một linh hồn nhỏ mang trăm nghìn nỗi sầu đau nhân thế;
"Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu"
Từ sau cách mạng tháng Tám, nhất là từ chuyến đi thực tế ra vùng mỏ Quảng Ninh năm 1958, trong không khí phấn khởi miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiến thiết đất nước, thơ ông dồi dào trở lại trong hai nguồn cảm hứng lớn, ca ngợi thiên nhiên đất nước, "Đoàn thuyền đánh cá" được tác giả sáng tác trong chuyến đi này. Bài thơ là một khúc ca hào hùng tráng lệ ca ngợi vẻ đẹp của biển trời quê hương và lao động đánh cá bằng bút pháp lãng mạn với những hình ảnh thơ kì vĩ, lớn lao.
Trong tác phẩm, hai đoạn đầu của bài thơi đã tái hiện khung cảnh đẹp đẽ cảnh đoàn thuyền ra khơi trong buổi hoàng hôn, đêm tối.
- (Dẫn đoạn thơ) -
Kết cấu bài thơ được tổ chức theo hành trình của chuyến ra khơi đánh cá. Bắt đầu là lúc hoàng hôn buông xuống trên biển cả. Kết thúc là cảnh bình minh lên, đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về đất liền trong ánh sáng của ngày mới.
Khổ đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Đó là một bức tranh tươi sáng, ấm áp, tràn ngập niềm vui sướng, sự phấn khởi trong tâm hồn người lao động.
Cảnh chiều tàn, mặt trời lặn trên biển được tác giả khắc họa thật đẹp đẽ.
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa"
Hoàng hôn, chiều tà, đó là thời điểm kết thúc một ngày. Ánh sáng nhạt dần nhường chỗ cho bóng tối. Ngày chuyển dần thành đêm. Sự sống sôi động chậm dần rồi đi vào ngưng nghỉ. Vì thế, thời gian ấy thường gợi buồn. Tuy nhiên, cảnh vật trong thơ lại rất tươi sáng.
Mặt trời không "khuất, mất, tịch" mà từ từ chìm xuống biển, trong hoạt động quen thuộc của một ngày. Cách so sánh "như hòn lửa" gợi vẻ đẹp của vầng dương trong thời khắc ngày tàn vẫn ấm áp sự sống. Mặt trời vừa tắt, bóng đêm buông xuống trên biển cả rất nhanh. Câu thơ tiếp sau tả cảnh đêm tối;
"Sóng đã cài then, đêm sập cửa."
Hai động từ "cài, sập" cho thấy thời gian trôi rất nhanh. Nghệ thuật nhân hóa khiến cảnh đêm đại dương thật ấm áp, gần gũi, sinh động. Những con sóng chạy dài nhấp nhô trên biển tựa như những chiếc then. Bóng tối dày nặng, đen thẫm như cánh cửa để những con sóng nhấp nhô cài vào cánh cửa màn đêm. Đại dương mênh mông như một ngôi nhà lớn của mẹ biển. Người lao động ra khơi đánh cá là trở về với ngôi nhà của người mẹ thiên nhiên vĩ đại, yêu thương. Câu thơ đã khéo léo thể hiện niềm vui làm chủ biển khơi, đất trời của người lao động.
Trên nền không gian, thời gian ấy đoàn thuyền đánh cá của những người dân bắt đầu nhịp điệu lao động quen thuộc trên biển:
"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi."
Từ "lại" cho thấy đó là hoạt động được lặp đi lặp lại mỗi khi màn đêm buông xuống. Nó lý giải vì sao cảnh hoàng hôn, đêm tối trên đại dương lại ấm áp, không buồn bã, thê lương là vì một ngày kết thúc lại là sự khởi đầu cho một nhịp điệu lao động hăng say, hứng khởi của con người. Vẻ đẹp, khí thế của chuyến đi được tập trung thể hiện ở câu cuối:
"Câu hát căng buồm cùng gió khơi."
Nghệ thuật nói quá được sử dụng thành công trong câu thơ đã gợi vẻ đẹp lãng mạn, chất thơ của hình ảnh cánh buồm. Có lẽ, không hề ngẫu nhiên các tác giả khi tả cảnh ra khơi đều hướng tới vẻ đẹp đó. Trong bài thơ "Quê hương" Tế Hanh, cũng từng viết:
"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió"
Cánh buồm trong thơ Tế Hanh mang linh hồn làng chài quê hương, còn cánh buồm trong thơ Huy Cận no gió và căng tràn niềm vui, sự hứng khởi, tin tưởng trong tâm hồn người lao động. Một cánh buồm mang vẻ đẹp trẻ tráng, khí thế hăng say của con người ở thời khắc lên đường.
Tiếp theo ngay sau cau hát ra đi là khúc hát ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả và nói lên niềm mong ước của người lao động trong mỗi chuyến đi:
"Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Trải nghiệm của chuyến đi thực tế ra biển Hạ Long, tình yêu thiên nhiên, cuộc đời mới đã chắp cánh cho thơ Huy Cận. Từ hình dáng, sắc màu, tập tính của các loài cá, tác giả gợi ra những liên tưởng độc đáo. Cá bạc má sống ở tầng nước lặng, cá thu thường sống theo bầy đàn đi lại như đoàn thoi trên mặt biển nhà thơ liên tưởng đến kho báu vô tận dưới lòng đại dương. Hình dáng, màu sắc, vẻ đẹp của cá tựa như những sợi tơ óng ánh sắc màu dệt nên tấm tahmr biển lung linh màu sắc, đẹp trong mọi không gian, thời gian đêm ngày. Từ cá "dệt biển", tác giả liên tưởng đến cá "dệt lưới" là cách nói của nhà thơ, cái đẹp;
"Đến dệt lưới ta đàn cá ơi!"
Cụm từ "đàn cá ơi" tạo nên một giọng điệu thật ấm áp, trìu mến, thân thương như tiếng gọi của người dân với những người bạn thiên nhiên hào phóng vô tư. Dệt biển là dệt vẻ đẹp. Dệt lưới là tạo nên điều tốt lành, no ấm, đủ đầy, hạnh phúc của con người. Câu thơ là niềm mong ước sâu thẳm của người lao động trong mỗi chuyến ra khơi mong đánh bắt được.
Đoàn thuyền đánh cá là một sáng tác hay, thành quả của chuyến đi thực tế của Huy Cận trong nắm 1958 khi miền Bắc đang trong không khí hăng say xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai đoạn thơ mở đầu đã tái hiện khung cảnh ra khơi của đoàn thuyền trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ của buổi hoàng hôn. Đoạn thơ cũng nói lên niềm vui sướng, phấn khởi, hân hoan của người lao động trong niềm vui làm chủ biển cả, làm chủ công việc của mình.
Về nghệ thuật, đây là hai đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của tác phẩm. Biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, cường điệu, cùng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi tả đã góp phần làm nên thành công cho nội dung đoạn thơ.
Đoạn thơ đã gợi nên tình yêu với biển cả quê hương đất nước, niềm tự hào về bàn tay xây dựng cuộc sống của người lao động. Từ đó, mỗi con người phải có ý thức, trách nhiệm đóng góp, xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước của mình.